Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Yếu tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.2 KB, 107 trang )

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn






Lấ CễNG PHNG ANH





YU T Vễ THC TRONG TH HONG CM




Lun vn Thc s chuyờn ngnh Lý lun vn hc
Mó s: 60 22 01 20



Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Trn Khỏnh Thnh




H Ni - 2014
LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS. Trần
Khánh Thành - ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo Khoa
Văn học - Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội; Ban Giám hiệu trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Bắc Ninh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn gia đình và ngƣời thân, cảm ơn sự động viên, khích lệ của
bạn bè và đồng nghiệp.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2014
Ngƣời thực hiện đề tài

Lê Công Phương Anh


1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục đích nghiên cứu 17
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 18
5. Phương pháp nghiên cứu 18
6. Cấu trúc luận văn 18
CHƢƠNG 1: HƢỚNG TIẾP CẬN THƠ HOÀNG CẦM TỪ YẾU TỐ VÔ THỨC 19
1.1. Vài nét về cuộc đời và sáng tác thơ của Hoàng Cầm 19
1.1.1. Cuộc đời Hoàng Cầm 19
1.1.2. Các sáng tác thơ của Hoàng Cầm 23
1.2. Lí thuyết về yếu tố vô thức trong sáng tạo văn học 23

1.2.1. Vô thức dƣới góc nhìn của khoa học 23
1.2.2. Quan niệm của Sigmund Freud về vô thức cá nhân trong sáng tạo văn học 25
1.2.3. Quan điểm của Card Gustav Jung về vô thức tập thể trong sáng tạo văn học . 26
1.2.4. Vô thức trong văn học Việt Nam 28
CHƢƠNG 2: VÔ THỨC CÁ NHÂN TRONG THƠ HOÀNG CẦM 33
2.1. Lối viết tự động - biểu hiện rõ nhất của vô thức cá nhân trong thơ Hoàng Cầm 33
2.1.1. Khái lƣợc về lối viết tự động và chủ nghĩa siêu thực 33
2.1.2. Lối viết tự động trong thơ Hoàng Cầm 35
2.2. Mặc cảm Oedipe - khát khao giải tỏa bản năng tính dục trong thơ Hoàng Cầm 37
2.2.1. Tóm tắt bi kịch “Oedipe làm vua” của Sophocle 37
2.2.2. Khái niệm “mặc cảm Oedipe” của S.Freud 39
2.2.3. Khát khao giải tỏa bản năng tính dục trong thơ Hoàng Cầm 40
2.3. Nghệ thuật thơ Hoàng Cầm - ngữ pháp của giấc mơ 53
2.3.1. Những khoảng trắng trong thơ Hoàng Cầm 53
2.3.2. Ẩn dụ trong thơ Hoàng Cầm 56
CHƢƠNG 3: VÔ THỨC TẬP THỂ TRONG THƠ HOÀNG CẦM 64
3.1. Siêu mẫu dải yếm trong thơ Hoàng Cầm 64
3.1.1. Dải yếm đa tình 66


2
3.1.2. Dải yếm văn hóa 68
3.1.3. Dải yếm huyền sử 69
3.2. Siêu mẫu lễ hội trong thơ Hoàng Cầm 72
3.2.1. Lễ hội phồn thực 74
3.2.2. Lễ hội hồi sinh 78
3.2.3. Lễ hội giải trí 82
3.3. Siêu mẫu đám cưới trong thơ Hoàng Cầm 86
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98




3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Phân tâm học đã, đang và sẽ là chiếc chìa khóa để đi vào phần khuất lấp
nhất trong quá trình sáng tạo và thế giới nghệ thuật của các nhà thơ. Phê bình phân
tâm học ở Việt Nam xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng sau đó bị cấm
kị trong một khoảng thời gian dài cho đến khi đất nước đổi mới thì được phục hồi
và phát triển. Trênmọi chặng trong con đường chìm nổi ấy, phê bình phân tâm học
đều ít nhiều đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đem lại sự đa dạng trong
nghiên cứu phê bình văn học. Một trong những con đường rộng mở mà chiếc chìa
khóa phân tâm học đưa giới lý luận văn học đến đó là nghiên cứu yếu tố vô thức
trong tác phẩm của các thi nhân.
1.2.Trong văn học hiện đại của Bắc Ninh - Kinh Bắc, có thể nói Hoàng Cầm
là nhà thơ lớn nhất. Cùng với dân ca quan họ, với những hội hè đình đám… thì thơ
Hoàng Cầm là đặc sản tuyệt vời của vùng quê phên dậu kinh thành. Nói như nhà
văn Đỗ Chu thì Hoàng Cầm “là ngọn gió lành, là hồn cốt của xứ Kinh Bắc, là sự
hoành tráng sang trọng, là âm vang của miền đất ngàn năm văn vật” [4, 18]. Có lẽ
mỗi người học trò Bắc Ninh đều biết tên thi nhân như biết tên quê hương, đều đọc
và thuộcthơ của thi sĩ như đã từng đi và thuộc các con đường, dòng sông trên xứ sở
của họ.
1.3.Trong nền văn chương nước nhà, sự nghiệp của Hoàng Cầm chưa hẳn là
đồ sộ. Nhưng ông luôn có cho riêng mình một chỗ ngồi độc đáo. Phong cách thơ
ông là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Người đọc có thể tìm được
trong thơ Hoàng Cầm nỗi day dứt của ca dao dân ca, sự ngọt ngào của thơ tình đôi
lứa và cả cái ám ảnh phù sinh trong thơ tượng trưng, siêu thực. Không tuyên ngôn,
không lý luận và cả không tự giác nữa, Hoàng Cầm đã gợi ý cho những nhà thơ
cùng thời và hậu thế đôi điều về sáng tạo. Đóng góp nổi bật của Hoàng Cầm với thi

ca dân tộc là ở chỗ đó.
Được lấy thơ Hoàng Cầm để nghiên cứu trong luận văn, người viết coi đó là
một vinh dự và cả niềm tự hào về quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc của mình. Trước


4
người viết đã có những cuốn sách, luận án, luận văn, báo cáo khoa học viết về thơ
Hoàng Cầm nhưng chưa có một công trình nào hoàn toàn nghiên cứu yếu tố vô thức
dưới góc nhìn phân tâm học. Đó là những lí do để người viết thực hiện đề tài: “Yếu
tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề vô thức trong sáng tạo văn học
2.1.1. Trên thế giới
Thuật ngữ phân tâm học (psychoanalysis) do Sigmund Freud đặt ra vào năm
1896. Thời gian đầu, phân tâm học chỉ là một khoa học chữa bệnh tâm lí. Sau đó,
những phát hiện về tính dục và mặc cảm Oedipe của Freud đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu nhân văn lúc bấy giờ. Tiếp nhận ảnh hưởng từ Freud, nhà
tâm lí học phân tích Thụy Sỹ C.Jung, đã là người kéo phân tâm học tách khỏi bệnh
lí học và hòa đồng lí thuyết này vào trong môi trường khoa học xã hội - nhân văn.
Lí thuyết về siêu mẫu (archétype) như là cốt yếu của tâm lí học các chiều sâu, yếu
tố nền tảng của vô thức tập thể thực sự đã tạo nên một cú huých đáng kể trong
nghiên cứu phê bình văn học. Tuy nhiên phải khẳng định rằng Freud và Jung là hai
nhà bác học tâm lý chứ không phải là hai nhà nghiên cứu văn học.
Từ nền tảng lí thuyết về vô thức của Freud và Jung, phân tâm học thế giới đã
phát triển thành rất nhiều hướng nghiên cứu, trong đó có văn học. Trong số những
nhà phân tâm học văn học, nổi bật hơn cả là Charles Baudoin với tác phẩm Phân
tâm học nghệ thuật (1929). Charles Baudoin cho rằng phân tâm học trong văn học
gồm ba phần: một dành cho sự sáng tạo của nhà văn, hai cho sự đọc của độc giả và
ba cho các chức năng của nghệ thuật. Bên cạnh đó, Charles Baudoin còn phân biệt,
trong cái vô thức sản sinh ra trong tác phẩm văn học, cái gì thuộc về vô thức tập thể

và cái gì thuộc về vô thức cá nhân. Đây là thao tác mà người viết tiếp thu được từ
tác giả này.


