Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Vấn đề tiếp nhận và bình giải Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí ( 1917 - 1934

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 135 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THÙY LINH


VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN VÀ BÌNH GIẢI TRUYỆN KIỀU TRÊN NAM
PHONG TẠP CHÍ ()1917-1934)


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121




Hà Nội - 2012

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THÙY LINH


VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN VÀ BÌNH GIẢI TRUYỆN KIỀU TRÊN NAM
PHONG TẠP CHÍ ()1917-1934)



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121


Hà Nội - 2012


5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
1.1. Truyện Kiều là một tác phẩm mang giá trị lịch sử văn hóa, là một kiệt
tác nghệ thuật của Việt Nam và nhân loại. 6
1.2. Nhìn lại Nam Phong tạp chí 7
1.3. Tìm hiểu về Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí 9
2. Lịch sử nghiên cứu 11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21
4. Phương pháp nghiên cứu 21
6. Cấu trúc của luận văn 23

PHẦN NỘI DUNG 23
Chương 1: Vấn đề văn học quốc ngữ và phê bình Truyện Kiều 23
1.1.Bối cảnh lịch sử xã hội đầu thế kỷ XX 23
1.2.Chủ đích của Nam Phong 27
1.3.Mối quan hệ giữa văn học quốc ngữ và phê bình Truyện Kiều 31
Chương 2: Vấn đề hiện đại hóa văn học và phê bình Truyện Kiều 40
2.1. Vấn đề hiện đại hóa văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX 40
2.2. Phê bình Truyện Kiều trong bối cảnh hiện đại hóa đầu thế kỷ XX 48
2.2.1. Đội ngũ tác giả tham gia nghiên cứu Truyện Kiều trên Nam Phong 51
2.2.2. Vai trò của Phạm Quỳnh trong tiến trình hiện đại hóa văn học và
phê bình Truyện Kiều 61
Chương 3: Những biểu hiện của quan niệm phê bình cũ và mới trong phê
bình Truyện Kiều 69
3.1. Những biểu hiện quan niệm phê bình cũ và mới 69
3.2. Các ý kiến đánh giá về Truyện Kiều cùng thời với Nam Phong tạp chí 110
PHẦN KẾT LUẬN 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.125




6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Truyện Kiều là một tác phẩm mang giá trị lịch sử văn hóa, là
một kiệt tác nghệ thuật của Việt Nam và nhân loại.
Với một tác phẩm vào hàng kiệt tác của nhân loại như Truyện Kiều thì
việc tổng hợp những nghiên cứu về tác giả và tác phẩm càng cần đến cách
nhìn toàn diện, khoa học và đầy đủ nhất để có thể đánh giá, nhận định những
phê bình, những bài viết, những cách hiểu về Truyện Kiều trong chiều dài lịch

sử nghiên cứu văn học. Bên cạnh đó, Truyện Kiều có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi mặt của đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Việc tập hợp những nghiên
cứu về tác phẩm này cũng chưa thành một hệ thống hoàn chỉnh. Việc thống
kê, nhận định những phê bình về Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí như
góp phần giúp việc nghiên cứu Truyện Kiều được hoàn chỉnh hơn, để tìm
được giá trị, tinh hoa về văn học nghệ thuật, về văn hóa xã hội, hội tụ trong
kiệt tác của dân tộc.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt
Nam, mang đậm nét dân tộc Việt, văn hoá Việt. Nghiên cứu, phê bình Truyện
Kiều cũng đã có một chặng đường dài hình thành và phát triển. Mỗi công
trình nghiên cứu đều đưa ra những nhận định, những cách nhìn của mình về
Truyện Kiều. Mặt khác, kiệt tác của Nguyễn Du cũng đã được các nhà phê
bình qua nhiều thời đại nhìn nhận từ nhiều góc độ, khai thác từ nhiều khía
cạnh khác nhau. Trong lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều không thể không nhắc
đến “hệ thống” những công trình nghiên cứu trong một giai đoạn lịch sử trên
Nam Phong tạp chí.
Nhờ có sự hỗ trợ đắc lực của báo chí và nhà xuất bản đầu thế kỷ XX,
việc tiếp nhận Truyện Kiều trở nên rộng rãi hơn, những phản ứng kiểu đọc,
kiểu bình luận Truyện Kiều cũng nhanh nhạy hơn, tạo nên không khí tranh

7
luận sôi nổi, mở rộng. Cũng do Truyện Kiều được đánh giá là một trong
những tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm “mẫu mực” để các học giả, các nhà
nghiên cứu nhìn nhận và tiếp thu những tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Nhờ
có tiếp xúc từ rất sớm các phương pháp phân tích, khảo cứu tác giả, tác phẩm
văn học của Tây Phương, mà thế hệ trí thức Tân học đã có những ứng dụng
khoa học vào nghiên cứu Truyện Kiều, đặt những viên gạch đầu tiên cho
những công trình nghiên cứu quy mô theo nhiều phương pháp khác nhau sẽ
tiếp tục mãi cho đến ngày nay. Nếu nhìn lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều từ góc
độ phương pháp đọc văn bản, lại thấy trong thế kỷ XX đã diễn ra những

chặng đường khác nhau, ở mỗi chặng đường, mỗi phương pháp đọc được lựa
chọn đem lại kết quả khác nhau. Vì thế, việc tiếp nhận Truyện Kiều trên Nam
Phong sẽ góp phần vào lý thuyết tiếp nhận nói chung trên thực tiễn Việt Nam.
1.2. Nhìn lại Nam Phong tạp chí
Do những thay đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội, thay đổi trong cách
tiếp nhận văn chương, do sự tác động nhiều mặt của báo, tạp chí dẫn đến nền
văn học của nước nhà từng bước hiện đại hóa, chuyển từ văn học trung đại
sang phạm trù hiện đại. Muốn tìm hiểu sự khởi đầu của văn học Việt Nam
hiện đại, không thể không tính đến việc tìm hiểu văn chương trên các báo chí
ở thời kỳ này. Nam Phong là tờ tạp chí có vai trò nhiều mặt trong đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam trong vài chục năm đầu thế kỷ XX. Về quy mô
dung lượng, tầm quan trọng và mức độ sâu rộng của những vấn đề được đề
cập, số lượng và điều kiện phát hành thì không có tờ báo hay tạp chí nào cho
đến đầu những năm 1930 có thể so sánh với Nam Phong.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa văn học và báo chí trong giai đoạn đầu
kiến tạo nền văn học hiện đại không chỉ có ở riêng Việt Nam mà đó là một
hiện tượng mang tính khu vực, xuất hiện ở nhiều nền văn học của các dân tộc
khác. Không ai có thể phủ nhận được mối quan hệ đặc thù giữa văn học và

