Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.23 KB, 63 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ VÂN

THƠ VĂN HUỲNH THÚC KHÁNG TRONG TIẾN TRÌNH
HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC VIỆT NAM


Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học : PGS – TS Trần Ngọc Vương







Hà Nội – 2009
MỤC LỤC
Trang
Phần một : Mở đầu 1


1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 4
4. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 4
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 5
6. Cấu trúc của luận văn 5

Phần hai : Nội dung 7
Chương 1 : Con người và sự nghiệp 7
1. Cốt cách xứ Quảng trong con người Huỳnh Thúc Kháng 7
2. Con người và sự nghiệp 10
Chương 2 : Văn nghiệp Huỳnh Thúc Kháng 19
1. Giai đoạn 1 : trước năm 1908 24
1.1. Bối cảnh lịch sử 24
1.2. Tác phẩm chính 27
2. Giai đoạn 2 : từ 1908 đến 1921 32
2.1. Bối cảnh lịch sử 32
2 2. Tác phẩm chính 34
3. Giai đoạn 3 : từ 1921 đến 1943 42
3.1. Hoàn cảnh lịch sử 42
3.2. Tác phẩm chính 45


Chương 3 : Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá 62
văn học Việt Nam
1. Tổng quan về sự vận động của nền văn học Việt Nam 63
những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
2. Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá văn học 67
Việt Nam
2.1. Những tác động tích cực 69

2.2. Một số hạn chế 84

Phần ba : Kết luận 91
Tài liệu tham khảo 96
Phụ lục 100















MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam diễn ra quá
trình chuyển biến từ xã hội phong kiến cổ truyền phương Đông sang xã hội
cận hiện đại tư sản phương Tây. Đó là bước chuyển cực kì sâu sắc cả về thời
gian lẫn không gian lịch sử. Sự thay đổi này xảy ra sớm nhất và nổi bật nhất
trong phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc. Xã hội Việt Nam xuất hiện
nhiều xu hướng mang tính chất cải cách. Điểm mới là các phong trào cách
mạng này đều do các sĩ phu nặng lòng trung nghĩa khởi xướng và nó đã diễn

ra mạnh mẽ, công khai, mượn hình thức của một cuộc vận động văn hoá và
dùng văn chương làm công cụ tuyên truyền. Đó chính là không gian tư tưởng
và không khí văn chương để các nhà nho chí sĩ xuất hiện trên văn đàn
Việt Nam.
Trong sự vận động của văn học đầu thế kỉ, từ một nền văn học trung đại
mang tính khu vực, văn học Việt Nam bắt đầu chuyển dần từng bước sang
nền văn học hiện đại mang tính quốc tế với những tên tuổi lớn như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và nhiều nhà yêu nước khác.
Vốn là những học trò ưu tú của Nho môn trong một giai đoạn lịch sử đầy biến
động, hơn ai hết họ thấm nhuần lí tưởng “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”. Lí tưởng nam nhi, tinh thần tự nhiệm, sự xuất hiện của trách nhiệm
công dân của các nhà nho chí sĩ hồi đầu thế kỉ đã tạo ra “những vùng, những
mảng mờ trong tư tưởng, tư duy nghệ thuật với những nỗ lực cách tân to lớn”.
Trong số những nhà nho chí sĩ coi văn chương là một vũ khí lợi hại để đấu
tranh với kẻ thù ấy, Huỳnh Thúc Kháng và sự nghiệp văn học của ông gắn bó
chặt chẽ với những biến động của thời đại và phản ánh rõ nét không khí thời
đại cũng như khuynh hướng vận động của văn học Việt Nam trong giai đoạn
giao thời nhạy cảm ấy. Nói đúng hơn, Huỳnh Thúc Kháng từ một nhà nho đã
vươn lên trở thành một trong những lãnh tụ tiêu biểu nhất của phong trào yêu
nước và cách mạng đầu thế kỉ XX, đồng thời là một tác gia văn học tiêu biểu
và quyền uy của văn học Việt Nam giai đoạn đó. Chúng tôi nhận thấy ở
Huỳnh Thúc Kháng hội tụ đầy đủ đặc điểm của một trong những nhà văn tiêu
biểu nhất của thế hệ ông :
Thứ nhất, Huỳnh Thúc Kháng đã để lại một văn nghiệp khá đồ sộ thuộc
nhiều thể loại khác nhau, từ thơ, phú (chữ Hán, chữ quốc ngữ), điếu, văn xã
thuyết, phê bình, dịch thuật,… quan trọng hơn là khi khảo sát thơ văn ông
chúng tôi thấy ông đóng một vai trò rất quan trọng, là một trong những người
tiên phong và quyền uy nhất trong quỹ đạo vận động của văn học Việt Nam từ
phạm trù trung đại tiến dần sang phạm trù hiện đại, hội nhập vào quỹ đạo văn
học thế giới hai mươi, ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Chính những nhà nho chí

sĩ đầu thế kỉ mà tiểu biểu là Huỳnh Thúc Kháng đã làm nên một diện mạo
mới vẻ đẹp đặc biệt của hình tượng “cái tôi” trong thơ ca Việt Nam.
Thứ hai, trong số những nhà nho chí sĩ nhập thế bằng con đường lập
ngôn, sáng tác văn chương đương thời, Huỳnh Thúc Kháng là một trong số
không nhiều người tiến xa nhất trong văn nghiệp : hoạt động trên một mặt
trận rất mới, rất “hiện đại” là báo chí, viết phê bình, dịch thuật,… hơn thế nữa,
ông là người duy nhất trong số họ mà sự nghiệp hoạt động cách mạng cũng
như văn nghiệp đến được với cách mạng tháng Tám và những ngày đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự hiện diện của một lão thành cách mạng,
một cựu “quốc sự phạm”, một nhà văn nhà thơ mà nhân cách và tài năng đã
được nhân dân ghi nhận và ngưỡng vọng giữa văn đàn trong một bối cảnh lịch
sử mới chắc hẳn sẽ đem đến những ảnh hưởng có tác động tích cực đối với sự
phát triển của văn học Việt Nam.
Với những lí do kể trên cùng với mong muốn bổ sung thêm một tên tuổi
lớn nhưng vì những lí do nào đó còn bị khuất lấp vào đội ngũ những nhà văn
– chí sĩ tiêu biểu hồi đầu thế kỉ, người viết lựa chọn đề tài này với hi vọng
bước đầu tìm hiểu về sáng tác của Huỳnh Thúc Kháng – một trong những nhà
hoạt động cách mạng chân chính và nổi bật vào bậc nhất trong 30 năm đầu thế
kỉ XX. Những năm qua chúng ta đã nghiên cứu thơ văn và trả lại vị trí xứng
đáng cho Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế,… thì không có lí
do gì chúng ta không đặt ra vấn đề nghiên cứu Huỳnh Thúc Kháng với tư
cách một tác giả văn học, một nhà văn hoá tiêu biểu của dòng văn học yêu
nước và cách mạng đầu thế kỉ trên cả hai phương diện những đóng góp tích
cực vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà cũng như những điểm
hạn chế làm cản trở sự vận động của văn học Việt Nam những năm hai mươi,
ba m ươi năm của thế kỉ XX.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như trên đã trình bày, trong quá trình hoạt động cách mạng, để phục vụ
cho mục đích chính trị, Huỳnh Thúc Kháng cũng như nhiều nhà cách mạng
đương thời đã sử dụng văn chương như một phương tiện đấu tranh đắc lực.

