Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới trong tiểu thuyết của Franz Kafka

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.41 KB, 84 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG MINH THƢƠNG




QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON
NGƢỜI
VÀ THẾ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA FRANZ KAFKA




LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lí luận văn học






Hà Nội – 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG MINH THƢƠNG




QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON
NGƢỜI
VÀ THẾ GIỚI TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA FRANZ KAFKA


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 32



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Thành Hƣng



Hà Nội – 2011




MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
2.1. Tài liệu tiếng Anh 2
2.2. Tài liệu tiếng Việt 4
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu 7
3.2. Mục đích nghiên cứu 7
3.3. Phạm vi nghiên cứu 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
5. Cấu trúc luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG: 9
CHƢƠNG 1: FRANZ KAFKA TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA - XÃ HỘI
TRUNG ÂU CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 9
1.1. Vài nét về xã hội Trung Âu và khu vực Tiệp 9
1.2. Franz Kafka trong cộng đồng Do Thái 13
1.3. Bối cảnh văn hóa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 18
CHƢƠNG 2: CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA FRANZ KAFKA 28
2.1 Khái niệm quan niệm nghệ thuật 28
2.2. Các kiểu loại nhân vật 32
2.2.1. Con người xa lạ 32
2.2.2. Con người bị tha hóa 36
2.2.3. Con người trong thế giới phi lý và thù địch 40
2.3. Cuộc sống hiện thực trong tiểu thuyết Franz Kafka 44



CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA FRANZ KAFKA 51
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 51
3.1.1. Cách xây dựng nhân vật truyền thống trước Franz Kafka 51
3.1.2. “Phản nhân vật” truyền thống 55
3.1.3. Điểm nhìn 61
3.1.4. Quan hệ giữa nhân vật và môi trường 65
3.2. Nghệ thuật kết cấu 69
3.3. Ngôn ngữ 72
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luận văn của chúng tôi lựa chọn đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con
người và thế giới trong tiểu thuyết của Franz Kafka” với những lí do sau đây:
Thứ nhất: Franz Kafka là một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ
XX và hiện nay, đƣợc xếp vào hàng những tên tuổi lớn của văn học thế giới.
Những sáng tác của ông có lúc đƣợc xem nhƣ ngụ ngôn thời hiện đại bởi tính
ẩn dụ và đa nghĩa của các hình tƣợng mà ông xây dựng nên, cũng nhƣ bởi
những phán đoán suy tƣ mà ông gửi gắm trong tác phẩm. Xung quanh Kafka,
bởi vậy, đã nở rộ vô vàn nghiên cứu và tranh luận mà cho đến nay, vẫn còn
nhiều vấn đề chƣa ngã ngũ. Chính vì thế, nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời và thế giới trong tiểu thuyết của Kafka cũng chính là tìm hiểu vấn
đề “xƣơng sống”, cơ bản trong hệ thống tác phẩm của ông. Đồng thời, qua đó,
chúng ta có cái nhìn thấu đáo hơn về tƣ tƣởng của nhà văn đƣợc xem nhƣ là
ngƣời mở đƣờng khai lối cho nhiều khuynh hƣớng, trào lƣu nghệ thuật.

Thứ hai: Tiểu thuyết là một trong những thể loại đóng vai trò to lớn
làm nên diện mạo nền văn học của một quốc gia. Vì thế, tuy tác phẩm của
Franz Kafka nổi tiếng ở Việt Nam trên cả hai thể loại: truyện ngắn và tiểu
thuyết nhƣng luận văn của chúng tôi chỉ tập trung trọng tâm vào tiểu thuyết
của tác giả.
Thứ ba: Tác phẩm của Franz Kafka có phạm vi ảnh hƣởng hết sức rộng
rãi và sâu sắc trên văn đàn thế giới. Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi tầm
ảnh hƣởng của ông đối với văn học nƣớc ta cho đến nay vẫn đang trên đà
rộng mở. Do đó, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới
trong tiểu thuyết của Kafka sẽ giúp chúng ta có những đánh giá chính xác và
toàn diện về dấu ấn của ông trong những sáng tác của các nhà văn Việt Nam.


2. Lịch sử vấn đề
Là một nhà văn lớn, Franz Kafka và tác phẩm của ông đã trở thành mục
tiêu nghiên cứu và cảm hứng sáng tạo cho nhà phê bình và nhà văn trên toàn
thế giới. Những công trình nghiên cứu với các mức độ nông, sâu khác nhau đã
soi chiếu con ngƣời và sáng tác của F.Kafka trên rất nhiều các phƣơng diện.
Đặc biệt, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới lại là một trong
những vấn đề cơ bản, cốt lõi khi đi sâu tìm hiểu về tƣ tƣởng, phong cách của
một nhà văn. Chính vì vậy, vấn đề này hầu nhƣ đều đƣợc các nhà nghiên cứu
đề cập đến, một cách chi tiết hoặc thoảng qua, trong các công trình của mình.
Ở đây, chúng tôi chỉ điểm lại một vài ý kiến liên quan đến vấn đề của luận
văn mà chúng tôi có dịp tham khảo.
2.1. Tài liệu tiếng Anh
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi đƣợc “phát hiện lại”, Franz Kafka
và thế giới văn chƣơng của ông đã thu hút một khối lƣợng khổng lồ các nhà
nghiên cứu. Theo thống kê, chỉ dựa trên các nhan đề nghiên cứu của Yvegili
vào năm 1981 thì các công trình nghiên cứu về Franz Kafka đã lên tới con số
hơn năm nghìn. Nói nhƣ George Steiner, chung quanh Kafka, “một nền văn

chƣơng bao la cứ thế nở rộ”.
Trong tập tiểu luận Hope and the Asburd in the work of Franz Kafka,
Albert Camus – nhà văn nổi tiếng của trƣờng phái hiện sinh chủ nghĩa – đã
khẳng định giá trị tác phẩm của Kafka. Ông nhấn mạnh: “”Toàn bộ nghệ thuật
của Kafka tập trung ở chỗ buộc độc giả phải đọc lại”, và cho rằng Kafka là
nhà văn hiện sinh khi “minh họa sự phi lý của cuộc sống bằng các phƣơng
tiện trần thuật, bằng sự phức tạp của nhân vật và bằng cách sử dụng ngôn ngữ
siêu thực và hình ảnh trong tác phẩm”. Nhận định này củng cố thêm cho
những luận điểm của chúng tôi khi nghiên cứu về con ngƣời hiện sinh nhƣ
một phƣơng diện trong quan điểm nghệ thuật về con ngƣời của Franz Kafka.


