Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thực trạng sử dụng rượu bia trong thanh thiếu niên Hà Nội TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.38 KB, 26 trang )


0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN XÃ HỘI HỌC



TRẦN THỊ THANH LOAN





THỰC TRẠNG SỬ DỤNG RƢỢU BIA
TRONG THANH THIẾU NIÊN HÀ NỘI






Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 603130




TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC











Hà Nội - 2011

0
Công trình đƣợc hoàn thành tại: Viện Xã hội học- Viện Khoa
học xã hội Việt Nam



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trƣơng Xuân Trƣờng


Phản biện 1: PGS. TS Vũ Tuấn Huy
Phản biện 2: PGS. TS Phạm Văn Quyết




Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại Viện Xã hội học vào lúc 08h00 ngày 16 tháng 01 năm
2012















Có thể tìm luận văn tại:
Trung tâm Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội



1
MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
2
Nội dung
12
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về việc
sử dụng rƣợu, bia
12

1. Cơ sở lý luận nghiên cứu về rƣợu, bia
12
1.1 Một số khái niệm công cụ
12
1.2 Cách tiếp cận nghiên cứu
13
2. Cơ sở thực tiễn – Các chính sách nghiên cứu về rƣợu,
bia
13
Chƣơng 2: Thực trạng và các nhân tố tác động đến
việc sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên hà Nội
18
2.1 Thực trạng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên
Hà Nội
18
2.2 Các nhân tố tác động đến việc sử dụng rƣợu, bia trong
thanh thiếu niên Hà Nội
21
Chƣơng 3: Hệ quả của việc sử dụng rƣợu, bia và xu
hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà
Nội
22
3.1 Hệ quả của việc sử dụng sử dụng rƣợu, bia
22
3.2 Xu hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà
Nội
23
Kết luận
24






2
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra một thời kỳ
mới cho sự phát triển của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sử dụng rƣợu là một thói quen mang đậm nét văn hóa truyền
thống tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Vào thời điểm năm
2006, mức tiêu thụ bia bình quân/ngƣời/năm ở nƣớc ta là 15,8 lít,
gần bằng 2/3 so với mức tiêu thụ chung của toàn thế giới (22 lít).
Mức tiêu thụ rƣợu bình quân/ngƣời/năm ở nƣớc ta là 3,9 lít trong
khi đó mức tiêu thụ chung trên toàn cầu là 6 lít…
Thanh thiếu niên là lực lƣợng lao động trí thức cần thiết cho sự
phát triển của đất nƣớc. Sự giàu có và phồn vinh của quốc gia đƣợc
cấu thành từ nhiều yếu tố - trong đó có yếu tố con ngƣời, và có sự
góp sức của lứa tuổi thanh thiếu niên. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền công nghệ tiên tiến, toàn cầu hóa đang diễn ra mọi nơi
trên thế giới, thanh thiếu niên Việt Nam cũng có cơ hội hòa vào
dòng thác công nghệ, nhiều cơ hội để phát hiện và phát triển bản
thân. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội đó, thì thanh thiếu niên
Việt Nam phải đối đầu với những thách thức mới: đó là sƣ xâm
nhập lối sống tự do, tệ nạn xã hội, những thƣớc phim quảng cáo
rƣợu, bia mang tính toàn cầu. Lối sống đƣợc du nhập từ phƣơng
Tây: hút thuốc lá, uống rƣợu, ma túy và tình dục không an toàn
đang là vấn đề lớn của thanh thiếu niên
( PB T12 so 4 - YTCC). Vì vậy, tình
hình sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên vẫn là chủ đề mang

đầy tính thời sự và cần đƣợc quan tâm, tìm hiểu nhiều hơn nữa. Đó
cũng chính là lý do khiến tác giả lựa chọn vấn đề: Thực trạng sử
dụng rƣợu bia trong thanh thiếu niên Hà Nội để nghiên cứu. Tác


3
giả thực hiện nghiên cứu này nhằm trả lời cho câu hỏi: Sử dụng
rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội nhƣ thế nào? Những nhân
tố tác động đến việc sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên? Và,
xu hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên trong thời gian
tới diễn ra nhƣ thế nào?
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1 Các nghiên cứu của phương Tây về rượu, bia
Các nghiên cứu gần đây của nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ Thụy Điển,
Anh,… cho thấy xu hƣớng trẻ hóa tuổi bắt đầu uống rƣợu, gia tăng trong
tần suất và lƣợng rƣợu tiêu thụ ở nhóm tuổi thanh niên (WHO, 2004). Đối
với học sinh khi mà hoạt động chủ đạo của họ là học tập thì việc sử dụng
đồ uống có cồn sẽ có ảnh hƣởng không nhỏ đến tình hình học tập của các
em. Trong năm 2004 - 2005, cứ 100.000 học sinh trung học ở Anh thì có
146 học sinh bị nhà trƣờng tạm thời cho nghỉ học vì có liên quan đến đồ
uống có cồn và 06 trên 100.000 học sinh bị đuổi khỏi trƣờng học
( Và, đồ uống có cồn còn
đƣợc xác định là có mối liên quan đến tình trạng trốn học. Ở Lôn đôn,
trong độ tuổi 14-16 có hơn 2/3 lạm dụng rƣợu, bia và đó là những đối
tƣợng thƣờng xuyên trốn học (Best, D; Manning, V; Gossop, M et al.
(2006). Excessive drinking and other problem behaviours among 14-16
year old children. Addictive Behaviours. 31(8): 1424-1435).
Độ tuổi và địa điểm sử dụng rƣợu, bia có mối liên hệ với việc
sử dụng rƣợu, bia của giới trẻ, theo một cuộc khảo sát ở North West
của Anh cho thấy: Khoảng 90% số học sinh (tuổi 15 và 16) đƣợc

khảo sát cho biết họ thỉnh thoảng uống rƣợu. 38,0% thƣờng rơi vào
trạng thái “hũ chìm”, 24,4% là thƣờng xuyên uống (uống hai hay
nhiều lần một tuần) và 49,8% uống tại các nơi công cộng (chẳng
hạn nhƣ tại các câu lạc bộ, đƣờng phố và công viên). Trẻ em