5
Có những tác giả nghiên cứu vô thức trong văn học ở vấn đề tác giả và tác
phẩm như: Marie Bonapart, J. Delay, Jeal Bellemin-Noel. Trong chuyên luận Phân
tâm học và văn học (1978), J.Bellemin-Noel đã đi tìm dấu ấn của vô thức ở một loạt
vấn đề trong tác phẩm: nhân vật (mục Con ngƣời và biểu trƣng); thể loại văn học
(mục Huyền thoại, cổ tích và truyền thuyết); típ và môtíp. Không chỉ vậy, ông còn
đi phân tích quá trình tâm lý tác giả gắn với tiểu sử của họ. Cuối chuyên luận ông
kết luận: “Cái Vô thức, đó là cái sự chúng ta bị cưỡng chế phải nhắc lại một quá
khứ mà chúng ta không nhớ và phải xem như là ký ức cái sẽ không bao giờ còn
được lặp lại dưới dạng ban đầu của nó. Nền Văn học, đó là tổng thể các bài viết
được xếp đặt một cách rõ ràng dưới dấu hiệu của sự hư cấu… Đọc tác phẩm hư cấu
với cái nhìn của phân tâm học cho phép đồng thời vừa tặng cho văn bản một chiều
kích khác, vừa quan sát được cách viết trong sự sinh thành và trong sự vận hành của
nó”[25, 195 - 196] (Psychanalyse et litérature PUF, Paris, 1978 - Đỗ Lai Thúy và
Phan Ngọc Hà dịch). Như vậy, một điều dễ nhận thấy là J.Bellemin-Noel và những
tác giả theo hướng này gần với Freud.
Ở một chiều kích khác lại có những nhà nghiên cứu về vô thức trong văn học
có tư tưởng gần với Jung. Đó là các tác giả nghiên cứu theo chủ đề mà đại diện tiêu
biểu nhất là Gaston Bachelard với chuyên luận Phân tâm học về lửa (1938).
G.Baschelard tìm thấy sự tác động của những giá trị vô thức trên cơ sở những hiểu
biết của kinh nghiệm và của khoa học. Từ chủ đề tính chất của lửa, Bachelard xác
định các mặc cảm: Prométhée, Empédocle, Novalis, Hoffmann… Những mặc cảm
này khác hẳn với mặc cảm tính dục của Freud. Chúng như những ám ảnh đối với tác
giả văn học. Với G.Baschelard, vô thức như ngọn lửa lúc nào cũng âm ỉ trong nhà
văn và quá trình sáng tạo được miêu tả như sau: “Ngay khi một tình cảm dâng lên
tới sắc độ của lửa, ngay khi nó bộc lộ ra, với sức mạnh của nó trong những siêu

hình của lửa, người ta có thể tin chắc là nó sắp thu gom một tổng số những mâu
thuẫn. Lúc đó người đang yêu muốn mình được thanh khiết và nhiệt tình, độc đáo
và toàn năng, bi kịch và chung thủy, thoảng qua và bền vững”.[25, 348 - 349](La
psychanalyse du feu, Paris, 1938, Ngô Bình Lâm dịch).


6
Bên cạnh đó là hướng nghiên cứu vô thức trong văn học theo hướng gắn
phân tâm học với folklore. Đại diện của hướng này là V.Dundes với chuyên luận
Folklore - Nhìn từ phân tâm học. Có thể nói V.Dundes vừa gần Freud vừa gần Jung.
Chẳng hạn, ông sử dụng khái niệm phóng chiếu mặc cảm Oedipe (khái niệm của
Freud) khi cắt nghĩa sự ra đời của Chúa Jêsu trong huyền thoại Châu Âu dưới con
mắt phân tâm học: “Chúa được sinh ra bởi Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Nếu vậy thì
đó cũng chính là việc chối từ người cha là người không liên quan gì đến sự thụ thai
của người con” [25, 453]. Mặt khác, ông cho rằng “Các cổ mẫu trong thần thoại,
theo Jung, gợi nhớ lại đến thế giới tiền sử với các định kiến đặc trưng mà chúng ta
ngày nay còn thấy ở những người nguyên thủy hiện đại”[25, 421] (Đỗ Đức Thịnh,
dịch từ bản tiếng Anh).
Sẽ là thiếu sót nếu như không kể đến hướng nghiên cứu vô thức trong văn
học theo trường phái phân tâm học văn bản. Trường phái này ra đời trên cơ sở của
sự phối hợp chủ nghĩa cấu trúc - kí hiệu Pháp và phân tâm học. Người có công đầu
khai sinh ra nó là Jacques Lacan với luận điểm nổi tiếng: “Vô thức đƣợc cấu trúc
hóa nhƣ một ngôn ngữ”. Theo đó, trong tác phẩm, vô thức như là một tiền giả định,
nhưng tìm kiếm nó không phải là nhiệm vụ duy nhất của nhà phân tâm học. Bởi vô
thức được cấu trúc như một ngôn ngữ, nên với tư cách người đọc, nhà phê bình văn
học theo phương pháp phân tâm phải làm được hai thao tác cơ bản trên văn bản tác
phẩm: một, tìm ra cấu trúc bề mặt của văn bản ngôn từ mang dấu ấn vô thức; hai,
tìm ra cấu trúc của văn bản vô thức như là cấu trúc bề sâu của văn bản ngôn từ. Rõ
ràng, ở cấp độ này, từ gốc gác giấc mơ tỉnh thức của Freud qua tâm lí học các chiều
sâu của Jung đến phân tâm học văn bản của Lacan, phê bình phân tâm học đã mở ra

những trang mới trong việc nghiên cứu tâm lí học sáng tạo và sự hiểu tác phẩm
nghệ thuật.
Tóm lại, trước khi vào Việt Nam, phê bình phân tâm học trên thế giới, với
nhiều hướng nghiên cứu khác nhau, đã coi vô thức trong văn học là vấn đề quan