Cuốn A companion to the works of Franz Kafka có khá nhiều bài viết
xoay quanh các vấn đề về mỹ học và quá trình sáng tác của Franz Kafka cũng
nhƣ đời sống của các tác phẩm này sau khi ra đời. Trong đó, bài viết A dream
of Jewishness Denied: Kafka’s Tumor and “Ein Landarzt” của Sander
L.Gilman đã có sự đối chiếu con ngƣời và tác phẩm của Franz Kafka với
những đặc tính xã hội cũng nhƣ tƣ tƣởng của ngƣời Do Thái một cách rất kĩ
lƣỡng. Tuy rằng có một số yếu tố mang tính cực đoan và áp đặt, song bài viết
là nguồn tài liệu giúp chúng tôi có cái nhìn thấu đáo hơn về ảnh hƣởng của
yếu tố nguồn gốc lên tƣ tƣởng và sáng tác của F.Kafka. Cũng trong cuốn sách
này, bài viết Making everything “a little uncanny”: Kafka’s Deletions in the
Manuscript of Das Schloß and What They Can Tell Us của Mark Harman đã
tìm hiểu các biến thể của nhân vật K. trong tiểu thuyết Lâu đài và khẳng định:
với nhân vật K., Kafka đã “xóa tất cả những tham chiếu đến nhiệm vụ của
ngƣời anh hùng”, từ đó tạo ra những “biến thể mạnh mẽ”. Quan điểm này
giúp ích chúng tôi trong việc tìm hiểu tính chất đa nghĩa trong tác phẩm của
Franz Kafka, mà cụ thể ở đây là sự tẩy trắng nhân vật tạo nên một thế giới
huyền thoại.
Trong cuốn sách Cambridge companion to Kafka, Kafka và tác phẩm

của ông đã đƣợc nghiên cứu từ nhiều góc độ: bối cảnh Châu Âu, văn hóa dân
gian Do Thái, những huyền thoại và thực tế trong tiểu sử của Kafka, thậm chí
từ góc độ giới tính và văn hóa đại chúng. Bài viết The exploration of the
modern city in The Trial của tác giả Role J.Goebel đi sâu tìm hiểu những dấu
vết của thành phố hiện đại trong tiểu thuyết Vụ án, từ đó khẳng định thành
phố của tác phẩm là “điển hình của đô thị hiện đại đầu thế kỷ XX” với con
ngƣời mang những đặc trƣng “nhƣ là tinh túy của đô thị hiện đại”. Điều này
mang tính chất gợi mở cho chúng tôi khi xem xét phƣơng diện con ngƣời cô
đơn giữa xã hội kĩ trị trong tác phẩm của F.Kafka.


Cũng nhƣ Role J.Goebel, Stanley Corngold trong bài viết Franz
Kafka: the radical modernist ở cuốn sách The Cambridge companion to the
modern German novel, đã chỉ ra những dấu vết của đời sống hiện đại với
công sở, hàng hóa, chính trị, pháp luật,… trong các tiểu thuyết của F.Kafka.
Trong đó, “tâm trạng của xét xử hiện đại là hoang tƣởng, pháp lý quan liêu
của nó đƣợc tổ chức bằng các hành vi giải thích và tính bạo lực của nó đƣợc
che giấu cho đến cuối cùng”. Nhận định này giúp chúng tôi khẳng định thêm
tính chất bất lực của con ngƣời trong tác phẩm của F.Kafka.
Trên trang web www.themodernword.com, F.Kafka cũng đƣợc giới
thiệu nhƣ một đại diện tiêu biểu. Với việc nêu ra các lớp ý nghĩa của các tác
phẩm - chẳng hạn cuộc hành trình của nhân vật K. trong Lâu đài có thể là “sự
tìm kiếm cộng đồng”, “con đƣờng tìm Thiên Chúa”, “sự phê phán thói quan
liêu” hay “lời tiên tri” – tác giả đã nhấn mạnh tính chất đa nghĩa trong tiểu
thuyết của F.Kafka. Dựa vào đây, ít nhiều chúng tôi cũng có đƣợc cái nhìn
toàn diện hơn về những ẩn ý của tác phẩm, từ đó thấy đƣợc quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời và thế giới của F.Kafka.
2.2. Tài liệu tiếng Việt
Trong Tạp chí Văn học nƣớc ngoài số 4, năm 1996, tác giả Nguyễn
Văn Dân với bài viết Kafka với cuộc chiến chống phi lý đã chủ yếu tập trung

vào phân tích tính chất phi lý nhƣ một “đối tƣợng nhận thức” trong tác phẩm
của F.Kafka. Nguyễn Văn Dân cho rằng: “Trong mọi trƣờng hợp, cái phi lí
của Kafka là những tấn bi kịch của con ngƣời hiện tồn trong thế giới đƣơng
thời. Kafka không phải đi tìm kiếm cái phi lí ở đâu xa nhƣ các nhà văn lãng
mạn” và “Kafka đã chủ trƣơng chỉ lƣu tâm đến những con ngƣời bình thƣờng,
đến những nỗi lo đời thƣờng của họ”. Nhƣ vậy, quan điểm của Nguyễn Văn
Dân đã thêm một lần khẳng định quan niệm nghệ thuật của Kafka thông qua
tác phẩm là về sự bất an của con ngƣời trong một thế giới phi lý.


Phương Tây, văn học và con người của GS. Hoàng Trinh đã nghiên cứu
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới của F.Kafka thông qua việc
phân tích khái lƣợc ba tiểu thuyết Lâu đài, Hóa thân và Vụ án. Qua đó, tác giả
nhận định đó là một thế giới “tha hóa”, thế giới “huyền thoại” “đối lập với
hiện thực và cuộc sống” [28, tr.22] trong đó “con ngƣời bị cầm tù mà không
biết” [28, tr.22]. Tuy nhiên, do đứng từ góc độ chính trị nên GS. Hoàng Trinh
đã kết luận rằng thế giới quan của F.Kafka là “duy tâm, siêu hình” (24, tr.24)
và vì vậy, đã khiến tác phẩm của Kafka có tác dụng tiêu cực “rõ ràng là mạnh
hơn” [28, tr.25]. Đây là nhận định khá phiến diện, quy chụp đối với nhà văn
có tác phẩm đặc biệt đa nghĩa nhƣ F.Kafka.
Nhà nghiên cứu Trƣơng Đăng Dung trong bài viết Thế giới nghệ thuật
của Franz Kafka, in trong Franz Kafka, tuyển tập tác phẩm, NXB Hội nhà
văn, Trung tâm văn hóa Đông Tây, 2003, khẳng định: “đối tƣợng trung tâm
của thế giới nghệ thuật của Kafka là sự tha hóa, nỗi lo âu, sự lƣu đày và cái
chết” [22, tr.941], và Kafka “đã thể hiện bản chất của thời đại mình một cách
độc đáo, và mở ra những khả năng mới cho tiểu thuyết hiện đại”. Với luận
điểm trên, Trƣơng Đăng Dung đã nhấn mạnh quan niệm nghệ thuật của
F.Kafka về con ngƣời và thế giới thể hiện qua các tác phẩm, đã đóng vai trò
mở đƣờng khai lối cho văn học hiện đại.
Trong bài giới thiệu về tác giả Franz Kafka, in trong giáo trình Văn học

phương Tây, NXB Giáo dục, 2006, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng phân
tích những vấn đề của con ngƣời hiện đại và chất “hài hƣớc đen” đặc trƣng
trong tác phẩm của F.Kafka. Đặng Anh Đào khẳng định, thế giới của F.Kafka
là nơi “cái phi lý đã trở thành cái bình thƣờng hàng ngày” [24, tr. 914], là thế
giới huyền thoại mang “tiếng nói đa âm về thân phận con ngƣời” [24, tr. 933].
Nhƣ vậy, Đặng Anh Đào đã khẳng định tính chất phi lý cao độ trong quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới của F.Kafka.