4
thƣờng uống rƣợu ở các nơi công cộng nhiều hơn là uống tại gia đình
(Trích lại từ Alcohol and adolescents, 2010).
Nghiên cứu của Victoria White và Jane Hayman, 2006 về “Sử
dụng đồ uống có cồn của học sinh trung học Úc vào năm 2005”.
Kết quả, tỷ lệ học sinh hiện đang uống rƣợu, bia trƣớc thời điểm
khảo sát tăng lên theo lứa tuổi với 10% ở tuổi 12 và tăng lên tới
49% ở độ tuổi 17. Cha mẹ là yếu tố có sự tác động phổ biến nhất
đến việc sử dụng rƣợu, bia của học sinh, với 37% nam giới và 38%
nữ giới cho thấy họ đã đƣợc cha mẹ họ cho uống rƣợu trong tuần
qua. Ba địa điểm mà giới trẻ thƣờng uống rƣợu là tại gia đình, tại
nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc.
Các kết quả khảo sát mới nhất của Anh cho thấy không có sự
khác biệt về giới tính trong việc sử dụng rƣợu, bia của giới trẻ và sự
tác động của bạn bè cũng nhƣ áp lực tự thân là một trong yếu tố
khiến giới trẻ tìm đến rƣợu, bia: nữ giới ngày nay đã “bắt kịp” nam
giới về việc tiếp cận và sử dụng rƣợu, bia. Ở Anh, dƣới 18 tuổi
không đƣợc phép mua rƣợu cho mình nhƣng 63% của những ngƣời
tuổi từ 16 – 17 và 10% ở độ tuổi 12 – 15 ngƣời đã say sƣa trong
năm qua nói rằng họ thƣờng mua rƣợu trong quán rƣợu, quầy bar
và câu lạc bộ đêm. Giới trẻ coi rƣợu nhƣ là một phƣơng tiện giao lƣu
xã hội với bạn bè (62%). Uống rƣợu để gia tăng sự tự tin cũng là một chỉ
báo quan trọng (www.ias.org.uk/resources/factsheets/adolescents.pdf).
Các chƣơng tình quảng cáo về rƣợu, bia trên các phƣơng tiện

truyền thông đại chúng có sự tác động nhất định đến việc sử dụng
rƣợu trong thanh thiếu niên. Một nghiên cứu gần đây về ảnh hƣởng
của việc quảng cáo rƣợu đối với thanh thiếu niên ở Ai-len cho thấy:
Đa số những thanh thiếu niên đƣợc khảo sát đều khẳng định là họ
yêu thích các chƣơng trình quảng cáo về rƣợu. Và, hầu hết các


5
thanh thiếu niên tin rằng nội dung của các chƣơng trình quảng cáo
sẽ góp phần định hƣớng cho hành động hay mục tiêu cho họ, bởi vì
các chƣơng trình quảng cáo mô tả cảnh - nhảy múa, sự giải trí ở
hộp đêm, âm nhạc sôi động Thanh thiếu niên coi những quảng
cáo về rƣợu, bia nhƣ là những gợi ý, những chƣơng trình quảng cáo
rƣợu, bia tạo nên khuynh hƣớng bao trùm rằng rƣợu sẽ đem đến
thành công trong cuộc sống và tình dục… (Trích lại từ Alcohol and
advertising, 2010).
Việc lạm dụng rƣợu, bia còn gây ra các gánh nặng lớn về
kinh tế cho xã hội chủ yếu do các chi phí khám chữa bệnh và thiệt
hại do tai nạn. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng tới tử vong do
tai nạn giao thông ở huyện Tirana – Albania, năm 2000 - 2005 cho
biết những ngƣời có sử dụng rƣợu, bia có nguy cơ bị tử vong do tai
nạn giao thông cao gấp 6,15 lần ngƣời không sử dụng rƣợu, bia
(Trích lại từ Tạp chí Y học dự phòng, 2009, số 5 (104):130). Theo
nghiên cứu về nƣớc Pháp, các vấn đề do rƣợu, bia gây ra thiệt hại
chiếm 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1997, cao hơn so
với thuốc lá (1,2%). Nghiên cứu khác ở Mỹ báo cáo một con số cao
hơn là 2,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (Trích lại từ điều tra Y
tế Việt Nam, 2006:97).
Nhƣ vậy, qua các nghiên cứu của mình, các tác giả phƣơng
Tây cho thấy rằng, lứa tuổi lần đầu tiếp cận rƣợu, bia đang đƣợc trẻ

hóa. Sử dụng rƣợu, bia khác nhau theo lứa tuổi và không có sự khác
biệt về giới trong việc sử dụng rƣợu, bia. Địa điểm mà giới trẻ sử
dụng rƣợu, bia là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa
tiệc. Cùng với gia đình thì yếu tố nhóm bạn, các chƣơng trình
quảng cáo về rƣợu, bia cũng có sự tác động nhất định đến hành vi
sử dụng rƣợu, bia của giới trẻ.


6
2.2 Các nghiên cứu của Việt Nam về rượu, bia
Ở Việt Nam các vấn đề về rƣợu, bia đã đƣợc nghiên cứu từ những
năm 90 của thập kỷ trƣớc. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi lần đầu sử
dụng rƣợu, bia có sự chênh lệch với các nƣớc trong khu vực, nam giới sử
dụng, lạm dụng và nghiện rƣợu, bia nhiều hơn so với nữ giới, tỉ lệ đã từng
uống hết một cốc rƣợu, bia tăng theo độ tuổi.
Nghiên cứu tại phƣờng Trung Trực, Hà Nội năm 1994 với số
mẫu là 7.986 ngƣời từ 15 tuổi trở lên cho thấy nghiện rƣợu chỉ có ở
nam giới, với 1,9% nghiện rƣợu, bia và 50 – 60% tổng số ngƣời
nghiện rƣợu ở lứa tuổi 30 đến 50. Cuộc Điều tra Y tế quốc gia
(2001 – 2002), đã phát hiện 22,2% dân số trên 15 tuổi có uống rƣợu
bia từ một lần trở lên trong tuần, trong đó nam chiếm 46% và nữ
chiếm 2%; 77,9% dân số trên 10 tuổi đang dùng rƣợu, bia đã bắt
đầu uống trong độ tuổi 15 – 25. Nghiên cứu về các bệnh lý liên
quan đến rƣợu tại huyện Ba Vì khám lâm sàng trên 585 đối tƣợng từ
18 đến 60 tuổi năm 2003 cho thấy ở nam giới tỷ lệ nghiện rƣợu là 8%
trong khi đó tỷ lệ này ở nữ là 0% (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam,
2006:101).
Năm 2006, đƣợc sự uỷ quyền của Dự án thành phần Chính
sách Y tế; Viện Chiến lƣợc và Chính sách Y tế, Bộ Y tế đã tiến
hành nghiên cứu đánh giá về “Tình hình lạm dụng rƣợu bia tại Việt