Song, nói như thế đúng nhưng vẫn chưa đủ, còn phải là họ làm chính trị bằng
văn chương. Chính vì thế mà các sáng tác của họ gắn liền với những thăng
trầm của lịch sử và đời sống văn hoá, xã hội
Trong quá trình tìm hiểu trước tác của Huỳnh Thúc Kháng chúng tôi
nhận thấy : ông có một sức viết không thể xem thường ở nhiều thể loại và với
nhiều bút danh khác nhau. Tuy nhiên, để làm rõ về vai trò của thơ văn Huỳnh
Thúc Kháng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam trong phạm vi
giới hạn của luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những đóng góp của
nhà chí sĩ ở các phương diện : ý thức cá nhân nghệ sĩ, quan điểm thẫm mĩ, hệ
thống hình tượng, thể loại, ngôn ngữ văn học,… biểu hiện trong một số tác
phẩm tiêu biểu ở mỗi giai đoạn sáng tác của ông.
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát trước tác của Huỳnh Thúc Kháng
trên quan điểm khách quan hoá sự nghiệp văn học của ông, từ đó đi đến
những đánh giá khách quan giá trị thơ văn Huỳnh Thúc Kháng cả về những
đóng góp tích cực cũng như những hạn chế, thậm chí kìm hãm, nhất là khi đặt
nó vào quỹ đạo vận động của văn học sử nước nhà đầu thế kỉ XX.
3. Mục đích, Ý nghĩa của đề tài
Trên quan điểm xem xét những đóng góp của thơ văn Huỳnh Thúc
Kháng đối với tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam trong những thập
niên đầu thế kỉ XX, tác giả luận văn mong muốn làm sáng tỏ những đóng góp
cũng như nhấn mạnh tác động (cả tích cực lẫn hạn chế, thậm chí là kìm hãm)
của thơ văn Huỳnh Thúc Kháng về mặt nội dung cũng như về nghệ thuật đến
sự hình thành của văn học hiện đại, qua đó khẳng định vị trí của ông với tư
cách là một tác giả văn học, một nhà văn hoá tiêu biểu trong 30 năm đầu
thế kỉ.
Luận văn không mong muốn gì hơn là qua việc khảo sát và sự tìm tòi
nghiêm túc của mình, trả lại cho thơ văn Huỳnh Thúc Kháng một vị trí xứng
đáng và khách quan trong lịch sử văn học (chứ không phải là trong lịch sử
chính trị), qua đó, mong muốn tạo điều kiện cho những người tiếp theo nghiên
cứu sâu hơn thơ văn Huỳnh Thúc Kháng.

4. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay, nếu như việc nghiên cứu về vai trò, vị trí của Huỳnh Thúc
Kháng trên phương diện lịch sử – chính trị đã được khẳng định, thì ở phương
diện sáng tác văn chương đều chưa được thoả đáng, còn có phần phiến diện.
Ví dụ như tác giả Vương Đình Quang ngay trong công trình Thơ văn Huỳnh
Thúc Kháng đã nhận xét : “… Cái phần để cho người ta thừa nhận Huỳnh
Thúc Kháng là một nhà văn theo quan điểm văn học, mỹ học không có
mấy…”. Ngoài một số công trình sưu tầm, tuyển chọn các tác phẩm của
Huỳnh Thúc Kháng, phổ biến nhất là cuốn Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng chọn
lọc của nhà nghiên cứu Chương Thâu và Huỳnh Thúc Kháng – tác giả, tác
phẩm của Nguyễn Q. Thắng, ngoài ra chưa có một công trình nghiên cứu
khoa học kĩ càng và nghiêm túc nào về văn nghiệp cũng như đưa ra những
đánh giá về đóng góp của thơ văn Huỳnh Thúc Kháng đối với sự phát triển
của văn học Việt Nam đầu thế kỉ. Trong chương trình Văn học ở nhà trường
phổ thông cũng không có tác phẩm nào của ông, còn các khoá luận, luận văn
trong trường đại học hay những chuyên luận về thơ văn Huỳnh Thúc Kháng
cũng gần như vắng bóng. Đó là một thực trạng đáng phải xem xét lại, nhất là
khi đặt các tác phẩm của Huỳnh Thúc Kháng trong tiến trình vận động của
văn học Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài luận văn này, chúng tôi đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như : Phương pháp
thống kê, phân loại ; phương pháp đối chiếu, so sánh ; phương pháp đồng đại,
lịch đại; phương pháp phân tích, tổng hợp ; phương pháp lịch sử – cụ thể. Tuỳ
từng vấn đề đưa ra mà chúng tôi sử dụng một hay kết hợp một vài phương
pháp với nhau
để đạt hiệu quả biểu đạt tốt nhất.
6. Cấu trúc luận văn
Chúng tôi trình bày luận văn với 4 phần chính:
- Phần I : Phần mở đầu

- Phần II : Phần nội dung gồm 3 chương :
Chương 1 : Con người và sự nghiệp
Chương 2 : Văn nghiệp Huỳnh Thúc Kháng
Chương 3 : Huỳnh Thúc Kháng và tiến trình hiện đại hoá văn học
Việt Nam
- Phần III :
+ Phần kết luận
+ Danh mục Sách tham khảo
+ Phụ lục



















PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1

CON NGƢỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1. Cốt cách xứ Quảng trong con người Huỳnh Thúc Kháng
Trong phần này của luận văn, chúng tôi mong muốn đi tìm và lí giải
nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến tính cách nhà cách mạng. Qua một vài nét
phác thảo, chúng tôi cho rằng cốt tinh xứ Quảng – quê hương nhà chí sĩ – đã
nhiễm rất sâu vào Huỳnh Thúc Kháng, đến mức mà khi đi tìm lời giải đáp cho
cá tính và cốt cách của nhà chí sĩ, người ta thường tìm về cội nguồn quê
hương, mảnh đất Quảng Nam “Lam sơn chướng khí” nhưng cũng là nơi sản
sinh ra những nhân vật kiệt hiệt nhất trong thời đại “mưa Âu gió Á” nhiều
biến động.
Không chỉ dừng lại ở dó, chúng tôi còn nhận thấy, chính những biến loạn
của đất nước, cùng sự thất bại “đầu rơi, máu chảy” của Nghĩa hội Quảng Nam
hoạt động trong phong trào Cần vương mà ông tận mắt được chứng kiến từ
thuở thiếu niên cùng với quá trình theo đòi “cửa Khổng sân Trình” với tinh
thần “khắc kỉ phục lễ” được ông tiếp thu và thực hành đến mức sâu đậm. Tất
cả những yếu tố này đã tạo nên một Huỳnh Thúc Kháng vừa hết sức trang
nghiêm, cẩn trọng, cương quyết, chân thành nhưng cũng lại tới tận mức bảo
thủ, ương ngạnh, Đó chính là những nét tiêu biểu nhưng cũng là những
điểm hạn chế trong tính cách con người Huỳnh Thúc Kháng.
Những nét tính cách này in đậm trong con người thường nhật của ông và
cũng là cơ sở để ta nói rằng nó in đậm trong dấu ấn sáng tạo văn chương của
Huỳnh Thúc Kháng.
2. Con người và sự nghiệp
Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947) còn có tên là Huỳnh Hanh, tự là Giới
Sanh, hiệu Minh Viên, quê làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện
Tiên Phước, phủ Tam Kì (nay thuộc thôn I, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên
Phước), tỉnh Quảng Nam. Tổ tiên ông vốn là người Bắc vào xứ Quảng lập
nghiệp từ thế kỉ XIV, XV và chỉ đơn thuần làm nghê nông. Tuy xuất thân từ
gia đình nhiều đời làm nông, nhưng thân sinh Huỳnh Thúc Kháng lại mang
giấc mộng khoa cử, đi thi vài lần nhưng không đỗ đạt gì, thêm vào đó những

biến cố đau lòng của gia đình sau sự ra đi của hai người anh trai vốn nổi tiếng
thông minh, ham học hỏi là những nguyên nhân thúc giục Huỳnh Thúc Kháng
khắc kỉ đến cùng để theo đuổi nghiệp khoa cử, “trải trên 20 năm như một
ngày theo khuôn khổ nghiêm huấn không lúc nào sai”. Chính nỗ lực không
ngừng nghỉ ấy mà ngay từ nhỏ, Huỳnh Thúc Kháng đã nổi danh là một trong
tam hùng xứ Quảng (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phạm Liệu). Tuy
vậy, mãi đến năm 29 tuổi (1904) ông mới đỗ tiến sĩ nhưng lại không lựa chọn
con đường hoạn lộ mà cùng với các bạn đồng chí hướng như Phan Châu
Trinh, Trần Quý Cáp, rẽ sang một hướng khác nhiều gian nan, cực nhọc hơn
nhưng tiếng thơm lưu lại đến muôn đời : con đường hoạt động cách mạng.
Những năm cuối thế kỉ XIX, đất nước ta gần như chìm đắm trong vòng
nô dịch cuả thực dân Pháp. Những biến động lớn lao trong đời sống xã hội
cùng những biến cố từ bên ngoài bằng nhiều con đường được đưa vào Việt
Nam đã thúc giục những nhân sĩ tâm huyết với dân tộc không thể mãi khoanh
tay nhìn đất nước trong cảnh lầm than, cơ cực. Để cứu đất nước ra khỏi thực
trạng bi thảm ấy, họ phải nhập cuộc với tất cả sự tự giác và nghị lực phi
thường. Trong số không ít những khả năng hành chỉ đương thời, duy tân, tự
cường là con đường được những chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu
Trinh, Trần Quý Cáp lựa chọn và theo đuổi.
Đỗ đạt theo đúng ước nguyện thân phụ hằng gửi gắm nhưng khá đột
ngột khi Huỳnh Thúc Kháng rẽ sang một bước ngoặt khác mà không vì bất kì
một biến cố hay áp lực bên ngoài nào tác động vào. Đây là một sự lựa chọn
dũng cảm, hoàn toàn chủ động có ý thức và có ý nghĩa bước ngoặt không chỉ
đối với sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng mà còn đối với lịch sử dân tộc trong
một giai đoạn có nhiều biến động lớn lao đầu thế kỉ XX. Sự kiện quan trọng
này đã được lịch sử ghi nhận : “Người đỗ đạt mà không ra làm quan thì không
phải đến thời điểm này mới có, nhưng đỗ chính thức đại khoa mà không ra
làm quan thì những người như vậy trong lịch sử khoa cử Việt Nam không
nhiều. Trước Nguyễn Thượng Hiền, tôi không nhớ được có yếu nhân nào đã
từng làm như thế. Sau Nguyễn Thượng Hiền, giờ tới lượt hai ông, nghè Ngô