Trong một công trình nghiên cứu khác, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
phương Tây hiện đại, Đặng Anh Đào đã chỉ rõ những nét đổi mới về nghệ
thuật trên nhiều phƣơng diện trong tiểu thuyết mới của phƣơng Tây. Khi phân
tích những nét đổi mới này, Đặng Anh Đào đã lấy tác phẩm của F.Kafka làm
dẫn chứng minh họa. Chẳng hạn, để giải thích cho sự di động điểm nhìn từ
ngƣời kể chuyện sang nhân vật, Đặng Anh Đào viết: “Di động điểm nhìn…
chính là một đổi mới mà ngƣời khai phá chính là Kafka, nó là một cách để
“khách quan hóa” hiện tƣợng. Song điểm nhìn của nhân vật Kafka, do chỉ tập
trung vào một ám ảnh, lại có một ý nghĩa chủ quan đặc biệt. Bên cạnh đó, một
số chi tiết nhìn qua con mắt của nhân vật chính lại có hƣớng ngƣợc lại, khách
quan hóa” [11, tr. 39]. Những phân tích dạng nhƣ trên của Đặng Anh Đào đã
giúp ích chúng tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật
của F.Kafka – đƣợc xem nhƣ biểu hiện cụ thể của quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời và thế giới của tác giả.
Trong bài viết Từ hiện đại đến hậu hiện đại, Hoàng Ngọc Tuấn đã đặt
tác phẩm của F.Kafka vào dòng chảy của văn học thế giới để từ đó thấy đƣợc
vai trò viên gạch nối giữa hai thời kỳ Hiện đại và Hậu hiện đại của Kafka.
Hoàng Ngọc Tuấn viết: “Franz Kafka cũng đã tạo ra những kỹ thuật viết
khiến một số tác phẩm của ông mang tính cách đa tầng và đa phƣơng về ý
nghĩa, và hầu nhƣ bất khả giản lƣợc: một bản tóm tắt đại ý sẽ là một hành
động bất công đối với tác giả. Cuốn Das Schloss (Lâu đài, 1926) là một ví dụ

thú vị. Nó là một tác phẩm chứa đựng đầy những ẩn dụ phức tạp và có khả
năng gợi tƣởng cực kỳ phong phú. Cả cuốn tiểu thuyết tồn tại nhƣ một ký
hiệu biểu ý đa giác khiến ngƣời đọc mỗi lúc lại tiếp tục nhìn thấy một ý nghĩa
khác, nhƣ thể nhìn vào một ống kính vạn hoa. Mỗi lần đọc, chúng ta có thể
nhìn thấy nó biến dạng: nó có thể nhƣ một ẩn ý triết lý, hay nhƣ một ẩn ý
chính trị, hay nhƣ một tiếng nói mang màu sắc Do Thái, hay nhƣ một thái độ


phân tâm học kiểu Freud. Nó nhƣ một bài thơ kỳ lạ, từ chối mọi công thức
diễn dịch, và chỉ cho phép chúng ta cảm nhận bằng chính kinh nghiệm đọc
trực tiếp và toàn thể để nắm bắt những biểu tƣợng biến thiên năng động” [28,
tr. 99]. Quan niệm trên củng cố thêm luận điểm về tính chất đa nghĩa trong
thế giới hình tƣợng của F.Kafka.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Quan niệm nghệ thuật về con người và
thế giới trong tiểu thuyết của Franz Kafka, trong đó, đi sâu tìm hiểu cơ sở
hoàn cảnh văn hóa, xã hội đã làm nảy sinh quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
và thế giới của Kafka, đồng thời chỉ rõ quan niệm nghệ thuật đó là nhƣ thế
nào, và những biện pháp nghệ thuật mà Kafka sử dụng để thể hiện quan niệm
nghệ thuật đó trong các tiểu thuyết của mình.

3.2. Mục đích nghiên cứu
Với luận văn Quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới trong
tiểu thuyết của Franz Kafka, ngƣời viết mong muốn chỉ ra đƣợc những yếu
tố ảnh hƣởng đến quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới trong tiểu
thuyết của F.Kafka; làm rõ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới
trong tiểu thuyết của F.Kafka; đồng thời phân tích nghệ thuật xây dựng nhân
vật nhƣ là biểu hiện cụ thể của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới
của F.Kafka.

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Để tìm hiểu vấn đề loại hình nhân vật biểu tƣợng trong sáng tác của
F.Kafka, chúng tôi sử dụng cuốn Tuyển tập tác phẩm Franz Kafka do Hội nhà
văn xuất bản năm 2003 làm tƣ liệu chính để triển khai đề tài. Trong đó vấn đề


quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới của F.Kafka đƣợc giới hạn
trong 3 tiểu thuyết in trong cuốn sách này: Lâu đài, Vụ án và Biến dạng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiến hành luận văn, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
sau: phƣơng pháp tiếp cận hệ thống, phƣơng pháp phân tích tổng hợp, phƣơng
pháp phê bình thi pháp học kết hợp với các thao tác: đối chiếu, so sánh.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chƣơng:
 Chương 1: Franz Kafka trong bối cảnh văn hóa – xã hội Trung
Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
 Chương 2: Cuộc sống và con ngƣời trong tiểu thuyết của Franz
Kafka.
 Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết của Franz Kafka.
Cuối cùng là thƣ mục tài liệu tham khảo.











PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: FRANZ KAFKA TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA - XÃ
HỘI TRUNG ÂU CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Vài nét về xã hội Trung Âu và khu vực Tiệp
Franz Kafka (1883 – 1924) là nhà văn Tiệp Khắc (Séc) gốc Do Thái
viết tiếng Đức. Ông mất sớm, số lƣợng tác phẩm để lại không nhiều, chỉ có
bốn tiểu thuyết (Lâu đài, Vụ án, Nước Mĩ, Biến dạng), hơn chục truyện ngắn
trong đó có những tác phẩm vẫn còn dang dở và đa phần bị ông tự đánh giá là
cần phải đốt bỏ. Số lƣợng tác phẩm khiêm tốn, lại thêm tính cách bẩm sinh rụt
rè, không thích gây sự chú ý nên sinh thời Kafka đƣợc rất ít ngƣời biết đến.
Nhƣng sau khi ông qua đời, thế giới trong tác phẩm của Kafka nhƣ mỗi ngày
lại hóa thân thành hiện thực một cách đáng kinh ngạc, đến mức “định ngữ K.
rời bỏ lĩnh vực văn chƣơng để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày” (Misen
Remông), và câu cửa miệng không chỉ của ngƣời dân Praha thời đó là “Thật
theo đúng kiểu Kafka!”. Kafka đƣợc “phát hiện lại” và từ đó đƣợc xem là nhà
văn lớn của thế kỷ XX với “bóng dáng bao trùm xuống thế giới hiện đại” [10,
tr.643]. Ông để lại những dấu ấn sâu đậm về tƣ tƣởng lẫn bút pháp cho thế hệ
sau, đồng thời cũng là ngƣời khơi đƣờng mở lối cho nhiều trào lƣu văn học
sau này. Tính chất đa nghĩa và phúng dụ đặc biệt trong tác phẩm của Kafka
phản ánh những đặc trƣng riêng của thế kỷ XX, thế kỷ của những khủng
hoảng sâu sắc. Franz Kafka sống trong thời điểm lịch sử phức tạp - giao thời
giữa hai cuộc chiến tranh thế giới – do đó, thế giới quan của ông cũng chịu
ảnh hƣởng mạnh mẽ của thời đại. Thực tế, Kafka đứng ngoài Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất. Ông không bị động viên một phần vì sức khỏe yếu, phần
nữa vì ông là viên chức chính phủ (lúc này, Kafka đang làm việc cho Viện
Bảo hiểm công nhân). Dù vậy, sự tàn khốc của cuộc chiến vẫn tác động mạnh


