Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.7 KB, 34 trang )

Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế –xã hội dường như tôn giáo, tín
ngưỡng đang có xu hướng hồi phục và phát triển. Theo khảo sát của các công trình
nghiên cứu của ban tôn giáo chính phủ, viện nghiên cứu tôn giáo cho thấy: số
lượng các tín đồ của các tôn giáo đang không ngừng tăng lên, hoạt động tín ngưỡng
dân gian cũng diễn ra hết sức sôi động ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa lẫn các
đô thị lớn (5;1). Lý giải cho điều này, phần lớn các ý kiến đều cho rằng “do đời
sống của đa số dân cư ngày càng được cải thiện và nâng cao, người dân có điều
kiện tốt hơn để thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Tuy nhiên kinh tế thị
trường cũng tạo ra hàng loạt các vấn đề xã hội khác như: tình trạng thất nghiệp, phá
sản, cạnh tranh gay gắt, ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội như: ma tuý, mại
dâm, làm ăn theo kiểu chụp giật… những khó khăn bế tắc đẩy con người đến
những stress và khủng hoảng trong cuộc sống. Họ tìm cách giải toả bằng các hình
thức khác nhau. Nhu cầu giải toả tâm lý, tìm chỗ dựa tinh thần. Việc cúng lễ của
người dân ngày một cao hơn, kể cả những người là tín đồ và không phải là tín đề
(Lê Minh Thiện – Viện nghiên cứu tâm lý). Nhưng sự phục hồi và phát triển của tín
ngưỡng tôn giáo đang gây ra những vấn đề phức tạp. Bên cạnh những đóng góp
tích cực của các tổ chức tôn giáo và các cộng đồng cùng tín ngưỡng vào tín trình
bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, chống lại sự xâm thực của các luồng văn hoá
ngoại lai trong xu thế hội nhập quốc tế củng cố tình đoàn kết dân tộc thì vẫn xuất
hiện và tồn tại một số nhóm, cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo đã bị thế lực thù địch,
các tổ chức chính trị phản động lợi dụng để chống phá và chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc ở nước ta và nhằm mục đích tuyên truyền mê tín dị đoan. Mặc dù trong bối
cảnh chung đó dưới sự định hướng của Đảng và Chính phủ đạo phật ở nước ta vẫn
phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng, rèn
luyện nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
1
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học


Đạo phật là một trong những tôn giáo rất gần gũi trong hầu hết người dân
Châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Bởi vì nó phù hợp với tâm thức với
người gân Châu Á trong đó có Việt Nam. Đạo phật không chỉ thể hiện quan niệm
của con người với thế giới quan, nhân sinh quan va số phận của con người trong thế
giới ấy ma người ta còn tìm thấy trong tôn giáo này hệ thống giá trị văn hoá, chuẩn
mực đạo đức và tính nhân văn cao cả. Chính vì thế, đạo phật không những thoả
mãn nhu cầu tu dưỡng phẩm giá nhân cách mà còn đáp ững nhu cầu tâm linh của
con người. Do đạo phật có ý nghĩa như vậy nên có thể nói rằng hiện tượng tin
tưởng và đi theo đạo phật trong đạo phật hiện nay đã và đang phản ánh những thay
đổi về mặt tâm lý – xã hội hiện đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
Từ xa xưa, ngay từ những câu chuyện cổ của người Việt, đức phật đã xuất
hiện như là những vị thần hộ mệnh cho những kiếp người “đau khổ” những con
người thấp cổ bé họng. Do vậy mỗi khi gặp khó khăn, họ thường cầu xin đức phật
(tiên ông, tiên bà, bụt, thần…) phù hộ, giúp đỡ… cho đến tận bây giờ niềm tin vào
đức phật vẫn là niềm tin có sức mạnh thần kỳ giúp con người “dũng cảm” vượt qua
những khó khăn.
Có thể nói rằng đạo phật có khả năng đáp ứng nhu cầu của cá nhân nói riêng
và xã hội nói chung. Nó chứa đựng những nét đẹp, những nội dung phong phú. Xét
ở khía cạnh nhân văn đạo phật giúp con người xây dựng ở con người những nét đẹp
của Chân - Thiện – Mỹ, dạy cho con người đạo lý làm người. Còn xét ở khía cạnh
tâm linh nó là một tín ngưỡng tôn giáo. mặt đạo lý và tín ngưỡng không tách rời
nhau là điều kiện để đạo phật ăn sâu, bám dễ vào tâm thức các thế hệ người dân
Việt Nam. Nhìn chung, đạo phật đã có những đóng góp tích cực tới đời sống của cá
nhân, cộng đồng và xã hội. Sự ảnh hưởng của đạo phật đã được chứng minh trong
suốt quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Đạo Phật luôn đóng một vị trí quan
trọng trong tâm thức của người Việt. Đó là một niềm tin không phải chỉ mang tính
chất cá nhân mà đó còn là niềm tin mang tính chung cho đa số cộng đồng người
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
2
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học

