Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Trần thuật trong sững sờ và run rẩy của Amélie Nothomb

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.18 KB, 101 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGÔ THỊ THỦY



TRẦN THUẬT TRONG SỮNG SỜ VÀ RUN RẨY
CỦA AMÉLIE NOTHOMB



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
MÃ SỐ: 60 22 02 45





Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGÔ THỊ THỦY



TRẦN THUẬT TRONG SỮNG SỜ VÀ RUN RẨY
CỦA AMÉLIE NOTHOMB

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
MÃ SỐ: 60 22 02 45


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lộc Phương Thủy




Hà Nội – 2012
LỜI CAM ĐOAN

5
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 7

1. Lý do chọn đề tài 7

2. Lịch sử vấn đề 9

3. Phạm vi nghiên cứu 12


4. Phương pháp nghiên cứu: 12

5. Cấu trúc luận văn: 12

6. Đóng góp mới của đề tài: 12

CHƯƠNG 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ NHẤT 9

1.1. Giới thuyết hình tượng người kể chuyện 9

1.2. Điểm nhìn của người kể chuyện 11

1.3. Tình huống trần thuật 20

Tiểu kết 25

CHƯƠNG 2. GIỌNG ĐIỆU 26

2.1. Khái niệm giọng điệu 26

2.2. Giọng điệu trong tác phẩm văn học 29

2.3. Giọng điệu trong tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy 31

2.3.1 Giọng điệu người kể chuyện ngôi thứ nhất 31
2.3.2. Giọng điệu người kể chuyện ẩn 44
2.3.3. Giọng điệu nhân vật trong truyện 46

2.3.3.1. Giọng điệu nhân vật Amélie ……………………………46

2.3.3.2. Giọng điệu các nhân vật khác ………………………….59
Tiểu kết 61
CHƯƠNG 3. KHÔNG GIAN VĂN HÓA 63

3.1. Khái niệm không gian 63

3.2. Phân loại không gian trong tác phẩm văn học 65

3.3. Không gian trong tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy 66


6
3.3.1. Không gian trong truyện kể 67

3.3.1.1. Không gian văn phòng ………………………………68
3.3.1.2. Không gian phòng vệ sinh ………………………… 69
3.3.2. Không gian diễn ngôn – không gian tâm lý, tự do của nhân vật
…………………… 82
3.3.3. Không gian đối lập 86
3.3.4. Không gian mang trọng tải ngữ nghĩa 90
Tiểu kết 92

KẾT LUẬN 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO 96



















7

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Amélie Nothomb là nhà văn nổi tiếng, được nhiều người yêu mến
nhưng chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Bà sinh ngày 13/8/1967 tại
Kobe, Nhật Bản, là con gái ngài đại sứ Bỉ Patrick Nothomb. Bà chịu ảnh
hưởng sâu sắc của văn hóa đất nước Mặt trời mọc. Lên năm tuổi, Amélia tiếp
tục theo cha qua Trung Quốc, Mỹ rồi các nước Đông Nam Á. Bà chỉ trở về Bỉ
năm mười bảy tuổi và hoàn toàn bị sốc khi khám phá và hòa nhập với nền văn
hóa phương Tây. Năm mười chín tuổi, sau một biến cố gia đình, Nothomb trở
lại Nhật Bản làm việc cho tập đoàn lớn tại Tokyo. Năm 1992, bà xuất bản
cuốn tiểu thuyết đầu tay, Hygiène de I’assassin (Hồi ức kẻ sát nhân), cuốn
sách đánh dấu thành công đầu tiên của bà. Đều đặn mỗi năm cho ra đời một
tác phẩm, đến nay Amélie Nothomb đã xuất bản 17 tiểu thuyết và trở thành
một hiện tượng văn học không chỉ của nước Pháp. Độc giả đánh giá cao

phong cách tiểu thuyết truyền thống và khác lạ của nữ nhà văn trẻ, luôn đi
kèm một sự hài hước tinh tế. Đôi khi mang tính tự truyện hoặc hoàn toàn hư
cấu, những tiểu thuyết của Amélie Nothomb chứa đầy những kinh nghiệm của
riêng nhà văn nhưng qua đó, tất cả mọi người đều có thể cùng chia sẻ. Chẳng
thế mà người ta đã nhận định: “Amélie Nothomb trở thành một biểu tượng
của văn học trẻ, đặc biệt tại các quốc gia nói tiếng Pháp. Không chỉ đạt được
thành công về mặt thương mại với các đầu sách được dịch ra hơn 40 thứ
tiếng, được sánh ngang với những cây bút ăn khách như Marc Lervy hay
Anna Gavalda, Amélia còn nhận được giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm
Pháp cho tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy” (http: // www phongdiep.net).

8
1.2. Sững sờ và run rẩy ra mắt năm 1999, đánh dấu một bước ngoặt trong
sự nghiệp của nữ nhà văn trẻ. Đây chính là cuốn sách thành công nhất của
Amélie Nothomb với 500.000 bản được bán ra. Cuốn sách này cũng khiến
Amélie giành Giải thưởng Lớn của Viện hàn lâm Pháp cho thể loại tiểu
thuyết. Tờ Le Soir nhận xét: “Amélie Nothomb là một trong những nhà văn
nổi bật nhất trong thời đại cô. Với sự đều đặn như máy đếm nhịp, cây bút này
cho ra đời những tiểu thuyết thường được ca ngợi bởi sự độc đáo, tính nhân
văn và tính chất dữ dội của chúng”.
1.3. Tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy là một tác phẩm có cách thể hiện khá
độc đáo. Tác phẩm đề cập đến sự va chạm văn hóa giữa phương Đông và
phương Tây một cách hài hước và bình dị. Cuốn tiểu thuyết được đông đảo
bạn đọc đón nhận và được xem là “một phương thuốc chống phiền muộn”
dành cho độc giả. Sững sờ và run rẩy cho thấy khám phá mới của tác giả
Amélie Nothomb trong việc thể hiện những vấn đề lớn là những xung đột của
các nền văn hóa trong khuôn khổ nhỏ của một cuốn sách chưa đầy 200 trang.
Một khía cạnh khác của con người và văn hóa Nhật Bản được khám phá,
không phải từ cái nhìn ngưỡng vọng của một du khách đắm say vẻ đẹp Nhật
Bản mà từ cái nhìn của người trong cuộc, phải sống và tuân phục những luật

lệ của Nhật Bản chốn công sở, nơi người Nhật coi là gia đình lớn của họ.
Điều hấp dẫn đầu tiên trong cuốn sách nhỏ nhắn này: đây là một câu chuyện
có thật, từng xảy ra với Amélie Nothomb. Với điểm xuất phát chân thực đó,
một câu chuyện hài hước đã mở ra với cả tá tình huống dở cười dở mếu. Có
thể nói, sự xung đột văn hóa Đông – Tây ngày càng trở thành vấn đề đáng
quan tâm đối với con người, nhất là khi nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào
cũng đang hướng tới sự hội nhập với khu vực và thế giới. Với nội dung như
vậy, Sững sờ và run rẩy xứng đáng trở thành hiện tượng best-seller. Trong
nước, xuất hiện nhiều lời đánh giá, bình luận, đề cao ý nghĩa của tác phẩm