đến Kafka với hình dung về một “cỗ máy giết ngƣời sừng sững ngự trị” [3,
tr.45]. Có thể nói, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là cú đánh mạnh nhất,

giáng thẳng vào cái nhìn về con ngƣời và thế giới của không chỉ riêng Kafka.
Từ thời Hy Lạp cổ đại, con ngƣời đã thể hiện sự tự tin vào bản thể của
mình qua việc lấy các tiêu chí của bản thân để xây dựng nên hình tƣợng các vị
thần. Đó là thời kì mà cái nhìn của con ngƣời về thế giới còn rất nguyên sơ
nhƣng lại đặc biệt đẹp đẽ và vô tƣ. Tiếp đó, thời Trung cổ đến, với sự lên ngôi
của Thiên Chúa giáo khiến con ngƣời cảm thấy mình trở nên nhỏ nhoi trƣớc
Chúa và phó mặc cuộc đời và số phận của mình cho Chúa. Mãi cho đến thế
kỷ XIV, ánh sáng của thời Phục Hƣng mới xóa tan cái nhìn xác tín tuyệt đối
với Chúa và khiến con ngƣời ý thức trở lại cái tôi của mình. Trên đà tiến tới,
thế kỷ XVIII, XIX đánh dấu cái nhìn tích cực đối với lịch sử cũng nhƣ sự lạc
quan, tin tƣởng mạnh mẽ vào lí trí và khả năng phục thiện của con ngƣời.
Nhƣng cuộc Chiến tranh thế giới kinh hoàng nổ ra, phô bày một diện mạo
khác xấu xa đến sửng sốt của con ngƣời. “Lòng tham vô đáy và những tín
điều xuẩn ngốc” [3, tr.88] đã gây ra cái chết của hàng triệu ngƣời trên thế
giới. Sự tin tƣởng vào lƣơng tri, vào sự phát triển của lịch sử sụp đổ và con
ngƣời chỉ còn lại cái nhìn hoài nghi, bi quan về cuộc sống. Cuộc chiến với
những hậu quả khủng khiếp của nó khiến cho con ngƣời “tỉnh mộng”, mất
hẳn cái nhìn huyền thoại vào thế giới. Không nằm ngoài dòng tâm trạng
chung đó, thậm chí, với thấu cảm tinh nhạy khác thƣờng của ngƣời nghệ sĩ,
Kafka đã cảm nhận đƣợc sự khác biệt giữa hai thế kỷ cùng những mâu thuẫn
tiềm ẩn trong xã hội. Bao nhiêu suy nghĩ, dự cảm, Kafka chuyển tải vào tác
phẩm văn học với những hình tƣợng nhân vật độc đáo. Nhân vật của Kafka
phản chiếu con ngƣời hiện đại, “tỉnh mộng”, không còn niềm tin tuyệt đối vào
những bảng giá trị cũ; thiện và ác, hƣ và thực bị xóa nhòa ranh giới. Xã hội
trở nên phi lý và không thể hiểu nổi với những mặt nổi chìm bất định, những


xung đột tiềm ẩn mà ghê gớm. Những sáng tác của Kafka vì thế phản ánh sâu
sắc sự đổi thay và những vết thƣơng của một thời đại không còn những cột
giá trị trung tâm, những điểm tựa vững chãi nhƣ thế kỷ trƣớc – thời đại “Chúa

đã chết” (Nietzche).
Trong bối cảnh chính trị chung đầy biến động đó của thế giới, khu vực
Trung Âu nói chung và nƣớc Tiệp Khắc nói riêng cũng không thể tránh khỏi
những xáo trộn to lớn. Thế kỷ XX chứng kiến chứng kiến sự suy giảm mức
độ thống trị đối với thế giới của châu Âu do những thiệt hại và phá hủy của
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. “Chính ở vùng Trung Âu này, lần đầu tiên
trong lịch sử, châu Âu có thể nhìn thấy cái chết của châu Âu, hay chính xác
hơn, một bộ phận của nó bị cắt cụt mất khi Varsovie, Budapest và Praha bị
nuốt chứng mất… do đế quốc Hadsbourg” [19, tr.7]. Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất cũng tiêu diệt nhiều chế độ quân chủ cũ tại Châu Âu và tạo nên tác
động có tính chất bƣớc ngoặt với Tiệp Khắc (lúc bấy giờ là Séc). Thời kỳ của
Franz Kafka, Praha vẫn thuộc Đế chế Habsburg, ngƣời Séc bị kiểm soát, đồng
hóa và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính ở Séc. Với tinh thần dân tộc cao
độ, ngƣời Séc vẫn cố gắng bảo toàn văn hóa của mình, đặc biệt là ngôn ngữ.
Thế kỷ XIX, sự bành trƣớng của vua Napleon I đã kích thích tinh thần phục
hƣng dân tộc của ngƣời Séc. Cuộc khởi nghĩa vì độc lập dân tộc với sự hƣởng
ứng của đông đảo nhân dân nổ ra tại Praha. Tuy cuộc khởi nghĩa thất bại
nhƣng tinh thần của nó vẫn đƣợc những ngƣời Séc âm thầm nuôi dƣỡng. Khi
Franz Kafka ra đời (1883), tình hình giữa ngƣời Séc và ngƣời Đức đã trở nên
ngày càng căng thẳng. Mâu thuẫn nặng nề giữa các dân tộc là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của nhà nƣớc quân chủ Áo –
Hung. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với sự thất bại của Đức, Đế chế
Áo – Hung sụp đổ. Năm 1918, cộng hòa Tiệp Khắc, bao gồm Séc và
Slovakia, tuyên bố độc lập. Praha trở thành thủ đô của Tiệp Khắc. Quốc gia


