Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Thể thơ tự do trong thơ trữ tình Việt Nam 1975-2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------***-----------------

BÙI THỊ THANH HƯƠNG

THỂ THƠ TỰ DO TRONG THƠ TRỮ
TÌNH VIỆT NAM 1975 - 2000

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------***------------------

BÙI THỊ THANH HƯƠNG

THỂ THƠ TỰ DO TRONG THƠ TRỮ TÌNH
VIỆT NAM 1975 - 2000

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân

Hà Nội - 2009




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1
GIỚI THUYẾT VỀ THƠ TỰ DO

7

1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUAN NIỆM THỂ LOẠI THƠ

7

1.2 KHÁI NIỆM THƠ TỰ DO

11

1.2.1. Hiểu thế nào về khái niệm tự do

11

1.2.2. Một vài đặc điểm của thơ tự do

13

1.2.3. Phân biệt thơ tự do và thơ văn xuôi

15


1.3 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THƠ TỰ DO
1.3.1. Thơ tự do ở phương Đông

16
16

1.3.2. Thơ tự do ở phương Tây

18

1.3.3. Thơ tự do ở Việt Nam

20

Chương 2: THƠ TỰ DO 1975-2000

26

2.1. BỐI CẢNH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ Ý THỨC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI
CẦM BÚT

26

2.1.1. Bối cảnh đời sống xã hội

26

2.1.2. Ý thức nghệ thuật của người cầm bút


27

2.2. CÁC KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƠ TỰ DO 1975 – 2000

28

2.2.1. Diện mạo thơ tự do 1975 – 2000

28

2.2.2. Khuynh hướng tiếp nối thơ tự do truyền thống.

30

2.2.3 Khuynh hướng đổi mới thơ tự do theo hướng hiện đại chủ nghĩa

33


Chương 3:MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA THƠ TỰ DO 1975-2000
3.1 HÌNH ẢNH THƠ
3.1.1. Hình ảnh của cuộc sống đời thường, trần tục

36
37

3.1.2. Hình ảnh lạ, mang tính trực giác cao

39


3.1.3. Hình ảnh mang màu sắc siêu thực

42

3.2. NGƠN NGỮ THƠ
3.2.1 Ngôn ngữ đời thường suồng sã

45
45

3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính hình tượng

48

3.2.3. Lạ hố ngơn ngữ - sáng tạo từ mới

50

3.3. NHỊP ĐIỆU THƠ

51

3.3.1. Nhịp điệu trùng điệp

51

3.3.1. Nhịp điệu trùng điệp

52


3.3.2. Nhịp điệu tự do

53

3.3.3. Nhịp điệu biến hóa

55

3.4. CẤU TRÚC VĂN BẢN NGƠN TỪ

56

3.4.1. Cấu trúc hình thức bài thơ

56

3.4.2. Cấu trúc hình thức câu thơ

58

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường
mới của nền văn học Việt Nam. Đã hơn ba mươi năm kể từ thời điểm lịch sử đó, nền văn
học Việt Nam ln đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước

thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của
một giai đoạn văn học mới. Ba mươi năm chưa phải là khoảng thời gian dài đối với tiến
trình lịch sử của một nền văn học nhưng cũng không phải là ngắn ngủi, quan trọng hơn, nó
đã đủ để tạo nên diện mạo mới với những đặc điểm và quy luật vận động riêng của một giai
đoạn văn học. Nhìn lại chặng đường văn học từ sau 1975, dừng lại ở thể loại thơ - điệu nhạc
của tâm hồn; ta không khỏi ngạc nhiên thấy sự tồn tại với vị trí khá đặc biệt của thể thơ tự
do.
Ra đời vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX cho đến giai đoạn từ sau
1975, thể thơ tự do ngày càng khẳng định được vai trị của nó trong việc thoả mãn nhu
cầu sáng tác của các nhà nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng thức của đông đảo công
chúng yêu thơ. Với những câu thơ khơng bị gị bó về vần, luật; với những bài thơ
khơng bị bó hẹp trong khn khổ của câu chữ, thơ tự do đã trở thành một thể thơ
không thể thay thế trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Sự thành cơng của hình thức thơ
này đã khiến nó trở thành mối quan tâm của ngành văn học sử cũng như lý luận thơ ca.
Một loạt vấn đề cần phải đặt ra để lý giải sự phát triển và sức sống của thể thơ mới mẻ,
độc đáo này như: Nó đã ra đời và trải qua các giai đoạn phát triển như thế nào? Nó đã
đảm nhận vai trị chuyển tải nội dung ra sao? Có những điểm gì đáng chú ý trong hình
thức câu chữ của nó?...
Trong nhiều cơng trình lý luận về thơ ca cũng như văn học sử Việt Nam những
năm gần đây, các nhà nghiên cứu cũng đã có đề cập đến hình thức thơ tự do. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu cho đến nay chỉ được đề cập đến trong những trang viết lẻ tẻ ở
những khía cạnh riêng biệt, chưa mang tính chất hệ thống để thấy được đặc trưng của
thể loại thơ này qua mỗi giai đoạn văn học. Bởi vậy mà luận văn đặt vấn đề: “Thể thơ
tự do trong thơ trữ tình Việt Nam 1975-2000” nhằm góp phần giải đáp một số vấn đề
về thể thơ nói chung và thể thơ tự do nói riêng trong giai đoạn mới hiện nay. Từ đó,
người viết cũng mong muốn có thể phần nào dẫn đến những gợi mở bổ ích cho thực
tiễn sáng tạo thơ ca cũng như thực tiễn giảng dạy thơ ca.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với đề tài này, trước hết cần xác định thơ tự do là gì? Hiểu thế nào về khái niệm
thơ tự do và đặc trưng thi pháp của nó. Khi đã tìm hiểu thấu đáo vấn đề này thì đó sẽ là

cơng cụ chính để chúng tơi đi sâu tìm hiểu về thể thơ tự do ở một giai đoạn phát triển
nở rộ của nó, giai đoạn 1975 – 2000. Trong giai đoạn văn học này, thi đàn Việt Nam
có sự đóng góp của nhiều gương mặt thơ với những bước đột phá như: Vi Thuỳ Linh,
Phan Huyền Thư, Dương Tường, Hồng Hưng, Lê Đạt, Trần Dần... Đồng thời, cũng
có sự nối tiếp, duy trì của những nhà thơ đã khẳng định tên tuổi trong giai đoạn trước
như: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Văn Cao, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn
Duy...Do điều kiện về thời gian, người viết đã chọn cho mình một giải pháp là khảo
sát trên tư liệu tuyển tập Thơ Việt Nam 1975-2000 gồm có 3 tập với 1144 bài thơ


(NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2001). Vẫn biết rằng số lượng bài thơ có thể khơng đầy
đủ, gương mặt thi nhân có thể khơng điểm hết nhưng với những người thẩm bình thơ
đầy tâm huyết như: Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Quang Huy, Lê Thành Nghị,
Nguyễn Phan Hách tuyển chọn, mong rằng đây là những bài thơ tiêu biểu nhất cho
phong cách của mỗi một tác giả. Ngoài ra, trong q trình phân tích người viết cũng sẽ
khảo sát thêm một số các tác phẩm của các tác giả đã và đang tạo ra những làn sóng
tranh luận gay gắt, thậm chí đối lập trên thi đàn như : Trần Dần, Lê Đạt, Dương
Tường, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải... Thiết nghĩ, những tác giả này
đã ít nhiều mang đến cho thơ tự do nói riêng, cho giai đoạn văn học sau 1975 nói
chung một diện mạo mới, có nhiều vấn đề cần phải suy ngẫm.
Tất cả những tư liệu đó sẽ giúp người viết phác họa lên phần nào những đặc điểm
tiêu biểu của thơ tự do 1975 – 2000. Đồng thời, khẳng định sự đóng góp đầy ý nghĩa
của một thể thơ khá mới mẻ nhưng khơng cịn xa lạ, tưởng như dễ làm nhưng cũng đòi
hỏi biết bao tâm huyết và dụng công của người nghệ sĩ ngôn từ.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vốn có nền văn hố lâu đời, có truyền thống yêu chuộng văn chương, dân tộc ta từ lâu
đã quan tâm đến việc tìm hiểu các hình thức thơ ca. Theo các nhà nghiên cứu cho biết thì
điều đó đã diễn ra từ thời Lê Thánh Tơng, với tác phẩm Văn thành bút pháp của Vũ
Quỳnh. Rồi Phạm Đình Hổ cũng có bàn về hình thức thơ trong tập Vũ trung tuỳ bút. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu về thể thơ tự do có lẽ là muộn hơn cả. Bởi bản thân sự ra đời của

thể thơ này trong nền văn học viết của dân tộc cho đến nay mới chưa đầy tám thập niên.
Hơn nữa việc tìm hiểu, đánh giá về bất cứ một hình thức nghệ thuật nào, đặc biệt là hình
thức nghệ thuật thơ ca – tiếng nói của cảm xúc có lẽ cũng cần phải có một q trình lâu
dài dựa trên những đặc trưng mang tính ổn định; đồng thời cũng phải dựa trên những
thành tựu nhất định.
Nhìn lại các cơng trình nghiên cứu trong những năm gần đây, mặc dù chưa thực sự
trở thành hệ thống toàn diện song thơ tự do vẫn được nhiều tác giả đề cập tới. Có thể
điểm qua các loại cơng trình như sau:
(1) Cơng trình giới thiệu, nghiên cứu các thể thơ trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
Chẳng hạn như: Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại (Bùi Văn Nguyên – Hà Minh
Đức) ...
(2) Cơng trình lý luận văn học và lý luận thơ ca của các tác giả: Mã Giang Lân
(Thơ hình thành và tiếp nhận, Văn học hiện đại Việt Nam – Vấn đề tác giả, Tiến trình
thơ hiện đại Việt Nam), Phạm Quốc Ca (Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000), Hà
Minh Đức (Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại),...
(3) Các cơng trình tra cứu về văn học như: Từ điển văn học (Trung tâm từ điển
học), Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng
chủ biên)...
(4) Các bài nghiên cứu riêng lẻ được công bố trên các tập sách, tập san như:
Thơ Việt Nam sau 1975 – Diện mạo và khuynh hướng phát triển (Nguyễn Đăng Điệp –
Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy), Nhịp điệu thơ
hôm nay (Mã Giang Lân – Tạp chí Nghiên cứu văn học – số 3/2007), Thơ tự do: Cuộc
vật lộn tiếp diễn của sáng tạo và tiếp nhận (Vi Thuỳ Linh – Về một dòng văn
chương),...


