Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật ở Trung tâm Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 96 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HOC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ NGỌC LINH




THỰC TRẠNG TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT
Ở TRUNG TÂM GIÁO DƯỠNG SỐ 2 NINH BÌNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC








HÀ NỘI - 2013





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HOC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NGỌC LINH



THỰC TRẠNG TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT
Ở TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG SỐ 2 NINH BÌNH



Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số : 60 31 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Văn Tùng






HÀ NỘI 2013


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN 1 3
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 4
2.1. Mục đích nghiên cứu: 4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4
3. Đối tƣợng, Khách thể, Phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: 4
3.2. Khách thể nghiên cứu: 4
3.3. Phạm vi nghiên cứu: 5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
4.1. Cách tiếp cận: 5
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: 5
5. Câu hỏi nghiên cứu 6
6. Giả thuyết và khung lý thuyết nghiên cứu 6
6.1. Giả thuyết nghiên cứu: 6
6.2. Khung lý thuyết 7
PHẦN 2. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 8
1.2. Các khái niệm công cụ 13

1.2.1. Trẻ em 13
1.2.2. Vi phạm pháp luật 16
1.3.3. Trẻ em vi phạm pháp luật 17
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu 22
1.3.1. Lý thuyết xã hội hoá 22


1.3.2. Lý thuyết tƣơng tác biểu trƣng 23
1.3.3. Lý thuyết gán nhãn 24
1.4. Một số nét đặc trƣng về tâm lý trẻ em 24
1.5. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở TRUNG
TÂM GIÁO DƢỠNG SỐ 2 NINH BÌNH 32
2.1. Một số nét khái quát trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay 32
2.2. Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật qua khảo sát tại Trung tâm
Giáo dƣỡng số 2 39
2.2.1. Về cơ cấu tội phạm 39
2.2.2. Độ tuổi trẻ em vi phạm pháp ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 41
2.2.3. Học vấn trẻ em vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 42
2.2.4. Tính chất vi phạm pháp luật của trẻ em ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 45
CHƢƠNG 3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRẺ EM VI PHẠM PHÁP
LUẬT Ở TRUNG TÂM GIÁO DƢỠNG SỐ 2 NINH BÌNH 47
3.1. Những nhân tố tác động từ môi trƣờng xã hội 47
3.1.1. Nhân tố từ phía gia đình 47
3.1.2. Nhân tố từ môi trƣờng nhà trƣờng 58
3.1.3. Nhân tố từ môi trƣờng xã hội khác 68
3.2. Nguyên nhân từ đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ em vi phạm pháp luật 70
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 76
KẾT LUẬN 76
KHUYẾN NGHỊ 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO 90



DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ số 1. Cơ cấu tội phạm do trẻ em thực hiện 34
Biểu đồ số 2. Cơ cấu tội phạm trẻ em giai đoạn 2005 - 2007 34
Biểu đồ số 3. Cơ cấu hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em ở trung tâm giáo
dƣỡng số 2 40
Biểu đồ số 4. Cơ cấu lứa tuổi của trẻ em vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo
dƣỡng số 2 41
Biểu đồ số 5. Hoàn cảnh của gia đình trẻ em vi phạm pháp luật trung tâm giáo
dƣỡng số 2. 43
Biểu đồ số 6. Cơ cấu trẻ em vi vi pháp luật theo giới tính ở trung tâm giáo
dƣỡng số 2 44
Biểu đồ số 7: Mối quan hệ của trẻ em vi phạm pháp luật với những ngƣời thân
trong gia đình ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 52
Biểu đồ số 8. Mức độ trẻ em vi phạm pháp luật bị cha mẹ đánh, mắng ở trung
tâm giáo dƣỡng số 2 54
Biểu đồ số 9. Mức độ hứng thú với việc đi học ở trẻ em vi phạm pháp luật
(trƣớc khi vào trƣờng giáo dƣỡng số 2) 59



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Cơ cấu hành vi vi phạm pháp luật trẻ em qua các năm - Khảo sát tại
trung tâm giáo dƣỡng số 2. 40
Bảng 2.2. Giới tính trẻ em vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 44
Bảng 3.1. Các nội dung giáo dục của cha mẹ với trẻ em ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 48
Bảng 3.2. Các hành vi lệch chuẩn ở trẻ em vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo

dƣỡng số 2 51
Bảng 3.3. Cảm xúc của trẻ khi bị cha mẹ đánh mắng ở trung tâm giáo dƣỡng số 2 55
Bảng 3.4. Mối quan hệ của trẻ với những ngƣời thân trong gia đình ở trung
tâm giáo dƣỡng số 2 56
Bảng 3.5. Đánh giá của cán bộ chuyên trách về nguyên nhân từ phía nhà trƣờng 60
Bảng 3.6. Thời gian giảng dạy các nội dung ở trên lớp 62
Bảng 3.7. Các lỗi mà trẻ em thƣờng gặp phải 65
Bảng 3.8. Cách ứng phó của trẻ em vi phạm pháp luật trƣớc tình huống khó
khăn ở trung tâm giáo dƣỡng số 2. 71
Bảng 3.9. Cảm xúc khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo
dƣỡng số 2 72

3
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế là sự gia
tăng các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật. Hiện tượng
này không chỉ xảy ra ở những trẻ em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn mà còn xảy ra
ở nhiều trẻ em có điều kiện đầy đủ về mặt kinh tế, không những xảy ra ngoài xã hội
mà còn xảy ra ngay trong môi trường giáo dục. Điều đáng lo ngại ở chỗ, độ tuổi của
trẻ em làm trái pháp luật đang ngày càng có xu hướng trẻ hoá và gia tăng về số
lượng. Theo số liệu thống kê của Bộ Công an: từ năm 2000 đến năm 2006, số
vụ phạm tội do trẻ em và người chưa thành niên gây ra là 74.389 vụ với 95.103 em;
số trẻ em có nguy cơ vi phạm pháp luật là 71.581 em. Năm 2007 và 3 tháng đầu
năm 2008, riêng trẻ em dưới 16 tuổi có 7.000 vụ vi phạm, chiếm đến 70% tội phạm
vị thành niên dưới 18 tuổi. Công an các địa phương đã khởi tố điều tra 8.531 vụ với
11.732 đối tượng ở tất cả các tội danh này. Xử lý hành chính lên tới 35.463 vụ với
48.187 đối tượng; trong đó giao cho gia đình giáo dục 21.484 đối tượng, xã phường
quản lý, giáo dục 8.892 đối tượng, lập hồ sơ đưa đi trường giáo dục 5.616 đối