Tiệp Khắc thừa hƣởng phần lớn các cơ sở công nghiệp của Áo – Hung và do
đó, trở thành một trong những nƣớc có nền công nghiệp hóa phát triển mạnh
trên thế giới. Việc sống trong bầu không khí khoa học kĩ thuật phát triển đó có
tác động đáng kể đến thế giới quan của Franz Kafka, đặc biệt trong cảm thức

về hiện thực. Bên cạnh đó, việc chứng kiến sự thống trị của Đế chế Áo –
Hung và sự chuyển giao quyền lực những năm sau đó cũng mang tới cho
Kafka cái nhìn chân xác về hiện thực. Hiện thực vốn dĩ “không phải là một ý
niệm ngoại tại và khách quan… mà bị uốn nắn theo những khung lịch sử, xã
hội, chủng tộc và ý thức hệ, khiến nó có thể trở nên nguyên nhân của những
xung đột chính trị và chiến tranh phi nhân núp sau những chiêu bài đạo đức
giả” [19, tr.324]. Cảm thức đó đã giúp Franz Kafka sáng tác nên những tác
phẩm có tầm bao quát hiện thực rộng lớn, mà nói nhƣ George Steiner: “Ngoài
Kafka ra không thể có tiếng nói chứng nhân nào thật hơn, về bóng đen của
thời đại chúng ta”. Ngƣời ta tìm thấy trong tác phẩm của Kafka một thế giới
đậm màu hiện thực, nơi con ngƣời ngày càng trở nên nhỏ bé, vô danh trong
một xã hội đầy rẫy sự phi lí, và phi nhân. Tác phẩm của Kafka diễn tả đầy
chua chát thân phận cô đơn của con ngƣời hiện đại và để lại những dấu ấn sâu
sắc trong địa hạt văn học lẫn đời sống châu Âu. Trong đời sống châu Âu thời
kì đó, không chỉ giới hạn ở thành Praha, “định ngữ K” (Misen Remông) len
lỏi vào cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân chính là sự phản chiếu dấu ấn đó.
Những cụm từ “thế giới Kafka”, “kiểu Kafka”,… bƣớc ra từ tác phẩm văn học
và dần trở thành câu cửa miệng, thành thuật ngữ. Trong thế kỷ XX đen tối,
ngƣời ta nhìn thấy thế giới hiện thực và cái phi lí của thân phận chính mình ở
tác phẩm của Kafka. Vấn đề về thân phận con ngƣời “trong một xã hội cứ trôi
tuột đi, điếc đặc và thản nhiên trƣớc thảm họa” đƣợc Kafka nhìn thấy, cảm
thấy từ “những luồng chuyển động sâu thẳm và vốn dĩ còn rất mơ hồ” [22,
tr.605] của những mâu thuẫn xã hội. Ngƣời bố của Kafka đã vô tình tạo nên


một chủ nghĩa toàn trị trong gia đình, để từ đó làm cơ sở cho Kafka cảm nhận
đƣợc sức mạnh kinh hoàng của chủ nghĩa toàn trị xã hội, sự mù quáng của
chủ nghĩa nƣớc lớn và vô thức tập thể. Tác phẩm Vụ án đƣợc Kafka viết từ
trƣớc năm 1914, nghĩa là trƣớc khi xảy ra tất cả những sự kiện lớn của thế kỷ
XX nói riêng, của lịch sử thế giới nói chung nhƣ: cuộc Cách mạng Nga,

Chiến tranh thế giới lần hai, đặc biệt là chủ nghĩa Đức Quốc xã, chủ nghĩa
Stalin. Những vấn đề về thế giới phi lí, về thân phận con ngƣời, về sự tha hóa
của “nhân vị” đã đƣợc Kafka miêu tả và đặt ra trƣớc khi những vấn đề đó thật
sự xảy ra trong hiện thực. Vì vậy, nói Kafka là “ông thầy Nostradamus của
thế kỷ XX” cũng không có gì là cƣờng điệu. Kierkegaard từng nói: “Cá nhân
không thể giúp đỡ hay cứu vớt một thời đại; anh ta chỉ có thể diễn tả, rằng nó
mất”. Bề ngoài, tác phẩm của Kafka vẻ nhƣ chỉ là sự diễn tả, miêu tả hiện
thực một cách khách quan không cảm xúc; nhƣng kì thực, ông đang cố gắng
phản tỉnh xã hội. Cùng với những nhà văn Đức khác nhƣ Bertold Brecht,
Henrich Mann,… tác phẩm của Kafka là “tiếng kêu đầy lo âu (… ) trƣớc tính
chất bạo liệt và bùng nổ của văn minh châu Âu”(Bách khoa toàn thư Larousse
omris) [6, tr.610]. Dù khởi nguyên không phải từ hiện thực mà tác giả chứng
kiến, những tác phẩm của Kafka, xét ở khía cạnh phản ánh tình trạng xã hội
và con ngƣời, vẫn có giá trị lịch sử sâu sắc.
1.2. Franz Kafka trong cộng đồng Do Thái
Franz Kafka sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lƣu tại Praha.
Trong gia đình, Kafka có nỗi bất hòa lớn với cha của mình mà nguồn gốc xuất
phát từ sự đối nghịch giữa hai cha con về mặt tinh thần lẫn thể chất. Kafka là
ngƣời bẩm sinh yếu ớt về thể trạng, lại đa sầu đa cảm, trái ngƣợc hoàn toàn
với ngƣời cha khỏe khoắn, mạnh mẽ, thậm chí có phần lỗ mãng của ông.
Kafka xem văn chƣơng là lẽ sống của đời mình trong khi cha ông chỉ coi văn
chƣơng nhƣ một thứ trò chơi ngôn từ vô bổ. Sự áp bức của ngƣời cha trong


nội bộ gia đình, cùng với những sự kiện chính trị xảy ra thời kỳ đó và thân
phận của ngƣời Do Thái đã góp phần tạo nên cảm nhận và ám ảnh về quyền
lực, về sự phi lý trong tƣ tƣởng của Kafka.
Thân phận của ngƣời Do Thái có thể xem là một trong những trang sử
đen tối và bi thƣơng nhất của nhân loại khi dân tộc này thƣờng xuyên bị phân
biệt chủng tộc qua nhiều thế kỉ. Từ sau khi La Mã chiếm Jerusalem, ngƣời Do

Thái mất quốc gia và bắt đầu hành trình lƣu vong – bị diệt chủng đằng đẵng.
Tâm lí bài xích ngƣời Do Thái bắt nguồn từ những thành kiến xa xƣa luôn
đeo bám, khi tín đồ đạo Thiên Chúa ở châu Âu cho rằng ngƣời Do Thái là
đáng nguyền rủa vì đã phạm tội giết Chúa. Thêm vào đó, với bản tính chăm
chỉ, cần cù và thông minh, ngƣời Do Thái ở đâu cũng tạo dựng đƣợc sự thịnh
vƣợng cho mình, do đó, không tránh khỏi bị kì thị, bị phân biệt đối xử. Ngƣời
Do Thái lại có vẻ ngoài không thể lẫn lộn, đặc biệt là ở sống mũi gồ đặc thù
của họ. Thêm vào đó, nhiều tƣ tƣởng sai lầm đƣợc phát tán đã khiến cho tình
trạng thù ghét ngƣời Do Thái ngày càng gia tăng. Ngƣời Do Thái bị đổ lỗi
trong nhiều hoàn cảnh, sự việc. Chẳng hạn nhƣ ngƣời ta nghi ngờ rằng Do
Thái giáo chính là đầu mối làm nảy sinh phong trào Phục hƣng, phong trào có
thời là “cái gai” trong mắt Giáo hội. Hậu quả là Giáo hoàng Paul IV đã ra chỉ
dụ thành lập khu biệt cƣ Ghetto ở La Mã. Ghetto có thể nói là hình thức “mở
đƣờng” cho trại tập trung sau này, với mô hình một khu vực dành riêng cho
ngƣời Do Thái sống biệt lập, có hàng rào bao quanh. Ban đêm cổng khóa, ban
ngày ngƣời Do Thái muốn ra ngoài phải đeo thẻ màu vàng, mọi yêu cầu hay
đề nghị của ngƣời Do Thái đều phải qua hội đồng quản trị quyết định. Mô
hình Ghetto này về sau lan rộng khắp châu Âu và Trung Đông, cùng với
nhiều sự kì thị khác, đã biến cuộc sống của ngƣời Do Thái trở nên vô cùng
đen tối. Đặc biệt ngƣời Do Thái ở châu Âu lại càng bi đát so với ngƣời Do
Thái ở Trung Đông. Tại nhiều nƣớc, họ không đƣợc phép có đất đai, vì thế họ