Tìm hiểu nội dung của các cơng trình trên đây ta thấy thơ tự do trong các giai đoạn
phát triển của nó đều được các nhà nghiên cứu ít nhiều đề cập đến. Theo ý kiến của
nhà nghiên cứu Mã Giang Lân, thực ra trong lời ca của một số làn điệu dân ca quan họ
(Bắc Ninh), hát xoan (Phú Thọ), các làn điệu chèo, ca Huế, các điệu hò...cũng đã có

những yếu tố của thơ tự do. Nhưng xuất hiện với tư cách là một thể thơ độc lập thì
phải đến thời kì thơ Mới, thơ tự do mới ra đời. Từ phong trào thơ Mới “Thơ tự do mở
đường nhập hội Tao Đàn” (Bằng Giang, Từ thơ Mới đến thơ tự do-NXB Phù Sa,Sài
Gòn,1961).
Năm 1971, Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức với chuyên luận Các thể thơ ca và sự
phát triển của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội,1971) đã có một cuộc tổng kết về hình thức thể loại của phong trào thơ Mới, trong
đó các ơng đặc biệt chú ý đến thể thơ tự do: “Về hình thức, phong trào thơ Mới vốn đã
có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển các thể thơ nâng cao khả năng biểu
hiện của một số thể thơ. Thể bốn từ, năm từ, bảy từ được sử dụng khá phổ biến. Thể
lục bát vẫn tiếp tục phát triển. Một số bài thơ hợp thể và tự do đã xuất hiện. Hình thức
hợp thể và tự do đó tuy mới xuất hiện nhưng đã gây được sự chú ý ở người đọc”. Có
thể nói, ngay từ khi mới ra đời, thơ tự do đã được người đọc biết đến và trở thành “tiêu
điểm” trên thi đàn, được giới phê bình nghiên cứu xem như một hiện tượng đặc biệt.
Cũng trên tinh thần ấy, với bài viết Thơ Mới (1932-1945) và thơ hôm nay đăng trên
báo Văn nghệ tháng 9-1994, Trần Thanh Đạm nhận xét: “Phong trào thơ Mới nổi lên
lúc đầu như là một cuộc cải cách về hình thức nghệ thuật thơ, tức là về thi pháp, một
cuộc vận động “cởi trói cho thơ” khỏi những ràng buộc của các khuôn phép cũ, nhất là
của thể Đường luật, được xem là tiêu biểu cho thơ cũ. Đồng thời, đó cũng là sự đề xuất
ra các thể thức mới cho thơ, trước hết là thể thơ tự do”. Như vậy, thơ tự do được coi là
hình thức nghệ thuật tiên phong trên mặt trận chống lại những ràng buộc khắt khe của
thơ cũ.
Cùng năm 1994, Trần Đình Sử trong bài viết Hành trình thơ Việt Nam hiện đại
(Báo Văn nghệ 1994) đã đánh giá rất cao vai trò của thơ Mới: “Thơ Mới (1932-1945)
đúng là bước ngoặt của thơ ca dân tộc...Thơ Mới đem lại hình thức mới cho thơ dân
tộc. Thơ Mới đã đem lại câu thơ tự do, giải phóng khỏi niêm, đối, bằng, trắc định sẵn”.
Nhìn chung, khi nhận định, đánh giá về phong trào thơ Mới 1932-1945, các tác giả
đều thống nhất ở một điểm: Khẳng định thơ Mới có vai trị quan trọng trong việc đổi
mới hình thức nghệ thuật thơ dân tộc, đặc biệt, thơ Mới đã tạo ra thể thức thơ tự do,
đối chọi lại những khuôn luật cứng nhắc của thơ cổ điển. Tuy nhiên, đúng như Hoài

Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận định: “Thơ tự do chỉ là một phần nhỏ của thơ
Mới. Phong trào thơ Mới trước hết là một cuộc thử nghiệm táo bạo để định lại giá trị
của những khuôn phép xưa” và “các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như
thơ tự do, thơ mười chữ, mười hai chữ hay đang sắp sửa tiêu trầm như cách gieo vần
phỏng theo thơ Pháp...”.
Ở giai đoạn lịch sử mới 1945-1975, thơ tự do nở rộ, đơm hoa kết trái. Tất nhiên,
lúc đầu, đã có khơng ít những ý kiến phản đối, kì thị. Cuộc tranh luận văn nghệ Việt
Bắc (1949) xoay quanh vấn đề thơ có vần hay không vần, thực chất là đề cập đến một
lối thơ tự do, phóng túng, khơng luật lệ. “Thời gian và thực tế phát triển của thơ Việt
Nam đã giải tỏa, đã chứng minh tất cả những gì mà Nguyễn Đình Thi sớm phát hiện


và kiên trì theo đuổi trong suốt hành trình cơ đơn, heo hút đi tìm thơ,trong sự kì thị của
khơng ít bạn bè đồng nghiệp ngày ấy. Đó quả là một quan niệm cách mạng về nghệ
thuật” (Mai Hương, Nguyễn Đình Thi, từ quan niệm đến thơ – Tạp chí Văn học số 31999).
Năm 1987, cuốn chuyên luận Một thời đại văn học mới với sự góp mặt của nhiều
tác giả (NXB Văn học, Hà Nội, 1987) đã có một cuộc tổng kết về sự phát triển của các
thể thơ trong nền thơ sau 1945: “Về mặt thể thơ, trong sự phát triển của thơ trữ tình
sau Cách mạng tháng Tám 1945, hầu hết các thể thơ dân gian và truyền thống (lục bát,
song thất lục bát, Đường luật...), các thể “thơ mới” (5 chữ, 7 chữ, 8 chữ) đều được khai
thác, sử dụng và trở nên nhuần nhuyễn trong nội dung mới. Bên cạnh đó, hình thức thơ
tự do ngày càng trở nên phổ biến , rộng rãi...” . Tác giả bài viết đặc biệt chú ý đến thể
thơ tự do và giải thích rõ hơn: “Thể thơ tự do đã hình thành. Đây là thể thơ được dùng
phổ biến nhất trong thơ từ sau 1945 với những cách xử lý hết sức khác nhau. Những
nhà thơ thích đưa hơi hướng cổ phong vào thơ mình hồi 45 – 50, trên thực tế đã phát
triển hình thức thơ tự do. Những tác giả định tạo ra lối thơ leo thang tiếng Việt hồi
cuối những năm 50 thì những thí nghiệm ấy thực ra cũng là những dạng của thơ tự do.
Thơ tự do hầu như là hình thức thích hợp nhất cho những nhà thơ trẻ xuất hiện hồi
những năm 60”...Thơ tự do đã trở thành hình thức quen thuộc để các nhà thơ sáng tác,
là lĩnh vực thử thách để các cây bút trẻ khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo của mình.

Giai đoạn phát triển này của thơ tự do còn thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả
với những ý kiến xác đáng khác như: Trần Đình Sử, Vũ Duy Thơng, Nguyễn Văn
Long... Năm 1994, Trần Đình Sử trong Hành trình thơ Việt Nam hiện đại (Báo Văn
nghệ năm 1994) đã thống kê tỉ lệ thơ tự do trong các tuyển tập thơ: “ Xét hình thức bề
ngồi, thơ cách mạng sau 1945 phát huy hình thức tự do. Một sự thống kê sơ bộ cũng
cho thấy điều này. Chẳng hạn, tập Thơ kháng chiến 1945 -1954 (NXB Tác phẩm mới,
1986) có 62/147 bài thơ tự do , hợp thể; tập Thơ Việt Nam 1945 -1985 (NXB Văn
học,1985) có 98/213 bài thơ tự do, tỷ lệ trung bình gần như 1/2. Tỷ lệ này chứng tỏ thơ
muốn vượt qua nhạc tính bề ngồi để đi vào nhạc điệu bên trong”. Tỷ lệ thống kê cho
thấy thơ tự do chiếm ưu thế vượt trội hơn hẳn so với các thể thơ khác. Nó phản ánh xu
thế phát triển của thơ Việt Nam hiện đại là xu thế tự do hố hình thức thơ, đặc biệt là
thể thơ. Cịn nhà nghiên cứu Vũ Duy Thơng thì thừa nhận: “Thơ tự do chiếm tỷ lệ cao
trong số những bài cịn đọng lại của thơ thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với
nhiều tác giả như: Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Hữu
Loan, Hoàng Cầm, Văn Cao, Nguyên Hồng... Nhiều tác giả tỏ ra có sở trường loại thơ
này: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao...Sang thời kì chống Mỹ, thơ
tự do đã quen thuộc và trở thành công cụ chính của trường ca” (Cái đẹp trong thơ
kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975, NXB Giáo dục, 2003). Thơ tự do đã làm nên tên
tuổi của một số nhà thơ, là sở trường của nhiều tác giả. Năm 2005, nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Long nhận xét khái quát về thơ kháng chiến chống Mỹ: “Thơ kháng
chiến chống Mỹ đã thúc đẩy xu hướng tự do hố hình thức thơ lên một bước mới ( ...).
Thơ kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh việc kế thừa những kinh nghiệm nghệ thuật
truyền thống đã rất chú ý tìm tịi, sáng tạo trên phương diện hình thức theo hướng tự
do hố”. Một trong những tìm tịi ấy là thể thơ: “Thể thơ được sử dụng chủ yếu là thể
thơ tự do” ( Thơ kháng chiến chống Mỹ trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Thơ, phụ


bản Báo Văn nghệ, số 22, tháng 4/2005). Nhận định đó đã bao qt được tồn bộ diện mạo
phát triển không chỉ của thơ kháng chiến chống Mỹ mà của cả nền thơ cách mạng từ sau
1945, trên phương diện hình thức nghệ thuật, trong đó các tác giả đặc biệt chú ý đến thể thơ

tự do.
Tóm lại, 30 năm thơ kháng chiến 1945-1975, là cả một giai kỳ lịch sử rất dài và nhiều
biến động. Trong suốt quãng thời gian đó, thơ tự do ln bền bỉ đồng hành cùng nền thơ
dân tộc và đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng thể loại văn học này không
chỉ dừng tại đây, nó cịn vươn xa hơn nữa và chiếm lĩnh “thị trường” thơ Việt Nam sau
1975. Thơ tự do giai đoạn này vừa tiếp nối và phát triển thơ tự do 45-75, vừa có những
biến đổi cả về chất và lượng so với trước. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn
đề này.
Trong cuộc thảo luận trên báo Văn nghệ khoảng đầu những năm 1990, Hữu Thỉnh
nhận xét: “Thơ đang mở ra nhiều hướng,nhiều cách. Nắm bắt thơ hiện nay như nắm
bắt một mục tiêu đang di động, đang bay trên trời. Được giải phóng khỏi những quan
niệm hẹp hịi và khơ cứng, họ khơng cịn quá băn khoăn tôi hay là ta, hiện thực hay
không hiện thực, họ chỉ mải mê ghi lại những chấn động đột ngột của tâm hồn, đắm
mình trong dịng chảy cảm xúc (...). Xu hướng chung của sự chuyển mới này là đi tìm
cách biểu cảm hiện đại của thơ, dồn nén thơng tin, ham bày tỏ, ít so sánh trực tiếp, nhiều
liên tưởng ngầm, tăng trực giác lẫn ngẫu nhiên, câu thơ co duỗi tự do, đóng mở linh
hoạt...” Một thời đại mới đang mở ra khiến cho thơ cũng trở nên năng động, phong phú
hơn. Thể thơ thích hợp nhất để con người hiện đại chuyển tải những suy nghĩ, xúc cảm
của mình, khơng gì khác hơn là thơ tự do.
Trong diễn đàn Hội thảo về thơ hôm nay trên báo văn nghệ số 31/1994, Ngô Quân
Miện với bài viết Chuyển biến của các thể thơ trong tiến triển của thơ hiện nay đã
nhận xét: “Những thể thơ truyền thống, dù có sự cải tiến, về cơ bản vẫn mang tính chất
đều đặn và vẫn trở ngại cho sự ào vào thơ của văn xuôi, của những yếu tố văn xuôi,
của ngôn ngữ cuộc sống. Để vượt qua sự trở ngại ấy, trong hai thập kỉ gần đây, nhất là
từ thập kỉ 80 trở đi, ta thấy càng ngày xuất hiện càng nhiều những bài thơ có cấu trúc
không đều đặn, nghĩa là về cơ bản không theo luật vần, khơng theo luật bằng, trắc,
khơng có âm tiết đều nhau trong một câu. Còn nhịp thơ, những chỗ ngắt hơi, những
tiết tấu cũng không theo những quy luật có sẵn...” Tuy tác giả khơng trực tiếp gọi tên
thể thơ đó nhưng lối thơ có “cấu trúc khơng đều đặn” kia chính là thơ tự do. Lối thơ
này, theo tác giả, đã mang thành công đến cho một số tác giả, tác phẩm: Người đàn bà