và nghè Huỳnh – những người cùng trang lứa (Huỳnh Thúc Kháng sinh năm
1876, Ngô Đức Kế sinh năm 1878), cùng tâm trạng và rồi, sẽ cùng chung
nhiều chặng của số phận” [39].
Cuộc tiếp xúc với các sách báo Tân thư, Tân văn từ phương Tây đưa
vào, từ Trung Quốc đưa sang dường như ngay lập tức có tác động mạnh mẽ
khiến nhà chí sĩ đi đến một quyết định dứt khoát, cùng các đồng chí thực hiện
nam du kêu gọi bài xích lối học khoa cử cũ, đả kích chế độ quân chủ, đề
xướng tân học, … Phong trào Duy tân mà Huỳnh Thúc Kháng là một trong ba
lãnh tụ đã nhanh chóng lan rộng khắp Trung Kì, nó cho thấy những lời kêu
gọi có tính chất hoà bình của một cuộc vận động xã hội để thức tỉnh, giục giã
nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng lối sống mới của các ông một khi
đã đi vào lòng quần chúng, tới tận từng thôn xóm sẽ làm bùng phát các làn
sóng đấu tranh xã hội, kích thích họ nổi dậy thành những phong trào có tính
chất bạo lực cách mạng, dù chỉ là đấu tranh tự phát nhưng những phong trào
ấy đã góp phần không nhỏ làm thay đổi tính chất và mục tiêu các phong trào
đấu tranh đang có phần im ắng lúc bấy giờ. Trong số các phong trào cách
mạng diễn ra dưới ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, phong trào chống sưu
bùng nổ ở Quảng Nam và sau đó lan rộng ra khắp dải đất từ Hà Tĩnh vào Bình
Định, lan sâu vào cả những thôn làng miền ngược hẻo lánh (năm 1908) là tiêu
biểu hơn cả. Chính sự bùng nổ của phong trào cách mạng này đã khiến hàng
loạt sĩ phu yêu nước mà đứng đầu là những lãnh tụ của phong trào Duy Tân
phải nhận án lưu đày Côn Đảo. Trần Quý Cáp đang làm giáo thụ ở Khánh
Hòa phải lên đoạn đầu đài, Huỳnh Thúc Kháng và cả Phan Châu Trinh (khi
đó đang ở Hà Nội) phải chịu án lưu đày, “ngộ xá bất nguyên” trở thành một
trong những “đệ nhất tù nhân” của “địa ngục trần gian” Côn Đảo.
Năm 1921, sau 13 năm bị lưu đày Huỳnh Thúc Kháng và một số bạn tù
được mãn hạn. Trở về từ “trường học thiên nhiên” Côn Đảo, Huỳnh Thúc
Kháng càng trở nên già dặn, kiên trung, đến mức dù sống trong lòng nghi kị
của một số bạn hữu cũ, dù trong hoàn cảnh nghèo khó, nhưng khi thực dân
Pháp đưa quan chức, bổng lộc ra làm mồi nhử thì ông vẫn rất mực tỏ thái độ

bất hợp tác. Vào năm 1926, thực hiện “chính sách ve vãn thuộc địa”, thực dân
Pháp chủ trương cải tổ Hội đồng Tư phỏng thành Viện Nhân dân đại biểu (gọi
tắt là Viện dân biểu), Huỳnh Thúc Kháng ra ứng cử và trúng cử, rồi được bầu
làm Viện trưởng Viện dân biểu.
Ngay từ khi mới được bầu làm Viện trưởng, Huỳnh Thúc Kháng đã
tranh thủ sự hợp pháp này để đấu tranh công khai đưa ra một số yêu sách đòi
mở rộng dân chủ, thực hiện những chính sách mà chính quyền thuộc địa đã
hứa hẹn. Những hoạt động mà Huỳnh Thúc Kháng thực hiện trong thời gian
này đã một lần nữa cho thấy nhiệt huyết cách mạng, lòng yêu nước mãnh liệt
của một trong những lãnh tụ cách mạng kiệt hiệt đầu thế kỉ XX.
Với nhãn giới chính trị sắc bén của mình, Huỳnh Thúc Kháng nhận thấy
rằng trong vòng xoáy của bão táp thời đại lúc bấy giờ, một dân tộc nhỏ bé, lạc
hậu như nước ta không thể đủ sức chống lại một nước phương Tây hùng
mạnh. Ông trăn trở và nhận thấy rằng, đấu tranh văn hóa là một trong những
con đường hứa hẹn mang lại thành công cho sự nghiệp cứu nước. Làm Viện
trưởng Viện dân biểu để đại diện cho nhân dân nói lên những quyền lợi của
mình, thành lập Công ty Huỳnh Thúc Kháng chuyên về In và báo chí, ra đời
báo Tiếng Dân (10 – 08 – 1927), đó là một bước rẽ lịch sử đánh dấu một bước
chuyển mới cao hơn về chất, quyết liệt hơn về tư tưởng của nhà chí sĩ họ
Huỳnh. Sự kiện một nhà nho chí sĩ ra làm báo, mà lại đứng đầu trên trận
tuyến chống quân thù (ông vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Tiếng Dân),
giữa vòng xoáy mờ mịt của “văn hóa nô dịch” mà những tờ báo do Pháp lập
ra và bảo hộ đang làm mưa làm gió (Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp
chí), quả là một sự kiện lớn mà những người cùng thời với ông, ngoài Ngô
Đức Kế – chủ bút báo Hữu Thanh (1921) ra không có nhiều người đủ can
đảm và niềm tin để lựa chọn và
theo đuổi.
Đầu những năm 1940, trong cơn chính biến của cả thế giới, trong nước
Nhật đảo chính Pháp, nắm lấy toàn bộ quyền hành trong tay, để “thu phục
nhân tâm”, ổn định dư luận, lẽ đương nhiên người Nhật phải tìm đến những