Nam”, cuộc điều tra đã chỉ ra rằng: Tỷ lệ sử dụng rƣợu (ít nhất là 1
lần/tuần) tại các địa bàn nghiên cứu là 33,5%. Tỷ lệ sử dụng rƣợu
trong nhóm nam là 64%, cao hơn so với số liệu điều tra về tình hình sử
dụng rƣợu, bia tại 12 quốc gia đang phát triển (50%) và thấp hơn so với tỷ
lệ sử dụng rƣợu của nam giới trong khu vực Tây Thái Bình Dƣơng là
84%.( />&ID=951).


7
Cuộc Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam (SAVY) do Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế phối hợp với một
số tổ chức quốc tế thực hiện năm 2003 (SAVY 1) với tổng số mẫu
là 7.584 vị thành niên và thanh niên từ 14 – 25 tuổi tại 42 tỉnh, cho
thấy uống rƣợu, bia là hiện tƣợng phổ biến ở nam thanh niên (69%)
và ít phổ biến hơn ở nữ thanh thiếu niên với 28,1% nữ cho biết họ
đã từng uống rƣợu, bia. Tỷ lệ thanh niên đã từng uống rƣợu, bia
tăng lên theo độ tuổi. Cuộc điều tra lần thứ hai SAVY 2 năm 2009
đã đƣợc tiến hành với 10.044 VTN/TN trong độ tuổi 14-25 sống ở
khắp 63 tỉnh/thành trên toàn quốc bao gồm cả nông thôn và thành
phố lớn, cho thấy, tỷ lệ chung những ngƣời đƣợc hỏi đã từng uống
hết (một cốc rƣợu/bia?) là khá cao, 58,6%, trong đó 79,9% đối với
nam và 36,5% đối với nữ. Tỷ lệ từng uống hết một cốc rƣợu, bia
tăng lên theo độ tuổi, với 47,5% ở nhóm tuổi 14-17, 66,9% ở nhóm
tuổi 18-21 và 71,2% ở nhóm tuổi 22-25.
Hiện nay chƣa có một nghiên cứu về rƣợu, bia nào đặc biệt
quan tâm đến đối tƣợng thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu
niên đang sống, lao động và học tập tại Hà Nội nói riêng. Cuộc
Điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên
Hà Nội 2006 (với số lƣợng mẫu 6.363 vị thành niên và thanh niên)
cũng không phải là cuộc nghiên cứu riêng về việc sử dụng rƣợu, bia

của thanh thiếu niên Hà Nội, vì vậy, vấn đề chƣa thể đi sâu và là
hạn chế nhất định với triển khai đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Nêu lên thực trạng sử dụng rƣợu, bia và làm rõ các nhân tố tác động
đến việc sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội. Đồng thời chỉ ra
các hệ quả của việc sử dụng rƣợu, bia và xu hƣớng sử dụng rƣợu, bia


8
trong thanh thiếu niên Hà Nội. Những thông tin này sẽ bổ sung tƣ liệu cho
việc nhận định tình hình sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên hiện
nay, góp phần định hƣớng cho thanh thiếu niên có lối sống lành mạnh
hơn.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Đề tài đặt ra 04 nhiệm vụ phải giải quyết là:
Thứ nhất là tổng quan về tình hình sử dụng rƣợu, bia của thanh
thiếu niên.
Thứ hai, làm rõ cơ sở lý luận và những khái niệm cơ bản có liên
quan. Vận dụng các cách tiếp cận nghiên cứu và khái niệm liên
quan vào lý giải và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Các cách tiếp
cận nghiên cứu: Cách tiếp cận xã hội hóa; cách tiếp cận tƣơng tác
biểu trƣng. Các khái niệm công cụ: Rƣợu, bia, lạm dụng rƣợu, bia,
vị thành niên và thanh thiếu niên.
Thứ ba là phân tích thực trạng sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu
niên Hà Nội.
Cuối cùng, phân tích các nhân tố tác động đến việc sử dụng rƣợu,
bia và chỉ ra những hệ quả của việc sử dụng rƣợu, bia cũng nhƣ xu
hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1 Phƣơng pháp luận
Trong phân tích này, tác giả sử dụng 02 cách tiếp cận: Cách
tiếp cận xã hội học về xã hội hóa; cách tiếp cận tƣơng tác biểu
trƣng để phân tích thực trạng sử dụng rƣợu, bia và các nhân tố tác
động đến việc sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội.
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Tác giả không tiến hành một nghiên cứu riêng, mà thông qua
phân tích tài liệu, tổng quan tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực rƣợu,


9
bia. Và sử dụng phƣơng pháp số liệu có sẵn dựa trên bộ số liệu định
lƣợng có sẵn của cuộc Điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị
thành niên và thanh niên tại Hà Nội do Viện Gia đình và Giới phối
hợp với Bộ Y tế Việt Nam, Đại học Jonhs Hopkins (Hoa Kỳ) thực
hiện năm 2006 cùng với một số trƣờng hợp phỏng vấn sâu và các tƣ
liệu gần đây.
Cuộc điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và
thanh niên tại Hà Nội đƣợc tiến hành năm 2006 tại 07 quận: Cầu
Giấy, Đống Đa, Ba Đình, Thanh Xuân, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trƣng,
Hoàng Mai và 5 huyện: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì,
Từ Liêm của Hà Nội (trước khi mở rộng). Có 6.363 vị thành niên
và thanh niên độ tuổi 15-24 đã tham gia vào cuộc điều tra này.
Cuộc điều tra này đã thu thập thông tin bằng cách thức: phỏng vấn
trực tiếp bằng bảng hỏi và có áp dụng phƣơng thức phỏng vấn để
thanh niên tự trả lời. Phƣơng pháp phân tích số liệu: Số liệu gốc của
cuộc điều tra sẽ đƣợc xử lý bằng chƣơng trình SPSS. Các phân tích
tần suất, tƣơng quan hai chiều, đa biến.
Bên cạnh đó, tác giả còn tiến hành phỏng vấn sâu: 10 trƣờng hợp
trong đó có 06 trƣờng hợp thanh niên có nghề nghiệp khác nhau (03 nam,