ngồi đan (Giải thưởng Hội nhà văn, năm 1986), Ngày thường của Ý Nhi; Lối nhỏ, Bài
mẫu giáo sáng thế của Dư Thị Hoàn, Lá của Văn Cao, Việt Bắc của Trần Dần, Cà
Mau của Trinh Đường, Maratong của Trúc Thơng, Những khối tình câm của Vân
Long...Kết bài là một dự báo đầy lạc quan: “Thế là bên cạnh những bài thơ làm theo
những thể có sẵn ngày càng cải tiến lại mở ra thêm một lối đi ngày càng rộng cho thơ”.
Năm 1997, Vũ Tuấn Anh với chuyên luận Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995
(NXB Khoa học xã hội, 1997) đã đi tiếp ý “thơ đang mở ra nhiều hướng nhiều cách” ở
trên của Ngô Quân Miện: “Thơ sau 1975 và đặc biệt là mười năm trở lại đây không
quy tụ theo một hướng, một phạm vi đề tài hoặc một giới hạn hình thức nào...)”. Tuy
nhiên, tác giả đã khái quát “Xu hướng chung của sự vận động hình thức là tính chất tự
do hố, cá thể hố và đa dạng hố, thể hiện ở mọi cấp độ của hình thức thể loại (...)


Thơ tự do chiếm ưu thế, thậm chí, khái niệm “thơ tự do” đã không bao chứa hết sự
phong phú của các biểu hiện tự do hố hình thức”. Như vậy, thơ tự do là dấu hiệu hình
thức nổi bật nhất trong khuynh hướng phát triển của thơ Việt Nam sau 1975.
Cũng đi vào xu hướng tự do hố hình thức thơ, Phạm Quốc Ca khẳng định: “Sau
năm 1975, các thể thơ thường được sử dụng là tự do, lục bát, 5 chữ, 7 chữ. Trong
tuyển tập Thơ Việt Nam 1975-2000, thơ tự do chiếm tỷ lệ cao nhất 645/1144 bài thơ
(56%). Điều đó phản ánh xu hướng tiếp tục tự do hố về hình thức thơ”. (Mấy vấn đề
về thơ Việt Nam 1975-2000, NXB Hội nhà văn, 2003).
Ý thức tìm tịi đổi mới thơ theo hướng tự do hố hình thức đã khiến một bộ phận
các nhà thơ hiện đại đẩy thơ đến mức cực đoan, lập dị. “Đề cao vơ thức nhưng các nhà
thơ hiện đại có ý thức xoá bỏ vần luật, cú pháp, thực hiện một thứ tự do không giới
hạn cho ngôn ngữ, mọi thứ đều được tự do, chẳng cần nhịp, chẳng cần dấu ngắt câu,
chẳng cần nghĩa, chỉ cần cắt dán ngẫu nhiên các từ ở báo ra để thành bài thơ” (Mã
Giang Lân - Xu hướng hiện đại chủ nghĩa trong thơ, trích Sơng Hương, phê bình và
đối thoại, NXB Văn hố thông tin, 2003). Như vậy, thơ tự do ở đây thuần t chỉ là trị
chơi hình thức, khơng bao chứa một nội dung ý nghĩa nào cả.
Vẫn tiếp tục đi vào xu hướng tự do hố hình thức thơ sau 1975, Hoàng Hưng trong

tiểu luận Thơ hiện đại và thơ Việt Nam hiện đại (Thơ- Phụ bản Báo Văn nghệ số 18
tháng 12/2004) cho rằng một trong những thuộc tính của thơ ca hiện đại là: “Tinh thần
thể nghiệm cao, vượt khỏi mọi ràng buộc của các hình thức thơ có sẵn”. Chính vì vậy
mà “hình thức thơ tự do, thơ văn xi là chủ đạo”. Hình thức thơ tự do được Hồng
Hưng cho là một trong những tìm tịi đổi mới trên con đường hiện đại hóa thơ ca.
Có thể nhận thấy thơ tự do 1975 vẫn tiếp nối thành tựu của thơ tự do những thập kỉ
trước nhưng phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp hơn. Các ý kiến phê bình,
nghiên cứu, do đó, cũng phân hoá thành nhiều bè điệu khác nhau.
Một cách tổng thể chúng tôi nhận thấy những ý kiến liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến luận văn Thể thơ tự do trong thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 2000 có thể tạm chia như
sau:
- Thứ nhất, các ý kiến khá thống nhất khi đánh giá những ưu thế của thể thơ tự do:
mở rộng dung lượng phản ánh hiện thực, câu thơ co duỗi, đóng mở linh hoạt, phát huy
cao độ cá tính sáng tạo cuả nhà thơ... Những sự vận động này theo chiều hướng tích
cực khiến cho thơ tự do ngày một đa dạng, phong phú, thành thục hơn.
- Thứ hai, thơ tự do sẽ còn được tiếp tục phát triển đi lên trở thành một thể thơ
chính của nền thơ Việt Nam hiện đại. Nó đang mở ra “một lối đi ngày càng rộng cho
thơ ca”.
- Thứ ba, tuy có rất nhiều ý kiến bàn về thơ tự do, đặc biệt thơ tự do sau 1975
được giới nghiên cứu phê bình chú ý nhưng nó chưa trở thành đối tượng nghiên cứu
chun biệt của một cơng trình nào. Phần lớn tài liệu liên quan đến đề tài này mà
chúng tôi nắm được mới chỉ là những bài báo, tham luận, một mục trong chuyên luận.
Do vậy, đối tượng nghiên cứu hiện lên sơ lược, hạn hẹp, chưa được triển khai sâu
rộng. Chính vì thế, chúng tơi thực hiện đề tài luận văn này nhằm bổ khuyết cho những
gì cịn bỏ trống, đi vào những bình diện cụ thể, chi tiết của đối tượng, trên cơ sơ đó
nâng đối tượng lên tầm bao quát vĩ mô, xứng đáng với tầm vóc mà nó phải có. Đồng
thời việc nghiên cứu về thơ tự do ở một giai đoạn được coi là thăng hoa nở rộ của nó


có lẽ là rất cần thiết để chúng ta thấy được phần nào đó diện mạo của cả một giai đoạn

thơ trong thời kì đổi mới – thời kì văn học Việt Nam đang trên đường hội nhập và phát
triển.
4. NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chính của luận văn là phác họa lại diện mạo của thơ tự do trong giai đoạn
1975 – 2000 từ các khuynh hướng phát triển cho tới những tìm tịi cách tân về hình
thức nghệ thuật như : hình ảnh, ngơn ngữ, nhịp điệu, cấu trúc văn bản...
Thơ tự do ra đời khơng phải là trị chơi thuần tuý về hình thức, mà là kết quả của ý
thức nghệ thuật mang tính tự giác cao của các nhà thơ, đáp ứng những đòi hỏi của thời
đại và nhu cầu của cuộc sống. Chính vì vậy, luận văn sẽ cố gắng làm sáng tỏ vấn đề:
đổi mới hình thức nghệ thuật trong đó có đổi mới thể thơ cũng chính là đổi mới tư duy
nghệ thuật của các nhà thơ để chiếm lĩnh đối tượng phản ánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứư
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê: Thống kê các bài thơ sáng tác bằng thể thơ tự do nhằm
có một cái nhìn khái qt về thể thơ này trong giai đoạn văn học 1975 – 2000.
- Phương pháp phân loại: Nhằm xác định các khuynh hướng phát triển cũng như
những biểu hiện đặc trưng của hình thức thơ ca này.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Để làm nổi bật những đặc điểm của thơ tự do
1975 – 2000, người viết so sánh đối chiếu với thơ tự do các giai đoạn trước như
1930 – 1945, 1945 – 1975. Đồng thời, cũng so sánh thể thơ này với các thể thơ
khác cùng giai đoạn như thể lục bát, thể 5 chữ...
- Phương pháp phân tích tác phẩm: Để thấy được một cách cụ thể những biểu
hiện của thơ tự do ở các cấp độ: hình ảnh, ngơn ngữ, nhịp điệu,...
5. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là cơng trình đầu tiên khảo sát, miêu tả, nhận diện thể thơ tự do trong
giai đoạn 1975 – 2000 như một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt. Kết quả nghiên cứu
của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tổng thể, khoa học và xác đáng về những
đặc điểm cũng như những khuynh hướng phát triển tiêu biểu của thơ tự do 1975 –
2000. Từ đó, người viết cũng mong muốn có thể góp phần nào vào việc khẳng định vị

trí và những ưu thế của thể thơ tự do trong tiến trình phát triển nền thơ dân tộc. Đồng
thời, hy vọng cơng trình này cũng góp một chút kinh nghiệm cho những người đã, đang
và sẽ làm thơ tự do.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Giới thuyết về thơ tự do
- Chương 2: Thơ tự do 1975- 2000
- Chương 3: Một số phương thức biểu hiện của thơ tự do 1975-2000