9
này. Nó không chỉ gây sự tò mò lớn đối với độc giả mà còn là mảnh đất màu
mỡ để khám phá cho những ai đam mê văn chương.
1.4. Vấn đề trần thuật trong văn học tuy không phải là mới nhưng đang
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Mặc dù còn nhiều luồng ý kiến trái
chiều nhau về vấn đề này nhưng sự ảnh hưởng và sức cuốn hút từ nó là điều
không ai có thể phủ nhận, là tiêu điểm quan trọng cần hướng tới của những
nhà văn có tư tưởng cách tân trên thế giới. Cuốn tiểu thuyết có nhiều đặc sắc
về trần thuật, từ người kể chuyện đến giọng điệu và không gian văn hóa. Qua
việc trần thuật, người đọc không chỉ cảm nhận được những điều kỳ thú mà
còn có những chiêm nghiệm nghệ thuật độc đáo.
Với những lí do kể trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Trần thuật trong
Sững sờ và run rẩy của Amélie Nothomb”. Tôi hy vọng công trình nghiên cứu
này phần nào đóng góp thiết thực trong việc tìm hiểu về văn học Pháp, trong
đó có tác giả Amélie Nothomb.
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam tên tuổi cũng như tác phẩm của Amélie Nothomb chưa được
biết đến nhiều. Những nghiên cứu về nhà văn Amélie Nothomb và tác phẩm
Sững sờ và run rẩy của bà hầu như còn rất hạn chế. Trên Internet có một số
bài báo viết về tác phẩm nhưng chưa đi sâu nghiên cứu kĩ, mới chỉ dừng lại ở

mức độ giới thiệu cuốn sách, bao gồm các bài báo nước ngoài và Việt Nam. Ở
nước ngoài, trên mạng (nếu gõ mục Amélie Nothomb) có nhiều bài lẻ về cuộc
đời và sự nghiệp tác giả nhưng chưa có bài nào đi sâu tìm hiểu về vấn đề nghệ
thuật của cuốn tiểu thuyết. Ở Việt Nam, tác phẩm cũng như các công trình
nghiên cứu về Amélie Nothomb chưa nhiều. Phần nhiều các bài viết đều nêu
khái quát một số nét đặc trưng, tiêu biểu về bút pháp, phong cách sáng tác của
tác giả hay mang tính chất giới thiệu về một số tác phẩm xuất sắc. Xuất hiện ở
báo Văn nghệ Trẻ, năm 2002, Đào Duy Hiệp đã giới thiệu một số gương mặt

10
nhà văn trẻ trên văn đàn nước Pháp, trong đó có Amélie Nothomb. Nhân sự
kiện cuốn Sững sờ và run rẩy được dịch và ra mắt bạn đọc Việt Nam, trên
trang eVan, báo Điện tử, ngày 05/12/2008, có bài của Thu Nhài giới thiệu qua
về cuộc đời và vài nét cơ bản về nội dung cuốn tiểu thuyết: “Cuốn sách được
trải ra giữa hai thế giới đối lập. Ước muốn trở thành một phiên dịch, song
Amélie giống một kẻ vô công rồi nghề ở công ty; đổi lại cho bao công sức thi
đầu vào, Amélie lượn lờ khắp các ngóc ngách như một hình ảnh lố bịch khi đi
bóc lịch hoặc tranh việc phân phát thư của người đưa thư; lẽ ra phải đau khổ,
vật vã lắm, nhưng Amélie lại cảm thấy nhẹ nhõm và rất đỗi bằng lòng trước
những công việc vớ vẩn nhất mà cô tự xin hoặc bị giao phải làm. Sự khôi hài
của hoàn cảnh và lối kể chuyện bình dị, chân thực, tao nhã đã tạo nên sự
quyến rũ thú vị cho Sững sờ và run rẩy, lôi kéo độc giả trong một khám phá
mới mẻ: hiện đại hóa mâu thuẫn lâu đời giữa phương Đông và phương Tây.
Nó khiến người ta đón nhận những điều vô lý nhất đang dồn ép Amélie theo
chiều hướng tích cực: lo lắng nhưng không sợ hãi, thất vọng nhưng không sụp
đổ. Không mô tả nhiều song thế giới nhân vật trong Sững sờ và run rẩy hiển
hiện thật đậm nét với phát hiện tinh tế của Amélie Nothomb, từ nét tính cách
của mỗi cá nhân tới hình ảnh chung về những người trong hệ thống công sở ở
Nhật. Tất tật chỉ có bốn người: ông Haneda là chủ tịch hội đồng quản trị, ông
Omochi là cấp phó, sau đó là ông Saito và cô Mori. Mọi va chạm, mâu thuẫn,

xung đột đều liên quan tới chừng ấy người. Nhưng họ là sức mạnh không gì
phá vỡ nổi khi xếp đặt cạnh nhau và được kết nối bằng thứ keo dính đặc biệt
có tên là “nguyên tắc”. Amélie bị đẩy thành bà “Nước Tiểu” trong cơ quan
cũng chỉ vì cô không sao hiểu nổi hệ thống ấy, và điều này như một thứ gia vị
hài hước, tạo cho cuốn tiểu thuyết góc nhìn sắc sảo mà đậm chất hài hước”.
Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy cũng còn
chiếm số lượng quá ít ỏi với đề tài khóa luận tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã

11
hội và Nhân văn: Nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy của
Amélie Nothomb của Phan Thị Bích Thảo (Ngành văn học – K.50). Trong
khóa luận này, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề nhân vật trung tâm ở ba
khía cạnh: nhân vật trung tâm đóng vai trò là người kể chuyện; nhân vật
trung tâm trong mối quan hệ với thời gian; nhân vật trung tâm dưới góc nhìn
văn hóa. Năm 2011, cũng tại trường Đại học này có thêm khóa luận tốt
nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Nga với đề tài Không gian và giọng điệu trong
tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy của Amélie Nothomb. Trong khóa luận của
mình, tác giả Nguyễn Thị Nga tập trung nghiên cứu không gian tác phẩm ở
các khía cạnh : không gian bối cảnh, sự kiện bao gồm không gian văn phòng;
không gian phòng vệ sinh và không gian tâm lý – không gian tự do của nhân
vật. Theo tác giả, không gian có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ tạo bối
cảnh cho cốt truyện mà còn là môi trường diễn biến nội tâm của nhân vật và
hàm chứa những ý đồ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn trẻ Nothomb. Cùng
với không gian là giọng điệu. Giọng điệu được đề cập tới trên hai phương
diện: giọng điệu của người kể chuyện và giọng điệu các nhân vật trong
truyện. Sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn nhiều giọng điệu khác nhau trong
cùng một tác phẩm đã khiến cho cuốn tiểu thuyết này trở thành “bài học đầu
tiên” cho những ai sắp và sẽ bước vào cuộc sống của một nhân viên làm việc
trong một công ty nước ngoài. Nhìn chung, các bài viết đã đề cập đến một số
nét tiêu biểu, đặc sắc của cuốn tiểu thuyết, trở thành tài liệu tham khảo thiết

thực đóng góp một phần nào đó cho đề tài của chúng tôi. Tuy nhiên vẫn chưa
có một công trình cụ thể nào khái quát và đi sâu tìm hiểu các khía cạnh thuộc
vấn đề trần thuật của tiểu thuyết Sững sờ và run rẩy. Vì vậy, chúng tôi hy
vọng luận văn sẽ góp phần nào làm phong phú hơn lịch sử nghiên cứu vấn đề,
cụ thể là về phương diện trần thuật của tác phẩm vì cuốn sách này cho đến