8
báo chí. Báo chí không chỉ là môi trường giới thiệu và lưu giữ các tác phẩm
văn học mà còn tạo nên những khuynh hướng khác nhau tác động đến sự phát
triển của văn học, những luồng tư tưởng, những quan niệm khác nhau về các
vấn đề văn học đều được hiện diện và quy tụ trên báo chí.
Với 210 số trong ngót 17 năm, những nội dung mà Nam Phong tạp chí
đưa ra đều có sự ảnh hưởng nhất định đến nhận thức văn hóa của người dân
Việt Nam trong buổi giao thời. Nam Phong tạp chí có thể hiểu, đó là một tạp
chí tổng hợp về ngành khoa học xã hội, không chỉ có Nghiên cứu Văn học mà
còn có Sử học, triết học, dân tộc học, xã hội học, Hán Nôm… Đọc Nam
Phong, người đọc được tiếp nhận tư tưởng mới, chắt lọc những tinh hoa

truyền thống để nhìn lại chặng đường văn học của dân tộc một cách toàn diện
và mới mẻ nhất. Từ đó, có thể xem Nam Phong tạp chí như một lần nhìn lại
toàn diện nhất mọi mặt trong đời sống xã hội Việt Nam theo cách nhìn của
người đương thời. Tìm hiểu Nam Phong, người đọc không chỉ hiểu về văn
hóa của xã hội đầu thế kỷ XX, cách nghĩ, lối sống và sự chuyển biến tư tưởng
khi tiếp nhận nhiều luồng văn hóa khác nhau, chúng ta còn “sở hữu” nguồn tri
thức đồ sộ về xã hội, về văn hóa Đông Phương một cách toàn diện nhất dưới
cái nhìn của các nhà nghiên cứu đầu thế kỷ. Nam Phong đăng nhiều sáng tác
theo kiểu cũ, bảo thủ như thơ vịnh sử, song cũng đăng những sáng tác theo thi
pháp hiện đại (như Sống chết mặc bay ). Ngay trong một tác phẩm tả chân
như truyện ngắn này thì cũng bao gồm cả thi pháp cũ và mới đan xen lẫn
nhau.
Có thể nói, tuy Nam Phong ra đời với chủ đích như một cơ quan ngôn
luận của thực dân Pháp nhưng tạp chí đã có công đóng góp to lớn cho nền văn
học nước nhà, góp phần tạo nên văn hóa hiện đại trong đời sống xã hội bấy
giờ. Nam Phong ra đời còn là cái nôi cho sự nghiệp văn chương của những tài
năng phát triển như Nguyễn Bá Học, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Trọng

9
Thuật… Những cây bút chủ lực của Nam Phong phần nhiều là những người
uyên thâm cựu học, lại có vốn Tây học nhất định. Chính những công trình
biên dịch, khảo cứu của họ đã góp phần đem lại cho Nam Phong không khí
học thuật vừa thâm trầm vừa mới mẻ. Chính họ đã đóng góp một phần to lớn
trong việc hiện đại hóa nền văn xuôi nước nhà.
Khi tiếp cận tạp chí, một điều dễ nhận ra là trong khoảng giao thời đầu
thế kỷ XX, khi sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa mới, sự thay đổi của cơ
chế xã hội, khi mà nền Hán học đến hồi mạt vận, thì Nam Phong tạp chí đã rất
thành công trong việc làm sống lại kho tàng văn hóa, văn học truyền thống
của cha ông. Một cuộc tổng duyệt lại kho tàng văn hóa, văn học truyền thống
và bảo tồn những giá trị đích thực của văn học cổ, đã được tiến hành trên Nam

Phong tạp chí một cách rất quy củ và có ảnh hưởng nhất định trong đời sống
văn hóa, văn học đương thời.
1.3. Tìm hiểu về Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí
Do hoàn cảnh lịch sử xã hội, hầu hết giới nghiên cứu chưa có điều kiện
để tiếp cận với văn bản trọn vẹn của 210 số Nam Phong tạp chí. Việc đánh
giá những nghiên cứu về Truyện Kiều cũng vì thế chưa thực sự đầy đủ và
chính xác. Khi có điều kiện tiếp xúc và khảo cứu đầy đủ nhất về Nam Phong
tạp chí, luận văn muốn đi sâu tìm hiểu và đánh giá về cách đọc, cách tiếp cận,
cách nhận định về Truyện Kiều của một thời kỳ văn học, một thời kỳ được xem
là giao thời giữa phê bình văn học trung đại và phê bình văn học hiện đại.
Hơn nữa, chúng tôi cũng muốn góp phần nhỏ trong việc đánh giá
nghiên cứu về Truyện Kiều trong bề dày lịch sử phê bình Truyện Kiều của
giới văn học từ xưa đến nay. Khi đọc Nam Phong tạp chí, chúng ta hiểu
không phải ngẫu nhiên nhiều học giả tên tuổi như Dương Quảng Hàm,
Nguyễn Đổng Chi… đã từng ghi nhận công lao của Nam Phong tạp chí, của

10

Phạm Quỳnh đối với sự phát triển của văn học nước ta trong buổi đầu của nền
văn học hiện đại.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của phê bình văn học đầu thế kỷ XX, Nam
Phong tạp chí đã mang đến cách nhìn mới, quan niệm mới về Truyện Kiều,
tuy vậy vẫn còn trong đó những cách nhìn theo tư tưởng truyền thống. Chính
vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu về việc tiếp nhận và bình giải Truyện Kiều để
tìm hiểu một bước phát triển mới so với việc đọc của các nhà thơ, nhà văn
thời trung đại và xem đây là giai đoạn tiếp nối đến nền phê bình văn học thời
kỳ hiện đại. Bên cạnh đó, luận văn muốn nhìn nhận đúng đắn về bước chuyển
biến mới từ tư tưởng bảo thủ, truyền thống sang tư tưởng đa chiều hiện đại.
Ở thời điểm Nam Phong tạp chí tồn tại, văn học Việt Nam đang ở giai
đoạn chuyển mùa, nhiều yếu tố của nền văn học mới với sự ảnh hưởng từ

phương Tây (xuất hiện bút pháp sáng tác mới, thể loại văn học mới), nhưng
về cơ bản, mạch chủ đạo của đời sống văn học thời kỳ này vẫn là sáng tác
theo bút pháp truyền thống. Chúng ta có thể thấy rất nhiều sáng tác thơ ca vẫn
sử dụng các thể thơ truyền thống với những motip, ngôn ngữ cổ từ hàng nghìn
năm nay của truyền thống thơ ca phương Đông… Không ai có thể phủ nhận
những học thuật, tư tưởng của Trung Hoa đã làm nền móng cho sự học cũ của
nước ta mấy nghìn năm cho đến thời Nam Phong và cả mãi về sau này. Tuy
cái học mới đã xâm nhập vào đời sống của người dân nhưng “những ảnh
hưởng cũ chưa chắc tiêu tán được, vì nó đã in sâu vào trong phong tục tập
quán, trong nếp nghĩ, lối sống của nhân dân, khiến đôi khi chính chúng ta
cũng không thể phân biệt nổi, đâu là của người, đâu là của mình” (Vũ Ngọc
Phan). Từ sự đan xen giữa yếu tố cũ và mới đó, một công việc rất ý nghĩa mà
Nam Phong đã làm, là đánh giá lại tác phẩm Truyện Kiều – một tác phẩm vào
hàng nổi tiếng bậc nhất của văn chương cổ, một công việc đã mở đường cho
thể loại phê bình nghiên cứu sau này.