NỘI DUNG
Chương 1: GIỚI THUYẾT VỀ THƠ TỰ DO
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUAN NIỆM THỂ LOẠI THƠ
Vấn đề thể loại cho đến nay ở Việt Nam vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Các
nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm được tiếng nói chung, thống nhất khi xem xét khái niệm
này, mặc dù thể và loại hay thể loại vốn là những từ được dùng khá phổ biến. Nói đến
thể, ta thường quan niệm nó thiên về hình thức như: Thể 2 chữ, 3 chữ, thể lục bát...
Rộng hơn, ta có thể chia thành: Thể thơ khơng vần, thể thơ có vần... Cách phân chia
này tương đối quen thuộc trong giới nghiên cứu văn học nhưng về thực chất chúng
không được phân chia trên cùng một hệ thống tiêu chí. Khái niệm thể đã vậy, khái
niệm loại cịn phức tạp hơn. Loại vốn rộng hơn thể, bản thân một loại có thể bao hàm
nhiều thể khác nhau. Xét trên tiêu chí nội dung, ta có loại thơ trữ tình, loại thơ trào
phúng... Theo tiêu chí phương pháp sáng tác, ta có thể chia thành thơ lãng mạn hay thơ
cách mạng... Chi tiết hơn, chia ra thơ trữ tình chính trị, trữ tình cơng dân, thơ chính
luận, thơ châm biếm, đả kích... Rõ ràng cách phân chia này cũng khơng hồn tồn
thống nhất với nhau về tiêu chí. Từ trước đến nay đứng trước một thể, loại hay kiểu lối
thơ nào đó, chúng ta thường hay gọi một cách trực quan, thay vì dựa trên những căn cứ
khoa học nhất định. Thói quen ấy ban đầu như một người qua đường xa lạ nhưng rồi
theo dòng chảy thời gian nó trở thành người bạn vơ cùng thân thiết mà đôi khi bản thân

người trong cuộc không ý thức được đầy đủ, đúng đắn.
Sở dĩ có những mối chồng chéo trong quan niệm và cách thức phân loại về thể,
loại cũng như thể loại như trên là do chúng ta có một q trình tiếp thu và ảnh hưởng
lâu dài từ nhiều nền văn hoá khác nhau. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc đã để lại những
dấu ấn sâu sắc trong quan niệm, tư tưởng của biết bao thế hệ người cầm bút. Các nhà
Nho được đào tạo từ cửa Khổng sân Trình để có một chỗ đứng nơi sân rồng đều tự tu
dưỡng mình theo đạo lý Nho giáo và tìm đến những thể thơ khn mẫu nhằm làm
phương tiện “tải đạo”. Ngoài các thể thơ đặc biệt như: song điệp, vĩ tam thanh, thủ vĩ
ngâm, hồi văn, yết hậu, liên hồn... thì thể thơ cổ phong và Đường luật là hai thể thơ
được dùng hết sức phổ biến. Suốt gần một thiên niên kỉ, hệ thống thể loại của văn học
Trung Hoa đã thâm nhập và thống soái trên thi đàn thơ ca Việt. Chính vì thế, hệ thống
thể loại ấy cho đến nay vẫn tìm thấy chỗ đứng vững chắc trong dòng chảy văn học dân
tộc. Sang đến đầu thế kỉ XX, khi tiếp xúc với văn hố Tây phương, con người Á Đơng
cảm thấy ngỡ ngàng, bàng hoàng khi lần đầu tiên đối diện và chiêm ngưỡng chân dung
của chính mình. Thật gần gũi, thật thân quen mà bấy lâu họ đã không nhận ra. Cùng
với sự khẳng định cái tơi cá nhân đầy cá tính, các nhà thơ đã tìm đến với những thể
loại mới để đề cao, tôn thờ “cái tự nhiên của con tâm” (Phan Khơi). Đời sống thể loại
từ đây có một sự biến đổi sâu sắc! Người ta phê phán thơ luật, kêu gọi sự đổi mới
trong tình và trong hình thể thơ. Phong trào thơ Mới thực sự là một cuộc cách mạng
trên thi đàn. Nhiều thể thơ mới được sử dụng như những người chiến sĩ cách mạng
trong phong trào ấy: Thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 8 chữ... và đặc biệt là thể thơ tự do. Cũng
kể từ đây, chúng ta tiếp nhận hệ thống lý luận của văn học phương Tây và coi đó là cơ
sở vững chắc cho việc tồn tại những quan niệm về thể loại cũng như sự hình thành
những thể loại mới. Như vậy theo dòng chảy của lịch sử dân tộc, thơ ca cũng có những
bước phát triển khơng ngừng. Một mặt người Việt Nam trân trọng truyền thống dân


tộc qua thơ lục bát, song thất lục bát nhưng mặt khác cũng không ngừng tiếp thu ảnh
hưởng từ những nền văn hố, văn học khác nhau để hình thành nên các thể thơ mới.
Đó là một trong những nguyên nhân làm cho hệ thống thể loại của Việt Nam chúng ta

đa dạng, phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp.
Sự phức tạp trong quan niệm về thể và loại thơ cịn bắt nguồn từ tính phức tạp
trong quan niệm về thơ. Con người Việt Nam vốn yêu thơ, trân trọng thơ; ở mỗi thời
kì, chúng ta lại tìm đến những quan niệm về thơ khác nhau. Có khi thơ được coi là “bà
chúa nghệ thuật”, là “cái nhụy của cuộc sống” (Sóng Hồng); cũng có khi thơ được
khẳng định là “sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” hay là “một điệu
hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu)... Thêm vào đó, trong q trình hội
nhập, phát triển; chúng ta cũng khơng ngừng tiếp thu những quan niệm thơ của những
nền văn hố khác nhau. Từ Aristơt – người được coi là ông tổ của nghệ thuật thi ca đã
khẳng định : “Thơ có tính cách triết lý và cao siêu hơn sử, vì phạm vi của thơ là sự phổ
qt, cịn sử chỉ xét những gì riêng biệt”, cho đến Hêghen – nhà mĩ học đại tài:
“Nhiệm vụ chính của thơ là gợi ra cho ý thức những tiềm lực trong đời sống tinh thần,
cùng sức mạnh ở các tình cảm và đam mê cuồng nhiệt của con người, sức mạnh đó
rung động ta hoặc yên lặng diễn qua con mắt trầm ngâm, nói một cách khác, là lĩnh
vực vơ tận của các biểu tượng, các hoạt động, các kì cơng, các số mệnh của con người,
sự tiến triển và biến thiên của thế giới, và cách chi phối thế giới này do các thần linh”.
Hoặc ngợi ca một cách ngắn gọn hơn như Keats – nhà thơ Anh thế kỉ XVIII: “Thơ
phải cao nhã, kín đáo, thấm thía vào tâm hồn mà không làm cho sửng sốt, ngạc nhiên”.
Và đã là người yêu thơ chắc chẳng ai có thể quên được tiếng lịng thảng thốt của
Raxum Gamzatơp : “Thơ ca, nếu khơng có người tơi đã mồ cơi”... Có lẽ, mỗi người
sáng tác thơ cũng như mỗi người đọc thơ lại tự tìm thấy cho riêng mình những quan
niệm về thơ khác nhau bởi thi ca muôn đời vẫn là tiếng nói của cảm xúc tâm hồn mà
thế giới tâm hồn ấy lại đa dạng, phong phú và kì diệu biết bao! Từ sự phong phú trong
quan niệm về thơ như thế, chúng ta có thể tạm thời chia thành ba xu hướng chính đó
là: xu hướng thi vị hố, trần tục hố và thần bí hố thơ. Sự tạm thời phân chia này dù
sao cũng chỉ mang tính chất tương đối và cũng không thể tránh khỏi những bất đồng
trong quan niệm của các nhà nghiên cứu ở các thời kì khác nhau.
Nói như vậy khơng có nghĩa là chúng ta khơng thể tìm ra những tiêu chí để mô
tả thể loại thơ. Bởi trong các phạm trù văn học, thể loại là phạm trù tương đối ổn định,
bền vững. M. Bakhtin nói đến “kí ức thể loại” như là “cái khuôn mẫu rắn chắc nhất

định đã đúc kết kinh nghiệm nghệ thuật”, lưu cữu, tiếp nối, truyền từ đời này sang đời
khác. Như vậy, mặc dù có sự chồng chéo, phức tạp trong quan niệm về thể loại thơ
nhưng chúng ta hồn tồn có thể gạn đục khơi trong để tìm thấy những yếu tố chung,
đồng nhất hình thành nên thể loại. Từ đó, thiết nghĩ góp phần quan trọng vào công
việc nặng nhọc mà vinh quang – sáng tạo thơ và nghiên cứu thơ.
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng thể loại là một phạm trù mang tính hình
thức. Đây có lẽ là thuật ngữ mà chúng ta du nhập từ văn học Trung Quốc. B.L.Riftin
đã chứng minh được: “Bản thân khái niệm “thể loại” trong khoa nghiên cứu văn học
Trung Quốc đương đại được truyền đạt qua từ “thể tài”, trong đó “thể” nghĩa đen là
“thân thể”, “hình thức”. Cùng với từ này người ta dùng các thuật ngữ khác như “văn
thể”, theo nghĩa đen là “thân thể văn học”, “hình thức văn học”. Những khái niệm này


mới chỉ xuất hiện trong thế kỉ XX, nhưng bảo lưu trong chúng thành tố “thể”, tức là
“thân thể”, vốn đã được sử dụng theo nghĩa đó từ thời viễn cổ”[5, 24]. Theo nghiên
cứu của nhà khoa học thì: Trong một chứng tích văn tự đầu tiên của người Trung
Quốc – Kinh sử (Thượng Thư hay là Thư Kinh) ta gặp câu : “Từ thiện thể thuộc” (Lời
tuyệt đẹp mà thể lệ thuộc). Từ cái nôi của nền văn minh phương Đông – Trung Hoa
ấy, thể, loại hay thể loại đã du nhập vào nền văn học Việt Nam và đến nay đã trở thành
một thuật ngữ quen thuộc trong khoa sáng tác và nghiên cứu văn học. Theo Từ điển
tiếng Việt của trung tâm từ điển học, xuất bản năm 1998 thì : Thể là “hình thức sáng
tác thơ văn”[87, 900], loại là “tập hợp người hoặc vật có chung những đặc trưng nào
đó, phân biệt với những người khác, vật khác”[87, 553]; cịn thể loại là “hình thức
sáng tác văn học nghệ thuật, phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng
ngơn ngữ”[87, 900]. Mang tính chất chuyên ngành hơn, trong cuốn Từ điển thuật ngữ
văn học, thể loại được khẳng định là “dạng thức của tác phẩm văn học, được hình
thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện
tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các
hiện tượng đời sống ấy” [24, 252-253]. “Lý luận văn học dựa vào các yếu tố ổn định

mà chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể ( hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng
hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì tác phẩm nào cũng thuộc loại nhất định và quan
trọng hơn là có một hình thức thể nào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự
sự, trữ tình, và kịch. Mỗi loại trên bao gồm một số thể. Ví dụ: Loại tự sự có: tiểu
thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, anh hùng ca, ngụ ngơn...Loại kịch có: bi kịch, hài
kịch, chính kịch... Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Cùng một loại
nhưng các thể khác nhau rất sâu sắc. Ngồi đặc trưng của loại, các thể cịn phân biệt
nhau bởi hình thức lời văn, dung lượng, loại nội dung cảm hứng”[24, 253]. Sáng tạo
nghệ thuật, có thể nói, tức là sáng tạo hình thức nghệ thuật. Nhiều nhà nghiên cứu lý
luận văn học và mỹ học cho rằng chính sự phát hiện những hình thức của tự nhiên
mang tính quy luật, trật tự (như nhịp điệu, sự đối xứng, sự trùng điệp, sự thống nhất,
sự biến hố...) có những nét “đối ứng đồng cấu”(chữ dùng của Lý Trạch Hậu) với tâm
lý, tình cảm của con người là cội nguồn của mỹ cảm. Chính vì vậy việc sáng tạo hình
thức thể loại là một trong những yếu tố khẳng định sự phát triển của mỗi thời kì văn
học cũng là minh chứng cho sự tồn tại của cái đẹp như một quy luật tự nhiên.
D. Likhasôp đã khẳng định rằng: “Thể loại là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất
hiện vào một giai đoạn nhất định của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế”[24,
254]. Như vậy, thể loại một mặt mang tính ổn định, bền vững nhưng mặt khác nó cũng
ln vận động, biến đổi. Có thể nói mỗi một giai đoạn, một trào lưu văn học đều gắn
liền với sự phát triển, lên ngôi thậm chí hình thành nên một thể loại nhất định. Khơng
có một nền văn học nào, một giai đoạn văn học nào được coi là phát triển mà lại đơn
điệu, nghèo nàn về thể loại. Ngồi ra, thể loại cịn mang tính lịch sử và dân tộc, tính kế
thừa và sáng tạo. Dấu ấn lịch sử bao giờ cũng in đậm nét trên chân dung mỗi thể loại.
Chẳng thế mà Bakhtin đã khẳng định: “Thể loại vừa rất cổ sơ nhưng ln ln mới
mẻ. Nó vừa muốn qn mình là ai đi nhưng luôn nhắc nhở những người khác nhớ về
gốc gác của nó”. Có những thể loại chỉ tồn tại ở một giai đoạn nhất định trong lịch sử
và “một đi khơng trở lại bao giờ”. Ví như nền nghệ thuật cổ đại Hy Lạp mặc dù rất