7
trọng nhất. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu vấn đề ấy ở Việt Nam
mà người viết trình bày ở mục sau.
2.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề vô thức và phê bình phân tâm học được biết đến khá
sớm, ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước trong phê bình của Trương Tửu với
bài nghiên cứu Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hƣơng trên tờ Tiến hóa số 1 và Nguyễn
Văn Hanh với chuyên luận Hồ Xuân Hƣơng: tác phẩm, thân thế và văn tài (Aspar,
Sài Gòn). Phương pháp này hầu như vắng mặt sau năm 1945 ở miền Bắc bởi sự
thống ngự của phê bình xã hội học marxit. Ở miền Nam, cũng có một số tác giả
quan tâm đến phê bình phân tâm học, dịch, giới thiệu, ứng dụng như Vũ Đình Lưu,
Nguyễn Văn Trung, Đàm Quang Thiện, Thanh Lãng. Khi đất nước thống nhất, dưới
định hướng lí luận marxit, phân tâm học lại trở nên vắng bóng trong đời sống văn
học cả hai miền.
Chỉ sau Đổi mới (1986), cùng với xu thế dân chủ hóa văn học, phê bình phân
tâm học mới nảy nở trở lại. Và Đỗ Lai Thúy là người tiếp tục sau những đứt đoạn
ấy, trong đó vô thức là vấn đề được ông quan tâm nhiều nhất. Cùng với chuyên luận
Hồ Xuân Hƣơng hoài niệm phồn thực, tập tiểu luận chuyên đề Bút pháp của ham
muốn là những thám sát đáng kể của Đỗ Lai Thúy trong lĩnh vực này. Nghiên cứu
vô thức của Đỗ Lai Thúy có một bước đột mở quan trọng. Không còn áp dụng phân
tâm một cách cứng nhắc như Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, đơn giản kiểu sơ đồ
“dồn nén - ẩn ức - thăng hoa” như Nguyễn Văn Hanh, bắt buộc phải rõ tiểu sử tác
giả như Nguyễn Văn Trung, bắt mạch các bệnh nhiễu tâm của nhân vật như Thanh
Lãng,… Đỗ Lai Thúy thao tác ngay với văn bản, tìm kiếm những kí hiệu mang bản

chất phân tâm học của nó. Hướng vào bút pháp của nhà văn, được sự gợi dẫn
củaJ.Lacan và bộ công cụ thao tác ngôn ngữ từ các nhà hình thức luận Nga, trường
phái ngôn ngữ Praha và phê bình mới Anh - Mỹ, Đỗ Lai Thúy đã trực diện vào
phương thức tồn tại của văn học, đi tìm và giải mã cấu trúc vô thức trên/trong/qua
văn bản, để chỉ ra “bút pháp của ham muốn” của các nhà văn có dấu ấn phân tâm


8
tiêu biểu như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều, Chế Lan
Viên, Xuân Diệu,
Trên Tạp chí Văn học nghệ thuật số 327(tháng 09 năm 2011), tác giả Hoàng
Thị Huệ đã đăng nghiên cứu của mình về Yếu tố vô thức trong tác phẩm Nguyễn
Bình Phƣơng. Trong bài nghiên cứu của mình, Hoàng Thị Huệ đã tìm tòi và lí giải
vai trò của vô thức ở sáu tiểu thuyết Vào cõi(1991), Những đứa trẻ chết già (1994),
Ngƣời đi vắng(1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thủy (2003) và Ngồi(2006).
Tác giả kết luận: “Khám phá tầng sâu vô thức, giải mã những bí ẩn tâm linh, tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương mang đến cho người đọc những cảm quan nghệ thuật
độc đáo, cho thấy niềm đam mê của cây bút này trên con đường làm mới mình và
làm mới thể loại. Tìm hiểu yếu tố vô thức sẽ mở ra được cánh cửa dẫn vào thế giới
nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Với vô thức, giấc mơ, tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương đã làm cho bức tranh tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới thêm ảo huyền, nhiều màu sắc”[39].
Gần đây nhất, trên tạp chí sông Hương số 289 (tháng 03 năm 2013), tác giả
Nguyễn Hữu Tấn đã công bố bài nghiên cứu Vô thức trong văn học. Ở đó, sau khi
soi chiếu khái niệm vô thức dưới góc nhìn của tâm lí học và văn học, Nguyễn Hữu
Tấn đã khảo sát và có những nhận định về mối quan hệ giữa cảm hứng và vô thức
trong sáng tác của các tác giả Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử, Thạch Lam. Ông kết
luận: “Nhà văn phải là những kẻ mang ẩn ức sáng tạo mãnh liệt, dự phóng nghệ
thuật đầy tâm huyết. Họ là một số ít người biết vượt lên và sử dụng chính đời sống
đầy nội tâm, ẩn ức và ám thị đó nhằm sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ… các

nhà văn ấy đã vượt qua chính nỗi đau và ẩn ức của đời mình, hoặc ít ra, các nhà văn
biết làm sao biến nỗi đau thậm chí là bi kịch của đời mình thăng hoa cho đời mà
không để hoài phí. Nghệ sĩ thật sự mà nói là một “nghiệp” hơn là một “nghề” khi số
phận của mình là cả chuỗi dài bi kịch, và sáng tạo gần như là một món nợ tiền kiếp
phải trả hơn là sự thăng hoa trong hạnh phúc. Cho nên đời sống vô thức của nhà
văn, nhất là những chấn thương tinh thần của nhà văn luôn ảnh hưởng và chi phối


9
đến nội dung tác phẩm văn học với vai trò tích cực… Xét tài năng của nhà văn dưới
góc độ vô thức sáng tạo văn học là một công việc dễ sa vào vô hình, “duy tâm hóa”,
đưa văn học đến chỗ bất khả tri bế tắc, và cũng thu hẹp đối tượng sáng tác. Ở đây
phải xét phạm trù “vô thức” như một tầng cơ chế tâm lý của con người, nằm tách
rời ý thức và ý thức không thể tự giải mã được. Tuy nhiên cả ý thức và vô thức luôn
có mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên tương tác lẫn nhau”[88].
Như vậy, kế thừa những thành tựu của thế giới, dựa vào đặc điểm riêng biệt
của các tác giả, tác phẩm Việt Nam, giới nghiên cứu phê bình văn học nước ta đã
đạt được những thành tựu nhất định trong việc xem xét, tìm tòi sự ảnh hưởng của vô
thức đến sáng tạo văn học.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ Hoàng Cầm
Dựa vào sự đánh giá của giới nghiên cứu, có thể chia lịch sử nghiên cứu thơ
Hoàng Cầm làm ba giai đoạn: giai đoạn 1948 - 1954, dư luận cơ bản nghiêng về
phía khẳng định, ngợi ca. Từ 1954 - 1985, thơ Hoàng Cầm ít được đề cập do hệ lụy
sau vụ Nhân văn - Giai phẩm, Hoàng Cầm bị xem là có “vấn đề” về chính trị. Việc
nghiên cứu thơ ông trong giai đoạn này có hơi thiên về mặt xã hội học dung tục. Kể
từ sau Đổi mới (1986) đến nay, thơ Hoàng Cầm được nhìn nhận khá cởi mở, được
tìm hiểu kĩ càng, sâu sắc, và có nhiều nhận định thấu đáo hơn.
Trước luận văn này đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thơ
Hoàng Cầm xuất phát từ các hướng tiếp cận khác nhau. Người viết tạm phân chia
làm bốn hướng tiếp cận: dựng chân dung văn học, văn hóa học, thi pháp học, phân

tâm học.
2.2.1. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm theo kiểu dựng chân dung văn học
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh với bài viếtMấy ý nghĩ về thơ Hoàng Cầm (Đọc
Mƣa Thuận Thành của Hoàng Cầm) trong công trình Con đƣờng đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn rất xúc động khi mình mang mối “lương duyên” với thơ Hoàng