11

2. Lịch sử nghiên cứu
Từ khi tác phẩm Truyện Kiều ra đời cho đến nay cũng hơn 200 năm và
việc nghiên cứu, phê bình, tiếp nhận tác phẩm này cũng chưa bao giờ kết
thúc. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử, có lẽ do sự chi phối của ý thức xã hội, của
quan điểm cá nhân mỗi người để nhìn nhận và đánh giá khác nhau về Truyện
Kiều. Dù hiểu như thế nào và nhìn dưới góc độ nào đi chăng nữa, thì không ai
có thể phủ nhận được giá trị của Truyện Kiều và sự ảnh hưởng của tác phẩm
đến đời sống tinh thần của người Việt.
Việc nghiên cứu Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí hiện nay có thể
nói, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách bài bản và đầy đủ, đánh
giá về những mặt mạnh, mặt yếu, mặt tốt, mặt hạn chế trong “hệ thống”
những công trình nghiên cứu về Truyện Kiều trên Nam Phong. Mặt khác, ta

có thể thấy Nam Phong là một tạp chí lớn có ảnh hưởng sâu sắc, phản ánh đời
sống văn hóa của một thời kỳ lịch sử biến động. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên
cứu việc tiếp nhận, bình giải Truyện Kiều trên Nam Phong là một trong những
công việc nghiên cứu cần làm để có cách nhìn nhận đúng đắn và toàn diện
nhất về công lao và sự ảnh hưởng của Nam Phong đối với sự phát triển của
nền văn học hiện đại. Để làm được điều đó, chúng ta cùng nhìn nhận lại
những “thành tựu” cũng như bước tiến mà giới phê bình đã làm được trong
việc góp phần hoàn thiện đánh giá Nam Phong:
Từ năm 1933, thời điểm Nam Phong tạp chí còn tồn tại, trong cuốn Phê
bình và cảo luận, Thiếu Sơn đã viết “Có nhiều người không biết đọc văn Tây
văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong hun đúc mà có được cái tri thức phổ thông tạm
đủ sinh hoạt ở đời. Có nhiều ông đồ Nho chỉ coi Nam Phong mà cũng biết
được đại khái những văn chương học thuật của Tây Phương”
[87,126].
Thiếu
Sơn đã chỉ ra vai trò của Nam Phong tạp chí trong việc bồi dưỡng tri thức văn
hóa và giới thiệu văn chương nước ngoài, đặc biệt là văn chương phương Tây.

12

Một năm sau ngày Nam Phong tạp chí đình bản, nhà thơ Đông Hồ Lâm
Tấn Phác, một cây bút có viết cho Nam Phong đã nhấn mạnh về sự thành
công trong việc tạo dựng nên một “tủ sách” toàn thư, một công lao to lớn mà
không phải tạp chí nào cũng làm được trong giai đoạn giao thời: “Người đồng
chí yêu quý thì đã đành, người không đồng chí cũng một lòng tôn trọng, tôn
trọng cái tủ sách một văn phái đứng đắn cao thượng. Cái cảm tình ấy của
quốc dân đối với báo chí, nước ta xưa nay chưa từng thấy có tờ báo nào được
cái vinh hạnh đặc biệt như báo Nam Phong vậy” (Báo “Sống”, ngày
9/4/1935)
Khi nhận định về vai trò và ảnh hưởng của Nam Phong tạp chí đối với

văn chương và đời sống xã hội, tác giả Vũ Ngọc Phan đã viết: “Nhiều người
thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí
để bồi bổ cho cái học còn khiếm khuyết của mình. Thậm chí có người đã lấy
Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật
Đông Tây. Muốn hiểu những vấn đề về đạo giáo, muốn biết văn học sử cùng
học thuật tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thi ca Việt
Nam từ đời Lý, Trần cho đến ngày nay, muốn biết thêm lịch sử nước Nam,
tiểu sử các đấng danh nhân nước nhà, muốn am hiểu các vấn đề chính trị xã
hội Âu Tây và cả những học thuyết của mất nhà hiền triết Cổ La Hi, chỉ đọc
kỹ Nam Phong là có thể hiểu biết được. Một người chỉ đọc quốc ngữ mà có
khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của
mình. Nam Phong tạp chí sinh sau Đông Dương tạp chí bốn năm, nhưng sống
lâu hơn và ở vào một thời thích hợp hơn nên ảnh hưởng về đường văn chương
đối với quốc dân Việt Nam đã to tát hơn nhiều”[87,100]. Nam Phong ra đời
như một chiếc cầu nối văn hóa, mang tư tưởng văn hóa Đông Tây giao lưu và
gắn kết hài hòa trong mỗi bài viết. Khi đọc Nam Phong, chúng ta có thể hình
dung được cả một thời kỳ lịch sử xã hội với tư tưởng cũ, mới đan xen. Bên

13

cạnh đó, những người đọc Nam Phong sẽ “thu nhận’ được nhiều kiến thức về
lịch sử, văn hóa dân tộc cũng như của các nước phương Tây, góp phần mở
mang đầu óc và tạo lối suy nghĩ mới.
Về chủ bút Phạm Quỳnh, tác giả Nhà văn hiện đại đã đánh giá: “Ông là
người chủ trương cái thuyết đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng, lấy
tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm khuyết, để
chọn lấy cái hay của người mà dung hòa với cái hay của mình, ngõ hầu gìn
giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có cơ tiến hóa
được”[87,110]. Đánh giá về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí, Đào Duy
Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương, 1938, cho rằng: “Về phương diện văn

học thì Nam Phong tạp chí theo một tôn chỉ với Đông Dương tạp chí, dùng
Việt ngữ để truyền đạt học thuật cổ kim và du nhập tư tưởng Đông Tây,
chứng rằng Việt ngữ không những chỉ thích dụng về các lối văn chương
suông mà có thể dùng để viết văn về sử học, triết học và khoa học nữa”. Khi
nhắc đến Nam Phong, không ai có thể phủ nhận công lao to lớn của Phạm
Quỳnh trong vai trò “phổ thông hóa” chữ Quốc ngữ. Trong giai đoạn văn hóa
Việt Nam đang ở bước chuyển từ văn hóa phương Đông truyền thống sang
nền văn hóa hiện đại với ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa phương Tây, vấn đề
“nền cựu học” đã được đưa ra bàn luận. Nền quốc học phải được xây dựng
trên những tảng nền nào? Tiếng Việt có ý nghĩa gì đối với một nền quốc học,
nơi mà truyền thống vốn nặng về Hán Văn, hiện tại đang bị đè nặng bởi Pháp
văn? Thế là nhiều người, nhất là thế hệ trí thức tân học nghĩ đến vai trò của
Truyện Kiều, nghĩ đến tiếng Việt của Truyện Kiều. Phạm Quỳnh là người đã
viết năm 1924: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có
gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ”[43,295]. Một số nhà nho yêu
nước đã phê phán lời hô hào như vậy. Các cụ phê phán Phạm Quỳnh vì một
số lý do khác, nhưng vì Phạm Quỳnh đã ca ngợi Truyện Kiều nên logic dễ