tượng, áp dụng các biện pháp khác 11.677 đối tượng. Chỉ trong 7 tháng đầu năm
2007, đã có 33.284 trường hợp thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà
đi lang thang, có nguy cơ vi phạm pháp luật [32]. Những số liệu trên đã nói lên tầm
quan trọng của việc đánh giá đúng mức vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật và từ đó có
những giải pháp thích hợp.
Cùng với gia đình, xã hội ngày nay luôn dành nhiều sự quan tâm đến việc
giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên. Đó là trách nhiệm của nhà
trường, của các tổ chức đoàn thể xã hội, của các cơ quan quản lý an ninh và trật tự
xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình,
nhà trường và xã hội, chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được những tệ nạn trong lối
sống của lứa tuổi trẻ em. Muốn vậy, việc giáo dục đạo đức, pháp luật cho học sinh
phải được quan tâm và đầu tư đúng mức, đồng thời, với vai trò là một ngành, một

4
nghề có chức năng khắc phục, chữa trị các khiếm khuyết xã hội, công tác xã hội và
hệ thống cán bộ công tác xã hội rất cần phải được cung cấp các kỹ năng, phương
pháp làm việc, giúp đỡ các đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật vươn lên hoà nhập
cộng đồng. Vì vậy, với việc thực hiện đề tài: "Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật
ở Trung tâm Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình" sẽ cung cấp tư liệu có tính định hướng,
phục vụ công tác đào tạo giáo viên giảng dạy giáo dục công dân và cán bộ công tác
xã hội tại nhiều trường Cao đẳng, Đại học hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay tại cơ sở, chỉ ra các
yếu tố ảnh hưởng tới việc trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó nghiên cứu đề xuất một
số khuyến nghị và giải pháp về công tác giáo dục tại trung tâm giáo dưỡng số 2,
trong nhà trường, công tác đào tạo giáo viên dạy giáo dục công dân và cán bộ công
tác xã hội cho đối tượng đặc biệt này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Tiến hành khảo sát để thu thập được hệ thống các thông tin về thực trạng trẻ

em vi phạm pháp luật trong phạm vi trung tâm giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
 Phân loại các nhân tố tác động tới việc trẻ em vi phạm pháp luật.
 Từ kết quả nghiên cứu, đề xuất những khuyến nghị và giải pháp về vấn đề trẻ
em vi phạm pháp luật đối với cán bộ tại trung tâm, cán bộ công tác xã hội làm việc
với trẻ em vi phạm pháp luật và với giáo viên giảng dạy giáo dục công dân trong
nhà trường phổ thông.
3. Đối tƣợng, Khách thể, Phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành với nhóm trẻ em (từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi)
vi phạm pháp luật: cố ý gây thương tích, trộm cắp, cướp giật, vận chuyển trái phép
chất ma túy, đang được nuôi dưỡng, giáo dục tại trung tâm giáo dưỡng số 2, từ năm
2009 đến nay.

5
Nghiên cứu cũng được tiến hành với nhóm cán bộ, giáo viên đang trực tiếp
tham gia quản lý, giảng dạy tại trường giáo dưỡng số 2.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
 Về không gian: Khảo sát được tiến hành tại trung tâm giáo dưỡng số 2 (đóng
trên địa bàn xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình).
 Về thời gian: Thời gian tiến hành khảo sát từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 7
năm 2012.
 Phạm vi thời gian của đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành với
nhóm trẻ em vi phạm pháp luật được đưa vào trung tâm giiáo dưỡng số 2 - Ninh
Bình từ năm 2009 đến nay.
 Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành để mô tả thực trạng một số
hành vi vi phạm pháp luật điển hình ở trẻ em như: cố ý gây thương tích, trộm cắp,
cướp giật, vận chuyển trái phép chất ma túy. Trên cơ sở đó, đề tài bước đầu mô tả
thực trạng phạm pháp luật của trẻ em gắn với việc tìm hiểu các nhân tố tác động đến

trẻ em vi phạm pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận:
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm tư tưởng của
Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước về giáo dục trẻ em.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp Điều tra bảng hỏi cấu trúc với 200 trẻ em vi phạm pháp luật ở
Trung tâm Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình và 20 trường hợp là cán bộ giáo dục tại trung
tâm giáo dưỡng số 2.
Mẫu nghiên cứu của đề tài là học sinh của trung tâm giáo dưỡng số 2 trong
độ tuổi từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi đang được quản lý, nuôi dưỡng, giáo dục và đào
tạo nghề tại trung tâm.
Cụ thể: Theo hành vi phạm tội - 70 trẻ phạm tội trộm cắp, 50 trẻ phạm tội cố
ý gây thương tích, 50 trẻ phạm tội cướp giật, 30 trẻ phạm tội vận chuyển trái phép
chất ma túy.