10
Cầm. Theo Nguyễn Đăng Mạnh, những bài thơ hay như Bên kia sông Đuống, Lá
Diêu Bông là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, dễ làm người đọc xúc động
đến “chảy nước mắt”. Trong dòng chảy thời gian, dòng chảy của một phong cách
thơ, ở hai lần gặp thơ Hoàng Cầm là “Hai lối thơ khác nhau lắm. Nhưng cả hai đều
có một cái gì đó rất Hoàng Cầm. Hình như có một không gian Kinh Bắc, một thời
gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh. Và trên cái nền thời gian, không gian ấy,
cứ thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ đẹp duyên dáng,
tình tứ “cười như mùa thu tỏa nắng”. Tất cả được vờn vẽ bằng một ngọn bút tài hoa,
đệm theo một điệu nhạc buồn ” [56, 219].
Nhà nghiên cứu Hoài Việt với bài viết Đến với Hoàng Cầm trong cuốn Những
khuôn mặt văn nghệ sĩ cho rằng:“Hoàng Cầm mang trong mình kiểu “gene” kẻ sĩ,
bác học của người cha và kiểu “gene” dân giã đẫm “chất huê tình” của người mẹ.
Văn chương Hoàng Cầm “đằm mình” trong truyền thống văn hiến xứ Kinh Bắc và
“vục uống từ suối nguồn đó, có lúc say sưa đến chuệnh choạng”. Ba tác phẩm Lên
đƣờng, Bên kia sông Đuống, Đêm liên hoan là “ba đứa con tinh thần cháy bỏng một
tình yêu da diết đối với quê hương” ” [115, 103 -104]. Qua việc phân tích những đặc
sắc về mặt nghệ thuật trong các tập thơ Về Kinh Bắc, Mƣa Thuận Thành, Hoài Việt
thấy hình hài thơ này có một cái bóng đứng chân trong hiện thực cuộc sống, hoà
nhập vào cộng đồng phát lên tiếng nói chung “Còn một cái bóng khác đang lặn lội
tìm về quá khứ, điềm tĩnh hơn, trầm lắng hơn, sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng
riêng để giải toả những ẩn ức kiểu “Men đá vàng”” [115, 111].
Tác giả của tập thơ Bóng chữ - nhà thơ Lê Đạt trong bài viết 75 tuổi Hoàng

Cầm có một nhận xét thú vị rằng, Hoàng Cầm và Nguyễn Bính là hai tài năng thơ
bẩm sinh, đặc sản của hai vùng đất nước, một vùng chiêm khê mùa thối cơ cực đất
Sơn Nam và một vùng tài hoa thanh lịch đất Kinh Bắc. Lê Đạt kể, sau “hoạ Kinh
Bắc”, tinh thần Hoàng Cầm suy sụp hẳn, nhưng với bản lĩnh và “tư cách một người
chữ can đảm”, “con chim hoạ mi Kinh Bắc lại vươn cổ bắt đầu hót”[114, 40].
Cũng cần kể tới các bài viết tự giới thiệu về “bức chân dung tinh thần tự hoạ”


11
của Hoàng Cầm. Tiêu biểu là các bài viết Cuộc đời và thơ[114, 384], Đôi dòng tâm
tƣởng về thơ, Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào, Sông Đuống bắt nguồn từ
đâu [114, 149; 213; 183], Mở lối về cõi xƣa Kinh Bắc [10]. Ngưởi viết nhận thấy,
một trong những điều kiện quan trọng góp phần kiến tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm đó
là chất văn hoá dân gian xứ Kinh Bắc. Qua những trang viết tự bạch về cuộc đời và
sự nghiệp văn chương, dường như có một hình tượng ám ảnh, thường trở đi trở lại và
được tác giả nói đến nhiều nhất, đó là vẻ đẹp chân chất của những liền chị quan họ
thôn quê.
Trong bài Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào, Hoàng Cầm cho biết,
vào cuối năm Kỷ Hợi 1959, sau vụ Nhân văn - Giai phẩm “Tôi chìm vào một quê
hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn
năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím
của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê, não nùng, của
thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian
không hề suy suyễn đến một sợi mi cong ” [114, 201].
2.2.2. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện văn hóa học
Bên cạnh kiểu tiếp cận theo hướng dựng chân dung văn học cũng cần nói đến
kiểu tiếp cận trên bình diện văn hoá học. Trên Tạp chí Văn học số 5 năm 1998, với
bài viết Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và , nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý khẳng định,
văn hoá làng xã Việt cổ truyền đã góp phần chi phối đến dòng thơ của Nguyễn Bính
và Hoàng Cầm. Sự giống nhau của hai nhà thơ viết về đề tài thôn quê là sự cảm nhận

và nhìn nó “từ bên trong”. Đây là kiểu sáng tác tuỳ thuộc vào “tạng người, tạng văn
hoá của nhà thơ” [97].
Năm 2003, với Luận văn thạc sĩ Ngữ văn Văn hoá Kinh Bắc trong thơ Hoàng
Cầm (Trường ĐHSP Hà Nội), Nguyễn Thị Minh Bắc đã tiếp tục cụ thể hướng nghiên
của các học giả Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Quốc Vượng, Vũ Ngọc
Khánh Đến năm 2007, tác giả đã phát triển từ luận văn này thành cuốn sách nghiên
cứu Thơ Hoàng Cầm với văn hóa Kinh Bắc (NXB Hội Nhà văn). Trong những công


12
trình này, từ việc tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, vị thế lịch sử - xã hội, phong
tục, tập quán, ngôn ngữ quan họ, Nguyễn Thị Minh Bắc đã đi đến kết luận, các yếu
tố trên là những nét rất riêng hun đúc nên một bản lĩnh văn hoá vùng hết sức độc đáo.
Tác giả đã khảo sát, phân tích vẻ đẹp của các dòng sông, núi đồi gắn liền với những
biến cố, thăng trầm của lịch sử. Đây là không gian văn hoá cho những trai tài, gái quê
duyên dáng, tình tứ; họ là những con người Kinh Bắc bất tử trong thơ Hoàng Cầm.
Đánh giá những đóng góp của nhà thơ, Nguyễn Thị Minh Bắc nhấn mạnh“đỉnh cao
sáng tạo của Hoàng Cầm là bài thơ Bên kia sông Đuống vì nó đã hội tụ được những
đặc trưng tiêu biểu nhất của văn hoá Kinh Bắc” [7, 70].
TS. Nguyễn Xuân Lạc viết vềcảm hứng thơHoàng Cầm: “Người thơmang
tên vị thuốc đắng ấy lại sinh ra và lớn lên trong một vùng đất thơngọt ngào. Đó là
xứ Kinh Bắc - một trong ba cái nôi lớn của dân tộc Việt Nam Xứ Kinh Bắc
thơmộng hữu tình Vùng đất thơ ấy đã bồi đắp cho thơHoàng Cầm từnhiều phía,
nhiều nguồn”, ra đi kháng chiến, Hoàng Cầm “đem theo cảmột hành trang Kinh Bắc
trong hồn thơ Thanh niên của mình” ” [46, 14-15].
Cũng theo hướng tiếp cận này, PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp chú ý đến yếu
tốvăn hoá bao bọc từthuở ấu thơ“Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng sương
khói văn hoá dân gian đã ăn quá sâu vào tuổi thơHoàng Cầm Nằm sau trong câu
chữHoàng Cầm là sựngân vọng của những lớp trầm tích văn hoá được thẩm thấu
qua bộlọc tinh tếcủa thi nhân Cái yếu tốsâu xa nhất tạo nên ma lực thơHoàng Cầm

là ởchỗông biết đánh thức hồn quê Kinh Bắc trong cõi vô thức, tiềm thức” [20, 195;
206].
Nhưvậy, có thểnói các bài viết trên chủyếu đềcập đến vấn đềcảm hứng thơ
Hoàng Cầm - và đã khẳng định những cảm hứng đó đều được bắt nguồn từvùng văn
hoá truyền thốngKinh Bắc. Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ đặc biệt đểHoàng Cầm
dệt lên hồn thơ đẫm chất trữtình của mình.
Với bài viết Chị đừng đi (1997),nhà nghiên cứu Ngô Thảo lại đềcập đến yếu
tốtâm linh trong thơHoàng Cầm. Đó chính là tâm thếsáng tạo của nhà thơ: “hầu suốt