12
nay vẫn giống như một thế giới tiềm ẩn cuốn hút người nghiên cứu bởi rất
nhiều những yếu tố, khía cạnh cần khám phá.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có tham vọng
khảo sát toàn bộ thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của Amélia Nothomb mà
chỉ tập trung khai thác vấn đề trần thuật trong tác phẩm Sững sờ và run rẩy
của nhà văn Amélie Nothomb, (2008), dựa trên bản dịch Tiếng Việt của Thi
Hoa, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được tiến hành trên cơ sở ứng dụng phương pháp trần thuật học,
xã hội học kết hợp cùng các thao tác thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp…
5. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Người kể chuyện ngôi thứ nhất
Chương 2: Giọng điệu
Chương 3: Không gian văn hóa
6. Đóng góp mới của đề tài:
Ứng dụng lý thuyết trần thuật để phân tích tác phẩm Sững sờ và run rẩy,
chúng tôi muốn làm sáng tỏ đặc sắc nghệ thuật trần thuật của tác phẩm đồng
thời từ đó soi chiếu vào nội dung, thấy được sự xung đột văn hóa Đông – Tây
đang diễn ra ngày một gay gắt và là vấn đề thời sự đáng chú ý. Ngoài ra,
chúng tôi hy vọng công trình nhỏ bé này sẽ đóng góp phần nào vào việc giới
thiệu tên tuổi nhà văn Amélie Nothomb sâu rộng hơn nữa tới bạn đọc; trở

thành tư liệu tham khảo thiết thực cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn
học nước ngoài, đặc biệt là văn học Pháp đương đại.



13
CHƯƠNG 1. NGƯỜI KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ NHẤT


1.1. Giới thuyết hình tượng người kể chuyện
Dưới góc độ thuật ngữ văn học, trần thuật được định nghĩa là “khái niệm
chỉ một bộ phận ngôn bản quan trọng trong tác phẩm văn học tự sự, là thành
phần lời của tác giả, của người trần thuật, hoặc của người kể chuyện, tức là toàn
bộ văn bản tự sự, ngoại trừ lời nói trực tiếp của nhân vật” [23]. Khái niệm trần
thuật học có thể hàm chứa hai phương diện: “câu chuyện được kể” và “hành
động kể bao gồm các yếu tố như hành động, biến cố, cốt truyện được kể, nội
dung câu chuyện với những diễn biến sự kiện, tình tiết, tình huống”. “Hành động
kể chuyện” là cách thức diễn đạt, giọng điệu người kể nhằm truyền đạt nội dung
tác phẩm đến người tiếp nhận. Vấn đề “câu chuyện được kể” và “hành động kể
chuyện” trong trần thuật văn học, đặc biệt là trong văn học hiện đại, không đơn
giản như trong nhiều hình thức trần thuật thông thường, bởi nó liên quan đến
một hệ thống các thành tố nghệ thuật, kĩ thuật tự sự của tác phẩm. Vì lẽ đó, trần
thuật văn học được coi là hình thức trần thuật phức tạp nhất: “Lý thuyết trần
thuật học trở thành một sản phẩm thực dụng, cụ thể của làn sóng lớn trong lý
thuyết văn hóa về văn học” (Trần Đình Sử). Lý thuyết trần thuật học có thể coi
như một bộ phận không thể thiếu trong hành trang nghiên cứu văn học, “đó là
một bộ phận cấu thành của hệ hình lí luận hiện đại”.
Trần thuật học (narratologie) lần đầu tiên được đề xuất tên gọi vào cuối
những năm 1960 của thế kỉ XX do việc xem xét lại chủ nghĩa cấu trúc từ quan
điểm lý thuyết giao tiếp về bản chất của nghệ thuật. Trần thuật học đứng giữa

một phía là chủ nghĩa cấu trúc và một phía khác là mĩ học tiếp nhận. Trần
thuật “bao gồm việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời
gian, mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại thất, nội thất, bàn luận,
lời nói bán trực tiếp của các nhân vật” [2, tr. 324]. Người kể chuyện là một

14
trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại. Khi tiếp xúc với
bất kì tác phẩm văn học nào, ta cũng không thể bỏ qua người kể chuyện.
Todorov cho rằng “người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế
giới tưởng tượng. Không thể có trần thuật nếu thiếu người kể chuyện. Người
kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như
vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân
danh nó cuốn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt” [17, tr. 117].
Nhà nghiên cứu Bakhtin cũng tỏ rõ mối quan tâm đặc biệt của mình tới khía
cạnh người kể chuyện. Ông xem xét nó trong mối quan hệ với các cấp độ trần
thuật, “khác với các hình tượng nhân vật khác, tính cách của người kể chuyện
bộc lộ không phải chỉ qua việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động trong tác
phẩm, hay những lời giãi bày tâm sự về chính mình, mà chủ yếu qua thái độ
đối với thế giới câu chuyện được kể lại” [13, tr. 119].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện “là hình tượng ước lệ
về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện
được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm […]. Hình tượng người kể
chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt
tâm lý, nghề nghiệp, hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả” [24, tr. 154].
P. Lubbock, một trong những người đặt nền móng cho trần thuật học, rất ý
thức liên kết mối quan hệ giữa người kể chuyện với điểm nhìn, vấn đề thái độ
của người kể chuyện với việc trần thuật. Việc gắn kết điểm nhìn với người kể
chuyện, theo Bakhtin, là việc làm cần thiết bởi ta đoán định âm sắc tác giả
qua đối tượng của câu chuyện kể, cũng như qua chính câu chuyện và hình
tượng người kể chuyện bộc lộ trong quá trình kể. Trong một tác phẩm văn

học, người kể chuyện có thể là tác giả, có thể là không, tuy nó là một hình
thức thể hiện quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Song, quan điểm của tác