nhân sĩ “có máu mặt”, có đủ uy tín và tài năng kéo theo mình đám đông quần
chúng nhân dân. Một lần nữa cái tên Huỳnh Thúc Kháng trở thành “địa chỉ
nóng”. Phát xít Nhật bày đủ trò từ dụ dỗ, dọa dẫm những mong được Huỳnh
Thúc Kháng nhận lời ra giúp sức cho chính phủ bù nhìn của chúng, nhưng
một lần nữa chí khí khảng khái, tấm lòng yêu nước kiên trung của ông lại thể
hiện, ông thẳng thắn từ chối cộng tác với Nhật.
Cách mạng tháng Tám thành công, chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn
năm ở nước ta bị đánh đổ, chính quyền cách mạng được thành lập hướng nhân
dân tiến bước theo mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng chế độ cộng hòa. Đó
cũng là lúc nước nhà phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thử thách mới, đất
nước cần những tấm gương mà đạo đức và tầm nhân cách đủ lớn để có thể
hiệu triệu sự đồng thuận đồng lòng của quốc dân. Nhà lão thành cách mạng
Huỳnh Thúc Kháng là gương mặt được Đảng, Chính phủ lâm thời đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh “chọn mặt gửi vàng”, mời ra làm việc trong Chính phủ
Liên hiệp kháng chiến, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Sự kiện lịch sử này đánh dấu một cuộc tiếp xúc lớn trong hành trình tư
tưởng và hoạt động cách mạng của Huỳnh Thúc Kháng. Từ chủ nghĩa yêu
nước và lấy chủ nghĩa dân tộc làm hệ quy chiếu, nhà chí sĩ đến với chính
quyền cách mạng với niềm tin gửi trọn vào nhà yêu nước cách mạng Hồ Chí
Minh như một tất yếu lịch sử nhưng cũng lại là một lối hành xử hoàn toàn chủ
động có ý thức.
Trong quá trình kinh lý miền Trung, do tuổi cao sức yếu, Huỳnh Thúc
Kháng tạ thế ngày 21 tháng 4 năm 1947 tại thôn Phú Bình, thị trấn Chợ Chùa,
tỉnh Quảng Ngãi – nơi Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Trung bộ đóng
trụ sở, hưởng thọ 71 tuổi. Trước khi ra đi, Huỳnh Thúc Kháng còn kịp gửi cho
Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức điện báo, trong đó bày tỏ rõ tâm sự của mình :
“Gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và
dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả.
Chỉ tiếc không gặp được cụ lần cuối cùng ! Chúc cụ sống lâu để dìu dắt quốc

dân lên đường vinh quang, hạnh phúc”.
Chào vĩnh quyết.
(Quảng Ngãi, ngày 14 tháng 4 năm 1947)
Huỳnh Thúc Kháng ra đi trong niềm tiếc thương và thành kính vô hạn
của quốc dân, đồng bào. Nhà chí sĩ được Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Hồ
Chủ tịch cùng toàn thể nhân dân để quốc tang. Trong bức thư gửi đồng bào
trong lễ quốc tang Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá
thoả đáng những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc :
“Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao.
Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày ra Côn Đảo,
mười mấy năm trường gian nan cực khổ. Nhưng lòng son, dạ sắt, yêu nước
thương nòi của cụ chẳng những không sờn, mà lại thêm kiên quyết.
Cụ Huỳnh là một người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó
không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.
Cả đời Cụ không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu.
Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập ”.
Từ sự nghiệp của nhà chí sĩ, có thể khẳng định rằng : trong số các nhà
nho yêu nước đầu thế kỉ, Huỳnh Thúc Kháng là người tiến xa nhất, đúng hơn,
là người duy nhất trong số họ đến được với cách mạng tháng Tám, tiến xa
nhất trong phong trào đấu tranh yêu nước và giải phóng dân tộc với hành
trạng là tinh thần yêu nước kiên trung. Cuộc đời ông, văn nghiệp ông, vì vậy
vắt ngang qua hai thời kì với bước rẽ lịch sử đặc biệt quan trọng không chỉ
trong đời sống chính trị – xã hội mà cả trong đời sống
văn chương.











Chƣơng 2
VĂN NGHIỆP HUỲNH THÚC KHÁNG
Trước khi đi vào làm rõ mục đích cuối cùng của luận văn là làm sáng rõ
vai trò và những đóng góp của Huỳnh Thúc Kháng với tư cách một nhà văn
đối với tiến trình vận động tiến vào quỹ đạo hiện đại hóa của nền văn học Việt
Nam những năm đầu thế kỉ cả ở những mặt tích cực, có tác động nhất định
đến sự phát triển và cả những mặt hạn chế, thậm chí có tác động kìm hãm tiến
trình ấy trong một thời đại đầy bão táp và hết sức nhạy cảm, chúng tôi sẽ tiến
hành khảo sát một cách nghiêm túc văn nghiệp nhà chí sĩ.
Trong quá trình tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Huỳnh Thúc Kháng,
chúng tôi nhận thấy, các sáng tác văn chương của ông luôn gắn liền với
những mốc lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng. Trên cơ sở đó, để thuận
lợi cho việc triển khai đề tài luận văn, chúng tôi đã bám sát các mốc quan
trọng ấy và chia trước tác của ông làm ba giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn sáng tác,
chúng tôi sẽ điểm nhanh lại hoàn cảnh sáng tác trước khi đưa ra một vài nhận
xét, đánh giá có tính chất khái quát về giá trị thơ văn nhà chí sĩ.
1. Giai đoạn 1 : trước năm 1908
1.1. Bối cảnh lịch sử
Những biến chuyển quan trọng trong cuộc đời Huỳnh Thúc Kháng được
đánh dấu khi ông chính thức đỗ Tiến sĩ sau nhiều năm miệt mài đèn sách,
nhưng lại chủ động một cách đầy ý thức khi tiếp cận và tìm hiểu các sách tân
thư, tân văn của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc ;
Môngtexkiơ, J.Rut xô ở Pháp, “mua được nhiều sách mới (như Mậu Tuất
chính biến, Trung Quốc hồn, Nhật Bản Duy tân sử, Tân dân tùng báo cùng
sách Âu dịch ra Pháp văn), tôi [ ] thường với Tây Hồ đến nhà Đào (Đào
Nguyên Phổ), có bao nhiêu tân thơ đọc hết, biết được đôi chút biến thiên của