14

hiểu là các cụ đã phê phán luôn Truyện Kiều, bác bỏ khả năng đưa Truyện
Kiều vào hàng quốc học, do vậy đã có những nhận định bất công với kiệt tác
này. Các cụ vẫn đứng trên lập trường đạo đức nghiêm khắc để xét đoán tác
phẩm, cho rằng tuy văn chương hay nhưng không thể tránh khỏi “cái vẻ ai,
dâm, sầu, oán, đạo, dục, tăng, bi”, rằng tác phẩm chỉ có ngâm vịnh chơi bời,
chứ quyết “không phải là thứ văn chương chính đại”. Đối với các cụ, vấn đề
Truyện Kiều trước hết là vấn đề văn hóa đạo đức, vấn đề quốc học chủ trương
nền quốc học phải gắn với Hán học, Khổng học chứ không thể đi với tác
phẩm mua vui, giải trí như thế. Đến năm 1956, Trương Tửu đã đẩy lên thành
chuyện chính trị, cho rằng Phạm Quỳnh (vả cả Trần Trọng Kim) đã dùng

Truyện Kiều gây một phong trào văn học có mục đích như ru ngủ thanh niên
và nhân dân để họ yên phận làm nô lệ với ảo tưởng là “Truyện Kiều còn…
nước ta còn”. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ báo chí cuối những năm 20 đầu 30,
chúng ta sẽ hình dung được ý thức của người Việt Nam lúc đó về tầm quan
trọng của tiếng Việt đối với sự thống nhất dân tộc. Trên báo chí Sài Gòn, đã
có một cuộc thảo luận về tiếng Việt và SGK ở hai miền Nam Bắc. Phan Thứ
Khanh trên tờ ‘Thần chung” tháng 2/1930 đã viết: “Quốc văn là cái nguyên
khí của một nước, một dân tộc”, “Quốc văn tức là cái trí tuệ, cái tư tưởng,
cái cảm giác của một dân tộc đúc ra”.
Giáo trình Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III của nhóm Lê Quý
Đôn có đoạn “Nhưng dù lên án đúng mức cũng không thể không ghi công lớn
cho Nam Phong về vai trò và tác dụng của nó trong sự nghiêp phát triển văn
học”. Nhận xét về sự cố gắng của Nam Phong trong việc phát triển ngôn ngữ,
nhóm tác giả viết tiếp: “Về trước, người ta còn hoài nghi khả năng tiếng ta.
Với Nam Phong, không ai còn chối cãi là tiếng ta chưa phải là một ngôn ngữ
văn học, là một ngôn ngữ đang hiện đại hóa. Người ta có thể bảo văn của

15

Nam Phong rườm rà, khệnh khạng, véo von, nhưng không ai có thể bảo đó
không phải là văn”.
Trong Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan đánh giá về Phạm
Quỳnh nhân khi giải thích sự ra đời của truyện ngắn Kép Tư Bền như sau:
“Phạm Quỳnh vào Huế làm quan, tôi cho không phải vì danh. Quốc dân biết
Phạm Quỳnh hơn biết mấy thượng thư Nam triều. Cũng không phải vì lợi.
Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng,
món này to hơn lương thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan, chỉ là để rồi lấy
danh nghĩa Chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại Hiệp ước 1884. Vậy
một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính
trị, chẳng qua là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích

bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực lòng, là một người dân mất
nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ được ra truyện
Kép Tư Bền, tả một anh kép hát nổi tiếng về bông lơn, đã phải vì giữ tín
nhiệm với khán giả, mà ra sân khấu nhà hát làm trò cười, ngay cái tối cha
anh đương hấp hối”.
Ngay những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, năm 1949, trong cuốn
Việt Nam văn học sử (trích yếu), Nghiêm Toản đã đánh giá công lao của Nam
Phong tạp chí và Đông Dương tạp chí trong việc chuẩn hóa quốc ngữ, đưa
việc sử dụng quốc ngữ vào các lĩnh vực khoa học, văn học, triết học: “Ảnh
hưởng của Nam Phong rất lớn, không những gây dựng cho tiếng ta đủ chữ
phô bày hết mọi tính tình, ý niệm lại phổ thông hóa những điều đại cương
thiết yếu trong các học thuật Đông, Tây, mới, cũ và những điểm chính trong
văn hóa cổ học như nghi lễ, phong tục, văn chương…”.
Từ năm 1954 – 1975, các học giả trên cả hai miền Nam Bắc đều có
những công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí:

16

Ở miền Bắc, một loạt công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí xuất
hiện tiêu biểu như: Đại cương về văn học sử Việt Nam (Nguyễn Khánh Toàn,
1954); Sơ thảo lịch sử văn học (Nhóm Văn Sử Địa, Nhà xuất bản Văn – Sử -
Địa, 1957); Lược thảo lịch sử văn học (nhóm Lê Quý Đôn, Nhà xuất bản Xây
dựng, 1957); Giáo trình văn học Việt Nam (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
1963). Khác với giai đoạn trước, ở giai đoạn này, các học giả này đều có
chung quan điểm theo hướng xã hội học chính trị, có cái nhìn phủ nhận sạch
trơn về đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong: “Phạm Quỳnh là tên tay
sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lãnh vực văn học, một tên Việt gian lợi hại,
chống cách mạng”; “Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí tuyệt nhiên
không có công lao gì đối với văn học dân tộc cả”. Sở dĩ, tồn tại những nhận
định cực đoan này là vì vào thời điểm đó, quan điểm cộng sản căn cứ vào

phần lí lịch của Phạm Quỳnh. Khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông
được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại,
thời gian đầu làm ở Ngự tiền văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và
cuối cũng giữ chức Thượng thư Bộ Lại. Nhưng trước đó, khi làm Nam Phong,
Phạm Quỳnh đã nhận tiền của Marty để làm báo. Căn cứ vào lí do này, quan
điểm cộng sản đã có cái nhìn cực đoan đối với Nam Phong. Hiện nay, quan
điểm này đã có thay đổi.
Khác với không khí ở miền Bắc, ở miền Nam các học giả có cái nhìn
khoa học khách quan hơn.
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 1961, đã
đánh giá Nam Phong tạp chí và Đông Dương tạp chí mặc dù còn vướng nhiều
về quá khứ song cũng đã có cố gắng trong việc dung hòa Âu Á.
Thanh Lãng với hai cuốn sách Biểu nhất lãm văn học cận đại, (1862-
1945) (Sài Gòn, 1957); Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) đã đánh giá
cao về Phạm Quỳnh là “một tập sự của thế hệ văn học 1862 – 1913 để biến