6
Theo giới tính: 150 trẻ em trai và 50 trẻ em gái = 200 trẻ em
Theo lứa tuổi: 12 tuổi - dưới 14 tuổi là 50 trẻ, 14 đến dưới 16 tuổi là 100 trẻ,
từ 16 đến dưới 18 tuổi là 50 trẻ.
Phương pháp phỏng vấn sâu: được thực hiện với 14 trường hợp; trong đó, 4
trường hợp là cán bộ giáo dục tại cơ sở (1 cán bộ quản lý và 3 cán bộ làm công tác
giáo dục trực tiếp) và 10 trường hợp là học sinh của trường trong số học sinh tham
gia trả lời bảng hỏi cấu trúc.
Phương pháp quan sát được tiến hành quan sát các hành vi, biểu hiện, thái độ
của trẻ em vi phạm pháp luật trong các giờ học tập kiến thức, học nghề và trong lao
động, sinh hoạt tập thể.
Phương pháp phân tích tài liệu: Nghiên cứu các sổ tay của các cán bộ quản lí
ở trường giáo dưỡng, báo cáo thường niên của cán bộ quản lí, các nghiên cứu xã hội
học và tâm lí học xã hội về trẻ em vi phạm pháp luật để thu tập các thông tin cơ bản

về gia đình, hành vi vi phạm, số lần vào trường giáo đưỡng, về đặc điểm tâm, sinh
lý trẻ em vi phạm pháp luật, sau đó có sự đối chiếu so sánh với quá trình tác giả tự
điều tra.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Tại sao trẻ em lại phạm tội?
- Những nhân tố nào thúc đẩy các em phạm tội, trong các yếu tố đó đâu là
yếu tố chính, đâu là yếu tố xúc tác.
- Ở độ tuổi khác nhau, loại hình, tính chất, mức độ vi phạm có khác nhau
hay không?
6. Giả thuyết và khung lý thuyết nghiên cứu
6.1. Giả thuyết nghiên cứu:
- Trẻ em vi phạm pháp luật đang có xu hướng đa dạng về các loại hành vi;
gia tăng về số lượng, mức độ nghiêm trọng; giảm dần về độ tuổi vi phạm.
- Kết quả học tập yếu kém của trẻ, hoàn cảnh sống gia đình, sự tác động tiêu
cực của phương tiện thông tin đại chúng, ảnh hưởng của bạn bè xấu và đặc trưng về
tâm lý lứa tuổi là nguyên nhân chủ yếu của hành vi vi phạm pháp luật ở trẻ em.

7
6.2. Khung lý thuyết




















Cơ cấu
hành vi
phạm tội
Số lượng
vụ phạm tội
Mức độ,
tính chất
phạm tội
Thực trạng trẻ em
vi phạm pháp luật
Môi trường Chính trị - Văn hóa - Xã hội
- Gia đình
- Nhà trường
- Xã hội (Truyền thông đại
chúng, Tổ chức xã hội: Đoàn,
nhóm bạn bè)

- Đặc điểm tâm, sinh lý
- Giới tính
- Tuổi
- Trình độ



8
PHẦN 2
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Thứ nhất: quá trình hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của một con
người luôn chịu sự tác động của nhiều thiết chế xã hội khác nhau. Một trong các
thiết chế xã hội rất quan trọng tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người đó là thiết chế gia đình.
Trong tác phẩm "Nho giáo và gia đình" của Giáo sư Vũ Khiêu (1995) đã mô
tả những mặt tích cực và tiêu cực của Nho giáo trong cách giáo dục các thành viên
trong gia đình, đặc biệt tác giả nhấn mạnh đến văn hóa trong gia đình.
Công trình nghiên cứu của Trần Đình Hượu "Gia đình và giáo dục gia đình"
cho thấy tầm quan trọng trong việc giáo dục con người nhất là với trẻ em. Gia đình
là nơi nuôi dưỡng và để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong cuộc đời của mỗi con
người [24, tr. 8].
Theo tác giả Hà Thị Thư [26, tr.35-54] xét về khía cạnh tâm lý có nhiều quan
điểm khác nhau về việc phân chia độ tuổi của các giai đoạn phát triển, trong đó
quan điểm của tâm lý học mác-xít phân chia lứa tuổi vị thành niên thành hai giai
đoạn: giai đoạn thiếu niên từ 11 đến 15 tuổi, giai đoạn đầu thanh niên từ 15 đến 18
tuổi với những đặc trưng về tâm lý riêng biệt.
Về những hậu quả đối với thiếu niên có bố mẹ ly hôn PGS.TS Văn Thị Kim
Cúc (2003) đã mô tả những tổn thương về mặt tâm lý mà trẻ có thể gặp phải khi cha
mẹ ly hôn, những tổn thương này sẽ ám ảnh và theo trẻ đến suốt cuộc đời, thậm chí
nó còn để lại những hậu quả tiêu cực cho đứa trẻ.
Về cách ứng phó của trẻ em trước mỗi hoàn cảnh khó khăn (Phan Thị Mai
Hương; 2007) trẻ em phải ứng phó với nhiều tình huống căng thẳng trong học tập,
gia đình, bạn bè, tình huống bất thường Đối với trẻ em học tập là hoạt động có


9
ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến tâm lý của các em. Cũng như hoạt động chủ đạo
khác, học tập luôn mang đến cho chủ thể của hoạt động này không ít những khó
khăn đặc trưng. Nếu như hoạt động nghề của các bậc phụ huynh có những áp lực về
thời gian hoàn thành công việc, chất lượng công việc thì đối với học sinh các em
cũng có những áp lực về khối lượng bài phải học, điểm số, kì vọng của thầy cô và
cha mẹ đối với kết quả học tập Tất cả những điều này tạo nên một áp lực nặng nề
không kém gì áp lực mà các bậc phụ huynh phải đối mặt trong hoạt động nghề của
mình. Tuy nhiên, không phải ai trong người lớn chúng ta cũng đều hiểu được sức
nặng của các áp lực này đối với các em lớn đến mức nào. Trong đó tác giả nêu ra
cách ứng phó tập trung vào vấn đề: sẵn sàng đương đầu, tìm kiếm chỗ dựa xã hội và
giải quyết vấn đề có kế hoạch. Đối với chiến lược ứng phó tập trung vào điều chỉnh
cảm xúc bao gồm: kiểm soát bản thân, giữ cảm xúc trước tình huống gây stress,
đánh giá lại những điểm dương tính, chấp nhận trách nhiệm và cuối cùng là lảng
tránh, chạy trốn.
Những tác nhân gây stress và cách ứng phó với stress của trẻ em tác giả Đỗ
Thị Hằng [13, tr. 24] qua nghiên cứu 516 học sinh ở các trường THPT và THCS tác
giả đã chỉ hai vấn đề sau đây:
Thứ nhất: chỉ ra 4 tác nhân chính gây stress cho trẻ em đó là học tập, quan hệ
với cha mẹ, bạn bè và trong những tình hống bất thường (đe dọa, bắt nạt, trấn lột ).
Đây là quan điểm trùng với nghiên cứu của tác giả Phan Thị Mai Hương. Tuy
nhiên, tác giả Đỗ Thị Hằng có sự khác biệt khi phân tích tác nhân chính gây stress
đối với học sinh cấp 2 và cấp 3. Cụ thể, tác nhân học tập và các tình huống bất
thường gây stress cho học sinh cấp 2 và cấp 3 cao hơn các tác nhân do quan hệ
trong gia đình và bạn bè gây ra. Đối với học sinh cấp 3 áp lực học tập gây stress cho
các em cao hơn học sinh cấp 2.
Thứ hai: các kiểu ứng phó của trẻ với 4 tác nhân trên và các yếu tố ảnh
hưởng đến cách ứng phó trước các tình huống khó khăn thì trẻ em chủ yếu ứng phó
bằng với các tác nhân gây stress bằng hành động nhiều hơn so với cách ứng phó