huy hồng nhưng nó chỉ gắn liền với thời đại chưa có bàn in và máy in. Hình tượng

Asin khơng thể tồn tại trong thời đại có thuốc súng và đạn chì. Nhân loại khơng có một
cơ hội thứ hai như trước”(K. Marx). Trong quá trình phát triển, mỗi một dân tộc lại có
những thể loại tiêu biểu phù hợp với ngơn ngữ, văn hố của dân tộc đó. Người ta biết
đến thơ Haikư của Nhật Bản, tiểu thuyết chương hồi và thơ Đường của Trung Quốc
cũng như thể lục bát và song thất lục bát ở Việt Nam. Những thể loại này tạo nên nét
đặc sắc, góp phần gìn giữ hồn thiêng dân tộc của mỗi quốc gia đồng thời cũng tạo nên
những giá trị truyền từ đời này qua đời khác. Mỗi một thể loại ấy trong quá trình phát
triển lại khơng ngừng vận động để tự hồn thiện chính mình. Vì vậy, thể loại có sự kế
thừa truyền thống q khứ đồng thời cũng ln tìm đến con đường của sự sáng tạo
không mệt mỏi. Và cũng chính trên con đường sáng tạo ấy, mỗi thể loại cũng không
ngừng tiếp thu, ảnh hưởng những ưu điềm nổi trội của các thể loại khác tạo nên tính
chất giao thoa. Ranh giới giữa các thể loại vì vậy đơi khi chỉ mang tính chất tương đối.
Chúng ta đã khá quen thuộc với những thể loại mang tính cầu nối ngay từ trong tên gọi
như: thơ văn xuôi, kịch thơ, tiểu thuyết phóng sự...
Thể loại vốn động, khơng nhất thành bất biến. Sự vận động của thể loại cho thấy
sự vận động trong tư duy nghệ thuật, sự thay đổi của quan niệm và đối tượng thẩm mỹ,
thị hiếu thẩm mỹ của mỗi thời kì. Mặc dù các ý kiến về thể loại văn học cho đến nay
vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng đó là
một phạm trù mang tính hình thức, là dạng thức tồn tại của chỉnh thể tác phẩm văn
học; nó mang trong mình những đặc tính như: Tính ổn định bền vững, tính vận động
phát triển, tính lịch sử dân tộc, tính kế thừa sáng tạo, tính giao thoa...Tất cả những điều
đó khiến cho thể loại cho đến nay vẫn luôn là vấn đề cần phải được quan tâm nghiên
cứu một cách thỏa đáng.
1.2. KHÁI NIỆM THƠ TỰ DO
1.2.1. Hiểu thế nào về khái niệm tự do
Nhà thơ - danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có được, dù cho “bản chất
của con người là nghệ sĩ” (M.Gorki), dù cho mỗi người trong chúng ta đều có một nhà
thơ trong tâm hồn mình. Thơ ca, từ lâu loại hình nghệ thuật này đã gắn liền với đời
sống mỗi con người Việt Nam. Không cần phải trở thành nhà thơ - danh hiệu cao quý
như ai kia vẫn hằng mong ước, chân thật và giản dị mỗi người Việt Nam đều đến với

thơ bằng những gì hồn hậu và tự nhiên nhất. Muôn đời thơ ca vẫn đi cùng chúng ta
như một người bạn trung thành và tin cậy nhất. Nhưng đi tìm một định nghĩa cho thơ
thật khó biết chừng nào! Chẳng thế mà Blaga Đimitrôva trong Ngày phán xử cuối
cùng đã không ngần ngại thốt lên rằng: “Ơi, nếu tơi biết thơ là gì thì cả đời tơi, tơi
chẳng đau khổ thế này”. Và mặc dù như vậy, con người vẫn khơng ngừng tìm đến với
thơ ca, sống trong dòng chảy ngọt ngào của nó để tâm hồn được “thanh lọc” (Arixtơt)
và trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn.
Chức năng cao cả đó của thơ là khơng thể phủ nhận. Vì thế thơ ca sẽ mãi mãi còn
tồn tại chỉ trừ khi trái tim con người khơng cịn biết rung động, u thương. Và làm
thơ trở thành công việc cao quý. Thế nhưng nó cũng khó khăn, vất vả và gian lao biết
bao.
Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm rađiom


Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ
( Maikôpxki)
Sáng tác thơ đã khó như vậy thì việc lựa chọn một hình thức phù hợp để biểu hiện
ý thơ, tứ thơ cũng khơng phải là cơng việc dễ dàng. Hình thức thơ ở đây khơng chỉ có
ngơn ngữ, hình ảnh mà còn cả thể thơ nữa. Trong sáng tác thi ca, thể thơ hình thành
khơng phải như một “ sự chọn lọc tự nhiên”, mà là sự vận động của các quan hệ nội tại
trong những cấu trúc ngôn ngữ dưới sự điều khiển của tâm thức văn hố mang tính
riêng biệt của mỗi một dân tộc. Thêm vào đó, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử lại
thường lựa chọn sử dụng những thể loại thích hợp mà ở đấy chúng ta có thể thấy được
sự vận động trong tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Sự vận động này thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau như: Quan niệm về mối liên hệ giữa thơ và cuộc sống, thái độ của
nhà thơ với cuộc đời, tư thế bộc lộ cảm xúc của nhà thơ... Như vậy, thể thơ khơng phải
là một phạm trù thuần t hình thức mà bản thân nó hàm ẩn ý nghĩa của nội dung.
Thực tế cho thấy, các sáng tác thơ ca không phải bao giờ cũng theo một thể thức

như nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng không tuyệt đối trung thành với một hình
thức biểu hiện nhất định. Trái lại, tùy theo xu hướng thẩm mỹ hoặc nhu cầu biểu đạt nội
dung mà có thể lựa chọn những thể thức khác nhau, chặt chẽ hoặc khơng chặt chẽ.
Chặt chẽ có nghĩa là ở đó mọi yếu tố tạo nên thể thơ đều được thể hiện theo quy tắc và
luật lệ ổn định trở thành khn khổ, thể thức hằng thường. Cịn không chặt chẽ tức là
được tự do trong việc lựa chọn từ ngữ cũng như vần điệu phụ thuộc vào từng người
sáng tác. Các thể thức tuân theo những quy tắc và luật lệ bắt buộc được gọi là các thể
thơ cách luật. Cịn các thể thức khơng tn theo những quy tắc tổ chức ngôn từ thơ ca
cố định, lặp đi lặp lại trong các tác phẩm xưa nay vẫn được gọi bằng một cái tên giản
dị như chính bản thân nó: Thơ tự do. Như vậy, thơ tự do thường được đặt trong thế đối
sánh với thơ cách luật để làm nổi bật đặc trưng, bản chất của nó về vần thơ, nhịp thơ,
số chữ, số câu trong một bài thơ.
Đây là ví dụ về một bài thơ tự do:
Em hẹn tối nay không trở lại
Để trời đổ mưa khắp thành phố tìm em
Mưa thắp nghìn ngọn nến giữa trời đêm
Mưa xum xuê nỗi lòng anh buồn nhớ
Mưa đập choang choang mọi cửa ô thành phố
Mưa thét gào mưa gọi em em
(...) Chưa hết đêm
Chưa gặp em
Cơn mưa xuyên bóng tối
Vầng mặt trời chết đứng trong nỗi khát cơn mưa
Đến bao giờ
Biết đến bao giờ
Em gặp lại giọt nước mưa đầu tiên mà đám mây đánh mất
Em trở lại thì cơn mưa đã chết
Em
Có thể làm vỡ ra cơn mưa từ những sợi đá kia?
(Gửi em trong cơn mưa – Nguyễn Trọng Tạo)



Dấu hiệu hình thức đầu tiên là bài thơ khơng theo một khn khổ cố định nào. Đơn
vị dịng thơ không tương ứng với một đơn vị cú pháp, mà có khi bốn, thậm chí sáu
dịng mới thành một câu thơ. Các dòng thơ 10, 12, 13 chữ xen kẽ những dịng thơ 3, 4,
5, thậm chí 1 chữ. Vần gieo tự do, linh hoạt. Bài thơ không dùng lối độc vận như trong
thể thất ngơn bát cú, có những đoạn thơ khơng vần, có khi lại gieo vần chân liên tiếp
(em - đêm, nhớ – phố). Rõ ràng vần khơng cịn là một tiêu chuẩn, một ngun tắc trong
thơ mà chỉ còn là một phương tiện, một yếu tố cho câu thơ giữ được nhịp điệu, ở đây
chủ yếu là nhịp lòng, nhịp tâm trạng, cảm xúc của tac giả: Nỗi nhớ mong, đợi chờ lúc
cuộn trào dồn dập, lúc khắc khoải, nén đọng và cuối cùng vỡ oà ra trong tiếng gọi :
“Em/ Có thể làm vỡ ra cơn mưa từ những sợi đá kia?”.
Thơ tự do có ưu điểm rõ rệt là gần tiếng nói bình thường, có khả năng thể hiện
những nhạc điệu độc đáo, mở ra những tìm tịi, thí nghiệm vơ hạn của người làm thơ.
Tuy nhiên, đã tồn tại như một thể loại, thơ tự do buộc phải tuân theo quy ước nghiêm
ngặt của thể loại mình. Xn Diệu nói có lý về nguyên tắc của thơ tự do: “ Tự do là
mình đặt kỉ luật cho mình, một kỉ luật linh động, tuỳ theo mỗi trường hợp nhưng ln
ln có kỉ luật. Muốn ca, muốn hát mà chẳng theo tiết tấu nhịp nhàng thì ai nghe? Làm
thơ tự do tức là mỗi đề tài lại tự tạo ra một nhạc điệu riêng cho thích hợp, cái điệu ấy
khơng được phiêu lưu mà phải cần thiết. Phải cao tay lắm mới sai khiến được thơ tự
do. Tự do khơng có nghĩa là muốn làm gì thì làm”[55]. Nguyễn Đình Thi cũng phát
biểu: “Khi gạt luật bên ngồi đi, phải có luật bên trong rất mạnh”. “Luật bên trong” ở
đây là những cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng làm nền tảng, cần giữ nhịp điệu, bước đi
cho cả bài thơ.
Thơ tự do có lợi thế cho người viết khơi nguồn, bộc lộ cảm xúc mạnh, nhưng
cảm xúc triền miên, xô bồ quá sẽ dẫn đến sự lan man, dàn trải. “Người làm thơ đâm ra
nói nhiều mà người đọc cảm thấy mơng lung, rất khó nắm bắt. Vậy, ngồi cảm xúc
trào tn ra, người làm thơ phải biết tiết chế cảm xúc của mình, giống như người cưỡi
ngựa giỏi, phải vượt qua những cánh đồng, đỉnh núi để về nơi mình cần đến. Nếu để
lỏng dây cương, con ngựa bất kham kia sẽ phi nhanh mà không biết điểm dừng...”[51].