17

thành một tay chỉ đạo trong thế hệ văn học 1913 – 1930 rồi biến ra một bóng
bù nhìn trong thế hệ văn học 1930 – 1945”.
Nguyễn Văn Trung trong chuyên luận Chủ đích Nam Phong, 1975, đã
nêu vấn đề Nam Phong tạp chí cả về văn học và chính trị, ông đã cho rằng
Nam Phong là một công cụ tuyên truyền của thực dân, và ghi nhận Nam
Phong cũng có một số đóng góp cho văn học nước nhà.
Năm 1968, Nguyễn Khắc Xuyên đã đưa ra Mục lục phân tích Nam
Phong 1917 – 1934 đã cung cấp danh mục các bài viết trên Nam Phong, chia
làm hai phần là mục lục theo chuyên ngành và mục lục tên tác giả.
Huỳnh Văn Tòng trong Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
1945 đã giới thiệu Nam Phong tạp chí về cả mặt chính trị và văn học, đánh
giá Nam Phong trên cả mặt tích cực và tiêu cực.

Năm 1968, với nhận thức: “Nam Phong là tạp chí văn học, văn chương,
xã hội, nghệ thuật lớn, đánh dấu một thời ký đi lên của văn hóa nước nhà”,
đồng thời: “Tờ Nam Phong là tài liệu mang dấu ấn lịch sử văn học Việt Nam,
mặc dầu đường lối chính trị của nó thuộc về một thời đại thực dân và phong
kiến”, và “Lịch sử văn học Việt Nam đã trải qua nhiều thời đại, mà Nam
Phong thuộc về một trong những thời đại đó”.
Năm 1990, trong cuốn sách Tác giả văn học Việt Nam, tập 1, Giáo sư
Nguyễn Đình Chú (chủ biên) khi trở lại với mục tác giả Phạm Quỳnh, bước
đầu ông đã có một cách nhìn nhận mới, với những dòng nhận định khá “dí
dỏm” như sau: “Phạm Quỳnh viết đủ thứ, đủ loại như vậy, và đương thời đã
gây được một uy danh không nhỏ, nhưng cũng đương thời dưới con mắt của
nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, thì chỉ là cậu bé đang “lom lem những học thuyết ông
Mạnh ông Lư”, “bập bẹ những cách ngôn họ Trang họ Liệt” và gần đây,
dưới con mắt của nhà học giả mác xít Đặng Thai Mai, thì là người “đủ tiếng
Tây để lừa người Việt, đủ tiếng Việt để lừa người Tây”… Ấy mới hay: chưa

18

cần biết động cơ gì, sống trên đất nước ta hễ cứ dính với kẻ thù ngoại bang là
trước hết phải chịu sự phán xét, sự phủ nhận đó, mặc dù, nói cho công bằng
thì “văn nghiệp” của Phạm Quỳnh, ngoài phần độc tố gây hại ra, không phải
không có những điều có tác dụng khách quan đáng kể, góp phần vào công
cuộc hiện đại hóa văn hóa, văn học Việt Nam trong thời cận đại này
[72,173]”.
Theo quan điểm đổi mới, Nguyễn Đình Chú trong Công trình Tác giả
Việt Nam, tập I (NXBGD, Hà Nội, 1990) cũng đánh giá khách quan về Nam
Phong tạp chí: “…Nói cho công bằng thì văn nghiệp của Phạm Quỳnh, ngoài
phần độc tố gây hại ra, không phải không có những điều có tác dụng khách
quan đáng kể, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa văn hóa, văn học Việt
Nam trong thời cận đại này [72, 180]”.

Năm 1992, Báo Lao động, số 34/92 ngày 6/9-1992, trang 6, có đăng bài
viết của Hoàng Tiến với tiêu đề: Một dấu mốc trên lộ trình văn học. Trong bài
báo này, tác giả nêu nhận xét: “Văn xuôi của chúng ta xuất phát từ báo chí,
định hình ở Đông Dương tạp chí và trưởng thành trong Nam Phong tạp chí”.
Và ở một đoạn khác, tác giả bài báo nhận định: “Tạp chí Nam Phong có thể
coi là một dấu mốc trên lộ trình phát triển của nghệ thuật văn xuôi trong lịch
trình tiến hóa của lịch sử văn học Việt Nam”.
Năm 1995, khi nghiên cứu vấn đề: Nam Phong tạp chí với sự hình
thành và phát triển của văn xuôi tự sự tiếng Việt buổi giao thời đầu thế kỷ XX,
tác giả Nguyễn Ngọc Thiện đã ghi nhận vai trò của ông chủ bút Nam Phong
tạp chí Phạm Quỳnh trong việc “dịch, giới thiệu, phê bình và khảo cứu lý luận
xung quanh tác phẩm và thi pháp thể loại tiểu thuyết… đóng góp xây dựng
buổi đầu cho hình thành và phát triển văn xuôi tự sự hiện đại của ta trong
những năm 20 và 30 của thế kỷ này [104,69-70]”.

19

Năm 2003, trong lời giới thiệu cuốn Luận giải văn học và triết học của
Phạm Quỳnh, Trịnh Bá Đĩnh nhận xét: “Nam Phong nằm ở thời điểm bản lề
của quá trình văn hóa, văn học Việt Nam hòa vào dòng chung của văn hóa,
văn học thế giới. Vấn đề đặt ra cho xu hướng này bấy giờ là dân tộc phải
nâng mình lên trình độ quốc tế về mọi mặt: Khoa học, triết học, văn học…
Cần xây dựng một nền học vấn mới “tỏ thuật tư tưởng Âu Tây (quốc tế hóa,
nhưng vẫn không quên cái quốc túy trong nước (dân tộc hóa)”. Ở điểm này ta
thấy Nam Phong đã làm được khá nhiều việc [93,5]”.
Trong phần Lý luận, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX, cuốn sách chỉ
rõ: “Nam Phong đăng những bài phê bình theo lối mới của Thái Tây”. Đặc
biệt, tác giả của chương viết này đã ghi nhận vai trò của Phạm Quỳnh trong
việc dịch thuật, giới thiệu văn hóa, văn học phương Tây mà “ý nghĩa giao lưu
văn hóa là không thể phủ nhận, nó góp phần tích cực cho sự đổi mới văn học