bằng suy nghĩ và bằng tình cảm.

10
Những tài liệu trên được xem là những tài liệu vô cùng quý giá giúp ta có
được những cơ sở bước đầu trong việc so sánh, đối chiếu, tổng hợp.
Thứ hai, cùng với nguồn tài liệu trên, những công trình nghiên cứu khảo sát
thực tế tình hình tội phạm nói chung và trẻ em vi phạm pháp luật nói riêng đã cung
cấp cho tác giả những cách nhìn khái quát nhất về vấn đề này.
Trong cuốn tài liệu nghiên cứu về "Công tác xã hội với trẻ em làm trái pháp
luật" (Trần Đức Châm- UBDSGĐ&TE - 2004) đã chỉ ra thực trạng đáng báo động
về tội phạm chưa thành niên, tỉ lệ này đang có xu hướng gia tăng nhanh và tăng
mạnh ở đô thị. Đề cập đến nguyên nhân của trẻ em vi phạm pháp luật nước ta có
nguyên nhân từ phía gia đình. Qua nghiên cứu tác giả chỉ ra rằng phần lớn trẻ em
phạm tội đều gặp những vấn đề như gia đình không đầy đủ bố mẹ, gia đình có
người nghiện hút, cờ bạc, các em được nuông chiều quá mức hoặc bị đối xử một
cách hà khắc.
Cuốn sách "Tình hình người chưa thành niên ở Hà Nội sử dụng trái phép
chất ma túy và nghiện ma túy. Công tác phòng chống (1996 - 1998)" (NXB Bộ
Công An) dành một phần nói về công tác phòng chống của gia đình. Phần viết này
cho rằng chức năng giáo dục đối với trẻ em là chức năng không thể thay thể, những
thay đổi trong đời sống gia đình hiện nay làm cho chức năng này bị xem nhẹ. Từ đó
theo tác giả để ngăn chặn được các tệ nạn xã hội len lỏi vào các gia đình đòi hỏi ý
thức trách nhiệm rất lớn của của các bậc làm cha làm mẹ.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Mạnh "Vai trò của gia đình đối với
trẻ em hư ở thành phố" (qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội; 2002) đã tập trung
phân tích những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn đến những thói hư tật xấu của
con. Các gia đình ở thành phố bị cuốn theo cơn lốc của nền kinh tế thị trường, họ
không có điều kiện để quan tâm giáo dục con cái, trong khi đó thì một bộ phận của
dân cư không bắt kịp với tiến bộ của thời đại, không tiếp biến các giá trị văn hóa
mới vào gia đình nên đã kìm hãm sự phát triển của trẻ em nên đã tạo ức chế và phản

ứng - dẫn đến những hành vi tiêu cực không phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Trong luận án Tiến sĩ "Nguồn gốc xã hội của việc vi phạm pháp luật ở người

11
chưa thành niên hiện nay" của tác giả Hồ Diệu Thúy (2002) đi sâu vào nghiên cứu
những nhân tố xã hội ảnh hưởng tới những hành vi vi phạm pháp luật của người
chưa thành niên. Theo tác giả ba nhân tố xã hội quan trọng nhất ảnh hưởng đến
hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên là nguồn gốc gia đình, nguồn
gốc nhà trường, nguồn gốc cộng đồng.
Luận án Tiến sĩ "Tội phạm ở tuổi vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay" của tác giả Phạm Đình Chi (2005) đã mô tả sâu sắc bức tranh về tình hình
tội phạm vị thành niên, đưa ra những con số báo động. Tác giả nhấn mạnh nguyên
nhân và điều kiện của hiện tượng tội phạm liên hệ mật thiết với các biến cố, các sự
kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa với những khuyết tật làm phát sinh tình
hình tội phạm.
Luận án Tiến sĩ "Tội phạm nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh và khả năng tái hòa
nhập của họ" của tác giả Trần Thị Tư Hương đã nêu thực trạng, cơ cấu và các loại
hình tội phạm nữ hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời tìm hiểu quá trình
tái hội nhập của tội phạm nữ và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái hội nhập
của họ. Những phát hiện và kết quả nghiên cứu đóng góp cho việc hiểu sâu hơn đối
với lĩnh vực xã hội học tội phạm ở Việt Nam nói chung và xã hội học về tội phạm
nữ nói riêng. Nêu sự tác động của một số chính sách đối với phụ nữ và những giải
pháp phòng ngừa, góp phần hạn chế tình hình tội phạm nữ và tăng cường khả năng
tái hội nhập của họ
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công tình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến giáo
dục gia đình và tình trạng phạm tội thanh thiếu niên như: "Ảnh hưởng của giáo dục
gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ em hiện nay"(nghiên cứu trường hợp tại trường
Giáo dưỡng 02 - Ninh Bình) của tác giả Cù Thị Thanh Thủy (2006) cho thấy việc trẻ
em vi phạm pháp luật là do cha mẹ lao vao vòng xoáy kinh tế không có thời gian chăm
sóc, giáo dục con cái, giao phó việc giáo dục con cho các thiết chế khác. Bên cạnh đó,

do hạn chế về nhận thức nên một số gia đình đã không có được cách thức, phương
pháp giáo dục con cái một cách khoa học và có những cách quan tâm đúng mức, điều
này đã gây ra những phản ứng và hành vi tiêu cực ở con cái.