Việt. Tuy nhiên các tín đồ đi theo Đạo Phật có phải vì niềm tin vào sự hiện hữu của
đức phật, các bậc thần tiên hay không vẫn là một câu hỏi lớn cho các nhà nghiên
cứu cũng như các nhà khoa học quan tâm. nhằm tìm hiểu và trả lời cho câu hỏi này,
tôi thực hiện để tài nghiên cứu “Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt”.
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI
2. 1. Mục đích.
Mục đích của niên luận là đưa ra một kết luận có ý nghĩa về niềm tin tôn
giáo của các tín đồ trong Đạo Phật. Từ đó đưa ra kiến nghị một số giải pháp nhằm
phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của
niềm tin tôn giáo đỗi với sự phát triển của cá nhân và cộng đồng, xã hội.
2. 2 Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, đề tài cần phải thực hiện được
nhữngnhiệm vụ cụ thể sau:
 Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tàI
 Tim hiểu niềm tin tôn giáo biểu hiện trong đạo phật thông qua một số
tài liệu có liên quan
 Chỉ ra những ảnh hưởng tích cực va tiêu cực của niềm tin tôn giáo
trong đời sống của cá nhân, cộng đồng, xã hội. Từ đó đưa ra nhưng giải pháp cụ thể
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài niên luận này là “ Niềm tin tôn giáo” được
biểu hiện trong Đạo Phật.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vấn đề niềm tin tôn giáo là một trong những vấn đề được rất nhiều ngành
khoa học quan tâm trong đó nổi bật là các ngành khoa học tôn giáo, triết học, dân
tộc học, văn hoá học, tâm lý học… Do đặc điểm của đề tài này là nghiên cứu niềm
tin tôn giáo trong đạo phật thể hiện ở góc độ khoa học tâm lý. Cụ thể là ở khía cạnh
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
3
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học

niềm tin tôn giáo. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài và cũng do yêu cầu khách
quan của đề tài nghiên cứu tôi đã sử dụng nhiều kết quả nghiên cứu của các ngành
khoa học này để xây dựng cơ sở cho đề tài. Tuy nhiên không vì thế mà đề tài mất đi
tính khách quan của nó. đề tài chỉ tập trung khai thác khía cạnh tâm lý được thể
hiện ở “ Niềm tin tôn giáo” trong đạo phật.
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
4
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẠO PHẬT
I. MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẠO PHẬT
1. Lịch sử hình thành Đạo Phật
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình Đạo Phật đã có những
đóng góp không nhỏ đến sự phát triển của xã hội loài người. Nhưng Đạo Phật có tự
bao giờ?
“đứng về mặt bản thể mà xét thì Đạo Phật có từ vô thỉ (không có giới hạn
trong thời gian). Vì Đạo Phật là bản tính sáng suốt của chúng sinh nên khi nào
chúng sinh có mặt là có Đạo Phật. Mà chúng sinh có từ vô thỉ vậy phật có từ vô thỉ
(6;6)
Nhưng đứng về mặt lịch sử loài người thì Đạo Phật ra đời từ rất sớm “Đạo
Phật Buddhism” hình thành ở Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ V trước công nguyên;
người sáng lập là thái tử Sidharta; (Tất Đạt Đa). Họ là Go tam ma (Cồ - Đàm) con
vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma – gia. Ông sinh ra vào khoảng năm 563 trước CN.
Vào lúc đó ở Ấn Độ đang tồn tại nhiều trường phái triết học và tôn giáo. Theo kinh
phật thì lúc đó có tới 62 – 63 trường phái triết học. Còn tôn giáo giữ vị trí thống trị
là Đạo Bà Lamôn. Trong bối cảnh đó, xã hội Ấn Độ có sự phân chia đẳng cấp một
cách sâu sắc. Điều này đã gây ra những nỗi thống khổ cho người dân. vì muốn tìm
cách giải thoát nhân loại khỏi sự đau khổ trong vòng luân hồi và đồng cảm với nỗi
thống khổ của muôn dân là nguyên nhân chính dẫn đến việc thái tử Sidharta từ bỏ
đạo Bà Lamôn sáng lập tôn giáo mới. Thái tử Sidharta từ bỏ gia đình, đi tu “khi đã