dân tộc ở giai đoạn sau”. Sách cũng đã dành hẳn một mục để viết về Cuộc tranh
luận văn học đầu tiên mở đầu thế kỷ: tranh luận về Truyện Kiều trên Nam Phong
tạp chí diễn ra giữa các chí sĩ như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng với Phạm
Quỳnh… và đi đến nhận định: “Phạm Quỳnh đã nêu lên một số luận điểm mang
tính chất chính trị, cải lương. Ông nêu ra một cách võ đoán về mối liên hệ giữa
sự xuất hiện Truyện Kiều và vận mệnh của một dân tộc [71,683]” và “Cuộc
tranh luận này thực chất là sự đụng độ về tư tưởng chính trị, chính trị yêu nước
của các nhà nho và chính trị cải lương của những người nuôi mộng quân chủ
lập hiến, dung hòa Đông Tây để duy trì và phát triển quốc gia [74,685]”
Năm 2004, cuốn Từ điển văn học bộ mới được xuất bản trang 1272 có
nhận định về Nhóm Nam Phong: “Nam Phong tạp chí nặng về biên khảo dịch
thuật và sáng tác văn học, vì vậy đối với văn hóa và văn học dân tộc trong một
giai đoạn hơn mười năm, nó đã có những ảnh hưởng không nhỏ. Đây là tờ
báo gần như duy nhất trong những năm chuyển tiếp giữa thập kỷ 20 và 30

20

của thế kỷ XX, cung cấp cho bạn đọc Việt Nam những kiến thức về văn
chương, triết học, lịch sử, địa lý… phương Đông cũng như phương Tây, một
cách hệ thống và liên tục… Cũng phải qua Nam Phong, các áng văn thơ tinh
hoa cổ điển của dân tộc mới được sưu tầm, phiên âm, phiên dịch và truyền bá
sâu rộng trong lớp thanh niên tân học thuở bấy giờ. Nam Phong cũng là nơi
thử thách, rèn luyện ngòi bút viết văn xuôi quốc ngữ, văn xuôi nghệ thuật và
cao hơn là văn xuôi lý luận, trong nước chuyển mình của văn xuôi quốc ngữ
nước ta. So với Đông Dương tạp chí rõ ràng câu văn Nam Phong thâm thúy
hơn, khả năng tư duy trừu tượng cao hơn hẳn, thuật ngữ mới được du nhập
và Việt hóa cũng nhiều hơn nhiều” (Nguyễn Phương Chi).
Năm 2006, trong cuốn Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh, Trần Văn
Chánh viết lời giới thiệu: “Trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận – hiện
đại, Phạm Quỳnh có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ

gây nên nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói
như vậy, dù tán thành hay phản đối, hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên
mọi người đã thừa nhận vai trò không thể xem thường của nhân vật này trong
bối cảnh lịch sử - văn hóa cụ thể nhất định”, và đối với Phạm Quỳnh: “Nếu
chỉ tính riêng cái “công với việc thành lập quốc văn” thôi thì cũng đã là một
công lao đóng góp không nhỏ [90, 9-11]”.
Nói chung, từ khi Nam Phong tạp chí ra đời đến nay đã có rất nhiều
những công trình khoa học nghiên cứu, đánh giá về những vấn đề trên Nam
Phong như: Ảnh hưởng của Nam Phong đối với đời sống văn hóa tư tưởng
của xã hội, đánh giá công lao của ông chủ bút Phạm Quỳnh, và rất nhiều các
khía cạnh được đề cập quy mô trên Nam Phong như: khôi phục bảo tồn vốn
cổ, các thể loại trên Nam Phong… Luận văn của chúng tôi cũng muốn góp
phần nhỏ của mình vào việc nhìn nhận lại Nam Phong qua việc đánh giá bình

21

giải, tiếp nhận Truyện Kiều. Bên cạnh đó, luận văn mong muốn hoàn thiện
quá trình nghiên cứu Truyện Kiều từ khi ra đời đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nam Phong tạp chí là một ấn phẩm ra đời với nhiều mục đích, chức
năng và nội dung. Đây cũng là một tạp chí giữ vai trò quan trọng trong thời
kỳ chuyển giao của văn học, văn hóa Đông Tây. Vì thế, việc nghiên cứu toàn
diện các vấn đề của Nam Phong tạp chí là một vấn đề lớn, phức tạp, cần nhiều
thời gian và công sức nghiên cứu. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi xin
được giới hạn đối tượng nghiên cứu liên quan đến Truyện Kiều, bàn về Truyện
Kiều trên Nam Phong tạp chí trong suốt thời gian tồn tại, từ 1917 – 1934.
Cụ thể, trong luận văn này chúng tôi đưa ra vấn đề “Tiếp nhận và bình
giải Truyện Kiều trên tạp chí Nam Phong”, phạm vi nghiên cứu bao gồm:
Những số báo viết về Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí với 210 số
từ năm 1917 đến 1934

Văn bản tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du
Văn bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân
Đề tài Vấn đề đọc Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí giúp chúng ta
bổ sung thêm cách nhìn nhận của một thế hệ về Truyện Kiều trong bề dày lịch
sử nghiên cứu tác phẩm. Bên cạnh đó, chúng ta hiểu hơn về một giai đoạn văn
học, xã hội đã ảnh hưởng đến lối tư duy của các tác giả, các nhà phê bình và
cách nhìn nhận của họ về Truyện Kiều dưới nhiều góc độ khác nhau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được thực hiện dựa trên một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, bình luận văn học: Chúng
tôi sử dụng các phương pháp này để thiết lập hệ thống luận điểm chính của đề
tài, cách nhìn nhận và đánh giá, cách hiểu và khẳng định giá trị của Truyện
Kiều qua từng học giả, từng quan điểm tư tưởng. Về cơ bản, đề tài luận văn sẽ
sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để khôi phục diện mạo, dựng lại bối