12
"Quan hệ giữa cha mẹ và vị thành niên trong gia đình" (qua phân tích số liệu
điều tra của gia đình Việt Nam năm 2006) của tác giả Lê Thu Hiền (2012) làm rõ
một số biểu hiện về mối quan hệ giữa cha mẹ và vị thành niên trong gia đình liên
đến quan niệm và giá trị vị thành niên cũng như quyền quyết định của vị thành niên
trong gia đình qua phân tích số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006. Qua
phân tích số liệu thấy mối quan hệ của cha mẹ và vị thành niên không chỉ tồn tại
mối quan hệ một chiều là cha mẹ ra lệnh, con cái phục tùng mà mối quan hệ giữa
cha mẹ và vị thành niên hiện nay biểu hiện theo hướng "dân chủ hóa". Đồng thời,
mối quan hệ này nó chịu ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn của
cha mẹ và hoàn cảnh kinh tế gia đình. Cha mẹ có học vấn cao thì mối quan hệ giữa
cha mẹ - vị thành niên bình đẳng hơn, Gia đình có mức sống cao hơn thì mối quan
hệ giữa cha mẹ - vị thành niên bình đẳng hơn.
Những nghiên cứu kể ra trên đây đều chỉ rất rõ tầm quan trọng của giáo dục
gia đình tới việc hình thành nhân cách cho trẻ em. Tuy nhiên, một số tài liệu có đi
sâu phân tích các tác nhân gây stress và cách ứng phó của trẻ em trước các tác nhân
đó dưới góc độ của tâm lý học, chứ chưa chỉ ra bên cạnh những tác nhân đó trẻ còn
chịu sự tác động của nhiều tác nhân khác trong đời sống xã hội. Một số công trình
nghiên cứu dưới góc độ xã hội học đã đi sâu phân tích hoàn cảnh gia đình, trình độ
học vấn của cha mẹ nhưng là để mô tả mối quan hệ của cha mẹ - vị thành niên hiện
nay biểu hiện như thế nào. Trong thời gian qua, xu hướng phạm tội ngày càng được
trẻ hoá về độ tuổi với các vi phạm pháp luật mang tính tập thể, quy mô ngày càng
lớn; tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng; điều đáng lo ngại hơn là trẻ em
trong thời gian gần đây lại phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng, kể cả các tội phạm
giết người, hiếp dâm, buôn bán ma tuý, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản , đâu là căn nguyên dẫn đến sự trẻ hóa

về mặt độ tuổi, về tính chất nghiêm trọng của trẻ em vi phạm pháp luật. Chúng tôi
đã chọn đề tài nghiên cứu "Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật ở trung tâm giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình với mong muốn góp phần làm hoàn thiện hơn bức tranh vi
phạm pháp luật của trẻ em hiện nay, nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường,
cộng đồng trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em.

13
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Trẻ em

Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: "Trẻ em quy định
trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Trong khi đó, Công ước của
Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (1989) được Việt Nam phê chuẩn năm 1990 lại xác
định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn( Điều 1). Như vậy, nếu theo Công ước của Liên
Hợp quốc, thì nhóm tuổi vị thành niên (theo quan niệm mà chúng ta vẫn thường
hiểu xưa nay), hoàn toàn có thể được xếp vào nhóm trẻ em.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc phân nhóm cho các đối tượng dưới 18 tuổi
chỉ có một ý nghĩa tương đối vì trên thực tế, chúng ta không thể tìm được một sự
đồng nhất hoàn toàn giữa các lớp tuổi khác nhau trong nhóm chưa thành niên.
Nhóm nhân khẩu dưới 18 tuổi này lại có thể được phân chia làm nhiều nhóm tuổi
khác xuất phát từ những đặc điểm về sự phát triển thể chất, nhận thức cũng như tâm
sinh lý riêng của mỗi nhóm. Chẳng hạn xưa nay các nhà giáo dục thưòng nói đến
những nhóm như trẻ sơ sinh, nhóm nhà trẻ, mẫu giáo, nhóm nhi đồng, nhóm thiếu
niên, nhóm vị thành niên Trẻ em là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của
mỗi con người. Đây là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi cả về thể chất, tâm lý cũng
như năng lực nhận thức.
Mặt khác, cũng khó có thể chỉ lấy các tiêu chí về tuổi đời để phân biệt vị
thành niên với những nhóm xã hội khác. Mỗi đứa trẻ lại lớn lên trong những môi
trường sống, được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong những điều kiện vật chất

và tinh thần khác nhau. Chúng có những nhận thức, tâm lý tâm trạng không giống
nhau. Có những đứa trẻ mới hơn mười tuổi nhưng lại có những suy nghĩ và tình
cảm rất người lớn, chúng luôn được người lớn chúng ta gọi là những “ông, bà cụ
non”, trong khi đó lại có những thanh niên đã ngoài hai mươi nhưng từ dáng vẻ tới
tâm lý, tâm trạng, phong cách ứng xử lại chẳng người lớn chút nào. Chúng ta hẳn
đều đã gặp gỡ nhiều với những thanh niên kiểu này. Họ vẫn thích đọc truyện tranh,
chơi đùa không phải với bạn bè đồng trang lứa mà với những đứa trẻ còn kém tuổi