thế giới, thật bắt đầu từ năm ấy” (năm 1903) [19].
Trong số các nhà nho chí sĩ cùng thời như Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Lộ
Trạch, Nguyễn Trường Tộ, thì cuộc tiếp xúc với tân thư, tân văn này của hai
nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng dường như muộn hơn cả.
Song điều đáng chú ý ở đây là, ngoài Nguyễn Lộ Trạch và Nguyễn Trường
Tộ đã từng dâng lên vua những bản điều trần đòi canh tân đất nước, rất nhiều
các danh sĩ đương thời dường như chưa một ai đủ nhạy bén và tầm tư tưởng
cũng như khả năng để vươn lên trở thành “những lãnh tụ, những người “phất
cờ gióng trống, gõ mõ khua chuông”, gây bão tố tạo sấm chớp, cuốn theo
mình hầu như trọn vẹn tầng lớp tinh hoa của dân tộc” [39]. Chỉ đến khi gần
như trong cùng một lúc, tại Nam – Ngãi và Nghệ – Tĩnh hai chí sĩ họ Phan là
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh cùng xuất hiện giữa cơn bão thời đại,
theo đuổi hai đường hướng cứu nước khác nhau và đều có tác động nhất định
tới cuộc vận động cứu nước giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.
Ở mức độ rõ rệt, phong trào Duy Tân mà Phan Châu Trinh cùng hai
người bạn cùng chí hướng, hai nhà nho chí sĩ mẫu mực của đất Quảng bấy giờ
là Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp với đường lối cách mạng “ôn hoà”,
dùng hình thức của một cuộc vận động cải cách văn hoá nhằm “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”, cổ động tân học, đả kích lối học khoa cử, phát
triển thương nghiệp, hô hào lập các hội thương, hội nông, hội công, nhằm
canh tân đất nước theo con đường các nước tiên tiến ở châu Âu, để tích luỹ
nội lực cho đất nước đã gây được những tác động tích cực tới mọi mặt đời
sống của xã hội ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Phong trào Duy Tân cùng
với nhà trường Đông Kinh Nghĩa Thục đã nhanh chóng lan rộng và gây được
một tầm ảnh hưởng lớn trong phong trào yêu nước của quần chúng.
Con đường cứu nước của bộ ba hào kiệt xứ Quảng dường như đi ngược
lại với truyền thống sử dụng bạo lực, lựa chọn đấu tranh vũ trang để giành độc
lập dân tộc mà cha ông ta hàng ngàn năm đã lựa chọn. Tuy nhiên, nếu xét trên
phương diện đồng đại, chúng ta hẳn nhiên đều nhận thấy rằng đối thủ của
chúng ta trong cuộc chiến cuối thế kỉ XIX này là một đối thủ khác hoàn toàn

về bản chất cũng như về trình độ binh lực, tiềm lực kinh tế, khoa học – kĩ
thuật, so với phong kiến phương Bắc. Chính tính chất này của cuộc chiến
cùng với thái độ bạc nhược của triều đình phong kiến đã dẫn đến tình trạng,
chưa bao giờ các cuộc khởi nghĩa nổ ra với tinh thần “thiết huyết” đến thế
nhưng cùng đều bị nhấn chìm trong những bể máu lênh láng đến thế. “Máu
của nhiều tầng lớp, nhiều thế lực, lực lượng. Có thể nói : máu chảy từ nhiều
phía. Khi máu đổ quá nhiều mà phía trước vẫn còn mờ mịt, thì điều khả dĩ thi
thố là vừa không được làm sai lạc hay bỏ rơi mục đích tối hậu, vừa làm sao để
bớt đổ máu vô ích” [39]. Xét ở phương diện này, Duy Tân là một con đường
cứu nước mới mẻ và chỉ có thể được thực hiện bởi những nhân sĩ ưu tú, can
trường của thời đại.
Kiên trì con đường đã lựa chọn, bộ ba chí sĩ xứ Quảng đã hăng hái nam
tiến, bước chân của các ông đã đặt đến ngay cả những vùng đất hẻo lánh,
được coi là miền “ngược” heo hút và khắc nghiệt của Nam Trung Bộ để hô
hào cải cách, đấu tranh đòi thực thi dân chủ, mở mang phát triển công thương
nghiệp, Những hoạt động ấy, thoạt nhìn là những vấn đề của kinh tế, chính
trị, nhưng xét trong bối cảnh lúc bấy giờ, sau khi đã cơ bản dẹp tan các cuộc
nổi dậy lớn bé ở khắp ba kì, tiếng vang của phong trào Cần vương đang lắng
dần xuống, thực dân Pháp đang dần chĩa mũi nhọn vào địa hạt văn hoá để đầu
độc tinh thần thuộc địa thì đó lại là những hoạt động có tầm ảnh hưởng và tác
động không nhỏ đến trái tim, ý thức và hành động của đông đảo nhân dân.
Đúng như C. Mác đã viết : “Cố nhiên là vũ khí của sự phê phán không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí ; lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh
đổ bằng lực lượng vật chất ; nhưng lí luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [tr. 255, 27]. Như vậy có thể nói,
trước bối cảnh ấy, sự lựa chọn được coi là tối ưu và nhất là phù hợp với sở
trường của các nhà nho là dùng văn chương làm vũ khí đấu tranh và vũ khí
văn chương cũng lại là vũ khí được nhiều nhà nho chí sĩ lựa chọn có hiệu quả
trong hành trình hoạt động cách mạng của mình.
1.2. Tác phẩm chính

Giai đoạn sáng tác đầu tiên này cũng chính là giai đoạn đầu tiên trong
đời hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ, nó gắn liền với phong trào Duy Tân.
Như đã nói, Duy Tân là một phong trào đấu tranh đòi canh tân đất nước bằng
con đường văn hoá, phát triển thương nghiệp,
Từ góc nhìn lưu hành tác phẩm, Lương ngọc danh sơn phú chính là bài
thơ khai nghiệp văn chương của Huỳnh Thúc Kháng, đây cũng là sáng tác tiêu
biểu nhất của Huỳnh Thúc Kháng trong giai đoạn sáng tác này. Từ bài phú
này, cùng với hành trình hoạt động cách mạng, Huỳnh Thúc Kháng còn làm
nhiều thơ văn để phục vụ mục đích đấu tranh đòi dân quyền và độc lập
dân tộc.
Lương ngọc danh sơn phú gắn liền với quá trình nam tiến của bộ ba hào
kiệt xứ Quảng (Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp) năm
1904. Khi vào đến trường thi Bình Định, gặp kì thi khảo hạch (trước thi
Hương) với hai chủ đề Chí thành thông thánh và Lương ngọc danh sơn, ba
nhà chí sĩ liền trà trộn vào đám nho sinh, lấy tên là Đào Mộng Giác và làm hai
bài phú nổi tiếng (Phan Châu Trinh làm bài thơ Chí thành thông thánh, còn
Huỳnh Thúc Kháng cùng với Trần Quý Cáp làm bài Lương ngọc danh sơn
phú, nhằm mục đích mượn chính đề tài của cuộc thi để nói lên tư tưởng bài
xích nền cựu học truyền thống cùng chế độ khoa cử lỗi thời, đề xướng
tân học,
Bài phú thiết tha kêu gọi nhân dân ta kế thừa dòng giống rồng tiên, con
cháu Lạc Hồng để nhìn ra bốn biển để soi rọi lại mình, Huỳnh Thúc Kháng
cảm thấy đã đến lúc không thể mãi cứ ở yên một chỗ.
Không thể để xảy ra tình trạng “một thời làm sai chính sách, Để muôn
đời phải chịu tai ương”. Tình cảnh ấy đã khiến dân tộc trở nên yếu hèn, nước
đã mất hồn sông núi cũng không còn, đau xót trước thảm cảnh ấy và như dự
cảm được bao thảm hoạ sẽ đến, tác giả kêu gọi :
Ăn năn nào kịp, mới hay đổi kế chậm rồi :
Nguy hiểm đến nơi, dầu muốn tạm yên khó thật.
Bây giờ nên đau lòng, xót dạ, theo nghĩa bỏ danh.