giác ngộ có nghĩa là đã phát hiện được nguyên nhân của nỗi đau nhân thế và cách
vứt bỏ nó Ông lấy hiệu là Buddha. Người ta gọi ông là Sakia – Muni nghĩa là thích
ca Muni và cũng có nghĩa là nhà hiền triết của xứ Sakia (6. 7) và theo lịch sử của
Phật giáo, thế giới hiện hành từ trước năm 544 nhưng đây là lấy năm Phật nhập
Niết Bàn làm lễ kỷ niệm gọi là ngày Phật đản. Chính ra phải thêm 80 năm
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
5
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
“544+80” là 624 năm. Thuyết 624 năm thuộcmột trong 15 thuyết cổ truyền đã tìm
ra từ đời trước. Tính đến năm 2006 thì đạo phất đã có 2550 năm lịch sử. Và là một
tôn giáo lớn có ảnh hưởng rất lớn ở Ấn Độ và các vùng trên thế giới.
2. Giáo lý cơ bản của Đạo Phật
Phật giáo vừa là một tôn giáo, vừa là một trào lưu triết học, trong đó triết học
phật giáo là cơ sở cho những giáo lý Đạo Phật.
Triết học phật giáo là một hệ thống phức tạp, nó đề cập đến nhiều vấn đề của
giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong triết học phật giáo chứa đựng cả những quan
niệm duy vật và quan niệm duy tâm, đặc biệt nó đã xây dựng được phương phap
biện chứng sâu sắc. theo đánh giá của Angghen; tư duy biện chứng của duy vật có
rất sớm ở các nhà triết học duy vật HiLạp cổ đại và ở các tín đồ của phật giáo sơ
kỳ.
Nếu coi phật giáo là một tôn giáo giải thoát và việc giải thoát gắn với vai trò
của con người thì giáo lý cơ bản của phật giáolà “Tứ diệu đế” và “Niết Bàn”. Vì tứ
diệu đế lý giải vấn đề khổ và sự diệt khổ, và diệt khổ là để đến thế giới niết bàn.
- Tứ diệu đế được phật giáo coi là 4 chân lý hay 4 nền tảng, gồm khổ
đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
- Khổ đế: phật giáo coi cuộc đời của con người là khổ, theo quan niệm
này “cái khổ” bao gồm cả cái khổ và cái vui của đời sống trần tục, vì cái vui cũng
chỉ là giả tạm. cho nên nghĩa chung của chữ khổ ở đây là “ Vô thường”. Phật giáo
cũng đã cố gắng chỉ ra những cái khổ của đời sống trần tục và quy nó vào “bát
khổ” (tám cái khổ). Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, sở cầu bất đắc khổ (muốn