13
hành trình đi tới vềvới thời gian, thếgiới tinh thần, tâm linh ông luôn đi ngược, lặn
sâu vào quá khứ. Quá khứ không chỉhiện ra qua lớp từcổ, những địa danh cổ, nếp
sống cổ, phong tục tập quán cổ ông đã tạo ra được một không gian cổtrọn vẹn, đặc
biệt kỳdiệu trong tập thơ VềKinh Bắc. Bao nhiêu từthô lậu của đời thường, nào váy,
giải yếm, đặt trong thếgiới này bỗng mang một màu sắc gợi tảkhác xa ý nghĩa
cụthể” [4, 54].
Khẳng định bản lĩnh và tài năng thơHoàng Cầm, Nguyễn Việt Chiến viết:
“Tài năng ông là ởchỗtìm tòi đổi mới thơmà bản ngã truyền thống vẫn không suy
chuyển, nâng cao tưduy thơmà giọng điệu vẫn không xa lạvới mọi người” [13, 57]
và chỉrõ: “Hoàng Cầm là ông Hoàng của thơtrữtình Thơtrữtình của Hoàng Cầm có
một phong thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cảmột
vùng Kinh Bắc - cái nôi của nền văn hoá Sông Hồng” [13, 56].
Năm 2012, luận án Tiến sĩcủa Lương Minh Chung với đềtài ThơHoàng Cầm
từgóc nhìn văn hóa đã xác định điểm nhìn văn hóa trong việc nghiên cứu thơ Hoàng
Cầm. Tác giả luận án đã đi sâu vào các vấn đềlý thuyết, lý luận chung vềmối quan
hệgiữa môi trường văn hóa và con người, và dưới góc nhìn văn học nhưmột công cụ
đểkhai thác. Đồng thời tác giả cũng đềcập đến việc phản ánh các biểu tượng trong
thơHoàng Cầm dưới góc nhìn văn hóa trong mối quan hệtổng thểcủa văn hóa Việt
Nam.

Tháng 07 năm 2013, Trần Đức Hoàn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề
tài Văn hóa Kinh Bắc - vùng thẩm mĩ trong thơ Hoàng Cầm. Luận án đã nghiên cứu
thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ giữa vùng văn hóa, vùng thẩm mĩ Kinh Bắc dưới
các góc độ biểu tượng văn hóa và hệ thống ngôn ngữ. Trần Đức Hoàn khẳng định:
“Thi sĩ Hoàng Cầm đã có được những đóng góp lớn rất đáng trân trọng vào nền văn
học Việt Nam hiện đại. Những thi phẩm của ông đã làm vẻ vang cho vùng đất Kinh
Bắc, vẻ vang cho nền thơ ca dân tộc, đặc biệt là ở giá trị các biểu tượng văn hóa và
hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Hoàng Cầm có một vịtrí xứng đáng, một
địa vị vững chắc và trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn trong lịch sử văn


14
học dân tộc. Không có vùng đất địa linh nhân kiệt, không có vùng văn hoá - vùng
thẩm mĩ Kinh Bắc hào hoa và ngồn ngộn sự sống thì không có người con của Sông
Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh và ngược lại, chính Hoàng Cầm cũng là người
bảo tồn, làm sống dậy nền văn hoá trong lành đậm đà phong vị quê hương không
thể trộn lẫn ấy.” [37, 149]
2.2.3. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện thi pháp học
Dưới góc nhìn thi pháp học, GS. Đỗ Đức Hiểu trong bài viết Thơ mới - cuộc
nổi loạn của ngôn từ thơ đã nhận thấy, Hoàng Cầm của Men Đá vàng, Mƣa Thuận
Thành “là người kế tục (xa, rất xa) Thơ mới”. Đi từ những đặc điểm cơ bản của thơ
lãng mạn, thơ tượng trưng, siêu thực và qua cái nhìn so sánh, Đỗ Đức Hiểu đã có
những nhận xét rất tinh tế về hai hiện tượng thơ Vũ Hoàng Chương và Hoàng Cầm
trong dòng chảy của Thơ mới. Theo ông “tính hiện đại của thơ Hoàng Cầm không
phải như thơ Vũ Hoàng Chương (nhà thơ đô thị với phố xá đô thị, sàn nhảy đô thị,
tiệm hút đô thị ) mà một vùng cỏ cây, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc,
được siêu thực thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa, và Lá Diêu Bông, hay
những người con gái ảo mờ, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xoá nhoà trong
mưa bụi bay” [31, 115]. Từ việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật Mƣa Thuận Thành, Đỗ
Đức Hiểu đã rút ra cho chúng ta nhiều nhận xét độc đáo về thi pháp thơ Hoàng

Cầm. Đó là một loại hình thơ có nhiều “cái lặng”, “nhiều xót xa, nhiều bi kịch,
không nói”, nó “âm u, loé sáng, rồi mịt mù, xa tắp, như những huyền thoại thuở
hoang sơ” [31, 116].
Đọc thơ Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê có một số cảm nhận riêng
trên phương diện thi pháp học lịch sử. Chị gọi thế giới thơ Hoàng Cầm bằng một
cách gọi tên ước lệ, đó là “sa mạc Hoàng Cầm”, “sa mạc trần gian”. Sợi chỉ kết cấu
“trải dài trong sa mạc trần gian” của thế giới đó là “lấy về làm khởi bút” - Về Kinh
Bắc. Từ điểm tựa này, không gian Kinh Bắc “đất xưa, quê cũ”, “tổ tiên”, “thánh
hiền” trở thành nơi chốn bình an để Hoàng Cầm làm nơi nương tựa đặng “ôm trọn
lòng mình” (chữ dùng của Phạm Minh Tuấn) cho thơ sau vụ Nhân văn - Giai phẩm


15
(1959 -1960). Thời gian là “về viếng dĩ vãng”, “hỏi tuổi thơ”, “về lại cuộc tình”,
“thăm lịch sử”, để “tìm lại thời xa, một thời siêu hiện tại, thời Kinh Bắc”. Điều độc
đáo là, trong khi tiếp cận tập thơ Về Kinh Bắc và tập kịch thơ Kiều Loan, Thuỵ
Khuê đã lí giải thế giới thơ Hoàng Cầm mang nhiều dấu ấn của thi pháp huyền
thoại. Đó là một cõi “lung linh giữa mơ và thực, là cõi lên đồng âm thanh, là
phường bát âm chữ nghĩa, là cơn cuồng phong lịch sử loạn mầu trong từ trường
đồng thiếp, những dân ca, phong tục, truyền thuyết… Hiện tại nhập hồn quá khứ gọi
nhau trong những vũ điệu bất thường hoang dại” [4, 365].
Năm 1998, PGS.TS. Lê Lưu Oanh trong công trình Thơ trữ tình Việt Nam
1975 - 1990,đã đề cập đến khá nhiều gương mặt thơ Việt Nam thời hậu chiến.
Trong đó, Hoàng Cầm được xem như một nhà thơ “tạo được một thế giới ảo, siêu
thực, vời vợi, đầy thực và hư với một màn mưa kì lạ”, một “thế giới Kinh Bắc cổ
kính pha đầy huyền thoại”, “một không gian thời gian không xác định, mờ ảo, xa
vời, tít tắp, đan cài giữa mộng và thực” [67, 116]. Lê Lưu Oanh cho rằng, rất nhiều
bài thơ của Hoàng Cầm mang phong cách tôn giáo hoá. Đó là một không gian “linh
thiêng và cao cả với tinh thần vươn tới cõi vĩnh hằng, chạm tới các giá trị vĩnh cửu,
để nghiền ngẫm, khắc khoải về sự tồn tại của con người trong quy luật của tạo hoá”