15
giả không bao giờ trùng khít với quan điểm của người kể chuyện. Người kể
chuyện bị trừu tượng hóa.
So với các thế kỉ trước, thế kỉ XXI đã chứng kiến nhiều đổi thay trong
vấn đề người kể chuyện. Những vấn đề cơ bản xoay quanh người kể chuyện
được đặt ra. “Nói đến người kể chuyện là nói tới điểm nhìn được xác định
trong quan hệ đa phương, không gian, thời gian, tâm lý, tạo thành góc nhìn,
người kể chuyện là ai, kể chuyện người khác hay kể chuyện chính bản thân
mình, khoảng cách không gian từ nơi sự việc xảy ra đến chỗ đứng của người
kể chuyện cũng như độ lệch thời gian giữa lúc sự việc xảy ra và khi sự việc
được kể lại vẫn thường được các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu” [19, tr.
207]. Với xu hướng đó, trong văn xuôi hiện đại, giọng nói đa âm, mơ hồ của
người kể chuyện đã tạo nên sức cuốn hút. Từ đó, ngôn ngữ, giọng điệu của tác
phẩm trở nên đa thanh, phong phú hơn.
Theo lý thuyết trần thuật học, không chỉ có vấn đề điểm nhìn mà Genette
và Stanzel còn sử dụng thuật ngữ tình huống trần thuật để chỉ sự sắp xếp phức
tạp hoặc những mô hình đặc trưng của trần thuật. Tình huống trần thuật là
“những cấu trúc phức tạp nhằm mục đích nắm bắt những dạng điển hình của
đặc trưng trần thuật, bao gồm đặc trưng quan hệ, khoảng cách, ngữ dụng, kiến
thức, niềm tin, giọng điệu và tiêu điểm” [12, tr. 50]. Tình huống trần thuật
được xác định cụ thể hóa bằng các điểm nhìn trần thuật. Theo M.Butor trong
bài viết Tiểu thuyết như sự tìm tòi, tiểu thuyết là một hình thức đặc biệt của
người kể chuyện, người kể chuyện bao giờ cũng liên quan đến vấn đề điểm
nhìn trần thuật.
1.2. Điểm nhìn của người kể chuyện
Sững sờ và run rẩy được kể theo ngôi thứ nhất. Trong trần thuật ngôi thứ
nhất, câu chuyện được kể bằng nhân vật trong chuyện. Cụ thể, ở tác phẩm này,

điểm nhìn của người kể chuyện được thể hiện qua nhân vật “tôi”. Đây là điểm

16
nhìn bên trong xuyên suốt tác phẩm. Người kể chuyện đồng thời là nhân vật
chính của câu chuyện. Việc lựa chọn điểm nhìn như vậy có ý nghĩa cho sự lựa
chọn và giới hạn thông tin trần thuật. Tác phẩm trở thành câu chuyện mang tính
tự thuật và những sự kiện được trần thuật lại từ “điểm nhìn cố định” của người
kể chuyện. Mọi sự kiện, tình huống trong cốt truyện đều trực tiếp liên quan đến
“tôi” hay “tôi” chính là đối tượng tham gia, chứng kiến và đưa ra nhận xét về
những vấn đề được trực tiếp mắt thấy tai nghe. Để cho nhân vật “tôi” tự kể
chuyện mình, chứ không phải là người kể chuyện “biết tuốt” kể về nhân vật
bằng ngôi thứ ba như hầu hết các tác phẩm, Amélie đã xây dựng thành công và
tạo được ấn tượng đậm nét hơn đối với người đọc bởi “tôi” là một thực thể
cũng có những mối quan hệ với các nhân vật trong truyện và với cả tác giả
ngoài đời. Xét trên một phương diện nào đó, người kể chuyện xưng “tôi” trong
tác phẩm còn có vai trò là “chất xúc tác”, góp phần làm bộc lộ tính cách của
các nhân vật trong truyện. Ngược lại, các nhân vật kia cũng có vai trò tích cực
thúc đẩy quá trình nhận thức và tự ý thức của nhân vật “tôi”. Bên cạnh đó, khi
truyện được kể từ điểm nhìn của người kể chuyện xưng “tôi” thì người kể có
điều kiện tự do bộc lộ cá nhân, biểu đạt tình cảm chủ quan. Khi đó, cái “tôi”
một mặt là cái “tôi” khách quan, mặt khác cũng là cái “tôi” chủ quan, cái “tôi”
nội tâm, cái “tôi” tâm lý. Một mặt “tôi” hướng ra thế giới của các nhân vật, sự
kiện để trần thuật, mặt khác hướng vào thế giới nội tâm của mình để bộc lộ
những suy nghĩ, tình cảm bản thân. Với ngôi trần thuật này, người kể chuyện
xưng “tôi” có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng như
toàn quyền miêu tả những nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân.
Sững sờ và run rẩy mở đầu với lời giới thiệu về thứ bậc, địa vị của những
nhân vật tai to mặt lớn trong công ty Yumimoto – nơi “tôi” đến làm việc: “Ông
Haneda là cấp trên của ông Omochi. Ông Omochi là cấp trên của ông Saito. Ông
Saito là cấp trên của cô Mori. Và cô Mori là cấp trên của tôi. Còn tôi không là


17
cấp trên của ai hết. Hoặc có thể nói theo cách khác. Tôi làm theo mệnh lệnh của
cô Mori, cô Mori làm theo lệnh của ông Saito, và cứ tiếp tục như thế, các mệnh
lệnh được truyền từ trên xuống dưới qua các cấp bậc với sự chính xác này” [1, tr.
7]. Đây là cách giới thiệu khá đặc biệt bởi nó không giống như các câu chuyện
xưng “tôi” thông thường bắt đầu từ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của nhân vật
chính: “tôi”. “Tôi” trong Sững sờ và run rẩy được giới thiệu trong mối quan hệ
khăng khít với các nhân vật nơi cô sắp tới làm việc. Ở đây có sự phân biệt ranh
giới cấp bậc rất rõ ràng. Nguyên do của sự giới thiệu này được chính “tôi” lý giải
một cách thú vị trong những tình tiết tiếp theo của câu chuyện. Từ đây một câu
chuyện về chốn công sở Nhật đã dần dần hiện ra qua cái nhìn của một nhân viên
người Âu. Một khía cạnh khác của con người và văn hóa Nhật Bản được khám
phá, không phải từ cái nhìn ngưỡng vọng của một du khách say đắm vẻ đẹp Nhật
Bản mà từ cái nhìn của người trong cuộc, phải sống và tuân phục những luật lệ
của Nhật Bản chốn công sở, nơi người Nhật coi là gia đình lớn của họ.
Nhân vật “tôi” đến với công ty nhất định đã có sự tìm hiểu về đất nước,
con người Nhật. Cho nên “tôi” đã thể hiện mình là một người phương Tây
thích khám phá và biết tôn trọng văn hóa Nhật (văn hóa bản xứ). “Tôi cúi gập
người” khi được một người đàn ông trạc tuổi năm mươi gọi tên. Đó là ông
Saito. Và “Có ạ” cũng là câu đầu tiên mà nhân vật “tôi” nói trong công ty.
Đây chính là sự thể hiện thái độ tôn trọng của người phương Tây trước những
nguyên tắc của người Nhật.
Thử thách đầu tiên đặt nhân vật “tôi” trong mối quan hệ với ông Saito:
“Cái “thách thức” mà ông Saito đề nghị với tôi là viết một bức thư bằng tiếng
Anh cho ông Adam Johnson nào đó để báo cho ông ta biết ông Saito nhận lời
đi chơi golf với ông ta vào Chủ nhật tuần sau” [1, tr. 9]. Nhưng điều rất phi lý
là nhân vật “tôi” không được biết ông Adam Jonhson là ai để dẫn đến một hậu
quả rất logic mà cô ta không thể ngờ tới: mặc dù đã làm đi làm lại đến hàng