mà không đạt được thì khổ), quán tăng hội khổ (thù ghét nhau mà phải sống với
nhau thì khổ), ái biệt ly khổ (yêu thương nhau mà phái xa nhau thì khổ), ngũ uẩn xí
thịnh khổ ( sự thụ bẩm của yếu tố vật chất, sự tương tác của giác quan với thế giới
bên ngoài – khổ). Tám cái khổ trên thuộc về quy luật sinh tồn và quan hệ hiện thực
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
6
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
của con người, do vậy ở đây, thoát khổ của phật giáo là thoát khỏi quy luật sinh tồn
và quan hệ hiện thực của họ.
- Tập đế (hay còn gọi là nhân đế): từ chỗ khằng định cuộc đời là khổ,
phật giáo đã tìm nguyên nhân dẫn con người đến chỗ khổ. Nếu những nỗi khổ của
con người có trong đời sống hiện thực thì phật giáo cũng đi tìm những nguyên nhân
của cái khổ trong đời sống hiện thực. Phật giáo đã chỉ ra 10 nguyên nhân sau:
Thứ nhất là tham lam; thứ hai là giận dữ; thứ ba là si mê, thứ tư là khiêu
mạn, thứ năm là nghi ngờ, thứ sáu là biên kiến, thứ bảy là tà kiến, thứ tám là kiến
thủ, thứ chín là thân kiến, thứ mười là giới cấm. Trong 10 nguyên nhân trên, có
những nguyên nhân thuộc về quan hệ hiện thực, có những nguyên nhân thuộc về
nhận thức, và có nguyên nhân thuộc về giới luật do vậy việc thoát khổ cũng gắn với
ba loại hoạt động trên.
Diệt đế; từ việc chỉ ra những nguyên nhân đẫn con người tơis cái khổ, phật
giáo đã khẳng đinh rằng có thể diệt được khổ bằng cách diệt trừ nguyên nhân.
những nguyên nhân dẫn con người tới cái khổ do chính con người tạo ra do vậy
chính con người là chủ thể của sự diệt khổ ở khía cạnh này phật giáo đã đề cao con
người trong việc quyết định số phận của mình. Song phật giáo con cho rằng cái khổ
của con người ở kiếp nay có thể là do kiếp trước gây nên, điều này chứng tỏ tính
chất duy tâm tôn giáo của phật giáo.
Đạo đế : do quan niệm có thể diệt được khổ, phật giáo đã chỉ ra con đường
thoát khổ; trong phật giá Đại thừa thường dùng “bát chính đạo’ (tám con đường
chân chính ). Vậy theo phật giáo thì con đường thoát khổ là như thế nào. Nếu xem
xét con đường thoát khổ từ hai phái của phạt giáo la tiểu thừa và đại thừa thì có con

đường lớn và con đường nhỏ của sự thoát khổ. Nếu xem xét từ những nguyên nhân
dẫn tói cái khổ thì co con dường của hoạt động hiện thực, con đường của nhận thức
và con đường của việc thực hành các giới luật. Nếu xem xét con đường thoát khổ từ
mối quan hệ giữa con người với các vị Phật (với tư cách là đấng siêu nhiên thần
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
7
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
thánh ) thì có con đường của sự tự lực (ở đây Phật chỉ là phương tiện ) và con
đường cua thế lực (ở đây Phật là thần thánh có thể trợ giúp cho con người trong
việc thoát khổ).
- Niết bàn; Niết bàn được Phật giáo coi là trạng thái vắng lặng, tịch diệt,
nếu con người đạt tới thì sẽ sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha. Đây là một trạng
thái lý tưởng. Về cơ bản có hai cách giải thích về sự tồn tại của niết bàn :cách thứ
nhất cho rằng niết bàn tồn tại ở nơi mà sau khi con người ta chết nếu tu hành đắc
đạo linh hồn sẽ đựơc siêu thoát về thế giới Niết bàn. Niết bàn ở đay cũng co nhiều
bậc khác nhau. Theo cách hiểu thông thường của các tín đồ theo đạp phật thì cho
rầng đó là tây phương cực lạc. cách giải thích thú hai cho răng Niết bàn có thể tồn
tại ngay tại thế giói trần tục. (sinh tử là niết bàn, Niết bàn là sinh tử) con người có
thể đạt tới trạng thái Niết bàn này khi con người đã loại được “tham, sân, si’ khi
con người đã loại thoát khỏi vô minh, và sống an nhiên tụ tại, vô ngã vị tha, ... Như
vậy ở cách giải thích thứ nhất nó chủ yếu hướng con người tói thế giói siêu nhiên, ở
cách hiểu thứ hai nó chủ yếu hướng con người vào đòi sống trần tục trên quan niêm
phật giáo.
Đối lập với Niết bàn là Địa nguc, việc giải thich về địa ngục cũng giống như
sự giải thích về sự tồn tại của Niết ban. vậy xét đến cùng thì theo cách nói của phật
giáo la “rốt ráo ‘thì chăng có Địa ngục hay niết bàn. Do vậy lý thuyết về niết bàn và
địa ngục chủ yéu có giá trị về mật hướng thiện.
3. Phật giáo ở Việt Nam
Hiện nay, phật giáo có khoảng trên 300 triệu tín đồ, phân bố chủ yếu ở Đông
Á, Nam Á và Đông Nam Châu Á. Và đang có xu thế lan rộng sang Châu Âu và