chỉ có thể làm nông nô hoặc tá điền. Thân phận của ngƣời Do Thái không khác
nô lệ là mấy. Việc học hành cũng bị hạn chế khi chỉ một số lƣợng hạn chế học
sinh Do Thái đƣợc phép đến trƣờng. Năm 1903, tại Nga xuất hiện cuốn The
Protocols of the (Learned) Elders of Zion (tạm dịch là Những nghi thức của xứ
Zion) , nói về những âm mƣu nham hiểm của các Trƣởng lão Do Thái với khát
vọng khống chế thế giới. Cuốn sách này về sau đƣợc chứng minh là lừa đảo,
nhƣng luận điệu của nó lại phổ biến trên khắp thế giới, gây nên sự nguyền rủa

rộng rãi với ngƣời Do Thái. Hậu quả là Sa hoàng Nga đã ra lệnh giết hại hàng
nghìn ngƣời Do Thái. Họ chạy sang Đức với hi vọng một cuộc sống mới tốt
đẹp hơn ở quốc gia đƣợc xem là văn minh này. Ngƣời Do Thái di cƣ đến Đức
từ thế kỷ I, đầu thế kỷ XX, dân số của họ đã chiếm 1% số dân của Đức. Tuy
nhiên, tình trạng của ngƣời Do Thái ở Đức cũng không khá hơn.
Nhƣ trên đã nói, khi Kafka chào đời, Prague chƣa phải là thủ đô và
quốc gia Tiệp Khắc còn chƣa đƣợc thành lập. Trƣớc năm 1919, Tiệp Khắc
gần nhƣ là là thuộc địa của đế quốc Áo – Hung, “bị giày vò dƣới triều đại
Háp-xbua già cỗi và chủ nghĩa tƣ bản Tiệp hèn yếu” [10, tr.89]. Về sau, ngƣời
Tiệp đã thành công trong việc thành lập riêng một quốc gia. Lúc này, ngƣời
Do Thái đã trở thành một bộ phận dân cƣ đông đảo trong thành Prague và
sống hòa lẫn với ngƣời Đức. Mang nỗi đau không Tổ quốc nhƣ một định
mệnh truyền kiếp, ngƣời Do Thái ở Praha thèm khát thành công của phong
trào quốc gia Tiệp, nhƣng họ bị phân hóa ngay trong cộng đồng Do Thái.
Những công nhân Do Thái gần gũi với công nhân Công giáo nói tiếp Tiệp
hơn là với thƣơng nhân hoặc kỹ nghệ gia Do Thái. Giai cấp thƣợng lƣu Do
Thái càng ngày càng có khuynh hƣớng di cƣ sang thành Viên. Chỉ còn một bộ
phận nhỏ ngƣời Do Thái ở lại thành Praha, là những thƣơng nhân và kỹ nghệ
gia, trong đó có gia đình Kafka. Họ nói tiếng Đức nhƣng lại xa lạ với ngƣời
Tiệp về phƣơng diện văn hóa và xa lánh với ngƣời Đức. Và ngay tại Praha,


ngƣời Do Thái vẫn bị phân biệt đối xử. “Họ hầu nhƣ không đƣợc gia nhập
quân đội”, “không đƣợc tuyển vào làm việc trong các công sở”, cũng “không
đƣợc làm giáo sƣ trong các trƣờng đại học” [3, tr.54]. Franz Kafka đƣợc làm
việc trong Viện Bảo hiểm công nhân là một trƣờng hợp đặc biệt, vì thời đó,
những ngƣời có bằng tiến sĩ luật nhƣ Kafka không nhiều. Chính thân phận lạc
loài này của ngƣời Do Thái đã hun đúc nên cảm thức bị cô lập và lẻ loi không
nơi bám víu trong tác phẩm của Kafka. Đó là nỗ lực đến tuyệt vọng để giao
tiếp với con ngƣời của Gregor Samsa trong Biến dạng, là cái giơ tay chới với

lần cuối cùng của Joseph K. với bóng ngƣời trên cửa sổ trong Vụ án, và là
cuộc hành trình bất tận của K. đến tòa lâu đài huyền bí trong Lâu đài. Cái cảm
thức đó không chỉ riêng Kafka cảm nhận đƣợc. Thế hệ ông, mỗi ngƣời đối
diện với nó bằng một cách khác nhau. Max Brod, bạn thân của Kafka, tham
gia phong trào xây dựng quốc gia Do Thái đƣợc phát động ở Praha. Fraz
Werfel tìm giải pháp trong tƣ tƣởng huyền bí. Còn Kafka, có lẽ ông không có,
không tin ở một giải pháp nào - cuộc hành trình của các nhân vật của ông chỉ
dẫn về Hƣ vô, đến cái chết. Giai cấp trung lƣu Do Thái bằng cách tách rời ra
khỏi môi trƣờng Tiệp và sử dụng tiếng Đức, đã hy vọng gia nhập vào những
giá trị tự do châu Âu. “Kafka đã linh cảm, một hi vọng nhƣ thế, chỉ là một ảo
vọng” (George Steiner). Trong Vụ án, nhân vật ngƣời chú nói với Joseph K.:
nếu thua trong vụ này “mày sẽ bị xóa tên khỏi xã hội, và cả họ hàng bà con
của mày nữa” [24, tr.91]. “Tội lỗi của một ngƣời Do Thái chứa đựng tội lỗi
của mọi ngƣời Do Thái thuộc mọi thời đại” [15, tr.78]. Nhƣ vậy, ngƣời ta
không bị khép tội vì một việc cụ thể, một hành vi cụ thể, cá nhân, mà vì toàn bộ
con ngƣời mình. Joseph K. hoài công soát lại những tình tiết nhỏ nhất của cuộc
đời mình, vì dù cho anh có trong sạch đến đâu thì tòa án đã kết tội, và điều đó
có nghĩa là: “vƣớng vào vụ kiện này coi nhƣ đã thua kiện rồi” [24, tr.91].
Dorothy Brewster và John Angus Burrell nhận định trong Tiểu thuyết