18
ngàn lá thư với các giọng điệu và cách thức khác nhau, “tôi” vẫn không nhận
được sự hài lòng từ cấp trên. Thử thách đầu tiên này ngỡ tưởng dễ nhưng xem
ra lại thật khó. Nó khiến “tôi” nghĩ đến “gã trưởng giả học làm sang trong
kịch của Molière khi gã tìm các câu văn hoa mĩ để tán tỉnh bà hầu tước xinh
đẹp” [1, tr. 11]. Sở dĩ, thách thức trong ngày làm việc đầu tiên đối với “tôi”
không phải là từ cấp trên trực tiếp – cô Mori mà từ ông Saito bởi điều này
được lý giải là cô ta đang bận họp và sẽ gặp “tôi” vào đầu giờ chiều. Thách
thức mở màn xem chừng đã chẳng hề thuận buồm xuôi gió đối với “tôi”. Điều
này như dự báo trước tương lai làm việc của “tôi” trong công ty Yumimoto.
Trong cách kể lại thách thức (trải nghiệm) đầu tiên của chính mình trong công
ty, có thể thấy, “tôi” giữ thái độ khách quan đôi khi xen lẫn với một vài bình
luận nhỏ sau những lần bị ông Saito xé toạc các lá thư đã được “tôi” vận dụng
mọi khả năng hiểu biết để viết nên. Với giọng điệu này khiến “tôi” hiện ra
trước mắt người đọc là một nhân viên chăm chỉ, chịu khó và giàu óc hài hước.
Nhưng thất bại của công việc đầu tiên không làm cho nhân vật “tôi” nản
chí. Người có ảnh hưởng lớn nhất và liên quan trực tiếp nhất về công việc đối
với “tôi” trong công ty Yumimoto chính là cô Fubuki. Con người này trở nên
hấp dẫn đối với “tôi” ngay từ lần đầu gặp mặt với dáng “cao lòng khòng như
cái cung tên” [1, tr. 12]. Điều này, một lần nữa được khẳng định qua các lần
miêu tả sau với dáng người mảnh dẻ, quyến rũ, chất giọng mềm mại toát lên
vẻ thông minh cùng chiều cao 1m80… Vẻ đẹp bên ngoài của cô Fubuki khiến
“tôi” hết lời trầm trồ ca ngợi: “Cô có chiếc mũi đẹp nhất thế giới, chiếc mũi
kiểu Nhật Bản, một kiểu mũi có một không hai với hai lỗ mũi nhỏ rất thanh
và có thể nhận ra giữa hàng nghìn chiếc mũi khác. Không phải tất cả người
Nhật đều có chiếc mũi này, song, nếu ai đã có nó, thì chỉ có thể là người gốc
Nhật. Giá như nữ hoàng Cléopâtre mà có chiếc mũi này, thì bản đồ hành tinh
chúng ta hẳn đã khác rất nhiều” [1, tr. 13]. Hơn thế, trong quá trình làm việc,

19

tiếp xúc trực tiếp với cấp trên, “tôi” đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Sự ngưỡng mộ và niềm yêu kính cô Fubuki được thay dần bằng những khó
chịu: “Này Fubuki, ta là Thượng đế. Cho dù mi không tin ta, nhưng ta là
Thượng đế. Mi ra lệnh ư, một điều chẳng có gì ghê gớm. Còn ta, ta trị vì.
Quyền lực chẳng khiến ta bận tâm. Trị vì mới cao siêu hơn nhiều. Mi chẳng ý
thức nổi tới vinh quang của ta đâu. Vinh quang tuyệt vời lắm. Có các thiên
thần thổi kèn trompette để tôn vinh ta. Chưa bao giờ ta có vinh quang như
đêm nay. Chính là nhờ có mi đấy. Giá như mi biết được rằng mi đang làm
việc vì vinh quang của ta” [1, tr. 73]. “Tôi” sau những chèn ép quá đáng tại
công ty đã dần thay đổi thái độ và suy nghĩ về con người này, hay đúng hơn,
từ Fubuki, “tôi” đi hết từ sững sờ này đến sững sờ khác về cách hành xử và
văn hóa Nhật Bản. Ngay từ khi bắt đầu công việc tại Yumimoto, Amélie đã
không ý thức được vai trò hay nhiệm vụ của mình tại đây. Hành trình của cô
bắt đầu từ một nhân viên phục vụ cà phê cho tất cả mọi người rồi trở thành
người thu phát thư tự nguyện, người đi xé lịch… cho công ty. Ngay khi cô
nói: "Tôi đã trở thành kế toán cho công ty Yumimoto và tôi nghĩ mình không
thể xuống thấp hơn được" thì thật bất ngờ lúc đó, cô mới ở điểm bắt đầu cho
một hành trình tuột dốc không phanh của mình. Điểm cuối cùng trên con
đường sự nghiệp của Amélie tại Nhật là: bà "Nước Tiểu" chuyên dọn nhà vệ
sinh. Và điều mà người đọc ngạc nhiên hơn là Amelie vẫn ở đó, đối đầu với
tất cả một cách kiên cường, nhẫn nại và đôi chút nhún nhường, câm lặng để
hoàn thành hết một năm hợp đồng tại Nhật.
Tuy nhiên, trong số nhiều người mà “tôi” tiếp xúc trong công ty cũng có
không ít những nhân vật có cách đối xử thật tốt và nhã nhặn khiến “tôi” nể
trọng, tiêu biểu là ông Tenshi. Chính ông đã cho “tôi” có cơ hội thể hiện tài
năng của mình khi tham gia trận chiến bơ tách béo. Công việc này đã đem lại
cho “tôi” những hứng khởi và say mê đang mất dần bởi công việc pha cà phê