14
họ rất xa. Đấy là những thanh niên mà nhiều nhà xã hội học về lứa tuổi thường gọi
là “các chú gà gô”, những đứa trẻ thật sự, tồn tại bên trong chiếc vỏ cũng của những
người lớn thực sự.
Rõ ràng là trên thực tế đã có sự nhận thức và hiểu biết khác nhau nhất định
giữa khái niệm người chưa thành niên và khái niệm vị thành niên mặc dù chữ “vị”
và chữ “chưa” về thực chất cũng chỉ bao hàm có một nghĩa. Nói chưa thành niên có
nghĩa là đã giới hạn nhóm người này vào lứa tuổi dưới tuổi thành niên và như vậy
trong trường hợp này, cả trẻ sơ sinh, mẫu giáo, nhi đồng đều có thể là người chưa
thành niên. Tuy nhiên, về mặt ngôn từ, khi ta nói rằng mình chưa đạt đến một cái gì
thì điều đó thường có nghĩa là đã gần đạt đến mức độ đó rồi. Chẳng hạn, khi ta nói
cơm chưa chín thì điều đó có nghĩa là cơm đã được nấu rồi nhưng chưa chín, chứ
không có nghĩa rằng đó mới chỉ là gạo mặc dù hiểu gạo là cơm chưa chín cũng
không sai.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng trong số những người chưa đủ tuổi
thành niên chúng ta cần có một sự phân biệt rõ hơn một cách thực tế hai nhóm tuổi
khác nhau, nhóm trẻ em và nhóm vị thành niên. Ở đây, theo cách hiểu của chúng
tôi, vị thành niên chỉ là một bộ phận của những người chưa thành niên hoặc nói một
cách chính xác hơn, là thế hệ lớn tuổi hơn cả trong nhóm những người chưa thành
niên. Cách giới hạn khái niệm như vậy không nhằm mục đích tranh luận về mặt
ngôn ngữ mà chỉ để giới hạn lại vấn đề được đề cập đến trong đề tài nghiên cứu.
Tất nhiên việc phân biệt có tính so sánh như trên đã không đủ để giải thích

một cách thuyết phục và rõ ràng về khái niệm vị thành niên. Còn rất nhiều vấn đề
cần phải được phân tích sâu và làm rõ hơn. Chẳng hạn, cần phải chọn những tiêu
chí nào để xác định rõ hơn về lứa tuổi vị thành niên. Nếu là về tuổi đời thì nên bắt
đầu từ tuổi nào và giới hạn tiếp theo tới tuổi nào. Nếu là xuất phát từ những đặc
trưng về sự phát triển thể chất thì nên bắt đầu từ sự đo lường về chiều cao, cân nặng
hay từ những yếu tố phát triển tự nhiên mang tính y sinh học nào khác. Nếu lấy các
yếu tố về những sự phát triển tâm lý, nhận thức, tình cảm hoặc lối sống, nhân cách
v.v thì vấn đề lại càng trở nên phức tạp hơn nhiều.

15
Thực tế đã cho thấy, trong nhiều loại văn bản pháp luật hiện nay, khi điều
chỉnh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chúng ta đã có những quy định
không giống nhau về khái niệm, độ tuổi và phạm vi áp dụng luật đối với người chưa
thành niên và trẻ em.
Điều 20 Bộ luật Dân sự Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (có hiệu
lực 1/7/1996) cũng quy định rằng :" Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên"; Điều 22 quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên là từ đủ
6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và đồng thời cũng lại quy định trường hợp người từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật Hình sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 21/12/ 1999, tại chương X Điều 68 quy định" Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
chương này ", tiếp đó Điều 69 khoản 5 lại có sự phân biệt trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, ở các điều luật sau, Bộ luật Hình sự lại quy định người chưa thành
niên có độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi ( khoản 4 Điều 111, khoản 4 điều 113)
; trẻ em có độ tuổi từ dưới 16 tuổi ( khoản 1,4 Điều 112; khoản 1 Điều 114,
khoản 1 Điều 115).
Trong khi đó, trên khía cạnh những vấn đê về lao động và việc làm, Bộ luật
lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (23/6/1994) lại có sự quy

định như sau: Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động
và có giao kết hợp đồng lao động (Điều 6), Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi (Điều 119 khoản 1). Trẻ em là người dưới 15 tuổi (Điều 120) Như
vậy, ở đây, quan niệm về độ tuổi của trẻ em đã khác với luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy, thuật ngữ trẻ em, nếu chỉ xét theo tiêu
chuẩn về độ tuổi ở các văn bản pháp luật khác nhau, trên thực tế cũng đã phức tạp
và thiếu thống nhất. Ở Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, độ tuổi tối đa của
một người được gọi là trẻ em là dưới 16 tuổi; ở Bộ Luật lao động là dưới 15 tuổi; ở

16
Bộ Luật Hình sự là dưới 16 tuổi; ở Công ước về Quyền trẻ em độ tuổi đó là dưới 18
tuổi. Ở độ tuổi có thể được kết nạp vào Đoàn thanh niên, tức là đã đủ tiêu chuẩn
trưởng thành của một thanh niên, theo điều lệ Đoàn là 15 tuổi.
Trong các công trình nghiên cứu của nhiều nước, nhóm vị thành niên cũng
được phân định ở các lứa tuổi thật khác nhau. Nếu có nhiều nước coi sự bắt đầu của
tuổi vị thành niên từ 8-9 tuổi thì cũng có nhiều nước lại kéo dài tuổi vị thành
niên tới 24-25 tuổi. Một công trình nghiên cứu mới đây của Viện Xã họi học có
sự tài trợ của quốc tế, tuổi vị thành niên mà các tác giả Việt Nam và quốc tế
khảo sát được giới hạn tới 24 tuổi và điều này đã gây không ít tranh luận trong
giới khoa học và quản lý.
Gần đây, tổ chức y tế thế giới đã đưa ra một tiêu chí cơ bản để chỉ nhóm vị
thành niên. Đó là: “ nhóm nhân khẩu xã hội có tuổi đời từ 10 đến 18 tuổi”. Trong
nhóm vị thành niên nói trên, người ta lại phân nhỏ thành ba nhóm khác nữa : nhóm
vị thành niên nhỏ từ 10-13 tuổi, nhóm vị thành niên trung bình từ 14-16 tuổi, nhóm
vị thành niên lớn từ 17-18 tuổi. Theo chúng tôi cách phân chia như trên là tương đối
hợp lý, đồng thời cũng khá phù hợp với những đặc điểm chung của tuổi vị thành
niên ở nước ta.
Tuy có rất nhiều điều cần phải được tranh luận trong những công trình
nghiên cứu về vị thành niên, nhưng trên thực tế, không có mấy tác giả nào lại phủ

nhận một điều là dù có mở rộng phạm vi tuổi vị thành niên đến mức nào thì nhóm
tuổi mang đầy đủ trong nó những đặc trưng đặc thù nhất của vị thành niên vẫn
là nhóm tuổi từ 12 đến 18 tuổi. Bởi trong lứa tuổi này, cái đặc trưng của một vị
thành niên là “một đứa trẻ trong một thể chất thanh niên, hoặc một thanh niên
có nhận thức và tình cảm của trẻ nhỏ ” mới biểu lộ đầy đủ nhất.
1.2.2. Vi phạm pháp luật
Trong khoa học pháp lý, hành vi vi phạm pháp luật được hiểu là hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Như vậy, một hành vi được coi là vi phạm pháp luật khi thoả mãn đầy đủ tất