03 nữ); 02 trƣờng hợp là phụ huynh; 02 trƣờng hợp là học sinh, sinh viên
về chủ đề liên quan đến hành vi sử dụng rƣợu, bia.
Kết quả nghiên cứu được trình bày theo 03 hình thức phân tích như
sau:
Thứ nhất: Phân tích mô tả (tần suất): cung cấp thông tin chung về
thực trạng sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên.
Thứ hai: Phân tích nhị biến (tƣơng quan hai chiều): Kiểm nghiệm
mối quan hệ giữa từng yếu tố (giới tính, tuổi, trình độ học vấn )


10
đối với việc sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên. Kiểm định X
2

đƣợc sử dụng để xem xét mức độ mối quan hệ giữa các biến số.
Thứ ba: Nhằm xác định các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng
rƣợu, bia của thanh thiếu niên, vì vậy, trong luận văn còn sử dụng
phân tích hồi quy đa biến. Kiểm định thống kê X
2
đƣợc sử dụng để
xem xét mối quan hệ giữa các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống
kê hay không.
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Thực trạng sự dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội
5.2 Khách thể và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Thanh thiếu niên trong độ tuổi 15-24 tuổi
Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hà Nội trƣớc khi mở rộng
6. Giả thuyết nghiên cứu
Đề tài đƣa ra 04 giả thuyết nghiên cứu nhƣ sau:

Giả thuyết 1: Hành vi sử dụng rƣợu, bia có sự khác biệt giữa nam,
nữ thanh thiếu niên và khu vực cƣ trú, độ tuổi.
Giả thuyết 2: Các yếu tố: trình độ học vấn; học lực; môi trƣờng học
tập, bị ghi sổ học bạ vì hành vi ứng xử kém và hiện đang đi học là
những yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nhu cầu sử dụng rƣợu, bia
của thanh thiếu niên.
Giả thuyết 3: Việc hiện có/không đi làm kiếm tiền tạo ra sự khác
biệt trong tần suất sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên.
Giả thuyết 4: Các yếu tố: gia đình, phƣơng tiện truyền thông đại
chúng và nhóm bạn có sự tác động đến hành vi sử dụng rƣợu, bia
của thanh thiếu niên. Trong đó, phƣơng tiện truyền thông đại chúng
và nhóm bạn là những nhân tố tác động mạnh đến hành vi sử dụng
rƣợu, bia trong nam thanh thiếu niên.


11
7. Đóng góp của luận văn
Bổ sung thêm thông tin cho những khoảng trống trong nghiên cứu
về tình hình sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên.
Gợi mở các hƣớng nghiên cứu tiếp theo cho chủ đề này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo bổ ích cho việc nghiên cứu và truyền thông về chủ đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, các bài viết có liên quan đến luận văn. Phần nội
dung gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn; Chƣơng
2: Thực trạng và các nhân tố tác động đến việc sử dụng rƣợu, bia
trong thanh thiếu niên Hà Nội; Chƣơng 3: Hệ quả của việc sử dụng
rƣợu, bia và xu hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà
Nội và một số khuyến nghị.

9. Hạn chế của đề tài
Do đặc điểm của đề tài là sử dụng số liệu có sẵn và đây là một
nghiên cứu chung về tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và
thanh niên Hà Nội, không phải là cuộc nghiên cứu riêng về việc sử
dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội nên luận văn chƣa đủ
các bằng chứng để giải thích một số vấn đề cần làm rõ trong đề tài.
Bên cạnh đó, do đây là một nghiên cứu cắt ngang nên khó xác định
đƣợc yếu tố nào xảy ra trƣớc, yếu tố nào xảy ra sau, trong khi đó
trong phần phân tích hồi quy lại tìm hiểu yếu tố nào xảy ra trƣớc,
yếu tố nào xảy ra sau, yếu tố nào tác động đến yếu tố nào nên kết
quả phân tích không đƣợc nhƣ mong đợi.





12
NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
VỀ SỬ DỤNG RƢỢU, BIA
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG RƢỢU, BIA
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
Sử dụng rƣợu, bia
Khái niệm sử dụng rượu bia trong nghiên cứu này đƣợc định
nghĩa là: Thanh thiếu niên đã có ít nhất 01 lần uống rƣợu, bia tính
đến thời điểm điều tra.
1.1.2 Lạm dụng rƣợu, bia
Lạm dụng rƣợu, bia đƣợc xác định theo quy chuẩn của Tổ
chức Y tế thế giới: Nam uống trên 3 đơn vị rƣợu/ngày (Một đơn vị
rƣợu tƣơng đƣơng 10 gram rƣợu nguyên chất chứa trong dung dịch

uống – pure nit of alcohol = 01 cốc chuẩn. Một cốc chuẩn tƣơng
đƣơng: 01 lon bia 330ml nồng độ 5%, 01 cốc rƣợu vang 125ml
nồng độ 11%, 01 ly rƣợu vang mạnh 75ml nồng độ 11%, 01 ly rƣợu
vang mạnh 75ml nồng độ 20%, 01 chén rƣợu mạnh 30ml nồng độ
30%) hoặc 21 đơn vị rƣợu/tuần; nữ uống trên 02 đơn vị/ngày hoặc
14 đơn vị/tuần (Tạp chí Y học thực hành (650) – Số 3/2009:40).
1.1.3 Vị thành niên và thanh niên
Vị thành niên là một trong những khái niệm đƣợc hiểu một
cách đa nghĩa và dễ gây tranh luận nhiều cả về nội hàm lẫn ngôn từ
của nó trong tƣ duy xã hội học. Tuỳ thuộc vào vị trí tiếp cận, góc
nhìn cũng nhƣ chức năng, nhiệm vụ của mỗi chuyên ngành mà vị
thành niên lại đƣợc giải thích theo một cách thức riêng.
Tổ chức y tế thế giới đã đƣa ra một tiêu chí cơ bản để chỉ nhóm
vị thành niên. Đó là: “nhóm nhân khẩu xã hội có tuổi đời từ 10 đến
18 tuổi”. Trong nhóm vị thành niên nói trên, ngƣời ta lại phân nhỏ