Nguyễn Xuân Nam cũng đồng ý kiến: “Ta thường thấy những người làm thơ tự do
thành cơng chính là những người rất am hiểu thơ luật, có khiếu thẩm mỹ tốt, biết tự
kiềm chế”.
Như vậy, muốn phát triển tốt, thơ tự do cũng phải chú ý đầy đủ đến nghệ thuật
luyện chữ, luyện câu, nghệ thuật cấu tứ, đến truyền thống thơ Việt. Cần phải nhắc lại
lời của nhà thơ Xuân Diệu : “Tự do khơng có nghĩa là muốn làm gì thì làm”
1.2.2. Một vài đặc điểm của thơ tự do
Trong cuốn Từ điển văn học ( bộ mới) của nhà xuất bản Thế Giới 2004, các tác
giả đã định nghĩa về thơ tự do: “ Một trong ba hình thức cơ bản xét về phương diện tổ
chức ngôn ngữ (thơ cách luật, thơ tự do, thơ văn xuôi), thơ tự do không bị ràng buộc
vào những quy tắc định trước nào như thơ cách luật về số dòng, số chữ, niêm, đối,
vần... Mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra từng khổ. Số dịng trong khổ khơng nhất
định. Số chữ trong từng dịng có thể nhiều ít khác nhau. Cách gieo vần cũng rất linh
hoạt, khơng nhất thiết dịng nào cũng phải hiệp vần. Nói chung, thơ tự do là thơ phân
dịng nhưng khơng theo một thể thức nhất định”[88, 1692]. Cịn trong cuốn Thơ ca
Việt Nam – hình thức và thể loại, các tác giả Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên cho


rằng: “ Thơ tự do khơng phải là một hình thức ổn định, một cấu trúc cách luật của thi
ca. Thực ra thì trong tiến trình phát triển của các thể thơ, hướng vận động tất yếu của
hình thức thơ sẽ dẫn đến thơ tự do, một cấu trúc thơ xố bỏ hết mọi sự ràng buộc bên
ngồi về số câu trong bài, số chữ trong câu rồi hiệp vần, chỉ cịn một ngun tắc là
phải có chất nhạc, hài hồ gợi cảm về ngơn từ và nằm trong quỹ đạo của thơ ca”[56,
123-124].
Như vậy, các nhà nghiên cứu mặc dù diễn đạt theo những cách thức khác nhau
nhưng đều thống nhất ở việc chỉ ra những đặc điểm tiêu biểu nhằm nhận diện thể thơ tự
do:
- Số chữ trong một câu thơ khơng hạn định, có thể từ một chữ đến mười chữ hay nhiều
hơn tuỳ theo mạch cảm xúc cũng như dụng ý của nhà thơ.
- Số câu thơ trong một khổ thơ cũng khơng hạn định, có trường hợp khổ thơ chỉ gồm có một

câu, nhưng cũng có khi gồm nhiều câu (ở các thể thơ khác, thơng thường một khổ thơ gồm có
4 câu)
- Cách thức gieo vần cũng rất linh động, tự do, có khi người viết không chú ý đến vần
mà chỉ chú ý đến nhịp điệu của bài thơ.
Có thể khẳng định rằng thơ tự do đúng như tên gọi của nó là một hình thức thơ tự
do, thoải mái nhất trong các hình thức thơ. Chính vì thế mà mỗi bài thơ tự do có một
cấu trúc riêng về hình thức và cũng không giống với những bài thơ tự do khác. Đến
với thể thơ tự do, người nghệ sĩ không chỉ phản ánh được mọi vấn đề của đời sống
phong phú, bề bộn, sơi động mà cịn có điều kiện để sáng tạo ra các hình thức của
riêng mình. Do đó mà thơ tự do rất phong phú về cấu trúc hình thức bài thơ. Có bài thơ
gồm nhiều khổ nhưng số lượng câu thơ trong mỗi khổ lại không giống nhau, cũng như
số lượng chữ trong một câu thơ cũng rất khác nhau:
Thơ ơi thơ sẽ hát ca gì
Tơi muốn dắt thơ đi
Tôi muốn cùng thơ bay
Mùa xuân này
Đến tận cùng đất nước
Ơi! Mùa xn bốn nghìn năm mơ ước
Hơn nửa đời đi tôi đã biết đâu
Tổ quốc tôi rất đẹp, rất giàu
Đẹp từ mái tóc xanh đầu nguồn Pác Bó
Đẹp đến gót chân hồng đất mũi Cà Mau
...
Ngút mắt trông
Biển lúa mênh mông
Sông nước Cửu Long dào dạt
Dừa nghiêng bóng mát
Thơm ngọt, xồi ngon
Tươi rói đất son
Rừng cao su xanh non thẳng tắp

Bắp mẩy, mía giịn
Bát ngát Tây Ngun vẫy gọi
Nào trai tài gái giỏi
Lại đây!


Khai phá, dựng xây
Trên trận địa năm xưa, rạch những đường cày mới...
( Với Đảng mùa xuân – Tố Hữu)
Cũng có những bài thơ khơng chia khổ:
Làm bà mẹ ở Việt Nam thực chẳng dễ dàng
Đâu dạy con hái hoa, đâu dạy chúng xuống hầm
Ai dạy cho con hòa âm của chim và của nhạc
Ta phải dạy cho chúng phân biệt tiếng những B, những AD và những F rít gầm
Hỡi Đức Bà!
Suốt một nghìn chín trăm sáu mươi sáu năm. Bà luôn được bế con
Bà biết chăng các bà mẹ Việt Nam hàng tháng héo hon
Bởi phải ngủ xa con mình đi sơ tán
Có những thời chỉ cần dạy sao cho con mình nên người
Có những thời phải làm thêm tý nữa
Dạy cho chúng trở nên anh hùng, đấy là việc làm của bà mẹ quê tôi
( Làm bà mẹ ở Việt Nam – Chế Lan Viên)
Lại có một số bài thơ gây ấn tượng với thị giác của người đọc bằng hình dáng đặc
biệt:
Em là con gái đồng xanh
tóc dài
vương hoa lúa
Đơi mắt em mang
chân trời q cũ
giếng ngọt

cây đa
Anh khát tình quê ta
trong mắt em
thăm thẳm
Nhạc quê hương
say đắm
trong lời em
từng lời
càng sâu!
(Hoa lúa – Hữu Loan)
Với những đặc điểm như vậy, thơ tự do mang trong mình một khả năng biểu hiện
rất lớn. Thơ tự do có thể đề cập đến mọi vấn đề của đời sống, mọi trạng thái cảm xúc
của tâm hồn. Hơn thế, thơ tự do còn cho phép người nghệ sĩ bay bổng với trường liên
tưởng của tương lai hay dòng hồi ức của quá khứ. Nói tóm lại theo bước chân của thơ tự
do, người nghệ sĩ ngơn từ có thể diễn đạt mọi trạng thái tình cảm thậm chí đối lập, mâu
thuẫn nhau cũng như có thể tổng hợp đa dạng hiện thực trong một chỉnh thể bài thơ.
Cho đến nay thơ tự do đang ngày càng phát triển và trở thành một xu hướng quan
trọng, không thể thay thế trong thơ ca Việt Nam. Nó tạo nên những sắc thái biểu hiện
mới cho thơ, góp phần vào q trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
1.2.3. Phân biệt thơ tự do và thơ văn xuôi
Thơ văn xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc câu giống văn xi, câu nọ tiếp câu
kia khơng xuống dịng, gần như khơng vần, nhịp điệu khơng mang đầy đủ tính chất cố
định, mạch câu chảy tràn không chịu ràng buộc theo niêm luật nào, là sự dãn ra của
các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm xúc. Phân biệt giữa thơ tự do và thơ


văn xuôi, Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng thơ văn xuôi khác thơ tự do ở chỗ không
phân dịng, khơng dùng hình thức dịng thơ làm đơn vị nhịp điệu. Theo đó, tiêu chí
quan trọng nhất để phân định thơ tự do và thơ văn xuôi là tiêu chí có hay khơng có sự
phân dịng. Ở thơ tự do, dòng thơ là đơn vị cấu thành nhịp điệu (dù câu thơ có thể kéo

dài mấy chục âm tiết), cịn thơ văn xi, đơn vị đó là đoạn thơ, gồm nhiều dịng thơ hợp
lại.
Tuy nhiên, tiêu chí trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì trong thực tế, có nhiều bài thơ
mà đơn vị cấu tạo nhịp điệu là dịng thơ lại được xếp vào thơ văn xi. Đây là ý kiến
của Lưu Khánh Thơ: “Thời kì thơ Mới 1932 – 1945 có một số bài thơ văn xi như :
“Tình già” (Phan Khơi), “Giọt sương hoa” (Phạm Văn Hạnh), “Giọt mưa rơi”, “Thanh
khí” (Nguyễn Xuân Sanh)... Ngay từ đầu thời kì kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện
những bài thơ văn xi như bài “Đêm mít tinh” của Nguyễn Đình Thi, “Nhớ” của
Hồng Nguyên, “Nhớ máu” của Trần Mai Ninh. Đặc biệt là có cuộc tranh luận về thơ
không vần (một cách gọi khác của thơ văn xuôi) của Nguyễn Đình Thi”. Những
trường hợp khác như thơ của W.Whitman (Tập Lá cỏ), thơ của Chế Lan Viên (Cành
phong lan bể, nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...). Có người xếp vào thể loại thơ tự do
nhưng cũng có ý kiến cho rằng đó là thơ văn xi. Như vậy phải chăng ngồi tiêu chí
dịng thơ cịn có tiêu chí nào khác phân định giữa thơ tự do và thơ văn xi. Hữu Đạt
có lý khi ơng cho rằng cách tổ chức câu của thơ văn xuôi giống với cách tổ chức câu
trong văn xi, có nhiều lớp lang, có sự trùng điệp về cấu trúc, sử dụng nhiều thành
phần mở rộng, thành phần liên kết.
Theo chúng tôi nghĩ, dù căn cứ và tiêu chí này hay tiêu chí khác thì cũng khơng
nên dựa vào đó để phân định một ranh giới tuyệt đối giữa thơ tự do và thơ văn xi. Vì
“thơ văn xi là đỉnh phát triển cao nhất của thơ tự do” (Hữu Đạt).
Nếu hiểu thơ tự do như là một thể thơ cởi bỏ mọi ràng buộc về vần luật thì thơ văn
xi chính là thể thơ “văng ra xa nhất” khỏi những quy phạm đó. Vì vậy, phải thừa
nhận giữa thơ tự do và thơ văn xi có những điểm giao thoa nhất định và chúng ta
cũng không nên quá cứng nhắc khi “xếp chỗ” cho hai thể thơ này.
Trong khn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đi sâu khảo sát trường hợp thơ tự
do. Trong thế đối sánh với thơ văn xi, thơ tự do vẫn có những khn khổ nhất định. Vì vậy
trong trường hợp này thiết nghĩ nội hàm của hai chữ “tự do” chỉ mang tính chất tương đối.