22

cảnh chung, diễn biến của việc “tiếp nhận và bình giải” Truyện Kiều. Từ đó
Phân tích để đánh giá khả năng nhìn nhận tác phẩm văn học, văn hóa truyền
thống của các đối tượng tác giả phê bình như thế nào?
- Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh, đặt cách nhìn
nhận, phê bình Truyện Kiều của những trí thức, học giả đương thời trên Nam
Phong tạp chí với chính những người cùng thời trên các báo, tạp chí khác và
những nhìn nhận, đánh giá về những giai đoạn phê bình văn học trước và sau
giai đoạn xuất hiện Nam Phong tạp chí để thấy được những giá trị mà họ
mang đến cho bề dày lịch sử nghiên cứu và thấy được những hạn chế trong
cách đánh giá của họ về Truyện Kiều.
5. Đóng góp của luận văn
Việc tiếp nhận và bình giải Truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí là một
vấn đề hoàn toàn mới, hầu như chưa có công trình khoa học nào hiện nay

nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Vì vậy, qua việc khảo cứu, tìm
hiểu, thống kê, tổng hợp trong 210 số Nam Phong tạp chí để giúp các nhà
nghiên cứu và độc giả có cái nhìn toàn cảnh về việc nhận định, đánh giá về
văn học, văn hóa truyền thống.
Không thể phủ nhận Nam Phong tạp chí ra đời có mục đích phục vụ
cho chính sách nô dịch của thực dân Pháp, và chính quyền thực dân cũng
không che đậy mục đích thâm hiểm của chúng khi cho ra tờ báo này. Tuy
nhiên, một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng, những việc mà Nam Phong đã
làm, ở một khía cạnh nào đó, ngoài dự liệu của những nhà sáng lập lại trở
thành có ý nghĩa, có ảnh hưởng nhất định không chỉ với đời sống văn học mà
cả với đời sống văn hóa xã hội đương thời. Đặt trong dòng chảy của văn học
dân tộc thì Nam Phong đã “vô tình” làm được việc tiếp mạch cho dòng chảy
ấy. Nghiên cứu vấn đề này và chọn Nam Phong làm đối tượng nghiên cứu có
ý nghĩa tích cực, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà cách nhìn của chúng
ta đối với một số vấn đề quá khứ đã thay đổi, Nam Phong được đánh giá trở

23

lại, luận văn sẽ góp thêm những đánh giá khách quan và công bằng cho những
giá trị và có đóng góp của Nam Phong.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp thêm tư liệu cho các nhà
nghiên cứu văn học có thêm một góc nhìn về Nam Phong tạp chí trong tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, xác định vai
trò, vị trí và những đóng góp khách quan của tờ tạp chí này trong quá trình
hiện đại hóa văn học nước nhà.
Bên cạnh đó, luận văn mong muốn góp phần nhỏ vào việc đánh giá và
khẳng định những đóng góp quan trọng của báo chí đầu thế kỷ XX nói chung
và Nam Phong tạp chí nói riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Vấn đề văn học quốc ngữ và phê bình Truyện Kiều

Chương 2: Vấn đề hiện đại hóa văn học và phê bình Truyện Kiều
Chương 3: Những biểu hiện của quan niệm cũ và mới trong phê bình
Truyện Kiều
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ VĂN HỌC QUỐC NGỮ VÀ PHÊ BÌNH
TRUYỆN KIỀU
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội đầu thế kỷ XX
Ba mươi năm đầu thế kỷ XX là một giai đoạn đặc biệt không chỉ của
văn chương mà của cả xã hội Việt Nam nói chung. Sự xâm nhập của người
Pháp một cách cưỡng bức lên cơ cấu xã hội hầu như vẫn còn nguyên vẹn tạo
nên một hệ quả tất yếu là sự tồn tại kéo dài và sự biến dạng trước khi chuyển
hóa của các giai tầng truyền thống. Trong địa hạt văn chương, một hiện tượng
độc đáo có thể ghi nhận là sự tồn tại kéo dài dưới dạng biến thể của những
loại hình tác giả truyền thống: nhà nho hành đạo trung nghĩa và nhà nho tài
tử. Điển hình cho kiểu nhà nho thứ nhất là những nhân cách vẫn được chính

24

sử định danh là những “nhà nho chí sĩ”, những nhà khoa bảng sinh trong
những năm 60, 70 của thế kỷ XIX và là người khởi xướng những phong trào
đấu tranh với chủ trương duy tân đòi độc lập cho Việt Nam. Những tên tuổi
điển hình cho loại tác giả này là Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô
Đức Kế… Đại diện cho kiểu tác giả thứ hai là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Hai kiểu tác giả nói trên là hai khả năng khác nhau trong việc tiếp nhận di sản
văn chương truyền thống và đưa di sản ấy vào trong lòng một xã hội đang
biến đổi theo khuynh hướng hiện đại hóa.
Chúng ta đều biết, xã hội nước ta những năm đầu thế kỷ này với hai cuộc
khai thác thuộc địa, với sự thiết lập và củng cố bộ máy chính quyền của thực dân
Pháp đã làm xuất hiện nhiều đô thị kiểu mới và nhiều tầng lớp xã hội mới như tư
sản, tiểu tư sản, vô sản, dân nghèo đô thị. Đó là những lớp người mới có lối sống,

thị hiếu và quan điểm thẩm mỹ khác trước. Bên cạnh đó, do nhu cầu đào tạo lớp
trí thức mới có trình độ văn hóa để phục vụ cho nhà nước Bảo hộ lâu dài, thực dân
Pháp đã cho cho một số thanh niên Việt Nam sang Pháp du học. Tầng lớp trí thức
Tây học xuất hiện. Nhiều người đã đi vào hoạt động văn hóa, văn học.
Sự xuất hiện một lớp công chúng độc giả mới, một lớp người hoạt động
văn học với quan niệm nghệ thuật mới là yêu cầu tiên quyết buộc văn học
phải đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Văn chương thời kỳ này không còn là
món ăn tinh thần của tầng lớp trí thức trong xã hội nữa mà đã trở thành món
ăn bình dân của rất nhiều đối tượng độc giả đặc biệt là tầng lớp thị dân, tiểu tư
sản, tư sản đương thời. Sáng tác văn chương cũng không còn là một công việc
sang trọng của số ít người có học vấn cao trong xã hội những khi “trà dư, tửu
hậu” mà đã dần trở thành một công việc, một nghề có tính đặc trưng của đời
sống văn hóa, văn học thời kỳ hiện đại. Các nhà văn chuyên nghiệp lần lượt ra
đời và ngày càng đông đảo. Văn học Việt Nam trong khoảng 40 năm đầu thế
kỷ XX đã phát triển hết sức mau lẹ trong quá trình hiện đại hóa một cách toàn

25

diện của mình. Chính sự phát triển phong phú, đa dạng với nhiều thành tựu
của nền văn học dân tộc lúc ấy đã đòi hỏi sự ra đời của ngành nghiên cứu và
phê bình văn học.
Bên cạnh đó, do nhu cầu văn hóa, văn học ngày càng cao, ngày càng
phong phú của mọi tầng lớp công chúng bạn đọc, báo chí cùng các phương
tiện in ấn ra đời, phát triển nhanh chóng và mỗi lúc một hiện đại hóa. Sự ra
đời của báo chí cùng sự phát triển của các nhà xuất bản đã góp phần nâng cao
dân trí, nâng cao thẩm mỹ cho độc giả, tạo điều kiện cho văn học phát triển
mạnh. Với người sáng tác, người nghiên cứu, phê bình văn học, báo chí chính
là nơi thử bút, nơi đăng tải, nơi trình bày quan điểm, phát biểu tư tưởng một
cách thuận tiện, kịp thời nhất về các vấn đề văn học nghệ thuật nói chung và
từng tác phẩm văn học nói riêng.