13
thành ba nhóm khác nữa: nhóm vị thành niên nhỏ từ 10-13 tuổi,
nhóm vị thành niên trung bình từ 14-16 tuổi, nhóm vị thành niên
lớn từ 17-18 tuổi (Đặng Vũ Cảnh Linh, 2004).
Căn cứ theo các quy định trong các luật về độ tuổi của vị thành niên
và căn cứ theo cách chia độ tuổi của Tổ chức Y tế Thế giới, theo tác
giả luận văn độ tuổi của vị thành niên từ 10 tuổi đến 18 tuổi là hợp
lý hơn cả.
Theo Luật Thanh niên đƣợc thông qua vào ngày 29/11/2005 tại
kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI và đƣợc Chủ tịch nƣớc công bố tại
lệnh số 24/2005/L/CTN ngày 09/12/2005 thì độ tuổi của Thanh
niên là “từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”
1.2 CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU

Đề tài tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên cách tiếp cận xã hội hóa
và cách tiếp cận tƣơng tác – biểu trƣng.
1.2.1 Cách tiếp cận xã hội hóa
Theo Neil Smelser: “Xã hội hóa là quá trình mà trong đó cá
nhân học cách thức hành động tƣơng ứng với vai trò của mình”.
Theo định nghĩa này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa
chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn
mực. Chƣa đề đập tới khả năng cá nhân có thể tạo ra những giá trị,
kinh nghiệm, chuẩn mực để xã hội học theo. Nhƣ vậy, dƣờng nhƣ
cá tính của con ngƣời bị tan biến vào những đặc điểm xã hội mà cá
nhân tiếp thu đƣợc. Một nhà xã hội học khác của Mỹ Fichter đã
xem: “Xã hội hóa là một quá trình tƣơng tác giữa ngƣời này và
ngƣời khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành
động, và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”. Nhƣ vậy,
Fichter đã chú ý hơn tới tính tích cực của cá nhân trong quá trình xã
hội hóa. (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2001:258).


14
Định nghĩa của nhà khoa học ngƣời Nga G.Andreeva đã nêu
đƣợc cả hai mặt của quá trình xã hội hóa. Bà cho rằng: “Xã hội hóa
là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội
bằng cách thâm nhập vào môi trƣờng xã hội, vào hệ thống các quan
hệ xã hội. Mặc khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ
thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào
các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội. Nhƣ vậy,
mặt thứ nhất của quá trình xã hội hóa là sự thu nhận kinh nghiệm
xã hội thể hiện sự tác động của môi trƣờng tới con ngƣời. Mặt thứ
hai của quá trình này thể hiện sự tác động của con ngƣời trở lại môi
trƣờng thông qua hoạt động của mình ” (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc

Hùng, 2001:259).
Bên cạnh sự ảnh hƣởng xã hội hóa của gia đình và bạn bè thì
phƣơng tiện truyền thông đại chúng cũng có những ảnh hƣởng
không nhỏ đến quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân. Trong các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì truyền hình là phƣơng tiện
truyền thông đại chúng thuyết phục nhất, tác động mạnh đến quá
trình xã hội hóa, truyền hình là một phƣơng tiện lập trình thái độ và
niềm tin của chúng ta và truyền hình vẫn còn là chủ đề tranh luận
đến mức làm méo mó các mối quan hệ của chúng ta bằng cách ủng
hộ các mẫu rập khuôn truyền thống (Jonh. Macionis, 2004: 172).
Tóm lại, cách tiếp cận xã hội hóa đƣợc vận dụng vào trong
nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ sự tác động của gia đình, bạn bè,
môi trƣờng học tập và phƣơng tiện truyền thông đại chúng đến hành vi
sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội.
1.2.3 Cách tiếp cận tƣơng tác – biểu trƣng
Thuyết tƣơng tác biểu trƣng, đại diện là George H.Mead
(1863-1931). Lý thuyết này chỉ ra rằng các cá nhân chịu ảnh hƣởng


15
bởi cấu trúc xã hội và sự tƣơng tác xã hội, đặc biệt là mối quan hệ
với những ngƣời trong nhóm.
Theo Herbert Blumer – một trong những ngƣời phát triển lý
thuyết này, khái niệm “tƣơng tác biểu trƣng” dùng để chỉ một đặc
trƣng cơ bản của tƣơng tác giữa ngƣời với ngƣời. Đó là việc các cá
nhân luôn phải lý giải, định nghĩa, xác định hành động của nhau
chứ không đơn thuần là đáp lại hành động của nhau. Điều đó có
nghĩa là hành động của cá nhân không phải là sự phản ứng trực tiếp
đối với hành động của ngƣời khác.
Tóm lại, Blumer nhấn mạnh rằng con ngƣời là những chủ thể tích

cực, hành động trên cơ sở những ý nghĩa mà họ gán cho vào tƣơng tác xã
hội của họ. Đây là quá trình xã hội trong đó đời sống nhóm, nó tạo ra và
xác nhận các quy tắc, chứ không phải các quy tắc tạo ra và xác nhận đời
sống nhóm. Theo những học giả của thuyết tƣơng tác biểu trƣng, trải
nghiệm cá nhân đƣợc bắt nguồn từ sự tƣơng tác đang tiến triển với những
ngƣời quan trọng khác và/hoặc những nhóm xã hội quan trọng. Sự tƣơng
tác này đƣợc hoạt động trung gian thông qua việc sử dụng những biểu
tƣợng cho phép con ngƣời hiểu, xây dựng và chia sẻ những sự trải nghiệm
của họ, bao gồm những hành động của họ trong xã hội. Một số đặc điểm
và tính chất của mối quan hệ giữa con ngƣời và xã hội đƣợc thuyết tƣơng
tác biểu trƣng xem xét trong phức thể các bộ phận chủ thể - khách thể, các
trải nghiệm, các hình ảnh về bản thân đƣợc hình thành dƣới tác động của
các yếu tố xã hội nhất định và bộc lộ trong những tình huống xã hội cụ thể
(Lê Ngọc Hùng, 2002:303). Nhƣ vậy, theo thuyết tƣơng tác biểu trƣng,
hành vi của một ngƣời sẽ bị ảnh hƣởng đáng kể bởi mối quan hệ tƣơng hỗ
với những ngƣời khác, đặc biệt những ngƣời trong nhóm phi chính thức.
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết tƣơng tác biểu trƣng vào phân tích thực
trạng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên nhằm tìm hiểu và lý giải