Trên các quan lại, dưới lớp thư sinh ; quẳng bút dậy thẳng, treo
mũ đi lanh
Từ nỗi đau nhân thế ấy, hai ông hạ bút chốt lại bài phú với một quyết
tâm : “Hựu hà tất Chí thành thông thánh, Lương ngọc danh sơn vỉ tai !” (Lại
cần gì Chí thành thông thánh, Lương ngọc danh sơn vậy thay). Theo các ông,
chính lối khoa cử lỗi thời, văn hoá lạc hậu là một trong những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến thảm cảnh mất nước. Chính vì thế, nếu phải thay đổi điều gì
thì việc đầu tiên là phải thay đổi nền văn hoá, học vấn của đất nước.
Với hào khí ấy, Lương ngọc danh sơn phú cùng với Chí thành thông
thánh của hai nhà chí sĩ đã nhanh chóng lan rộng, được rất đông sĩ tử truyền
tay nhau đọc, đồng thời gây không ít trở ngại, tức tối đối với nhà cầm quyền.
Bài phú vừa thể hiện lòng yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, đồng thời là
tiếng nói mạnh mẽ và hết sức dũng cảm trong việc phủ nhận nền cựu học
cùng chế độ khoa cử lỗi thời. Lời kêu gọi quẳng bút lông để suy nghĩ, tìm tòi
một hướng đi mới để cứu dân tộc khỏi ách lầm than nô lệ của bộ ba chí sĩ đã
có tác động mạnh mẽ, tích cực tới trái tim và khối óc của không ít học trò của
Nho môn và đông đảo nhân dân trong vùng. Bài phú ra đời là một đòn phủ
đầu đầu tiên của các nhà Duy Tân, qua bài phú, ta hiểu tại sao, chỉ xuất phát
từ hình thức của một cuộc vận động tân văn hoá, mà những nhiệt huyết của
các nhà chí sĩ lại có thể tác động mạnh mẽ tới trái tim và khối óc của quần
chúng, để từ đó, những phong trào quần chúng nổ ra đã vượt xa khuôn khổ
của một hoạt động văn hoá, khiến bọn thực dân không thể ngồi yên.
Cái văn chương là một bài thơ tiêu biểu nữa của Huỳnh Thúc Kháng
trong giai đoạn sáng tác này. Đây là bài thơ đầu tiên ông viết bằng chữ quốc
ngữ nhằm mục đích đả kích lối học cử nghiệp.
Nhìn chung, những bài thơ đầu tiên của Huỳnh Thúc Kháng là những lời
hô hào đầy nhiệt tình, thiết tha của nhà chí sĩ để kêu gọi, giục giã những ai
còn đang say sưa với cái “bả vinh hoa”, còn nuôi chí lập nên sự nghiệp bằng
con đường thi cử của Nho gia hãy nhanh tỉnh giấc, bởi thời đại giờ đã đổi
khác, khí vận đã chuyển dời rất xa, những nho sinh của “cửa Khổng sân

Trình” còn theo đuổi con đường khoa cử gò bó, khuôn mẫu ấy đã trở thành
những người lạc hậu so với thời cuộc.
Qua những bài thơ hừng hực khí thế của một nhà nho Duy Tân, tuy được
tiếp xúc với các sách tân thư, tân văn khá muộn so với nhiều nho sĩ đương
thời, nhưng sự tinh anh, nhạy bén của một tư tưởng lớn đã đưa Huỳnh Thúc
Kháng sớm nhập thế và mau chóng trở thành một trong những lãnh tụ khả
kính của một phong trào có ảnh hưởng và gây tác động tiến bộ đến toàn bộ
nhận thức của quần chúng nhân dân một nước nông nghiệp lạc hậu, quen sống
trong cảnh “bế quan toả cảng” khiến dân trí, dân khí trở nên suy yếu nếu xét
trong tương quan thời đại. Những bài thơ đầu tiên này của Huỳnh Thúc
Kháng, khi vang lên, tựa như những bài hịch của núi sông truyền cảm hứng,
nhiệt huyết đến bao thế hệ, ngay từ khi mới ra đời, nó được ví “như một tiếng
gà đánh thức mọi người”.
2. Giai đoạn 2 : từ 1908 đến 1921
2.1. Bối cảnh lịch sử
Sau những nỗ lực truyền bá cải cách, kêu gọi tân học, bài xích khoa cử
lỗi thời, đề xướng dân chủ của bộ ba xứ Quảng, năm 1908

trên khắp dải đất
miền Trung từ phía bắc Hà Tĩnh trở vào đến Bình Định diễn ra một phong
trào xin xâu, chống thuế lôi cuốn khoảng 8000 người tham gia, họ thay phiên
nhau biểu dương lực lượng dài ngày trước trụ sở của quan huyện, thực dân
Pháp và tay sai đã thẳng tay đàn áp dã man phong trào, giết chết, bắt bớ, tra
tấn, tù đày hàng nghìn người, trong đó các lãnh tụ của phong trào Duy Tân
như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và các bạn đồng chí hướng bị đày
ra Côn Đảo, trở thành những “đệ nhất tù nhân” tại đây, riêng Trần Quý Cáp
phải lên đoạn đầu đài chịu án tử hình. Đó là hình phạt mà thực dân Pháp dành
cho những danh sĩ của phong trào Duy Tân, bởi khi phong trào bùng nổ mạnh
mẽ và lan ra rộng khắp Trung Kì, chúng đã kịp nhận ra rằng những lời “huyết
lệ” của các nhà duy tân được đội dưới lớp vỏ của một cuộc cải cách văn hoá,