Châu Mỹ. Chính vì phật giáo có vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá -xã hội
và tinh thần của nhân dân cho nên ngay từ xa xưa các vương triều đã rất coi trong
hệ thức này. Hiện nay, Đạo phật vận giữ nguyên một nguyên lý ban đầu, chia làm
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
8
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
hai ngành lớn là Đại thừa và Tiểu thừa, được thể hiện khác nhau ở các quốc gia
khác nhau.
Phật giáo được du nhật vào Việt Nam từ thế kỷ thứ I, thứ II sau công nguyên
thông qua sự giao lưu buôn bán của người Ấn Độ, sau đó là người Hoa với người
Việt. Về đại thể sự du nhập này bằng hai con đường Đường thuỷ và đường bộ.
“Luy Lâu”, trụ sở chính của quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm Phật
giáo quan trọng. Tại đây với hoạt động truyền giáo của khâu _Đà _la (Ksudra, đến
Luy Lâu trong khoảng các năm 168-189) đã xuất hiển truyền thuyết Phật giáo Việt
nam đầu tiên với Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mộu”(3; 451). Do thích
nghi được với các tôn giáo khác như Nho giáo, Đạo Giáo hay những tín ngưỡng
như Thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ mẹ …Phật giáo đã nhanh chóng bám rễ vào
đất nước ta và phát triển cùng vói lịch sử dân tộc Việt. Và có thể nói rằng, đạo Phật
là một tôn giáo rất gần gũi với hầu hết người dân Việt Nam, phù hợp với tâm thức
của người Việt. Vì thế ngay từ khi mói du nhâp Phập phập giáo đã nhanh chóng
phát triển. Nó được từ các vua chúa, quan lại cho đến các tầng lớp Bình Dân tin
Tưỏng và đi theo. Và nó đã trở thành một nhân tố tâm linh không thể thiếu được
của người dân Việt. Anh hưởng của đạo Phật thường trực tới mức cùng với mái
đình, ngôi chùa đã trỏ thành công trình quan trọng của mỗi làng. Người dân đi bất
kỳ đâu, nếu có lỡ độ đường đều có thể ghé vào chùa xin ăn hoặc xin nghỉ tạm qua
đêm. Thành ngữ ‘của chùa’ ‘tiền chùa ‘có nghĩa là’của công ‘ từ đó mà sinh ra các
lối noí : làm chùa, ăn chùa, học chùa…Người Việt nhìn thấy cái gì cũng có thể liên
tưởng đến Bụt, Phật. Đói với các cư dân miên núi phía bắc và đông bắc la Pụt,
then…
“Đạo phật ở miền núi phía bắc thuần nhất, theo dòng đại thừa và Tiểu thừa,