hiện đại về tác phẩm của Kafka là “tấn bi kịch của con ngƣời cô độc…tìm
cách len lỏi vào đoàn thể”. Trên thực tế, Franz Kafka chƣa bao giờ thể hiện sự
hứng thú muốn gia nhập vào “đoàn thể”. Kafka chán ghét công việc hành
chính và thế giới văn phòng. Điều này đƣợc thể hiện qua hình ảnh lão chánh
văn phòng khó tính, nghiệt ngã trong Biến dạng và tâm trạng coi công việc là
một nghề “quá đỗi nhọc nhằn” [24, tr.130] của Gregor Samsa. Nhân vật
Joseph K. tuy là nhân viên đại diện của ngân hàng – một chức vụ không hề
nhỏ - song ngƣời đọc vẫn không tìm thấy mối liên hệ mật thiết, thân ái nào
giữa nhân vật này với đồng nghiệp của anh ta. Nhƣ vậy, “đoàn thể” ở đây có

thể hiểu là cộng đồng chung của thế giới mà trong đó có những thành phần
mang tƣ tƣởng phân biệt chủng tộc, dẫn đến bi kịch lƣu vong và bị đọa đày
của dân tộc Do Thái. Nỗi đau vong quốc, nỗi oan khuất luôn bị đối xử nhƣ kẻ
tội đồ của ngƣời Do Thái qua bao thế kỷ dƣờng nhƣ đã hằn sâu lên tâm thức
của những thế hệ sau này. Cho nên, dù cuộc đời ngắn ngủi của Kafka chƣa
thật sự trải qua sự hành hạ đáng kể nào vì lí do là ngƣời Do Thái, nhƣng ông
vẫn cảm nhận đƣợc số phận nghiệt ngã của dân tộc mình. Kafka từng nói:
“Những ai đánh đập ngƣời Do Thái là giết Con Ngƣời”. Câu nói này, cùng vụ
án của Kafka, về sau đã trở thành lời tiên tri khi dân tộc Do Thái một lần nữa
lại bị đẩy đến bờ vực của sự diệt vong. Những ghetto thời hiện đại, tinh vi
hơn, chặt chẽ hơn và cũng khắc nghiệt tàn nhẫn hơn xuất hiện; những lò thiêu
dã man, khổng lồ ra đời; những bản án nghiệt ngã;… nối dài lịch sử bi thƣơng
của ngƣời Do Thái. “Kể từ khi Kafka viết, tiếng đập cửa ban đêm cứ thế tới
muôn nhà, những con ngƣời bị lôi ra, chết “nhƣ một con chó”, cứ thế nhân lên
mãi” (George Steiner). Hàng triệu, hàng triệu ngƣời Do Thái bị khép vào
những Vụ án nhƣ Joseph K. và chết nhƣ Joseph K., “nhƣ một con chó”, thậm
chí họ còn không có đƣợc thời gian từ lần sinh nhật này đến lần sinh nhật
khác nhƣ Joseph K. để tìm hiểu dù là tí chút về bản án phi lý của mình. Chủ


nghĩa Đại Đức sinh ra và lớn mạnh bởi sự mù quáng của vô thức tập thể đã
tiếp tục một cách cuồng loạn nhất chính sách bài Do Thái vốn dĩ đã từng xuất
hiện trong lịch sử thế giới. Dân tộc Do Thái thiểu sổ nhƣng vĩ đại, đã sản sinh
ra những vĩ nhân cho thế giới mà trong đó nổi tiếng nhất, trớ trêu thay, chính
là đức Chúa Jesu. Với vỏ bọc lý lẽ cao cả: thanh lọc và phát triển dân tộc
thuần chủng, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã hủy diệt tàn khốc những giá trị
văn hóa, gây nên mất mát không thể bù đắp cho thế giới. Chính ngƣời Đức,
với giấc mộng bá chủ toàn cầu, đã “hủy diệt những thiểu số dân Do Thái nói
tiếng Yiddish hoặc tiếng Đức ở đó, những thiểu số dân đã đem đến cho tiếng
nói Đức những ngƣời khổng lồ trong văn học là Joseph Roth, Franz Kafka, và

Celan” (Imre Kertész). Trƣớc khi qua đời, Kafka có một ƣớc nguyện là đốt
những sáng tác mà ông cho là chƣa hoàn thiện của mình, xuất phát từ tinh
thần tự trọng cao độ của một nhân cách lớn. Ông không biết rằng, ý tƣởng của
mình về sau đã “gặp gỡ” với phát xít Đức, khi Hitler yêu cầu thiêu hủy một
cách hung bạo tác phẩm của Kafka. Dĩ nhiên, Hitler chẳng vì lí do đẹp đẽ nào,
mà chỉ vì, Kafka là ngƣời gốc Do Thái. Kafka viết Vụ án từ trƣớc năm 1914,
khi đó ông có biết rằng ông đang viết ra tƣơng lai của chính những ngƣời thân
của mình (Milena Jezenka – ngƣời yêu của Kafka chết trong phòng hơi ngạt)
và của cả dân tộc Do Thái?! Sáng tác của Kafka, trƣớc hết là tiếng nói vong
thân dành cho con ngƣời, sau là dành cho ngƣời Do Thái. Tiếp bƣớc Kafka,
nhiều nhà văn viết về thế kỷ XX hung bạo, về số phận nghiệt ngã của ngƣời
Do Thái, nhằm đem lại cho thế giới cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về một
dân tộc nhỏ bé, đau khổ nhƣng kiên cƣờng.
1.3. Bối cảnh văn hóa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, châu Âu chứng kiến sự lên ngôi của lý tính với định
đề nổi tiếng của Decartes: “Tôi tƣ duy nghĩa là tôi tồn tại”. Thời đại Lý tính
dẫn tới cách mạng khoa học, làm thay đổi sự hiểu biết của chúng ta về thế


giới và tạo cơ sở cho cách mạng công nghiệp, một sự chuyển đổi căn bản của
các nền kinh tế thế giới. Nó bắt đầu ở nƣớc Anh và việc sử dụng những hình
thức sản xuất mới nhƣ các nhà máy, sản xuất hàng loạt, và cơ giới hoá để sản
xuất ra nhiều loại sản phẩm với tốc độ nhanh hơn và tốn ít nhân công hơn các
cách thức sản xuất trƣớc đó. Cái nhìn hoài nghi đó không chỉ nảy sinh từ
những biến động về chính trị mà còn bởi những sự kiện văn hóa quan trọng và
độc đáo diễn ra những năm đầu thế kỷ. Phát minh tia X có thể nhìn xuyên qua
đồ vật và con ngƣời; những phát hiện về thế giới vô thức; lý thuyết về sức
mạnh của tầng lớp đặc tuyển đối với vận động kinh tế, xã hội; lý thuyết về
tâm lí đám đông;… đã đánh đổ cái nhìn cũ của con ngƣời về thế giới. Những
khám phá dồn dập về phân tâm học, về vật lí, toán học, triết học,… buộc các