17
cả các dấu hiệu của vi phạm pháp luật. Các dấu hiệu này được thể hiện đầy đủ trong
khái niệm nêu trên, thiếu một dấu hiệu hành vi của chủ thể không được coi là cấu
thành vi phạm pháp luật.
1.3.3. Trẻ em vi phạm pháp luật
Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật đang là vấn đề bức xúc của nhiều xã hội
hiện nay. Vì thế, trong Bộ luật của mỗi nước đều có những quy định cụ thể đối với
trẻ em vi phạm pháp luật.
Cụ thể: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Bănglađét là 7 tuổi, ở Myanma là 7 tuổi,
Thái Lan là 7 tuổi, ở Mĩ là 7 tuổi, ở Anh là 10 tuổi, Hàn Quốc là 12 tuổi, Trung Quốc 14
tuổi, Nhật Bản là 14 tuổi, Nga 14 tuổi, Ai cập 15 tuổi, Peru là 18 tuổi [1, tr 65]
Trên thực tế, không phải lúc nào chúng ta cũng dễ dàng nhận ra hành vi nào
là vi phạm pháp luật. Những hành vi đó có thể là hành vi lệch chuẩn nhưng chưa đạt
ngưỡng của vi phạm pháp luật. Trong khoa học pháp lý, để xác định một hành vi
được coi là vi phạm pháp luật cần phải hội tụ đầy đủ các dấu hiệu sau:
Trước hết, vi phạm pháp luật bao giờ cũng phải là hành vi, đó là những gì
biểu hiện ra bên ngoài của con người dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Tuy nhiên, nếu hành vi biểu hiện cụ thể đó mà không chứa đựng yếu tố nguy
hiểm một cách đáng kể cho xã hội thì cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.

Vì vậy, là một hành vi vi phạm pháp luật khi chứa đựng sự nguy hiểm hoặc có
khả năng gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội theo những tình huống pháp luật dự
liệu trước. [30, tr. 58-407]
Thứ hai, hành vi nguy hiểm phải xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ. Những gì pháp luật không cấm, không bảo vệ thì dù có xâm hại cũng
không bị coi là vi phạm pháp luật. [30]
Thứ ba, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện. Năng lực trách nhiệm pháp lý được xác định trên cơ sở các yếu tố
như: độ tuổi, năng lực nhận thức của chủ thể thực hiện hành vi. Những người dưới
sáu tuổi được coi là chưa có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi và những
người mắc bệnh tâm thần bị coi là mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

18
Vì vậy, hành vi của chủ thể thực hiện trong khi không nhận thức và điều khiển được
hành vi thì không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. [30]
Thứ tư, hành vi mà chủ thể thực hiện phải chứa đựng yếu tố lỗi. Lỗi được
hiểu là trạng thái tâm lý của chủ thể, phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với
hành vi trái pháp luật mà mình thực hiện và hậu quả do hành vi đó gây ra. Một hành
vi thoả mãn đầy đủ ba dấu hiệu trên nhưng nếu không có lỗi cũng sẽ không bị coi là
vi phạm pháp luật. [30]
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể kết luận: hành vi vi phạm pháp
luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật, tức là thực hiện không đúng, không đầy
đủ những gì mà pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm pháp luật luôn là hành vi
trái pháp luật, nhưng hành vi trái pháp luật chưa chắc đã là hành vi vi phạm pháp
luật. Do đó, hành vi trái pháp luật chỉ được coi là vi phạm pháp luật khi hành vi đó
thoả mãn các dấu hiệu của một hành vi vi phạm pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực thuộc đối tượng
điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, để được coi là tội phạm,
hành vi đó phải xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ, được nêu
tại Khoản 1, Điều 8, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, năm 1999. Đây là những hành vi có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội. Vì
vậy, chỉ những hành vi nguy hiểm do cá nhân có đủ độ tuổi và khả năng nhận thức
thực hiện, đã được xác định trong Bộ luật Hình sự, mới bị coi là tội phạm.
Những phân tích trên cho thấy, các khái niệm trẻ em làm trái pháp luật, trẻ
em vi phạm pháp luật và trẻ em phạm tội có những điểm khác nhau cơ bản. Trong
đó, hành vi làm trái pháp luật là khái niệm rộng nhất, bao hàm tất cả những hành vi
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các yêu cầu của pháp luật.
Hành vi trái pháp luật chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi nó chứa đựng đầy đủ các
dấu hiệu của một hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị
coi là tội phạm khi hành vi đó xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà luật Hình sự
bảo vệ, được quy định cụ thể trong phần các tội phạm, từ chương XI đến chương
XXIV của Bộ luật Hình sự năm 1999. Những hành vi này phải do người có năng