một khi đã thấm sâu vào quần chúng bấy lâu nay bị đè nén, bóc lột đến tận
cùng thì sẽ tạo động lực cho một sự trỗi dậy mạnh mẽ đầy ý thức và tự giác
của mọi tầng lớp nhân dân.
Suốt 13 năm trường (từ tháng 9 – 1908 đến năm 1921) bị lưu đày tại Côn
Đảo, chịu nhiều thử thách, bị tách rời khỏi những biến cố lớn lao của lịch sử
nước nhà cũng như phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân nhưng ý chí
kiên cường, lòng yêu nước mạnh mẽ như một hằng số bất biến vẫn liên tục
chảy trong huyết quản nhà chí sĩ khiến cho không một khó khăn nào có thể
khuất phục được.
Ở nơi “địa ngục trần gian” này, những tấm gương kiên trung, những
danh sĩ mẫu mực của khắp ba kì, một cách rất tình cờ đã hội tụ lại, với nghị
lực và bản lĩnh phi thường, họ không những đã chịu đựng gian khổ, vượt lên
trên khó khăn, thách thức và dần dần bằng trí tuệ và sự sáng tạo, những “đệ
nhất tù nhân” Côn Đảo đã biến nơi đây trở thành một “trường học thiên
nhiên”, một nơi “lửa thử vàng” của rất nhiều thế hệ thanh niên ta trong suốt
mấy thập niên trường chinh cứu nước về sau.
2.2. Tác phẩm chính
Tác phẩm tiêu biểu nhất của Huỳnh Thúc Kháng trong giai đoạn sáng
tác này là tập Thi tù tùng thoại. Đúng như tên gọi của nó, Thi tù tùng thoại
không chỉ ghi chép thơ, mà phần chủ yếu và có giá trị lớn về mặt lịch sử lại là
“thi thoại” của nhiều người cùng góp mặt (tùng). Tập thơ ra đời trong lao tù
Côn Đảo nhưng sau năm 1927 mới được bắt đầu đăng từng bài trên Tiếng
Dân trước khi in thành sách vào năm 1939.
Nói về phần thơ, có thể nói, những bài thơ được đăng trong tập thơ đã
đưa Thi tù tùng thoại trở thành tập thơ tù đầu tiên của văn học Việt Nam ta.
Trong số những quốc sự phạm bị đày ra Côn Đảo cùng với Huỳnh Thúc
Kháng, thơ văn họ làm trong chốn lao tù hẳn không ít, nhưng đủ can đảm để
in lên mặt báo cho đông đảo nhân dân đọc thì không nhiều.
Bài ca lưu biệt là một trong số những bài thơ đâu tiên Huỳnh Thúc
Kháng sau khi bị lĩnh án lưu đày Côn Đảo. Bài thơ tỏ rõ quan niệm nhập thế

của Huỳnh Thúc Kháng, nhất là trong hoàn cảnh lao tù và đất nước thì đang
oằn mình dưới ách cai trị thực dân. Với những chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng,
cuộc đời đúng là một dòng sông mà mỗi khúc sông khi đục khi trong, lúc bình
yên khi dậy sóng dữ dội, nhưng điểm cốt yếu để tạo ra điểm khác biệt là dù ở
trong hoàn cảnh nào, thậm chí ngay cả khi phải hiện diện giữa tâm bão thời
đại, họ cũng không hề nản chí, sờn lòng, họ vẫn nhìn cuộc sống với thái độ
hướng tới ngày mai tươi sáng hơn : “trăng kia khuyết đó lại tròn”. Chính tinh
thần lạc quan biến nguy nan thành cơ hội mới, những nho sĩ – tù nhân Côn
Đảo đương thời đã hợp nhau lại, biến nơi “địa ngục trần gian” Côn Đảo thành
một “trường học thiên nhiên”, truyền thống ấy khởi nguồn từ họ và kéo dài
mãi trong nhiều lớp thanh niên yêu nước trong hai cuộc kháng chiến cứu nước
sau này của đất nước.
Thi tù tùng thoại là tập thơ ghi chép lại những tâm sự trong thời gian
ngồi tù của nhà chí sĩ. Bên cạnh những vần thơ thể hiện chí khí, nhiệt huyết
cách mạng của nhà chí sĩ, qua tập thơ, chúng tôi còn nhận thấy rằng ông làm
rất nhiều bài thơ, vịnh thơ dành cho vợ, con, bạn bè đồng chí. Dường như bên
trong con người nhà nho – chí sĩ rắn rỏi đến tưởng như khô khan ấy luôn có
cả một góc riêng dành tình cảm cao quý cho những người thân : Thơ g ửi vợ,
Thơ gửi con, Thơ gửi anh em chú bác, Thơ gửi các bạn và học trò, Khóc cụ
Giải Huân, Câu đối điếu cụ Ngô Đức Kế, Câu đối khóc Tùng Nham, Thơ
mừng thọ ông Trần Trọng Cung, … nhất là những bài thơ thể hiện tình cảm
chân thành, đầy cảm động đối với những người bạn tri kỉ (với Phan Châu
Trinh có : Khóc cụ Tây Hồ, Ngày kị cụ Tây Hồ,… ; với Trần Quý Cáp có :
Khóc Trần Quý Cáp,…), đó đều là những bài ca nói lên tình cảm sâu đậm mà
Huỳnh Thúc Kháng dành cho những người thân, cho bạn tù, bạn văn chương,
những người cùng chí hướng,
Nhìn chung, giọng điệu khảng khái, trầm hùng, chứa đựng tinh thần lạc
quan cách mạng là âm điệu chủ đạo của tập thơ. Qua các bài thơ trong Thi tù
tùng thoại ta cũng thấy hiện lên khá sinh động không khí thời đại, diễn tiến
của các phong trào yêu nước đương thời cũng như những hoạt động trong nhà

tù Côn Đảo nơi những danh sĩ của cả ba miền đang bị giam cầm.

×