càng vào phía trong lại chia ra làm nhiều tông phái : Đại thùa, TIểu thùa, Khất sĩ,
phật giáo cổ truyền (6;8)
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
9
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
Cho đến nay, phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất, có số lượng
tín đồ đông đảo nhất ở Việt Nam. Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính Phủ thì số
lượng tín đồ phật tử xuất gia khoảng 3 triệu người, số thường xuyên đến chùa tham
gia các phạt sự khoảng 10 triệu người, còn số chịu ảnh hưởng của phật gần gũi và
thân thiết với người Việt Nam đến nỗi dường như một người Việt Nam bất kỳ, nếu
không theo tôn giáo nào thì ắt hẳn theo phật. Pho tượng lớn đồng lớn nhất được đúc
trong thời kỳ hiện đại cũng là tượng phật. Đó là tượng phật A_DI_Đà cao 4m,
trọng lượng tính cả toà sen la 14 tấn, pho tượng do phường đúc đồng Ngũ xã thực
hiện trong 3 năm (1949-1952) hiện đặt ở chùa Thần Quang ở làng Ngũ Xã (Hà
Nội) (3 ;463 ).
Theo thống kê của UBMTTQVN cả nước có 13. 923 ngôi chùa. Số tỉnh,
thành phố có số lượng chùa cao nhất tập trung ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng xung
quan Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, vùng Khơme. Số tỉnh ít chùa tập trung chủ
yếu ở miền ngược. Và vốn có đầu óc thực tế, người Việt Nam coi trọng việc sống
phúc đức, trung thực hơn là đi lễ chùa “thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu tại chợ, thứ ba
tu tại chùa. “dù xây chín bậc phù đồ, không bàng làm phúc cứu cho một người (ca
dao). Coi trọng truyền thống thờ cha mẹ ông bà hơn thờ phật “tu đâu cho bằng tu
nhà, thờ cha kinh mẹ mói là chân tu. Người Việt Nam đã đồng hoá ông bà, cha mẹ
mình vói các bậc thánh thần.
Những nét khái quát trên về đạo phật đã cho thấy rằng Đạo phật không còn
là Đạo phật của ấn Độ hay Trung Hoa nũa mà là Đạo phật của người Việt Nam,
phù hợp với lối sống, văn hoá và hoàn cảnh của người Việt Nam. Cùng với những
tín ngưỡng như; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Đạo mẫu …hay các tôn giáo như; Nho
giáo, Đạo giáo, Kyto giáo… Phật giáo đã và đang góp phần không nhỏ trong việc
giáo dục và rèn luyện nên nhân cách cho người Việt. Tạo nên những nét đặc sắc

riêng cho phật giáo Việt Nam nói chung và con người Việt Nam nói riêng.
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
10
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
II. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
1. Khái niệm tôn giáo.
Tôn giáo là khái niệm được rất nhiều ngành khoa học xã hội quan tâm và
nghiên cứu như; tâm lý học, triết học, văn hoá học …. và từ góc độ nghiên cứu của
các khoa học cụ thể người ta đã cố gắng đưa ra định nghĩa về tôn giáo. Tuy nhiên
do bản thân tôn giáo là một hiện tượng phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn vì thế
đẻ đưa ra một định nghĩa về tôn giáo là vấn đề rất khó khăn. Vì vậy, mỗi định nghĩa
về tôn giáo thường không đầy đủ mà chỉ khai thác một số đặc điểm của tôn giáo
trên góc độ nghiên cứu nhất định.
Theo định nghĩa của Ph. ăngghen về tôn giáo dựa trên quan điểm duy vật về
lịch sử, cũng như từ quan niệm của Mác về tôn giáo. Ph. ănghen đã đưa ra một định
nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ triết học và tôn giáo như sau: nhưng tất cả
mọi tôn giáo chăng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc của con người của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thể siêu trần thế (7;22)
Ở góc độ nghiên cứu xã hội học, jean Golfin cho rằng tôn giáo là một xã hội
có chức năng giải thích nguồn gốc thế giới và con người cũng như số phận của
chung, xây dựng hệ thống chuẩn mực đoạ đúc để điều chỉnh hành vi của con người.
Như vậy theo cách hiểu của xã hội học, tôn giáo là một tổ chức xã hội do con người
sáng lập ra để thực hiện các chức năng xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là dấu
hiệu bản chất duy nhất của tôn giáo. Hơn nũa chức năng kể trên cũng không phải là
chức năng đặc thù của tôn giáo. Như vậy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về
tôn giáo, những định nghĩa đó rất khác nhau về câu chữ nhưng tựu chung đều xem
tôn giáo là hệ thống những niềm tin vào sự tồn tại và sức mạnh của các lực lượng
siêu nhiên. theo tôI, tôn giáo được hiểu như sau: tôn giáo là hệ thống niềm tin vào
sự tồn tại và sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối mọi hoạt

Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
11
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
động sống của con người. Hệ thống niềm tin đó thể hiện sự phản ánh thế giới trong
nhận thức của con người. Hệ thống niềm tin đó là sự phản ánh hư ảo về những lực
lượng bên ngoài, thống trị con người trong cuộc sống hàng ngày. Sự phản ánh
trong đó các lực lượng trần thế đã mang hình thức của các lực lượng siêu trần thế.
Tôn giáo là một phần không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của con người.
2. Niềm tin tôn giáo
2.1 Khái niệm niềm tin
Theo tác giả Nguyễn Đăng Duy “niềm tin là sự tín nhiệm, khâm phục ở một
con người với một con người, một sự việc, một học thuyết, một tôn giáo được thể
hiện ra bằng hành động theo một lẽ sống” trong định nghĩa này, Nguyễn Đăng Duy
mới chỉ ra được đối tượng của niềm tin tôn giáo và hình thức biểu hiện của niềm tin
mà chưa chỉ ra được thành phần cấu tạo của niềm tin cũng như ảnh hưởng của nó
đến đời sống của con người.
Niềm tin là định hướng giá trị được xác định vững chắc trong nhận thức và
chi phối hành động của cá nhân. Niềm tin có vai trò hết sức quan trọng đối với con
người. Nó không chỉ tác động đến trí tuệ mà còn tác động đến tình cảm, nó có thể
làm thay đổi ý thức, động cơ và lối sống của cá nhân. Đối với bất kỳ tôn giáo nào
niềm tin tôn giáo bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm.
Với cách tiếp cận sinh học thì R. V. Berxoi cho rằng “niềm tin tôn giáo mang
tính di chuyền đặc biệt, chúng có cơ sở sinh học nằm trong cấu trúc của vỏ não và
mang tính vô thức. Còn Sfeud đã giảI thích nguồn gốc tôn giáo bằng “mặc cảm
Odip”
Như vậy các nhà tâm lý theo khuynh hướng sinh học đã giải thích niềm tin
tôn giáo như hiện tượng mang tính bản năng và vô thức. Quan niệm này bị các nhà
tâm lý học Maxit phản đối.
Ở góc độ tâm lý học, PGS. TS Nguyễn Ngọc Phú cho rằng “niềm tin là sự
hoà quyện một cách hữu cơ giữa kiến thức “sự hiểu biết”, tình cảm, ý chí và mang

Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam
12
Phạm Thị Thương Lớp K48 Tâm Lý học
khuynh hướng sẵn sàng thúc đẩy con người hành động phù hợp với những định
hướng chuẩn mực giá trị bản thân”.
Như vậy niềm tin được cấu thành bởi ba yếu tố tâm lý: kiến thức – tình cảm
– ý chí. Khi ba yếu tố này hoà quyện, thống nhất với nhau thì trở thành động lực
bên trong thúc đẩy con người hành động.
“Niềm tin là cái kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý trí đã được con
người thể hiện trong hoạt động sống của mình, trở thành chân lý bền vững trong
mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với
quan điểm đã chấp nhận” (Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – tâm lý học đại cương).
Như vậy niềm tin là thuộc tính tâm lý được hình thành trên cơ sở sự nhận
thức và rung cảm của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, thể hiện sự tin tưởng
đối với đối tượng. Niểm tin khiến cá nhân có ý chí, nỗ lực để hành động phù hợp
với quan điểm, nhận thức và xúc cảm tình cảm của họ đối với đối tượng.
2.2 Khái niệm niềm tin tôn giáo
2.1.1. Khái niệm
Niềm tin tôn giáo là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến cuộc sống của con người, tới cộng đồng xã hội. Theo GS Đặng
Nghiêm Vạn “niềm tin tôn giáo là niềm tin vào thế giới vô hình vào những siêu
linh mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra chúng.
Trên quan điểm triết học, TS Trịnh Đình Bảy cho rằng: niềm tin tôn giáo là
niềm tin vào chúa trời, tin vào đấng siêu nhân, tin vào nhà thờ, tin vào kinh thánh,
kinh phật, coi đó là khâu trung gian để tín đồ nhận được sự nhân từ vào cuộc sống
từ trên trời hay cõi niết bàn.
Trên quan điểm tâm lý học, tác giả Vũ Dũng cho rằng: niềm tin tôn giáo là
niềm tin của con người vào sự tồn tại của lưc lượng siêu nhiên, vào thế giới vô
hình.
Niềm tin tôn giáo trong đạo Phật của người Việt Nam

13

×