Trong suốt chín thế kỷ của văn học viết, các thế hệ tác giả văn học Việt
Nam đã sử dụng song song hai hệ thống ngôn ngữ để sáng tác đó là chữ Hán
và chữ Nôm (được sử dụng phổ biến từ thế kỷ XV). Chữ Quốc ngữ chủ yếu
được giáo dân công giáo sử dụng phổ biến vào thế kỷ XIX. Vì thế phải đến
lúc người Pháp đặt ách thống trị ở Đông Dương thì chữ Quốc ngữ mới bắt
đầu thay thế chữ Hán và chữ Nôm, trở thành thứ văn tự được sử dụng chính
thức trong bộ máy hành chính, giáo dục và những sinh hoạt văn hóa tinh thần.
Đối với nhà cầm quyền thực dân, việc sử dụng chữ quốc ngữ trong phạm vi toàn
xã hội cho phép họ hạn chế ảnh hưởng của giới trí thức truyền thống, cắt Việt
Nam khỏi quỹ đạo đồng văn với Trung Quốc và chuẩn bị cho công cuộc Pháp
hóa người bản xứ. Với trí thức Việt Nam, phải đến phong trào Duy Tân, các nhà
nho mới vượt qua được định kiến, chữ Hán là “chữ thánh hiền”, chữ quốc ngữ là
“chữ Tây”, “chữ quân tà đạo”, để cổ động nhân dân học chữ quốc ngữ.
Mặt khác, sang đầu thế kỷ XX, báo chí đã thâm nhập một cách sâu sắc
vào đời sống văn hóa tinh thần của nhiều tầng lớp người Việt. Đã xuất hiện

26

những tờ báo thuộc về cá nhân, nhóm người Việt, phát triển một cách độc lập
với chính quyền thực dân, mặc dù vẫn chịu sự chi phối bởi các luật về báo chí
Pháp đề ra… Đối với sự hình thành của văn học mới, báo chí và nhà xuất bản
kết hợp lại để tạo ra một môi trường văn hóa mới, những phương thức quan
hệ phi truyền thống giữa độc giả và nhà văn, làm thương mại hóa văn học.
Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà lớp công chúng thị dân đã xuất hiện, trở
thành một lực lượng tiếp nhận văn học mới khá đông đảo cũng có những đòi
hỏi và những nhu cầu thẩm mỹ mới. Sức ép để nảy sinh một nền văn học mới
bắt nguồn từ hai phía: khách quan và chủ quan, chủ thể và khách thể. Vì thế,
xây dựng một nền văn học mới vừa là một đòi hỏi của thời đại xã hội, vừa là
một đòi hỏi tự thân của chính văn học… Nhìn vào thực trạng văn hóa, văn
học của nước nhà hồi đầu thế kỷ XX cho thấy, những yếu tố cần thiết cho một

cuộc cách mệnh văn chương đối với lớp trí thức cũ đã không thể diễn ra.
Ngọn cờ đổi mới văn chương phải nằm trong tay những thanh niên trí thức
mới Tây học. Sự đổi mới này cũng cần phải có thời gian, bởi chủ thể sáng tạo
mới chưa làm chủ được công cụ sáng tạo. Đó là vấn đề vừa xây dựng vừa làm
chủ văn tự mới và tư duy sáng tạo mới. Cần có thời gian khắc phục sự “đứt
gãy” về văn hóa, tư duy văn học ở giai đoạn này. Vai trò chuyển tiếp khắc
phục đứt gãy văn hóa và tư duy văn học mới đó đã thuộc về báo chí hồi đầu
thế kỷ XX, mà ở đó, Nam Phong tạp chí có vị trí là “nguyên thủ” và giữ vai
trò chủ đạo trong tương quan với báo chí đương thời. Đến khi chủ thể sáng
tạo đã làm chủ được công cụ sáng tạo và tư duy văn học mới, ở nước ta văn
học mới có sự đổi thay mạnh mẽ.
Nam Phong tạp chí là một tờ có tính chất bách khoa toàn thư, đời sống
xã hội, văn hóa và văn học của dân tộc Việt Nam trong 17 năm rưỡi hầu như
được phản ánh một cách rõ ràng. Vào thời điểm những năm đầu thế kỷ XX,
những tri thức “văn học – khoa học” mà tạp chí đem đến cho bạn đọc có lợi ích

27

trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng tri thức, học vấn cho dân tộc. Nam
Phong tạp chí (1917-1934) đã ra đời và sinh hoạt giữa những phức tạp của lịch
sử chính trị xã hội, văn hóa, văn học của nước nhà những năm đầu thế kỷ XX.
Nhưng dù thế nào thì Nam Phong tạp chí cũng là sản phẩm của một thời kỳ
văn hóa, văn học của Việt nam, cần được nghiên cứu khách quan và công bằng.
1.2. Chủ đích của Nam Phong
Nam Phong tạp chí đóng vai trò “mở đầu” trong tiến trình lịch sử văn
học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cùng “ra đời” với một số báo chí và tạp chí
khác đương thời, nhưng Nam Phong là tạp chí tựa như đã làm những công
việc chuẩn bị một cách cơ bản và khá đầy đủ những yếu tố cần thiết cho một
cuộc “sinh nở” – cuộc sinh nở của một nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói
cách khác, Nam Phong tạp chí đã làm được khá toàn diện những gì cần thiết

cho công cuộc hiện đại hóa văn học.
Trong quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà, Nam Phong tạp chí
đã bắc một nhịp cầu quan trọng đưa văn học Việt Nam vào quỹ đạo hiện đại
trên nhiều phương diện. Nhìn từ góc độ đồng đại, đặt Nam Phong tạp chí vào
giai đoạn đầu thế kỷ XX, so với nhiều báo chí, tạp chí khác thời đó, Nam
Phong là ấn phẩm đóng vai trò chủ đạo, trụ cột, là nơi “dẫn gió bốn phương
vào đô thành văn học Việt Nam” (Kiều Thanh Quế), là tạp chí tham gia một
cách có ý thức và đầy đủ nhất vào tiến trình hiện đại hóa văn học. Nhìn từ góc
độ lịch đại, Nam Phong tạp chí đóng vai trò xây dựng nền móng ban đầu cho
quá trình hiện đại hóa văn học cả về phương diện lý thuyết và thực hành sáng
tác, dịch thuật và học thuật. Trong tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX, Nam Phong đã góp phần hòa cùng với nhiều mạch
nguồn khác của các báo chí đương thời đổ vào đại dương văn chương chung
của dân tộc để làm nên một đồng bằng văn học rực rỡ ở mùa sau, giai đoạn
văn học Việt Nam 1930 – 1945.

×