16
mối quan hệ giữa phần lớn bạn thân của thanh thiếu niên có sử dụng rƣợu,
bia với việc thanh thiếu niên có sử dụng rƣợu, bia, mối quan hệ giữa việc
thanh thiếu niên thấy cần thiết phải sử dụng rƣợu, bia để chứng tỏ mình
để hòa nhập với bạn bè với hành vi sử dụng rƣợu, bia của họ trên thực tế.
2. CÁC CHÍNH SÁCH VỀ PHÕNG CHỐNG RƢỢU, BIA
Nƣớc ta đã từng có thời kỳ cấm tƣ nhân nấu rƣợu, bán rƣợu
hoặc đã có chính sách hạn chế quảng cáo rƣợu bia, cấm lái xe khi
say rƣợu, cấm lực lƣợng vũ trang uống rƣợu, bia trong giờ làm
việc, cấm say rƣợu, bia nơi công cộng và cấm bán rƣợu cho trẻ em.

Chính phủ còn có Nghị định số 53/CP ngày 26/6/1994 quy định
biện pháp xử lý hành chính đối với cán bộ, viên chức nhà nƣớc và
ngƣời có hành vi liên quan đến say rƣợu, bê tha. Chỉ thị của Thủ
tƣớng Chính phủ số 351/TTG ngày 25 tháng 8 năm 1996 về việc
cấm bán các loại rƣợu và nƣớc uống có nồng độ cồn từ 14 độ trở
lên cho ngƣời chƣa thành niên và rƣợu, bia cho trẻ em dƣới 16 tuổi.
Nghiêm cấm việc bán và uống rƣợu, bia trong các trƣờng phổ
thông… Năm 1998, Chính phủ đã đƣa ra luật áp thuế tiêu thụ đặc
biệt với mặt hàng rƣợu, bia. Thủ tƣớng Chính phủ cũng đã ban
hành quyết định số 35/2001/QĐ – TTg ngày 19/3/2001 phê duyệt
Chiến lƣợc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-
2010, trong đó có mục tiêu phòng, chống nghiện rƣợu (Trích theo
Tạp chí Dân tộc học số 6/2006:3). Ngày 07 tháng 04 năm 2008
Chính phủ có Nghị định số 40/2008/NĐ-CP về sản xuất, kinh
doanh rƣợu Quy định về việc cấm sử dụng rƣợu, bia khi tham gia
giao thông từ 2007 và luật Giao thông đƣờng bộ có hiệu lực từ
01/07/2009 cấm ngƣời điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên
dùng trên đƣờng mà trong máu và hơi thở có nồng độ cồn; cấm
ngƣời điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ


17
cồn vƣợt quá 50mg/100ml máu hoặc 0,25mg/l khí thở. Đặc biệt,
chƣa có quy định phù hợp trong quảng cáo, khuyến mãi và đƣa
hình ảnh sử dụng rƣợu, bia trên các phƣơng tiện truyền thông và
cũng chƣa có chính sách truyền thông giáo dục về tác hại của rƣợu,
bia. Các chính sách còn tản mạn, chƣa đồng bộ, chƣa đầy đủ.
Nguyên nhân của tình trạng này là do chƣa có cơ chế triển khai
thực hiện, chƣa đƣợc các cấp, cơ quan, đoàn thể quan tâm, thiếu sự
tham gia của ngƣời dân và thiếu sự đầu tƣ nguồn lực cũng nhƣ

thiếu kiểm tra giám sát thực hiện.
Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế làm đầu mối xây
dựng dự án Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rƣợu, bia.
Theo lộ trình, trong năm 2010, Bộ Y tế sẽ chủ trì xây dựng hoàn
thiện và trình Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chính sách quốc gia
phòng chống tác hại của lạm dụng rƣợu, bia. Trong dự thảo đề
cƣơng Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rƣợu, bia
giai đoạn 2010 - 2020, một trong những nội dung cơ bản là cấm
quảng cáo, khuyến mãi rƣợu, bia dƣới mọi hình thức. Nhà nƣớc sẽ
tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, quy định về thời gian và mật độ các
điểm bán lẻ rƣợu, bia, cấm trẻ em dƣới 18 tuổi và phụ nữ mang thai
sử dụng rƣợu, bia… Với sự ra đời của Luật Phòng, chống tác hại
của lạm dụng rƣợu, bia cũng nhƣ Chính sách quốc gia về phòng
chống tác hại lạm dụng rƣợu, bia.
Tóm lại, chƣơng 1 đã cung cấp những luận cứ khoa học quan
trọng cho việc xây dựng phƣơng pháp phân tích việc sử dụng rƣợu,
bia trong thanh thiếu niên Hà Nội.