20
và bóc lịch, photo trước đó. Nhưng thực tế đã chứng minh chính ông Tenshi

cũng không thể bảo vệ được “tôi” trước cơn thịnh nộ của ông Omochi. Và
hàng loạt những màn tối được hé lộ từ sự việc này. Nó khiến tôi phải nhận
thức lại ranh giới và quyền hạn công việc mà mình được giao. Nó cũng giúp
tôi hiểu ra: xâm phạm vào công việc của người khác dù cho mình làm tốt
cũng đều được coi là một tội. Có thể nói, trong mối quan hệ với các nhân vật
khác, “tôi” đã có cách nhìn toàn diện hơn về thực tại lao động tại Nhật Bản –
nơi mà trước khi làm, “tôi” vẫn nhìn với con mắt trầm trồ, khao khát. Chốn
công sở với hàng loạt những nghi thức công ty kỳ cục nhất làm cho Amélie bị
lạc lối đến bấn loạn, và tấn bi hài kịch được đẩy lên tới đỉnh điểm khi cô gái
trẻ đến từ Bỉ bị hạ cấp xuống làm người dọn dẹp nhà vệ sinh với biệt danh Bà
Nước Tiểu. Như vậy, có thể thấy với điểm nhìn bên trong của nhân vật “tôi”,
cô đã kể lại hành trình làm việc của mình trong công ty Yumimoto. Khoảng
thời gian này cũng là lúc “tôi” được gắn chặt trong mối quan hệ không thể
tách rời với cấp trên, đặc biệt với cô Mori Fubuki. Với ngôi kể chuyện xưng
“tôi”, nhân vật giúp người đọc hình dung quá trình tụt dốc của cô trong công
việc cũng như hiểu hơn về sự phức tạp trong các mối quan hệ chốn công sở
tại Nhật.
Sững sờ và run rẩy được kể bằng ngôi thứ nhất nhưng không vì thế mà
diễn biến câu chuyện mang tính chủ quan, nhàm chán. Ngược lại, vì người kể
chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất lại chính là nhân vật trung tâm nên hầu hết
các biến cố, sự kiện đều tác động vào nhân vật, nhân vật có sự quan hệ và va
chạm với các nhân vật còn lại. Trong quá trình ấy, người kể chuyện tất yếu có
cái nhìn từ bên ngoài vào bên trong. Trong tác phẩm này, hầu hết các nhân vật
khác đều hiện lên qua con mắt quan sát của người kể chuyện từ ngoài vào
trong. Sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong không chỉ căn cứ trong
toàn bộ quá trình câu chuyện được kể lại , trong toàn bộ văn bản mà có khi

21
nằm ngay trên một trang viết, một tình huống hay một đoạn văn bản cụ thể.
Chúng ta hãy xem một đoạn văn trong tác phẩm (chúng tôi có đánh số sau các

câu) :
“Điều khiến tôi không chịu đựng nổi là phải nhìn thấy ân nhân của mình
bị sỉ nhục vì lỗi của tôi (1). Ông Tenshi là một người thông minh và chu đáo:
ông đã dám liều vì tôi, dù biết rõ hậu quả (2). Ông đã hành động không mảy
may vì lợi ích cá nhân, mà chỉ bởi lòng vị tha (3). Vậy mà đáp lại lòng tốt của
ông, người ta lại bắt ông chịu cảnh nhục nhã (4). Tôi cố làm theo ông: ông ở
trong tư thế cúi đầu và thu vai (5). Nét mặt ông lộ vẻ phục tùng và xấu hổ (6).
Tôi bắt chước ông (7)”.
Với A là điểm nhìn bên ngoài (sự quan sát và miêu tả thuần túy về mặt
diện mạo, ngoại hình), B là điểm nhìn bên trong của nhân vật “tôi”.
Ta có sơ đồ sau:
1B- 2A- 3A- 4B- 5A- 6B- 7A.
Như vậy, chỉ trong một đoạn văn ngắn liên tục có sự di chuyển điểm
nhìn từ bên ngoài vào bên trong. Sự di chuyển điểm nhìn đã cho thấy vị trí
quan sát của người kể chuyện thay đổi, chuyển dần từ việc quan sát bề ngoài
sang vị trí của một người đang cố gắng thâm nhập vào thế giới nội tâm của
nhân vật để có cái nhìn toàn diện, cụ thể và hiểu hơn về bản chất của đối
tượng được quan sát.
Bên cạnh đó, tác phẩm còn xuất hiện “điểm nhìn hỗn hợp”. Đó là việc
trình bày một sự kiện, tình tiết nhưng qua con mắt nhìn của nhiều người.
Điểm nhìn này cũng được thể hiện rõ trong tác phẩm. Trước tiên, phải nói tới
công việc phân phát thư từ của “tôi”. Đối với “tôi, công việc này xem ra rất
phù hợp bởi: “Trước hết, nó sử dụng đến khả năng ngôn ngữ của tôi, vì phần
lớn những địa chỉ ghi bằng tiếng Nhật – khi ông Saito không có đó, tôi không
hề giấu giếm việc mình biết tiếng Nhật. Tiếp đến, tôi phát hiện ra mình đã

22
không phí công học thuộc lòng danh sách nhân vật của Yumimoto: tôi không
chỉ nhận ra từng người nhân viên bình thường nhất , mà còn tranh thủ lúc đưa
thư để chúc mừng sinh nhật họ hoặc vợ chồng con cái họ nếu đúng dịp” [1, tr.

26]. Sự việc này khiến “tôi” nhận được “cái nhìn đầy ngỡ ngàng” từ những
thành viên khác trong công ty. Tuy nhiên, đối với người phụ trách văn thư,
người này đã “gần như lên cơn thần kinh vì nghĩ mình sắp bị sa thải” [1, tr.
27] và ông Saito đã đưa ra ý kiến của riêng mình: “Ăn cắp công việc của
người khác là hành động vô cùng xấu xa” [1, tr. 27]. Chính những ý kiến trái
chiều đã khiến suy nghĩ và hành động tốt đẹp của Amélia bỗng chốc trở thành
một việc làm mang đầy tính tội ác, không thể tha thứ. Hay như chuyện bóc
lịch của “tôi”. Đối với “tôi”, bóc lịch được xem là một nghề và “Tôi thích
công việc vất vả này” [1, tr. 29]. Cô coi đó là việc làm lương thiện, xuất phát
từ ý tốt khi muốn các cuốn lịch được để đúng ngày giúp mọi người nắm được
thông tin về thời gian. Công việc khiến cho vẻ mặt của cô “bơ phờ” nhưng
pha lẫn “tự hào khiêm tốn của người chiến binh thắng trận”. Thế nhưng, với
các thành viên của Yumimoto, “Họ thấy buồn cười lắm” [1, tr. 28], họ đón
tiếp cô “như một vận động viên thể thao”. Ngay cả ông Saito dù không quát
mắng Amélie thậm tệ như lần trước nhưng lại coi đó là hành động “phô diễn”
và tác hại đáng kể là nó khiến cho “các nhân viên mất tập trung khi làm việc”.
Hoặc giả, việc trở thành người trợ giúp ông Tenshi làm báo cáo về quá trình
tách chất béo ra khỏi bơ. Với ông Tenshi, việc lựa chọn “tôi” vào công việc là
vì lí do cô là một người Bỉ. Bản báo cáo của cô được đánh giá rất cao, thậm
chí ông Tenshi còn muốn nêu tên cô là người soạn báo cáo trong cuộc họp.
“Tôi” cảm thấy vô cùng vinh dự và thích thú với công việc mới này, không
chỉ bởi ông Tenshi là người dũng cảm, rộng lượng và là người duy nhất trong
công ty Yumimoto cho cô việc làm mà còn bởi nó giúp cô xúc động khi được
liên hệ và làm việc qua điện thoại với người đồng hương của mình. Nhưng