[67, 116].
Đáng chú ý là ở tập tiểu luận phê bình Vọng từ con chữ,PGS.TS. Nguyễn
Đăng Điệp có bài Hoàng Cầm: ngƣời dệt thơ từ những giấc mơ Từ việc tìm hiểu
sự xuất hiện phổ biến của tín hiệu thẩm mĩ “về”, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng “về”
tạo nên nhịp điệu thơ Hoàng Cầm và là một ứng xử nghệ thuật. Cái nguyên uỷ làm
nên “vũ trụ thơ Hoàng Cầm” thực chất là “hồn quê Kinh Bắc rung lên qua những
sợi thần kinh thi ca nhạy cảm được ươm mầm từ thuở ấu thơ” [20, 197]. Cõi thơ
Hoàng Cầm là một giấc mơ, mơ về tuổi thơ, nhớ lại ký ức. Trong các ngôi mẹ - chị
- em đều có sự đan xen nhập nhoè nhưng thống nhất trong một thể, và “vẻ đẹp của
đất, của người, của văn hoá Kinh Bắc dường như đều hội tụ vào em và toả sáng”
[20, 201]. Bởi em là “cái đẹp kiêu sa”, là “nét duyên mặn mòi”, là “sự thanh tú mà
quyến rũ kiểu hương quê”, và “biểu tượng cho vẻ đẹp khát vọng”. Theo Nguyễn


16
Đăng Điệp, tinh hoa thơ Hoàng Cầm là “thứ thơ lấy sức mạnh của nhịp là nền tảng.
Một thứ thơ hút người đọc vào vòng xoáy của nó bằng nhạc”, giai điệu thơ Hoàng
Cầm ảnh hưởng khá rõ của từ, khúc trong văn chương cổ điển phương Đông hoà
quyện chặt chẽ với cái mượt mà của những làn điệu dân ca quan họ tạo nên những
màu sắc riêng, sang trọng, đằm thắm nhưng bay bổng, hào hoa.
Năm 2001, Trần Thị Huyền Phương trong Luận văn thạc sĩ Ngữ văn có tên Sự
kết hợp giữa yếu tố thực và hƣ trong thơ Hoàng Cầm (Trường ĐHSP Hà Nội), đã lí
giải hai phạm trù đối lập “thực” - “hư” và xem đó là bản chất của cấu trúc hình
tượng và tư duy nghệ thuật. Trần Thị Huyền Phương xem sự kết hợp giữa yếu tố
thực và hư là nét đặc sắc trong việc xây dựng hình tượng và thể hiện được một số
nét tiêu biểu của phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Điều này được thể hiện
trên ba luận điểm cơ bản. Một là, sự huyền thoại hoá lịch sử - văn hoá quê hương
Kinh Bắc. Hai là, tâm linh hoá thế giới tinh thần con người. Ba là, không gian - thời
gian tâm linh. Trong luận điểm thứ ba, tác giả luận văn đã có một lí giải thú vị đó
là“không gian tâm linh siêu hình - một cõi miền rất sâu, rất xa xôi và bí ẩn nhằm

khám phá đời sống nội tâm, thế giới tinh thần của con người” [72, 52].
Năm 2003, Nguyễn Thuý Hạnh trong Báo cáo khoa học và Khoá luận tốt
nghiệp đề tài Không gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm (Khoa Ngữ Văn Trường
ĐHSP Hà Nội), đã tiếp cận không gian nghệ thuật trên hai hướng chính đó là không
gian vật chất và không gian tinh thần. Không gian vật chất được tác giả khoá luận
tiếp cận qua những di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh và không gian dòng
sông Đuống. Không gian vật chất làm thành đặc trưng tiêu biểu trong thơ Hoàng
Cầm “tạo nên một màu sắc, một diện mạo riêng của cái hồn quê xứ Bắc” [28, 16].
Không gian tinh thần được Nguyễn Thuý Hạnh tìm hiểu qua những sinh hoạt lễ hội
văn hóa dân gian cổ truyền. Đây là không gian hiện hữu của những nhân vật lịch sử
mà qua đó nhà thơ đã đối thoại, bàn luận, lý giải về các nhân vật ấy và nâng hình
tượng thơ lên một tầm cao mới.
Cũng cần kể tới Lê Thị Hồng với Khoá luận tốt nghiệp có tên Thế giới Kinh


17
Bắc trong thơ Hoàng Cầm (Khoa Ngữ văn Trường Đại học Vinh) có nói đến thế
giới Kinh Bắc như một nét độc đáo trong thế giới nghệ thuật thơ, và “Làng quê
Kinh Bắc man mác cả hành trình thơ Hoàng Cầm, là cái nền, là không gian cho
những hình tượng thơ, cảm xúc thơ nảy nở” [38, 23].
2.2.4. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện phân tâm học
Năm 2003, PGS.TS. Đỗ Lai Thuý biên soạn, giới thiệu cuốn sách Phân tâm
học và tình yêu. Ông đã lấy bài viết Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm để thay lời
bạt cho cuốn sách này. Đỗ Lai Thuý cho rằng “Về Kinh Bắc là một giấc mơ”, và là
“một galerie những bức ảnh ấu thời, ảnh hội hè đình đám xứ Bắc, ảnh con người của
đời thường và của huyền thoại, ảnh động vật, cây cối ” [24, 479]. Chúng đứng ngẫu
nhiên bên cạnh nhau, vừa chồng chất vừa rời rạc. Trong giấc mơ, bao giờ cũng “ẩn
chứa những ham muốn vô thức”, những “khát khao bản năng” của tuổi ấu thơ bị đẩy
vào tiềm thức và bị nhốt vào quên lãng. Những dồn nén đó chờ những lúc “có vấn
đề”, sự kiểm soát bị lơi lỏng sẽ “bung ra” thăng hoa thành những giấc mơ, thành sáng

tạo nghệ thuật. Nói cách khác đây là “một tình yêu kiểu Oedipe”, và “Hoàng Cầm đã
sáng tác để giải toả mặc cảm Oedipe” [24, 489].
Có thể nói, những nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy đem lại rất nhiều gợi ý cho
người viết trong ý tưởng và cả cách thức tiếp cận thơ Hoàng Cầm theo hướng phân
tâm học. Dụng ý của người viết là tập trung nghiên cứu thơ Hoàng Cầm qua yếu tố
quan trọng bậc nhất của phân tâm học: yếu tố vô thức.
3.Mục đích nghiên cứu
Người viết thực hiện luận văn với hai mục đích chính. Một là khảo sát sự có
mặt của yếu tố vô thức trong quá trình sáng tác thi ca của Hoàng Cầm để thấy được
cá tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Hai là phân tích, cắt nghĩa các biểu tượng
được tạo ra nhờ yếu tố vô thức, qua đó đóng góp một cách đọc và hiểu thơ Hoàng
Cầm.