18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG RƢỢU, BIA TRONG THANH THIẾU
NIÊN HÀ NỘI
2.1 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG RƢỢU, BIA TRONG THANH
THIẾU NIÊN HÀ NỘI
* Mối tương quan giữa việc đã từng sử dụng rượu, bia của thanh thiếu
niên với giới tính và khu vực cư trú
Trên cơ sở kết quả điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị

thành niên và thanh niên Hà Nội 2006, với tổng số đối tƣợng tham
gia trong mẫu khảo sát này là 6.363 thanh thiếu niên. Khi so sánh
tƣơng quan giữa nam và nữ, ta thấy, tình trạng sử dụng rƣợu, bia
của thanh thiếu niên không chỉ diễn ra ở nam giới mà ngay cả một
số bạn nữ cũng coi việc uống rƣợu nhƣ là thứ "gia vị" không thể
thiếu đƣợc trong các buổi gặp gỡ, liên hoan với chúng bạn… mà
mình tham gia. Tỷ lệ nam và nữ đã từng sử dụng rƣợu, bia với
33,5% nam và 15,5% là nữ đã từng uống rƣợu, bia. Nam thanh
thiếu niên đã từng sử dụng rƣợu, bia cao gấp 02 lần so với nữ thanh
thiếu niên. Điểm phần trăm chênh lệch giữa nam và nữ thanh thiếu
niên đã từng sử dụng rƣợu bia là 18.
* Mối tương quan giữa việc đã từng sử dụng rượu, bia của thanh
thiếu niên với môi trường học tập
Đối với thanh thiếu niên thì môi trƣờng học tập trong nhà trƣờng
vừa là yếu tố bảo vệ nhƣng đồng thời cũng là yếu tố nguy cơ. Kết quả cho
thấy trong 6.363 thanh thiếu niên đƣợc hỏi có 111 trƣờng hợp cho rằng
trƣờng học của họ là môi trƣờng không tích cực thì có 58,6% đã từng sử
dụng rƣợu, bia; với 903 trƣờng hợp cho rằng môi trƣờng học tập của họ là
bình thƣờng không tích cực mà cũng không tiêu cực, có 56,2% đã từng sử
dụng rƣợu, bia. Đối với 5.322 trƣờng hợp còn lại cho rằng trƣờng học của


19
họ là môi trƣờng tích cực thì có 47,5% thanh thiếu niên đã từng sử dụng
rƣợu, bia.
* Mối tương quan giữa việc đã từng sử dụng rượu, bia với lực học
và bị ghi học bạ vì hành vi ứng xử kém trong suốt quá trình học tập
Nhóm thanh thiếu niên có học lực giỏi, có 35,8% đã từng sử
dụng rƣợu, bia, nhóm nam thanh thiếu niên có học lực khá thì tỷ lệ
thanh thiếu niên đã từng sử dụng rƣợu, bia 45,5% và nhóm thanh

thiếu niên có học lực trung bình thì tỷ lệ đã từng sử dụng rƣợu, bia
là 57,1%. Tỷ lệ những thanh thiếu niên đã từng sử dụng rƣợu, bia
của nhóm thanh thiếu niên đã từng bị ghi sổ học bạ vì hành vi ứng
xử kém cao gấp 1,5 lần so với nhóm thanh thiếu niên không bị ghi
sổ học bạ vì hành vi ứng xử .
* Mối tương quan giữa tần suất sử dụng rượu, bia trong tháng của
thanh thiếu niên với giới tính
Uống rƣợu, bia 1-2 ngày/tháng nam thanh thiếu niên chiếm
38,4%, nữ chiếm 34,4%. 20,9% nam thanh thiếu niên có tần suất
uống rƣợu, bia từ 3-5 ngày/tháng cao hơn 04 lần so với tỷ lệ nữ
thanh thiếu niên sử dụng rƣợu, bia từ 3-5 ngày/tháng. Tỷ lệ nam
thanh thiếu niên sử dụng rƣợu, bia từ 6 ngày trở lên là 16,3% trong
khi đó tỷ lệ nữ thanh thiếu niên sử dụng rƣợu, bia từ 6 ngày trở lên
là 2,3%.
* Mối tương quan giữa tần suất sử dụng rượu, bia trong tháng của
thanh thiếu niên với nhóm tuổi
Tần suất sử dụng rƣợu, bia có mối quan hệ thuận chiều với độ
tuổi. Nhóm thanh thiếu niên trong độ tuổi 22-24 và độ tuổi 18-21 là
nhóm có tần suất sử dụng rƣợu, bia cao hơn nhóm còn lại.
* Mối tương quan giữa việc say rượu, bia trong tháng của thanh
thiếu niên với giới tính và lứa tuổi


20
Trong số những thanh thiếu niên đã từng uống rƣợu, bia có
13,5% nam và 1% nữ đã say rƣợu, bia trong tháng, tỷ lệ nam thanh
thiếu niên đã say rƣợu bia trong tháng hơn 12,5 điểm phần trăm so
với tỷ lệ thanh thiếu niên.
Tỷ lệ thanh thiếu niên đã say rƣợu bia trong tháng tăng dần
theo độ tuổi, độ tuổi 15-17 (3,6%), 18-21 (7,1%) và 22-24 (10,1%).

* Mối quan hệ giữa tần suất sử dụng và say rượu, bia trong tháng
của thanh thiếu niên với việc hiện đang đi học
Sử dụng rƣợu, bia từ 1-2 ngày (đang đi học: 39,2%; đã nghỉ
học: 34,8%), sử dụng rƣợu, bia từ 3-5 ngày (đang đi học: 13,7%; đã
nghỉ học: 17,8%) và sử dụng rƣợu, bia từ 6 ngày trở lên (đang đi
học: 8,3%, đã nghỉ học: 16%). Việc sử dụng và say rƣợu, bia dƣờng
nhƣ có mối quan hệ nhân quả với nhau, những thanh thiếu niên đã
nghỉ học tiếp cận rƣợu, bia nhiều hơn nên khả năng đã bị say trong
tháng cũng nhiều hơn so với nhóm thanh thiếu niên đang đi học
(đang đi học: 6,45 và đã nghỉ học: 8,4%).
* Mối quan hệ giữa tần suất sử dụng và say rượu, bia trong tháng
của thanh thiếu niên với trình độ học vấn đã hoàn thành
Sử dụng và say rƣợu, bia có mối quan hệ nhất định với nhau,
những thanh thiếu niên có trình độ học vấn cao thì sử dụng rƣợu,
bia trong tháng nhiều nhất trong ba nhóm chính vì vậy, tỷ lệ say
trong tháng của nhóm này cũng cao hơn một chút so với hai nhóm
thanh thiếu niên có trình độ THPT trở xuống và THPT, tỷ lệ lần lƣợt là:
5,3%; 8,3% và 8,8%.
* Mối tương quan giữa tần suất sử dụng và say rượu, bia trong
tháng với việc hiện đang đi làm có thu nhập
Với mức sử dụng rƣợu, bia từ 3-5 ngày thì tỷ lệ những thanh
thiếu niên hiện đang đi làm cao hơn 4,3% so với những thanh thiếu