1.3 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THƠ TỰ DO
1.3.1. Thơ tự do ở phương Đông

Ngay từ thời Hán, Ngụy, Tề, Lương ở Trung Quốc đã xuất hiện một lối thơ gọi
là thơ Cổ thể, phân biệt với thơ Cận thể sau này. “Theo Cổ thể, câu thơ đặt xuôi,
không đối nhau, theo thơ “luật” câu thơ phải đối nhau”. Thơ Cổ thể Trung Quốckhông
hạn định số câu, số chữ trong bài thơ. Câu thơ thường có 5 chữ, 7 chữ, nhưng cũng có
khi câu dài, câu ngắn khơng đều, vì theo quan niệm của các nhà thơ Cổ thể “thể thơ
này không quy định niêm luật và cũng khơng u cầu đối ngẫu”. Tóm lại, đó là một lối
thơ tương đối tự do, cho người viết có thể bng phóng tình cảm, ý chí, hồi bão của
mình.


Đến đời Đường, luật thơ trở nên nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn. Thẩm Ước (441 –
513) là người đầu tiên đăt ra âm nhạc, vần điệu tromg thơ ca. Trong “Bàn về truyện Tạ
Linh Vận” (Tống thư), ơng nói : “ Năm màu ánh nhau, tám âm hoà nhau, từ màu sắc
âm thanh đó, vạn vật thích nghi với nhau. Bản đàn muốn thánh thót thì âm cao, âm
thấp phải tiết chế lẫn nhau. Nếu âm trên nổi thì âm sau tất phải cho thật kêu. Trong
một đoạn, âm vận rất khác nhau. Trong hai câu nặng, nhẹ cũng chẳng giống”. Lý luận
này có tác dụng đặt cơ sở cho thơ Trung Quốc từ Cổ thể tương đối tự do quá độ sang
thơ Cận thể mang tính chất cách luật. Từ đây trở đi nền thơ cổ điển Trung Quốc bị gị
bó trong một khn khổ hết sức chặt chẽ, mỗi câu mỗi chữ bất di bất dịch. Nhưng
ngay trong cái nơi của sự khổ luyện gị chữ, gọt câu đó, đã xuất hiện quan niệm về một
thứ thơ tự do, phóng khống, chảy theo “tính tình”, thơ “tính linh” khơng theo hình
thức, luật lệ thơng thường. Viên Mai (1716 – 1797) là nhà thơ đồng thời cũng là nhà lý
luận phê bình nổi tiếng đời Thanh của Trung Quốc viết: “Tơi làm thơ vốn khơng thích
dùng điệp vần, họa vần hoặc dùng vần của người xưa, vì cho rằng làm thơ cốt tả tính
tình, thích như thế nào thì làm như vậy, trong một vần có trăm ngàn chữ mặc cho ý
mình chọn dùng, thế mà lúc dùng xong rồi cịn khơng vừa ý phải thay đổi lại, thì sao
lại được gị bó mà dùng trong một vài vần, đã gị bó thì khơng thể khơng nhồi nhét, thì
đâu cịn là tình nữa? Trang Tử có câu: “Vong túc lí chí thích dã” (Giày vừa qn
chân), tơi cũng nói : “thơ vừa quên vần”. Trong quan niệm của Viên Mai, có tình mới
thành thơ, cịn hình thức, vần điệu tự nó khơng thành thơ được. Trong Tuỳ viên thi

thoại, Viên Mai cho cái gốc của thơ ca là ở chỗ miêu tả cảnh ngộ tính tình và linh cảm
cá nhân:
Chịu khó tìm thơ sẽ có thơ
Tâm linh điểm ấy chính thầy ta
Phê phán lối thơ học vấn của ơng Phương Cương, ơng cho là “nhồi sách nhét
điển, tử khí đầy cả trang giấy, thế mà vẫn khoe là sâu rộng”. Đối với thuyết “cách
điệu” của Thẩm Đức Tiềm, ông viết : “Thơ há có cách cố định hay sao? Cách của
Quốc Phong khác với Nhã Tụng, lời ca của Cao Vũ khác với “ba trăm bài”, thơ của
Hán Ngụy Lục triều khác với thơ tam Đường, kẻ đề ra cách sẽ theo cách nào?”; “ngựa
gỗ, rồng đất, đều có thể cách, sao chết cứng không dùng được thể?”. “Thơ có thể cách
mà khơng có hứng thú là con trâu đất vậy”, “phải có tính tình trước rồi cách luật sau, cách
luật khơng ở ngồi tính tình. “Ba trăm bài” quá nửa là của người lao động, của người vợ
nhớ thương, tự nhiên nói lên sự tình của mình. Ai làm cách cho? Ai làm luật cho?”[49].
Đời Minh có văn phái mệnh danh là “Đường Tống”, chuyên tôn sùng thơ văn
Đường Tống. Viên Mai nói: “Thơ khơng có cái gọi là Đường, Tống. Đường, Tống chỉ là
quốc hiệu của một thời, khơng liên quan gì đến thơ. Thơ là tính tình của mỗi người, khơng
liên quan gì với Đường, Tống. Nếu ai khư khư giữ lấy thì lịng anh chỉ mang cái quốc
hiệu đã mất, chứ khơng có được tính tình, do đó cũng mất đi cái hướng gốc của thơ
ca”[49].
Thuyết tính tình của Viên Mai chủ trương lấy tình làm gốc, phê phán mọi thứ
cách luật, khuôn khổ, sáo rỗng khiến tình khơng được “chân thực”. Nếu tính tình cần
chân thực thì cũng phải được biểu hiện một cách linh hoạt, khơng thể cứng đờ trên
trang giấy. Có thể nói, đó là một quan niệm tiến bộ về thơ ca đương thời, đề cao một
lối thơ tự do cốt để biểu hiện một cách thành thực nhất tâm tính của mỗi người.


Tư Khơng Đồ, một nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng ở Trung Quốc sau này đã
tiếp nối và phát triển quan niệm thơ của Viên Mai. Với Thi phẩm, ông cho rằng thơ ca
là sự mở đầu cho việc diễn đạt nội tâm và trạng thái tinh thần. Hai câu thơ đầu tiên:
Đại dụng ngoại bài

Chẩn thể nội sung
có nghĩa : Khi nhà thơ trong tinh thần tràn đầy sung mãn và hướng ra bên ngồi, thì
chí khí hùng hồn sẽ có ảnh hưởng sang người đọc.
Tư Khơng Đồ cho rằng nguồn của thơ ca là bản thân nhà thơ và thơ ca là sự thoát
tràn ra của tư tưởng hay cảm xúc của nhà thơ. Sẽ khơng có thơ hay nếu khơng có tình
cảm và tư tưởng , cịn hình thức thơ khơng quan trọng, khơng cần phải có “kĩ xảo” mới
thành thơ. Giáo sư M. Abram nghiên cứu về thơ ca cổ điển của Trung Quốc cũng cho
rằng : “Công việc nghệ thuật chủ yếu là thể hiện những cái thuộc về nội tâm ra ngoài...”.
Tiêu chuẩn của một bài thơ “nó có chân thực khơng? Nó có ngun sơ khơng? Nó có
bắt kịp với ý định, cảm giác và trạng thái của đầu óc nhà thơ trong lúc sáng tác không?”.
Lý thuyết trên chủ yếu “ diễn tả cảm xúc của cá nhân” khi làm thơ. Lý thuyết cá nhân
của thơ ca nói đến “cảm xúc tự nhiên, thanh thốt, khơng gị bó” và “thành thực”, hơn là
“kỹ thuật, hay học thuộc lòng, hoặc là bắt chước” (Nghệ thuật của thơ cổ điển Trung
Quốc)
Như vậy, cả các nhà sáng tác thơ ca lẫn lý luận phê bình ở Trung Quốc trong
nhiều thế kỉ đều chủ trương một lối thơ tự do về hình thức, khơng q câu nệ vào vần
luật, cốt để diễn tả những cảm xúc và tính tình bên trong cá nhân. Đó mới là căn cốt của
thơ ca.
Nhà thơ Ấn Độ R.D. Tagor (1861 – 1941) trong suốt cả cuộc đời làm thơ của
mình đã nghiệm ra: “Thơ đâu phải viết ra chỉ để cắt nghĩa một điều gì đó. Khi tình
cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngồi, chúng ta có thơ”. Cái “hình
thức” ấy, khơng thể có trước mà phải do nội dung, do tình cảm quyết định. Khơng một
quy cách nào có sẵn có thể khn vào đấy những ý tình dạt dào của cảm xúc, của tư
tuởng. “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì được
hoàn thiện từ bên trong”. Nhịp bên trong của thơ chính là nhịp của tâm hồn, xúc cảm,
tự nó sẽ quy định hình thức thơ. Sau này, ta sẽ cịn bắt gặp rất nhiều những ý kiến về
thơ tương tự như của Tagor, tơn vinh một thể thơ nặng tình hơn là nặng về hình thức,
diễn đạt thoải mái, linh hoạt những tâm tình cá nhân.
1.3.2. Thơ tự do ở phương Tây
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì thơ tự do đã xuất hiện ở châu Âu từ rất

lâu. Vào khoảng thế kỉ thứ XVI, thơ tự do xuất hiện trong ngơn ngữ nhân vật kịch với
vai trị của Mác – lô ( 1564- 1593) và đặc biệt sau đó là Uyliam Sêxpia (1564 -1616) –
người được coi là “ thiên nga sông Êvơn”, là “người vung ngọn dáo” làm “ náo động
kịch trường” ở Anh thời kì Phục Hưng. Với thể thơ tự do, lời thoại của nhân vật trong
kịch trở nên phóng túng, thoải mái, nhân vật có thể bộc lộ mọi trạng thái cảm xúc: yêu
thương, thù hận đến giận dữ, chua xót, đắng cay... Ngay trong lời giáo đầu của vở bi
kịch Rômêô và Juliet, ta đã bắt gặp thể thơ này:
Ngày xưa, ở thành Vêrơna tươi đẹp
Có hai nhà thuộc dịng thế phiệt trâm anh