19
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Năng lực trách nhiệm
hình sự được xác định dựa vào hai yếu tố: khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
và độ tuổi. Độ tuổi bắt đầu phải gánh chịu trách nhiệm hình sự theo quy định là từ
14 tuổi: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng". [30]
Do quy định của pháp luật về độ tuổi, tuỳ từng trường hợp, hành vi trái pháp
luật mà trẻ em thực hiện được coi là tội phạm hay là hành vi vi phạm pháp luật
khác. Nhưng cũng có thể hành vi đó chỉ đơn giản là hành vi thực hiện không đúng,
không đầy đủ các yêu cầu của pháp luật mà không phải là hành vi trái pháp luật của
bất cứ ngành luật nào. Như vậy, những hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội
được Bộ luật Hình sự năm 1999 bảo vệ do người không có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện có thể chỉ thuộc về các trường hợp còn lại của hành vi làm trái
pháp luật hoặc vi phạm các quy định của các ngành luật khác mà thôi.
Vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật ở trẻ em nói riêng là lĩnh
vực khá phức tạp, bởi lẽ, đây là việc đánh giá hành vi của con người. Sự đánh giá

này không chỉ dựa trên sự tác động của quy luật khách quan mà còn chịu sự ảnh
hưởng của quy luật nhận thức, quan niệm về thẩm mỹ, tôn giáo, văn hoá Đối với
trẻ em, quan niệm về các hành vi vi phạm pháp luật còn gắn liền với quá trình phát
triển về tâm, sinh lý. Do đó, đánh giá về một hành vi vi phạm pháp luật của các em
đòi hỏi phải có sự nhạy cảm đặc biệt, tuỳ từng điều kiện, từng lứa tuổi và từng thời
kỳ lịch sử cụ thể. Điều đáng chú ý ở đây là phải xác định rõ ngưỡng hay nói cách
khác là giới hạn của hành vi được coi là phạm vi phạm pháp luật ở các em. Mặc dù
có nhiều lý thuyết khác nhau, nhiều quan điểm về vấn đề ngưỡng hành vi trái pháp
luật ở trẻ em, song, theo chúng tôi, có thể nói ngưỡng hành vi vi phạm pháp luật
chính là giới hạn mà ở đó hành vi trái pháp luật của các em đã tới mức nguy
hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể và được pháp luật quy định là vi phạm pháp
luật của một ngành luật cụ thể. Những hành vi đó, xét về mặt xã hội là đi ngược
lại với lợi ích của cộng đồng, là những hành vi lệch chuẩn. Nhưng cùng một hành

20
vi, không phải bao giờ cũng bị coi là vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp, ở một
địa điểm nhất định về mặt không gian và ở một thời điểm nhất định về mặt thời gian
lại không bị coi là vi phạm pháp luật và bị trừng phạt. Nhưng cũng có những trường
hợp lại không bị coi là vi phạm và chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở. Như vậy, quan
niệm về ngưỡng hành vi vi phạm pháp luật không phải là bất biến mà có sự thay đổi
theo lịch sử và các nền văn hóa.
Quan niệm về chuẩn mực xã hội, sự sai lệch chuẩn mực xã hội của hành vi
cá nhân, nhóm có liên quan chặt chẽ đến việc đánh giá hành vi vi phạm pháp luật,
nhất là vấn đề xác định ngưỡng hành vi vi phạm pháp luật ở trẻ em. Vấn đề này
không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật mà còn phải dựa trên những quan
điểm về mặt xã hội, văn hoá, truyền thống. Vậy, một hành vi lệch chuẩn của trẻ em
đến giới hạn nào thì bị coi là vi phạm pháp luật. Thậm chí cần làm rõ những hành vi
của các em được coi là những hành vi sai lệch, bởi vì, những hành vi mà các em
thực hiện khác với hành vi của người lớn. Trẻ em luôn được coi là chủ thể chưa
phát triển đầy đủ về mặt nhận thức, thể chất và tâm sinh lý. Do đó, ngưỡng hành vi

vi phạm pháp luật - giới hạn của hành vi được coi là vi phạm pháp luật ở trẻ em
cũng ở mức độ thấp hơn so với người lớn. Khi đánh giá về một hành vi lệch chuẩn,
người ta thường căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi; sự thiệt hại do hành vi
gây ra và chủ thể thực hiện hành vi. Cũng cùng là một hành vi, nhưng nếu hành vi
do trẻ em thực hiện thì thường có cách nhìn nhận nhẹ nhàng và độ lượng hơn.
Ngược lại, nếu hành vi đó do người lớn thực hiện thì lại được coi là hành vi vi phạm
pháp luật, thậm chí là tội phạm. Điều này là do trẻ em chưa phải là những người
phát triển đầy đủ về mặt thể chất và nhận thức nên chưa có ý thức đầy đủ về hành vi
của mình, chưa xác định được ranh giới giữa cái sai lệch với cái bình thường. Quan
niệm về giới hạn của hành vi bị coi là trái pháp luật là khác nhau, thậm chí còn đa
dạng ở mỗi tầng lớp. Bởi vậy, cần phải nâng cao nhận thức pháp luật, những hiểu
biết về tâm sinh lý của trẻ em, từ đó có phương pháp giáo dục và định hướng tốt cho
hành vi ở ở trẻ.
Về bản chất hành vi, nhiều trường hợp trẻ em thực hiện những hành vi vi

21
phạm pháp luật có mức độ táo bạo và nguy hiểm còn cao hơn so với người lớn như:
giết người, hiếp dâm một cách có tổ chức. Song, do trẻ em chưa phát triển đầy đủ
về mặt nhận thức, nên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý đối với
những hành vi của trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em vi phạm pháp luật luôn hướng
tới mục tiêu giáo dục hơn là sự trừng trị đối với những hành vi đó. Bộ luật Hình sự
dành riêng chương X để quy định những nguyên tắc và hình thức xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội. Trong đó, có những nguyên tắc rất cơ bản như:
"việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong
mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm"
i

. Bên cạnh đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các
hình phạt với người chưa thành niên chỉ trong trường hợp thật cần thiết và không
được phạt tù chung thân hoặc tử hình
ii
với người chưa thành niên phạm tội.
Không chỉ có Bộ luật Hình sự mới có những quy định về nguyên tắc, điều
kiện và hình thức xử lý người chưa thành niên phạm tội, mà Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 cũng quy định tại Điều 7 về xử lý người chưa thành
niên vi phạm hành chính:
"Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh
cáo. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng
hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này. Khi
phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá một phần hai mức phạt đối
với người thành niên; trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc
người giám hộ phải nộp thay.
Người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại
khoản 2 Điều 23, khoản 2 Điều 24, điểm b khoản 2 Điều 26 của Pháp lệnh này thì bị
xử lý theo quy định tại các điều khoản đó.
Như vậy, quan điểm chung trong việc xử lý đối với hành vi vi phạm pháp

×