21
niên hiện không đi làm. Và, tỷ lệ thanh thiếu niên với đặc trƣng
hiện đang đi làm có thu nhập, sử dụng rƣợu, bia từ 6 ngày trở lên
trong tháng cao gấp 02 lần so với nhóm thanh thiếu niên hiện
không đi làm.
* Ảnh hưởng của nhóm bạn đến hành vi sử dụng rượu, bia của thanh

thiếu niên
Nhóm nam thanh thiếu niên có bạn thân sử dụng rƣợu, bia cao
hơn 25,7% so với nhóm thanh thiếu niên nữ. Nhƣ vậy, so với nhóm
nữ thanh thiếu niên thì nhóm nam thanh thiếu niên có nguy cơ cao
trong khả năng tiếp cận rƣợu, bia khi bị ảnh hƣởng của bạn bè.
* Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng đến hành vi
sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên
Kết quả cho ta thấy, những thanh thiếu niên trong 6 tháng qua
có theo dõi tin tức qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng thì
khả năng đã từng sử dụng rƣợu, bia cao hơn 18,9 điểm phần trăm
so với những thanh thiếu niên không theo dõi tin tức trên các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng trong vòng 6 tháng qua (tính
đến thời điểm khảo sát).
2.2 CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG
RƢỢU, BIA TRONG THANH THIẾU NIÊN HÀ NỘI
Phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến việc sử dụng
rƣợu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội cho thấy:
Tuổi trung bình lần đầu sử dụng rƣợu, bia của thanh thiếu niên
là 18 tuổi. Có sự khác biệt về giới trong khả năng sử dụng rƣợu, bia
của thanh thiếu niên. Tần suất sử dụng rƣợu, bia trong tháng cũng
nhƣ tần suất say rƣợu, bia của nam thanh thiếu niên đều cao hơn so
với nữ giới. Có mối quan hệ thuận chiều giữa việc sử dụng và say
rƣợu, bia của thanh thiếu niên với độ tuổi của thanh thiếu niên.


22
Chƣơng 3: HỆ QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG RƢỢU, BIA VÀ XU
HƢỚNG SỬ DỤNG RƢỢU, BIA TRONG THANH THIẾU NIÊN
HÀ NỘI
3.1. HỆ QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG RƢỢU, BIA

* Hệ quả việc sử dụng rượu, bia với sức khỏe
Cuộc khảo sát Tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và
thanh niên Hà Nội 2006 không cho thấy các tác hại của rƣợu, bia
đối với sức khỏe và kinh tế nhƣng điều này đã đƣợc bổ sung bởi
các nghiên cứu khác cùng chủ đề này. Rƣợu, bia có thể mang lại
những tác dụng tích cực: mỗi ngày uống một ly rƣợu nhỏ hay một
chai bia làm cho máu huyết lƣu thông, gia tăng lƣợng cholesterol
tốt, làm loãng máu và vì thế giảm thiểu tai họa do bệnh tim gây ra,
tuy nhiên đây cũng là tác nhân gây ra rất nhiều bệnh, đặc biệt bệnh
tâm thần. Lạm dụng rƣợu, bia là nguyên nhân gây ảnh hƣởng trực
tiếp tới sức khỏe tâm thần với những biểu hiện cụ thể nhƣ: Hoang
tƣởng, trì truệ trí tuệ, tâm thần phân liệt, dạ dày, gan,… và đƣợc
xác định là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến gánh
nặng bệnh tật lớn của các rối loạn tâm thần.
* Hệ quả của việc sử dụng rượu, bia và việc tham gia giao thông
Với câu hỏi: “Trong 30 ngày qua, có bao giờ bạn lái ô tô, xe máy
hoặc các loại xe gắn máy khác sau khi uống rượu, bia hoặc ngồi trên xe
người khác lái mà người đó vừa uống rượu, bia?”, tỉ lệ nam thanh thiếu
niên trả lời khẳng định là còn cao, cụ thể ở nhóm tuổi từ 22-24 tuổi
(43,6%) và nhóm 18-21 tuổi (47,2 %). Nhóm tuổi 15-17 tuổi chiếm tỷ lệ
không đáng kể (9,2%), do ở độ tuổi này nam vị thành niên chƣa đƣợc
phép sử dụng xe máy và xe ô tô và nhóm tuổi này là nhóm đang chịu sự
quản thúc của gia đình nhiều hơn hai nhóm trên nên cơ hội tiếp cận rƣợu,
bia sẽ đƣợc kiểm soát chặt chẽ hơn.


23
Tính phổ biến của việc thanh niên đi xe máy sau khi uống
rƣợu, nhất là trong số những ngƣời đã từng say là điều hết sức đáng
lo ngại. Khi say rƣợu, bia họ sẽ không làm chủ đƣợc tốc độ, họ có

nguy cơ cao gây ra tai nạn giao thông.
3.2. XU HƢỚNG SỬ DỤNG RƢỢU, BIA TRONG THANH
THIẾU NIÊN HÀ NỘI
Với phong tục uống rƣợu trong những ngày lễ tết vào những dịp vui,
buồn đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống của ngƣời dân và thực trạng về
tình hình sản xuất rƣợu, bia ngày càng tăng, cửa hàng, quán bán rƣợu, bia
đƣợc mọc lên ở khắp nơi, những chính sách về rƣợu, bia của nƣớc ta chƣa
có những chế tài nghiêm để xử lý và kiểm soát tình hình sản xuất, lƣu
thông quảng bá và sử dụng rƣợu, bia hiện nay. Điều đó, đã khiến cho việc
tiếp cận rƣợu, bia của ngƣời dân nói chung, của thanh thiếu niên nói riêng
trở nên dễ dàng hơn. Và, đó cũng chính là những điều kiện thuận lợi giúp
cho xu hƣớng sử dụng rƣợu, bia trong thanh thiếu niên trong thời gian tới
gia tăng.

×