nhà văn phải xét lại cách nhìn của mình đối với thế giới. Không còn cái nhìn
lý tính và tuyệt đối nhƣ từ thế kỷ XIX trở về trƣớc, thay vào đó, con ngƣời thế
kỷ XX “thức tỉnh” nhận ra sự bất lực của con ngƣời trong việc dùng tri thức
khoa học để khám phá thế giới, cũng nhƣ nhận ra bản chất giả tạo và bị chi
phối của lịch sử, của hiện thực. Tất cả những điều đó ảnh hƣởng mạnh mẽ đến
thế giới quan của giới nhà văn nói chung và Franz Kafka nói riêng. Bởi vậy
những nhà tƣ tƣởng lớn nhƣ Kafka, James Joyce,… cố gắng phản ánh sự đổi
thay của thời đại bằng cách “kể lại những điều không thể kể” [19, tr.402] –
những điều nằm ngoài sự tỉnh táo của lý thuyết hiện thực, những tiềm thức
sâu thẳm, những sự kiện hỗn mang,…
Bên cạnh việc hấp thụ bầu không khí chung của thời đại, Franz Kafka
còn tự bồi đắp riêng cho mình nhiều luồng tƣ tƣởng từ những nguồn khác
nhau. Về mặt tôn giáo, cha của Kafka là ngƣời có tƣ tƣởng rộng mở, không hề
cuồng tín. Kafka kế thừa đƣợc tinh thần này. “Sống trong gia đình Do Thái
giáo, đƣợc giáo dục trong môi trƣờng Thiên Chúa giáo,… Kafka vừa hấp thu
trong mình nhiều luồng tƣ tƣởng vừa hoài nghi giá trị của các tƣ tƣởng đó” [3,


tr. 27]. Kafka cũng sớm tiếp xúc và có hứng thú với nền văn hóa Trung Hoa,
đặc biệt là Lão Tử. Đặc điểm này đã góp phần lí giải sức tiếp nhận rộng rãi
của bạn đọc mọi chủng tộc, mọi tôn giáo đối với tác phẩm của Franz Kafka.
Về tƣ tƣởng, Kafka tích lũy cho mình một khối lƣợng kiến thức đa dạng,
khổng lồ. Ông không chỉ đọc các sách triết học kinh điển nhƣ của Nietzche,
Kierkegard,… mà còn nghiến ngấu rất nhiều tác phẩm văn học. Kafka đặc
biệt thích Balzac ở chỗ Balzac có thể “nắm bắt và tái hiện cuộc đời từ muôn
và chi tiết độc đáo mà vẫn không bị lạc lối trong thế giới mình sáng tạo” [3,
tr. 49]. Về sau, chúng ta có thể tìm thấy trong tác phẩm của Kafka những
điểm tƣơng đồng với Balzac khi tác phẩm của ông khám phá những mặt đen
tối của con ngƣời, những góc khuất xấu xa mà con ngƣời luôn che đậy.
Nhƣng khác với Balzac, Kafka không gọi tên rõ những góc khuất đó bằng

tình huống cụ thể mà chỉ vẽ nên một thế giới với những con ngƣời tha hóa
đến tận cùng. Trong khi Balzac và các nhà văn hiện thực tin tƣởng vào khả
năng “kỹ sƣ tâm hồn” của ngƣời cầm bút thì Kafka hoàn toàn không còn chút
mộng tƣởng nào tƣơng tự. Tác phẩm của Kafka vẽ ra thế giới nhƣ nó vốn có,
đang có, trong đó ranh giới giữa hƣ và thực, giữa tốt và xấu hoàn toàn bị xóa
nhòa. Ngƣời đọc không tìm thấy một kim chỉ nam nào mà tác giả bày sẵn
trong tác phẩm nhƣ trong văn học hiện thực, văn học lãng mạn. Chỉ còn lại
duy nhất cái nhìn u tối mênh mông chất chứa đầy hoang mang và phi lí!
Thời đại của Kafka đánh dấu sự ra đời và trỗi dậy của nhiều trào lƣu, chủ
nghĩa, tƣ tƣởng lớn. Những tƣ tƣởng này đã có ảnh hƣởng mạnh mẽ, sâu rộng và
lâu dài cho đến mãi sau này. Trong đó, Kafka chịu tác động chủ yếu từ tƣ tƣởng
phi lí, triết học hiện sinh, chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa biểu hiện.
Tƣ tƣởng về cái phi lí không phải đến thời Kafka mới có mà đã xuất
hiện từ thời cổ đại. Tuy nhiên, cái phi lí hoàn toàn là cái bóng mờ khi con
ngƣời vẫn đang trong thời kỳ có niềm tin mạnh mẽ vào bản thân và thần linh.


Thế giới tin tƣởng vào lí tính của con ngƣời với câu nói nổi tiếng của
Decartes: “Cogito ergo sum” – “Tôi tƣ duy nghĩa là tôi tồn tại”. Con ngƣời
không để ý đến cái phi lí và chủ nghĩa duy lí lên ngôi thống trị. Nhƣng đến
thế kỷ của Kafka, những biến động dữ dội của đời sống đã mang tới cho con
ngƣời cái nhìn khác hẳn về thế giới. Cái phi lí từ vị trí bóng mờ vụt trở thành
trung tâm với trạng thái hoài nghi phổ biến. Chủ nghĩa tƣ bản kích thích kinh
tế phát triển, đem lại cuộc sống tiện nghi cho con ngƣời, nhƣng đồng thời
cũng đẩy con ngƣời vào vòng quay nghiệt ngã, biến con ngƣời thành máy
móc và “làm tha hóa con ngƣời đến mức tối đa” [31, tr. 29]. Cái phi lí trong
văn học nảy sinh khi “cuộc khủng hoảng về thân phận con ngƣời có tác động
hàng đầu đến tƣ tƣởng của nhà văn” [6, tr. 29]. Chủ nghĩa tƣ bản hàng hóa và
những cuộc chiến tranh đã làm nảy sinh tâm lí bất an về thân phận nhỏ nhoi
của con ngƣời trong xã hội. Trƣớc thời Kafka, con ngƣời nhìn chiến tranh nhƣ

một điều tất yếu cần có, nhân danh những giá trị cao cả, tốt đẹp nhƣ tổ quốc,
dân tộc, giống nòi,… Nhƣng Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã đập tan cái
nhìn cổ điển đó. Chiến tranh, bản chất là “quyền lực đơn giản muốn tự khẳng
định” [19, tr. 6] , là “cái ý chí của ý chí” (Heidegger). Chủ nghĩa nƣớc lớn
muốn thống trị thế giới vốn chẳng đại diện cho sự phát triển hay sự văn minh
của con ngƣời, bởi “tính hung hăng của quyền lực là hoàn toàn vô tƣ, vô cớ;
nó chỉ muốn cái nó muốn; nó là cái phi lý thuần túy” [16, tr. 7]. Bức màn che
phủ bản chất của quyền lực lộ ra, và con ngƣời hoảng sợ, lo âu trƣớc giá trị
tồn tại của mình. Lâu đài chẳng thu đƣợc lợi lộc gì khi bắt K. phải loanh
quanh đến mòn mỏi để đƣợc chấp nhận, tòa án cũng không đƣợc gì khi khép
Joseph K. vào một tội ác vô cớ. Điều này góp phần lí giải vì sao các nhân vật
trong tác phẩm của Kafka thƣờng bị tẩy trắng, không còn đƣờng viền lịch sử,
không còn cá tính, tâm tƣ, tình cảm. Bởi tất cả những yếu tố ấy không hề ảnh
hƣởng đến những quyết định của các “guồng máy sau màn” [29, tr. 248].

×