18
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế giới nghệ thuật, đặc biệt là yếu tố vô
thức và sự thể hiện của yếu tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm.
- Phạm vi nghiên cứu: người viết tập trung khảo sát toàn bộ các tập thơ và những
hồi ức của Hoàng Cầm chủ yếu được in trong cuốn Hoàng Cầm - tác phẩm: Thơ do
Nhà xuất bản Hội nhà văn & Trung tâm văn hóa Đông Tây xuất bản năm
2002.Ngoài ra, luận văn còn mở rộng, so sánh đối chiếu với sáng tác của những tác
giả khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Người viết chủ yếu vận dụng bốn phương pháp sau đây để thực hiện luận
văn:
- Phương pháp tiếp cận tâm lí học sáng tạo văn học: nhằm nghiên cứu quá
trình tâm lí của thi sĩ Hoàng Cầm khi sáng tác thơ ca.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: dùng để vận dụng những tri thức về văn
hóa Kinh Bắc nói riêng, vùng văn hóa Bắc Bộ nói chung nhằm nhận diện và giải mã

các hình tượng siêu mẫu trong thơ Hoàng Cầm.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: dùng để để tiếp cận hệ thống các biểu
tượng trong thơ Hoàng Cầm và nghệ thuật thơ Hoàng Cầm.
- Phương pháp thống kê: nhằm để thu thập số lần xuất hiện của các siêu mẫu
trong thơ Hoàng Cầm và lí giải sự xuất hiện nhiều lần của các siêu mẫu ấy.
Ngoài ra, luận văn còn vận dụng thêm các thao tác khoa học: phân tích, tổng
hợp, bình giảng…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chƣơng 1: Hƣớng tiếp cận thơ Hoàng Cầm từ yếu tố vô thức
Chƣơng 2: Vô thức cá nhân trong thơ Hoàng Cầm
Chƣơng 3: Vô thức tập thể trong thơ Hoàng Cầm


19
CHƢƠNG 1: HƢỚNG TIẾP CẬN THƠ HOÀNG CẦMTỪ YẾU TỐ VÔ THỨC
1.1.Vài nét về cuộc đời và sáng tác thơ của Hoàng Cầm
1.1.1.Cuộc đời Hoàng Cầm
Nhà thơ Hoàng Cầm (các bút danh khác: Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi), họ
tên khai sinh là Bùi Tằng Việt; quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh; sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang, mất ngày 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội. Thời đại của ông trải qua hai thế kỉ
với bao biến cố của lịch sử dân tộc và lịch sử văn học Việt Nam.Thi sĩ vẫn có thể
sống và làm thơ mấy mươi năm, một phần có lẽ là do quê hương Kinh Bắc với “hội
hè, đình đám” và làn quan họ ngọt ngào đến da diết nuôi nấng, chở che.
Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đình cũng nhiều sóng gió. Bố Hoàng Cầm
nguyên “là một nhà Nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi cái cấp hạng
bét là tam trường, sau đó bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang, rồi làm thầy
lang cũng lại lang thang chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc

Giang” [11, 196], còn mẹ ông là một cô gái làng Bựu (một làng quan họ nổi tiếng)
“Một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc óng ả, kiều diễm, có đôi mắt "lúng liếng" thật
tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao” [11, 195]
(lời kể của chính nhà thơ). Một người đàn bà tài sắc như vậy mà đến khi làm vợ,
làm mẹ lại phải chịu một cuộc sống hẩm hiu. Ông bà lấy nhau rồi li thân hơn mười
năm trời. Vì thế, Hoàng Cầm ra đời muộn (khi thân mẫu nhà thơ đã 31 tuổi) và chịu
một tuổi thơ không bình thường. Chính tuổi thơ không bình thường này đã tác động
rất lớn vào việc hình thành yếu tố vô thức trong thơ của ông.
Trên phương diện bản thân, Hoàng Cầm đã trải qua một cuộc đời đầy chìm
nổi. Hoàng Cầm học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938 ông
ra Hà Nội học trung học đến năm 1940 thì đỗ tú tài toàn phần. Trước đó ít lâu
(1939), ông vào nghề văn, vừa dịch sách cho Nhà xuất bản Tân Dân vừa làm gia sư.
Năm 1944, Hoàng Cầm về sống ở quê (Song Hồ, Thuận Thành) tham gia thanh niên
cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Sau Tháng Tám năm 1945, ông lại ra Hà Nội, lập


20
ban kịch Đông Phương. Tháng 12 năm 1946, ông cùng ban kịch rút khỏi Hà Nội,
biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình rồi giải tán
ban kịch. Năm 1947 Hoàng Cầm và vợ gia nhập Vệ quốc quân ở chiến khu 12, cuối
năm này ông thành lập Đội Văn nghệ Tuyên truyền thuộc Chiến khu Việt Bắc. Từ
năm 1952, ông làm đoàn trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị Quân đội nhân
dân Việt Nam, hoạt động biểu diễn phục vụ các chiến dịch và quân dân vùng kháng
chiến. Tháng 10 năm 1954, ông cùng đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955 khi
đoàn văn công Tổng cục Chính trị mở rộng thành nhiều đơn vị nghệ thuật độc lập,
Hoàng Cầm được cử làm trưởng đoàn kịch nói quân đội. Cuối năm 1955, ông
chuyển ngành sang Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm
1957, Hoàng Cầm tham gia đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, được bầu vào
Ban chấp hành khóa I của Hội, được cử vào ban giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà
văn. Năm 1958, sau đợt học tập đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, Hoàng Cầm

bị ra khỏi Ban Chấp hành Hội Nhà văn. Từ đó, ông sống như một thường dân tại Hà
Nội. Tác phẩm của ông, 30 năm sau đó, không được công bố và in ấn.Năm 1988,
trong cao trào đổi mới, Hoàng Cầm và một số nhà văn khác được khôi phục tư cách
hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, được khôi phục quyền công bố, đăng tải tác phẩm.
Từ đó, Hoàng Cầm ở trong ngôi nhà số 43 phố Lý Quốc Sư - Hà Nội mà sáng tác
cho đến tận khi ông lìa xa cõi bụi, hoàn toàn “trở về với Kinh Bắc”.
Nói về đời và thơ Hoàng Cầm không thể không nhắc đến những mối tình lạ
lùng nhất của ông. Theo lời ông Bùi Hoàng Anh, con trai của Hoàng Cầm, những
năm cuối đời, tuy không còn sức khỏe, nhưng ông vẫn rất hóm hỉnh và hài hước khi
được hỏi về cái thuở ban đầu lưu luyến, lúc mới bước chân vào văn chương, trường
tình, trường đời.
Mối tình năm lên tuổi 12 là một câu chuyện tình đơn phương của ông với
một cô gái hơn nhà thơ rất nhiều tuổi: chị Vinh. Ngày đó, Hoàng Cầm mê "chị" như
điếu đổ, suốt ngày lũn cũn theo bước chân của cô gái Kinh Bắc xinh đẹp ấy. Có lẽ,
đó là mối tình đầu đời của Hoàng Cầm, là giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng là vị