23
với ông Omochi thì đó lại là hành động của “lũ phản bội, lũ vô dụng, lũ lươn
lẹo, lũ xảo quyệt và – câu chửi rủa thậm tệ nhất là – lũ cá nhân chủ nghĩa” [1,
tr. 40]; với Fubuki thì đó là “một sai lầm hết sức nghiêm trọng” để muốn
thăng tiến nhanh trong công việc. Kết quả của một việc làm tốt là “tôi” từ

người làm công việc photo trở thành một kế toán mà không hề rõ về những gì
mình sẽ phải làm. Và cũng từ đây, những mâu thuẫn giữa hai con người, hai
người thiếu nữ cùng làm việc trong công ty Yumimoto được bộc lộ rõ nét hơn
bao giờ hết. Một sự kiện nữa trong tác phẩm cũng được thể hiện qua “điểm
nhìn hỗn hợp” là việc “tôi” trở thành Bà Nước Tiểu, lau dọn cả nhà vệ sinh
nam và nữ. Chính Mori Fubuki đã nghĩ ra công việc mới này cho “tôi” khi cô
không đáp ứng được những yêu cầu của công việc kế toán. Fubuki giao nhiệm
vụ này cho nhân viên với mục đích mong cô ta thôi việc nhưng với “tôi”:
“Xét cho cùng thì cái nghề này rõ ràng là không ghê rợn bằng nghề kế toán –
ý tôi nói ở đây là công việc kiểm tra chứng từ công tác” [1, tr. 121], “trong
suốt bảy tháng trời làm việc này, chưa một giây nào tôi cảm thấy nhục nhã”
[1, tr. 122]. Thế nhưng chính công việc mới này cũng tạo ra những cái nhìn
trái chiều từ các thành viên khác trong công ty: ông Haneda “Trong một
thoáng, ông mỉm cười vì cho rằng tôi đã nhầm phòng vệ sinh do bản tính lơ
đễnh vụng về. Song ông đã ngừng cười khi thấy tôi tháo cuộn vải lau tay vừa
ướt vừa bẩn và thay vào đó một cuộn mới. Ông hiểu ra ngay lập tức và không
dám nhìn tôi nữa. Ông có vẻ bối rối” [1, tr. 125]; ông Omochi: “Có việc là tốt,
đúng không?” [1, tr. 126]; trường hợp ông Saito thì khác hẳn: “Ông có vẻ
thực sự thấy buồn vì chuyện này… Khi ông gặp tôi trong nhà vệ sinh, nét mặt
căng thẳng lộ rõ trên khuôn mặt gầy guộc của ông” [1, tr. 127]; và ngại nhất
là ông Tenshi: “Ông bước vào và nhìn thấy tôi: nét mặt ông biến sắc… Thế là
ông Tenshi có một hành động rất lạ: ông quay ra ngay lập tức và không thực
hiện bất cứ chức năng nào đã định sẵn ở nơi này” [1, tr. 127]. Theo ông,

24
“chẳng mấy chốc, không một thành viên nào của bộ phận sữa lui tới sào huyệt
của tôi nữa. và dần dà là tôi nhận ra là những bộ phận khác cũng hiếm khi lui
tới nhà vệ sinh nam ở tầng này” [1, tr. 128]. Mỗi nhân vật có cách cảm nhận
riêng về việc Amélie từ một cô phiên dịch bỗng chốc bị đẩy xuống đáy cùng
trong công ty Yumimoto. Thái độ hả hê của Mori Fubuki và ông Omochi

chứng tỏ đây là những con người luôn muốn chèn ép và hạ thấp người khác.
Trong khi đó, hành động của ông Tenshi cho thấy cái nhìn cảm thông nhưng
bất lực của bản thân khi rõ ràng nhận thấy năng lực của nhân viên mà không
có cách nào để tạo điều kiện và giúp đỡ trên con đường thăng tiến về sự
nghiệp.
Việc liên kết giữa điểm nhìn bên trong, sự di chuyển điểm nhìn và “điểm
nhìn hỗn hợp” tạo cho các tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa phong phú, đa dạng và
sâu sắc. Người đọc không buộc phải hướng theo một quan điểm trần thuật
duy nhất mà cùng lúc được đối thoại với nhiều nhân vật. Điều đó làm tăng
khả năng khái quát hiện thực của tác phẩm đồng thời dành nhiều sự chủ động
suy nghĩ hơn cho độc giả khi đọc tác phẩm.
1.3. Tình huống trần thuật
Tình huống là một khía cạnh của thi pháp thể loại có vai trò nhất định
trong các tác phẩm văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết. Sững sờ và run rẩy của
Amélie có một cốt truyện dung dị nhưng cái hay của nó chính là ở chiều sâu
khái quát nhờ việc phát hiện ra các tình huống đời sống.
Có thể thấy ngay, đây là điểm nhìn phụ của tác phẩm thể hiện quan hệ
của nhân vật “tôi” với các đồng nghiệp. Trong từng sự kiện, tình huống trần
thuật giúp người đọc thấy được khoảng cách giữa “tôi” và các nhân vật khác
về ngôn ngữ, kiến thức, điểm nhìn. Vì vậy, trong tác phẩm xuất hiện việc “lọc
tình huống”. Những sự kiện diễn ra nghe có vẻ bình thường nhưng lại khá tiêu
biểu bộc lộ tính cách nhân vật cũng như sự khác biệt về văn hóa Đông – Tây.

25
Nói đến điều này không thể không kể đến tình huống “tôi” làm công việc
phục vụ trà cho hai mươi người trong một phái đoàn quan trọng trong công ty.
Nếu như chính vốn tiếng Nhật nói như người bản ngữ mà cô có được khiến cô
được tuyển chọn vào làm việc tại công ty Yumimoto thì đến đây, cô phải
“tròn mắt” ngỡ ngàng khi bị chính cấp trên của mình là ông Saito yêu cầu
không được nói tiếng Nhật nữa. Với hậu quả này, “tôi” nghĩ tới chuyện thôi