Mối thù xưa bỗng gây cảnh bất bình
Máu lương thiện khiến tay người lành nhuộm đỏ
Số phận éo le, thâm thù hai họ
Lại khéo xui sinh hạ đơi tình nhân
Mối tình si thê thảm mn phần
Chơn câu hận, chỉ cịn đành một thác
Tình lứa đơi thảm thương tan nát
Trên xác con cha mẹ mới quên thù
Chuyện thương tâm trình diễn đôi giờ
Xin quý vị rán xem và chiếu cố
Sức mọn, tài hèn, chúng tơi xin gắng trổ
Cũng có khi thể thơ xuất hiện cuối vở kịch như một lời nhận định, bày tỏ thái độ
của người nghệ sĩ:
Xin bốn vị tướng quân
Hãy khiêng Hamlet như khiêng một người chiến sĩ
Đặt lên long sàng
Bởi chưng nếu lên ngơi trị vì
Người ắt chứng tỏ là một đấng quân vương cao quý nhất
Khi rước người đi

Nhạc binh và nghi thức dành cho người chiến sĩ
Sẽ tấu lên vì người khúc tráng sĩ ca
( Đoạn kết Hamlet)
Nếu như ở Anh, thơ tự do xuất hiện sớm vào thế kỉ XVI nhưng sự xuất hiện của
nó có thể coi là gián tiếp thơng qua thể loại kịch. Thì ở Đức, đến thế kỉ XVIII, với vai
trị của ngơi sao sáng trong nền vă học Đức – J.W.Gơt (1749 – 1832), thơ tự do đã
xuất hiện và tồn tại như một thể loại độc lập. Tuy rằng nói đến Gơt, ta thường nghĩ
ngay đến tác giả của tiểu thuyết Vecte hay vở kịch Fauxt; nhưng trước tất cả, Gơt là
một nhà thơ lớn. Chẳng thế mà ông được đánh giá: “ Riêng về thơ trữ tình thì cho đến
nay Gơt vẫn chiếm địa vị độc tơn trong văn học Đức và là một trong những nhà thơ vĩ
đại nhất của nhân loại”[59, 379]. Thể thơ tự do đã được thi hào này sử dụng không chỉ
để bày tỏ khát vọng tình yêu của một trái tim yêu đời, yêu người tha thiết mà còn để
phản ánh ý chí quật cường của một thanh niên tham gia phong trào Bão táp và xung
kích.
Đây là lời của Prơmêtê:
Ta ngồi đây cấu tạo con người
Theo hình ảnh của ta
Một lồi người cũng như ta
Biết khóc than đau khổ
Biết vui mừng hưởng thụ
Và biết khơng kính trọng mi
Như ta vậy
( Prômêtê)
Hoặc:
Với thần thánh
Không người nào
Đọ sức được
Nếu ai cố rướn lên
Đầu chạm các vì sao
Chân chới với



Mất nơi bấu víu
(Những giới hạn của nhân loại)
Sang đến thế kỉ XX, các nhà thơ hiện đại chủ trương kêu gọi một thứ thơ tự do,
dân chủ, phát huy cao độ cá tính sáng tạo của nhà thơ. Ở Mỹ, W. Whitman là “người
tiên khu” của thơ hiện đại với tinh thần dân chủ, thể thơ tự do. Tập thơ “Lá cỏ” của
ông ngay từ khi mới ra đời đã gây “sốc” cho dư luận bởi tính “tự do” từ nội dung đến
hình thức của nó. Nhà thơ Tiệp Khắc Vitexlap Nedoval (1900 – 1958) cũng có một
quan niệm thơ hồn tồn tự do: “Khơng có sai lầm nào tệ hại hơn là vạch ra những
phương án nghệ thuật áp dụng cho các nhà thơ. Mỗi người trong họ có một thứ nhạc
cụ riêng với những vang hưởng riêng và tâm trạng riêng không giống với những người
khác”. Bởi mỗi nhà thơ là một bản thể, một cá tính sáng tạo khơng lặp lại nên khơng
thể có một sơ đồ nghệ thuật áp dụng chung cho họ. A.Robbe.Grillet đã phát biểu ý
kiến: “Hình thức nghệ thuật là sáng tạo chứ không phải là công thức”. Sự sáng tạo ấy
phải thật đặc sắc, phong phú, mn hình vạn trạng, do đó khơng thể có một khn mẫu
cố định. Hình thức thơ tự do sẽ giúp các nhà thơ thực hiện mọi ý tưởng nghệ thuật độc
đáo của mình, theo sát những biến chuyển của thời đại. Pablô Nêruda (1904 – 1973)
một nhà thơ Chi Lê nổi tiếng về thơ tự do, thể hiện quan điểm : “Tôi ủng hộ mọi thể
nghiệm trong thơ: Cần giúp cho những người đi sau chúng ta có thể thử thách trong
các lĩnh vực của thơ. Mỗi thể loại trong nghệ thuật cần luôn luôn được đổi mới về mặt
hình thức. Nền văn học mỗi thế kỉ cần biết vượt qua những thế kỉ trước. Nó khơng thể
mặc mãi chiếc áo sườn rách. Trong những yếu tố làm nên kinh nghiệm nghệ thuật, có
những yếu tố mất đi nhưng cũng có những yếu tố cịn mãi. Cả trời lẫn quỷ dữ đều
không thể đưa ra một công thức nên viết thơ thế nào”. Theo Nêruda, đổi mới về mặt
hình thức là điều kiện để phát triển thi pháp thơ qua các thời đại. Do đó, thơ cần có
những tìm tịi, thể nghiệm, ln ln đổi mới, luôn luôn sáng tạo. Thơ tự do là một
trong những thể nghiệm của các nhà thơ hiện đại phương Tây và đã đưa họ đến thành
công. Apollinaire (1880-1918), nhà thơ Pháp gốc Ba Lan, người khởi xướng chủ nghĩa
siêu thực, rất yêu chuộng thể thơ tự do, vì “thơ tự do khơng vần, cho tha hồ bng

phóng tâm tình”. Bài thơ Nhạc sĩ của nhà thờ Thánh Merry là một trong những bài thơ
nổi tiếng của ông, nổi tiếng vì sự kỳ bí, nổi tiếng về những thể nghiệm táo bạo, trong
đó, ơng chủ trương xố nhịa ranh giới giữa thơ và văn xi, giải phóng câu thơ khỏi
những dấu chấm, dấu phẩy. Trong một bức thư gửi Henry Martineau, Apollinaire
khẳng định rằng: “Tôi không dùng dấu chấm câu vì thấy nó khơng có ích lợi gì. Chính
nhịp điệu và sự ngắt các câu thơ đã là sự chấm câu đích thực rồi và do vậy mà chúng
ta chẳng cần đến dấu chấm câu nữa.”
Như vậy ở châu Âu, thơ tự do đã xuất hiện từ thế kỉ XVI, phát triển độc lập vào
thế kỉ XVIII; cho đến nay lịch sử phát triển của nó đã được hơn bốn trăm năm. Đây
không phải là một khoảng thời gian ngắn ngủi, khoảng thời gian đó đủ để thể thơ này
có những bước phát triển ổn định về mặt hình thức và khẳng định được vị thế của nó
so với các thể thơ khác trên thi đàn.
1.3.3. Thơ tự do ở Việt Nam
Khơng có một quốc gia dân tộc nào mà dấu ấn của lịch sử không in hằn trên
những trang thơ, trang văn. Điều này là tất yếu bởi văn học mang trong mình thiên
chức cao cả: phản ánh con người và thời đại một cách trung thực. Theo dòng chảy của


lịch sử, văn học Việt Nam đặc biệt là hệ thống thể loại vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Trung Quốc – văn minh phương Đông, vừa chịu ảnh hưởng của Pháp – văn minh
phương Tây. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Đạm thì: “Thơ cách luật bao gồm tất cả
những bài thơ làm theo những thể thức ổn định, cố định về mặt thi pháp”[14]. Ông cho
rằng thơ cách luật Việt Nam có hai nguồn: nguồn thơ cổ điển Trung Quốc (thất ngôn
bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn...) và nguồn thơ dân gian Việt Nam (lục bát, song
thất lục bát, nói lối, hát giặm...). Các thể thơ cách luật này tồn tại và phát triển trong
một khoảng thời gian khá dài từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX.
Đối lập với thơ cách luật là thơ tự do. “Gọi là tự do vì nó bao gồm các loại thơ
không theo một thể thức ổn định, cố định nào cả”. Tuy vậy, “thơ tự do thật ra khơng
phải là thơ hồn tồn phủ định mọi luật lệ của thơ”. “Thơ tự do chỉ tự do đối với các
luật lệ gị bó, cố định, cịn thật ra nó cũng tự giác tuân theo những quy luật cơ bản về

âm thanh, vần luật, nhịp điệu của tiếng nói và câu thơ Việt Nam”[14].
Thể thơ này chính thức được biết đến ở nước ta từ đầu thế kỷ XX, trong phong trào
thơ Mới 1932-1945. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải lược sử lại q trình hình thành của
nó để thấy rằng thể thơ này ra đời một mặt chịu ảnh hưởng của phương Tây nhưng mặt
khác – quan trọng hơn là sự vận động tất yếu trong tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ
Việt.
Ở Việt Nam, vào khoảng thế kỉ XVI – khi bắt đầu xuất hiện thể thơ tự do trên thế
giới thì nền văn học của chúng ta đang ở thời kì trung đại với các thể thơ hầu hết được
vay mượn từ Trung Quốc như: ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngơn bát cú,
ngũ ngơn cổ phong...Ngồi ra, các nhà thơ cũng sáng tác theo thể thơ lục bát hoặc
song thất lục bát, là những thể thơ của dân tộc, lắng đọng tiếng nói và tâm hồn Việt
Nam. Nhưng tất cả các thể thơ này đều phải tuân theo những quy tắc tổ chức ngôn từ
cố định, lặp đi lặp lại trong các tác phẩm. Hay nói cách khác, đây đều là những thể thơ
cách luật. Thời kì văn học trung đại với những thể thơ “ khuôn vàng thước ngọc” như
thế ở Việt Nam kéo dài từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, tạo nên một thời kì dài nhất
trong lịch sử văn học dân tộc. Trong văn học Việt Nam giai đoạn này, hầu như chúng
ta không thể tìm ra được một bài thơ phá cách. Đây đó có những câu thơ đi tìm hình
thức biểu hiện khác biệt nhưng cũng khơng thể xem đó là sự xuất hiện của thể thơ tự
do. Chẳng hạn vào thế kỉ XV, chúng ta bắt gặp những câu thơ lục ngơn xen thất ngơn
trong thơ Nơm Nguyễn Trãi. Có bài câu lục ngơn chiếm số lượng ít hơn câu thất ngôn:
Thân nhàn dầu tới dầu lui,
(6)
Thua được bằng cờ ai kẻ đơi
(7)
Bạn cũ thiếu đâu đèn liễn sách,
(7)
Tính quen chăng kiếm trúc cùng mai
(7)
Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh,
(6)

Cuốc chơi xn khắp mọi đồi
(6)
Con cháu mựa hiền nơ bộc tiện
(7)
Nghìn đầu cam qt ấy là tơi
(7)
( Ngơn chí – Bài 12)
Nhưng cũng có bài câu lục ngơn chiếm số lượng chủ yếu:
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,
(6)
Trông thế giới phút chim bay
(6)
Non cao, non thấp, mây thuộc,
(6)
Cây cứng, cây mềm, gió hay
(6)


×