21
thuốc khác trong đời để khi ông choàng tỉnh giấc, ông cũng ngạc nhiên với chính dư
âm của nó là những vần thơ kì lạ mà tiêu biểu là bài thơ Lá Diêu Bông với lời thách
đố đau đáu: “Đứa nào tìm đƣợc Lá Diêu Bông/ Từ nay ta gọi là chồng”.
Đời ông có bút danh là Hoàng Cầm thì gần như cũng gắn liền với chữ
"Hoàng". Người vợ đầu là Hoàng Thị Hoàn, do cha mẹ ông cưới cho, mất lúc ông
đi kháng chiến. Bà đã sinh hai đứa con cho thi sĩ. Con trai đầu là nhà báo Hoàng
Kỳ, thứ nữ là nghệ sĩ kịch Hoàng Yến tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh đã sớm qua
đời.
Người vợ thứ hai của nhà thơ, bà Tuyết Khanh, vào vai Kiều Loan (vở kịch
nổi tiếng của Hoàng Cầm), đã hạ sinh cho ông một nàng tố nữ đặt tên nhân vật vở
kịch để kỷ niệm, cũng là mối tình lớn mà những thi sĩ cùng thời thường hay trầm
trồ, bàn tán. Nhất là khi thuở trẻ, bà còn là mối tình si của nhà thơ Vũ Hoàng

Chương. Chính điều này đã tạo nên câu chuyện tình tay ba nổi tiếng có một không
hai trong lịch sử kịch thơ Việt Nam thuở ấy. Mối lương duyên giữa Tuyết Khanh và
Hoàng Cầm tuy đẹp nhưng cũng để lại nhiều vết thương đau lòng. Sinh hạ được
Kiều Loan, bà Tuyết Khanh phải bế con về Hải Phòng để nuôi dưỡng và chờ ngày
thắng lợi đón chồng trở về. Nhưng sức chịu đựng của người đàn bà cũng chỉ có giới
hạn. Sau mấy năm, trước một cảnh ngộ éo le, bà đã đành "đi bước nữa", rồi cùng
con riêng và chồng vào Nam năm 1954.
Ở lại chiến khu đến năm 1950, Hoàng Cầm đã gặp một thiếu nữ tài sắc tên là
Minh Xuân. Khi ấy Minh Xuân đang ở trong một hoàn cảnh trớ trêu, bà bị ép phải
lấy một cán bộ chỉ huy mà không hề có tình yêu. Cảm thương cảnh tình đó, Hoàng
Cầm đã đem lòng yêu Minh Xuân và cũng được giai nhân đáp lại một cách nồng
nàn. Song chiến dịch biên giới đã khiến họ mất liên lạc với nhau. Mãi sau khi
Hoàng Cầm gặp lại một người bạn chung của hai người thì mới được nghe câu
chuyện tang thương về giai nhân bạc mệnh này. Nàng đã trẫm mình xuống dòng


22
suối sâu vì nỗi cô đơn, trống vắng sau sự xa cách với nhà thơ và bị ép duyên đến
nghiệt ngã.
Người vợ thứ ba, người sau cùng đã sống với nhà thơ cũng là người sống với
ông lâu nhất là bà Lê Hoàng Yến. Nhưng bà cũng đã mất từ trước ông rất lâu, để
ông ở lại với những năm tháng bĩ cực. Ngôi nhà ở 43 Lý Quốc Sư là nhà bà Hoàng
Yến. Người đàn ông phong tình, đa đoan là Hoàng Cầm chỉ sống một mình 25 năm
đằng đẵng. Trong ba người vợ của Hoàng Cầm thì bà Lê Hoàng Yến là người cùng
chồng chịu đựng bao thăng trầm suốt ba mươi năm có lẻ (từ năm 1955 đến khi bà
mất, năm 1985). Bà cũng là người đem lại nguồn dinh dưỡng cho nguồn thơ Hoàng
Cầm, trong đó có Về Kinh Bắc bất hủ.
Ngoài những bóng hồng có tên cụ thể, Hoàng Cầm còn có những mối tình
chóng vánh, không tên nhưng cũng không kém phần lãng mạn, mãnh liệt. Câu
chuyện tình của ông trong quá trình theo học ở Hà Nội (mặc dù đã có vợ con) với

một cô gái nhảy có tên Phương Tuyết từng làm xôn xao dư luận lúc bấy giờ. Nghe
nói nàng đã từng nuôi dưỡng chàng đèn sách suốt nửa năm ròng. Mặc dù chóng
vánh nhưng cô gái cũng đã kịp trở thành một nàng thơ nồng nàn, tha thiết trong tâm
hồn ông.
Người viết xin lấy những dòng mà nhà thơ Vi Thùy Linh dành tặng Hoàng
Cầm trong đêm thơ tưởng nhớ tác giả Lá Diêu Bông để tóm tắt về hành trình tình ái
của ông: "Không ai biết Hoàng Cầm đã yêu bao nhiêu, có bao nhiêu cuộc tình. Ông
đã đi mải miết trên con đường tình, qua mùa mùa ái ân và không ngừng khắc khoải.
Cả hụt hẫng, khổ đau, yếu đuối cũng không gục ngã" [4, 158].
Qua việc phân tích trên, người viết muốn nhấn mạnh rằng tất cả các yếu tố
tiểu sử: thời đại, quê hương, gia đình, bản thân, tình ái đều là những tiền đề cho sự
xuất hiện của yếu tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm. Sự phân tích cụ thể hơn, người
viết xin thể hiện ở những phần sau của luận văn.


23
1.1.2.Các sáng tác thơ của Hoàng Cầm
Suốt hành trình thơ của mình, ngoài những bài thơ lẻ, Hoàng Cầm đã cho
xuất bản những tập thơ chính sau:
- Tiếng hát quan họ (in chung trong tập Cửa biển, xuất bản năm 1956)
- Mƣa Thuận Thành (1991)
- Lá Diêu Bông (1993)
- Bên kia sông Đuống (thơ chọn, 1993)
- Về Kinh Bắc (1960, in sách 1994)
- 99 tình khúc (1995)
- Đến từ hƣ không (2002).
1.2. Lí thuyết về yếu tố vô thức trong sáng tạo văn học
1.2.1. Vô thức dưới góc nhìn của khoa học
Thuật ngữ“vô thức”(unconscious) từ lâu đã được các nhà tâm lí học và triết
học quan tâm nghiên cứu. Nhiều triết gia như E.Kant, Phesne, Harman, đều có đề

cập đến hiện tượng vô thức. Phesne đã đưa ra một hình ảnh rất sinh động, vì tâm lí
của con người như một tảng băng, mà phần lớn của nó chìm sâu dưới nước không
thấy được, nhưng đúng ở đây mới có những tác động mạnh nhất đến phần nhô lên
trên mặt nước Các nhà triết học và tâm lý học đều gặp nhau ở quan điểm về đối
tượng nghiên cứu khi cho rằng vô thức là thiên về động cơ tiềm ẩn, mà chính nhà
văn có khi cũng cảm thấy được một phần nào, và thường ngộ nhận thành một động
cơ khác thuộc về ý thức như không ít nhà thơ cho rằng mình làm thơ theo trực giác.
Nhưng điều đáng nói ở đây là trực giác dù sao cũng là một dạng thái của ý thức, còn
vô thức là một hình thái của tiền ý thức hay một tiềm thức.
Sự ra đời và phát triển của phân tâm học là cột mốc rất quan trọng cho khái
niệm vô thức. Vì thế, có thể phân chia các cách hiểu về khái niệm này theo hai thời
kì: trước và sau khi phân tâm học ra đời.
Trong thời cổ đại ở các nền văn minh Hi Lạp, La Mã ở phương Tây hay
Babylon, Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông do chưa có sự ra đời của tâm lí học

×