việc: “Đệ đơn xin thôi việc là hợp lý nhất. Song, tôi lại không thể giải quyết
theo ý này. Dưới mắt người phương Tây, việc đó chẳng có gì là nhục nhã;
song với người Nhật thì đó là mất thể diện” [1, tr. 20]. Sự xung đột và khác
biệt trong văn hóa Đông – Tây được bắt đầu từ đây. Và đẩy nó tới mức cao
trào chính là “tôi” trong mối quan hệ với Mori Fubuki. Có thể nói, Fubuki
chính là đại diện cho văn hóa Nhật Bản chốn công sở: trọng danh dự, thích sử
dụng quyền lực của mình để ra lệnh cho người khác, đề cao cái tôi của mình
mà coi thường cái tôi của người khác, thích hành hạ đồng nghiệp theo kiểu
“ma mới bắt nạt ma cũ”, luôn toan tính, trù dập, ghen tị lẫn nhau, luôn để tình
cảm tham dự vào công việc và nóng tính, không kiềm chế được cơn giận của
mình… Chuyện “tôi” tham gia viết bản báo cáo về sản phẩm bơ tách béo vốn
dĩ đã được ông Tenshi giữ kín nhưng cuối cùng vẫn đến tai ông Omochi đã để
lại hậu quả tai hại đối với “tôi”: “Tôi báo cho cô biết: đây là bản báo cáo đầu
tiên và cũng là cuối cùng của cô. Cô đã tự đặt mình vào hoàn cảnh rất tồi tệ.
Ra khỏi đây”[1, tr. 43]. Ấn tượng này thật sự không tốt đẹp gì đối với một
nhân viên mới đến làm việc. Và người tạo ra điều đó không ai khác chính là
cô Mori Fubuki: “Cô đừng nói quá tệ về ông Saito. Ông ấy tốt hơn cô nghĩ.
Và không phải ông ấy đã tố cáo chúng ta đâu. Tôi đã nhìn thấy tời giấy đặt
trên bàn làm việc của ông Omochi, tôi biết ai đã viết nó… Tờ giấy có chữ kí
của cô Mori” [1, tr. 45]. Lời nói của ông Saito như “một cú trời giáng” làm
sụp đổ hoàn toàn những ý nghĩ tốt đẹp của “tôi” về cấp trên của mình. Phải

26
nói, đây cũng chính là tình huống bắt đầu cho những va chạm giữa “tôi” và
Fubuki trong công việc ở những tình tiết sau. Fubuki đã không cho “tôi” có cơ
hội thể hiện tài năng thực của bản thân. Thậm chí, cô ta còn giao cho “tôi”
những công việc chẳng liên quan gì đến chuyên môn để rồi sau đó đưa ra
những lời mắng nhiếc, nhục mạ: “Đồ ngu! Phải biết GMBH là viết tắt của từ
trách nhiệm hữu hạn trong tiếng Đức giống như ltd trong tiếng Anh, và S.A
trong tiếng Pháp” [1, tr. 56], “Nếu cô thuộc loại người có đầu óc tật nguyền ,

thì lẽ ra cô phải nói với tôi, chứ không nên để tôi giao cho cô nhiệm vụ này”
[1, tr. 61]. Những tình huống va chạm này đã giúp “tôi” nhận ra nét khác biệt
quá lớn giữa hai nền văn hóa này. Một con người phương Tây sống hòa hợp,
tôn trọng và trân trọng tài năng, sự phát triển của người khác đã gặp phải rào
cản từ cô Mori. Đó là những lời chửi mắng, những mệnh lệnh khó hiểu,
những câu nói đầy khiêu khích kiểu như: “cô im đi”; “cô không xấu hổ à?”;
“thôi đi, tôi biết là cô dối trá”; “cô cứ đứng ỳ ra đấy làm gì thế hả?”; “sao cô
dám”; “cô có im mồm đi không?cô có cút ngay đi không?”… Mỗi lần như
thế, Fubuki đều không quên kèm theo một thái độ khinh bỉ, lạnh lùng, thậm
chí đôi khi la hét hay một cái gì đó tương tự và chắc chắn không phải là thái
độ hài lòng hay tỏ sự thân thiện. Với khuôn khổ gần hai trăm trang tiếng Việt,
có thể thấy, những tình huống gắn liền với quãng thời gian làm việc trong một
công ty Nhật Bản của nhân vật “tôi” đã bóc trần toàn bộ những xung đột, sự
va chạm giữa hai nền văn hóa Đông – Tây một cách hài hước và đầy dí dỏm.
Trần thuật ngôi một được kể bởi nhân vật trung tâm – người trực tiếp kể
những câu chuyện về những trải nghiệm của mình khi làm việc trong công ty
Yumimoto. Cái “tôi” kể chuyện cũng đồng thời là cái “tôi” trải nghiệm ở cấp
độ hành động. Tức là, người kể chuyện ở đây cũng chính là nhân vật tham gia
vào các sự kiện, tình huống trong truyện. Tuy nhiên, nó không đơn thuần chỉ
là lời kể mà còn có lời nói, hành động đi kèm. Những hành động và lời nói đó

27
góp phần bộc lộ tính cách “tôi”, tính cách phương Tây, cái điều mà có lẽ nó
trở thành hãn hữu khi tham gia làm việc trong một công ty Nhật Bản. Sau khi
hoàn thành bản báo cáo về sản phẩm bơ tách béo, cả ông Tenshi lẫn “tôi” đều
phải chịu đựng những lời mắng mỏ hết sức phi lý mặc dù đó là một bản báo
cáo tuyệt vời. Để bảo vệ ông Tenshi – người đã tạo cho mình một công việc
đầy thích thú và hấp dẫn, khi đứng trước mặt cấp trên, “tôi” đã không ngần
ngại đứng ra nhận lỗi về mình: “Ông Tenshi không muốn phá hoại công ty.
Chính tôi đã năn nỉ ông ấy giao cho tôi một hồ sơ. Tôi là người duy nhất chịu

trách nhiệm” [1, tr. 41]. Điều này khác hẳn cách âm thầm làm việc và hạ thấp
nhân viên của cô Mori Fubuki khi “tôi” mới tới làm việc. Việc kể chuyện của
“tôi” đi kèm với hành động và lời nói có tác dụng giúp người đọc có cái nhìn
khách quan và đánh giá nhân vật được chuẩn xác hơn.
Một đặc điểm nữa cần phải nói đến, người kể chuyện ngôi thứ nhất trong
tác phẩm này là một nhân vật nữ - trung tâm câu chuyện – vai chính liên quan
đến điểm nhìn về nhận thức các sự kiện, con người diễn ra xung quanh. Vì
vậy, về nhận thức, người kể chuyện bị giới hạn bởi con người của chính nhân
vật nên không gian chủ yếu diễn ra ở công ty, ở các tầng khác nhau khi “tôi”
– người kể chuyện có sự di chuyển trong công việc (viết thư, phục vụ café,
đưa thư, bóc lịch…). Do đó, cô ta không thể kể một chuyện liên quan đến
tương lai hay giả thử như cái chết của chính mình. “Tôi” chỉ có thể kể những
chuyện trong thời điểm hiện tại khi mình có mặt. Vì vậy, câu chuyện diễn ra
theo trục thời gian trước – sau, không thấy xuất hiện sự ngoái lại quá khứ
cũng như hướng tới tương lai. Điều này có ý nghĩa khi nó càng tạo ra nhiều
bất ngờ cho tác phẩm. Tình huống “tôi” tham gia vào trận chiến bơ tách béo
cũng ông Tenshi. Đây sẽ là một sự kiện có kết quả hoàn hảo nếu như không
có những lời mắng chửi thậm tệ của ông Omochi. Sau những lời mắng chửi
này, “tôi” nghĩ chính ông Tenshi là người đã nói tên mình trong bản báo cáo,

×