Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Vai trò của gia đình trong giáo dục văn hóa ứng xử cho trẻ em vị thành niên ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 128 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VƢƠNG HOÀNG YẾN








VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
GIÁO DỤC VĂN HOÁ ỨNG XỬ CHO TRẺ EM
VỊ THÀNH NIÊN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:Xã hội học








Hà Nội-2012
2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







VƢƠNG HOÀNG YẾN





VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
GIÁO DỤC VĂN HOÁ ỨNG XỬ CHO TRẺ EM
VỊ THÀNH NIÊN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Kim Thanh



Hà Nội-2012
4

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
5

1. Lý do chọn đề tài
5

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
8

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
8


4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
9

5. Phương pháp nghiên cứu
10

6. Câu hỏi nghiên cứu
12

7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
12

NỘI DUNG
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
14

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận
14
14
5


1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
27

27
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC VĂN
HÓA ỨNG XỬ CHO VỊ THÀNH NIÊN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
37

2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
37

2.2. Thực trạng đạo đức của trẻ vị thành niên ở Hà Nội hiện
nay
38



2.3. Thực trạng hoạt động giáo dục văn hoá ứng xử cho vị
thành niên trong các gia đình ở Hà Nội hiện nay.
44
2.3.1.Nhận thức của gia đình về tầm quan trọng của giáo dục
văn hoá ứng xử cho trẻ em.
44

2.3.2.Những nội dung cơ bản các gia đình quan tâm giáo dục
văn hoá ứng xử cho trẻ em.
60

2.3.3.Các phương pháp gia đình sử dụng trong giáo dục văn
hoá ứng xử cho trẻ em
66
Chương 3

MỘT SỐ NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG TỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
103

3.1. Đặc điểm gia đình
103

3.2. Phương tiện truyền thông
3.3. Văn hoá cộng đồng
3.4. Chính quyền đoàn thể
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
108
111
114
6

DANH MỤC BẢNG

Trang
Bảng2.1:những lỗi mà trẻ em mắc phải(%)
41
Bảng2.2:người trả lời đánh giá về sự thể hiện hành vi đaoh đức trong cuộc
sống hàng ngày của trẻ em so với thế hệ họ trước đây(%)
42
Bảng2.3:lý do giáo dục văn hoá ứng xử trong gia đình là quan trọng(%)
47
Bảng2.4:những khó khăn NTL gặp phải khi giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ
em(%)
56
Bảng2.5:tương quan khu vực khảo sát và ý kiến người trả lời về những khó

khăn gặp phải trong quá trình giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ em(%)
58
Bảng2.6:tương quan mức sống với những nội dung giáo dục tập trung giáo
dục cho trẻ em(%)
61
Bảng2.7:những việc người trả lời thường làm để giáo dục lòng nhân ái cho
trẻ em(%)
65
Bảng2.8:nội dung giáo dục tinh thần tôn sư trọng đạo (%)
67
Bảng2.9: các nội dung giáo dục cách ứng xử đối với người lớn(%)
69
Bảng2.10:Nội dung giáo dục tính trung thực cho trẻ em(%)
72
Bảng2.11:nội dung giáo dục lao động(%)
74
Bảng2.12:nội dung quan tâm, chăm sóc và tôn trọng bố mẹ, ông bà(%)
78
Bảng2.13.:tương quan tuổi và việc xin lỗi trẻ em(%)
87
Bảng2.14:tương quan học vấn và việc xin lỗi trẻ em(%)
88
Bảng2.15:tương quan thu nhận hình thức khen thưởng trẻ em khi có những
hành vi và việc làm tốt(%)
93
Bảng2.16:tương quan học vấn và phương pháp giáo dục của người trả lời khi
trẻ em mắc lỗi(%)
92
Bảng2.17:tương quan giới tính với thời gian dành cho trẻ em(%)
95

Bảng3.1: tương quan trình độ học vấn và việc người trả lời sử dụng để giáo
dục văn hóa ứng xử cho trẻ em(%)
97
Bảng3.2:tương quan số anh chị em trong gia đình và những lỗi trẻ thường
mắc phải(%)
106
Bảng 3.3:phương tiện cập nhật kiến thức giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ em ở Hà
Nội(%)
112


7

DANH MỤC BIỂU


Trang
Biểu2.1:hạnh kiểm của con ông bà trong học kỳ vừa qua(%)
39
Biểu2.2:đánh giá của cha mẹ về giáo dục đạo đức trong gia đình hiện nay(%)
40
Biểu2.3:đánh giá của phụ huynh về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo
đức trong gia đình (%)
46
Biểu2.4:mức độ đồng tình của phụ huynh với thành ngữ “tiên học lễ, hậu học
văn”(%)
50
Biểu2.5:tương quan mức độ đồng tình của phụ huynh với thành ngữ”tiên học
lễ, hậu học văn”(%)
50

Biểu2.6:nhận thức của người trả lời về việc giữ hoà thuận trong gia đình(%)
52
Biểu2.7:trách nhiệm của các thiết chế xã hội trong việc thực hiện chức năng
giáo dục văn hóa ứng xử cho trẻ em(%)
53
Biểu2.8:trách nhiệm của các thiết chế xã hội đối với vấn đề trẻ hư(%)
55
Biểu2.9: các hình thức khen thưởng khi con hoàn thành tốt công việc(%)
90
Biểu2.10: thời gian dành cho trẻ em(%)
96
Biểu3.1:mức độ ảnh hưởng lối sống, cách cư xử của người trả lời trong cuộc
sống hàng ngày đến hành vi đạo đức của trẻ em(%)
107
Biểu3.2:sự thay đổi các giá trị chuẩn mực đạo đức người trả lời dạy trẻ em
hiện nay so với thế hệ họ trước đây(%)
109
Biểu3.3:tương quan giữa hai khu vực khảo sát với ý kiến người trả lời về
mức độ thay đổi những giá trị chuẩn mực đạo đức người trả lời dạy trẻ em
hiện nay so với trước đây(%)
110






8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo được Đảng và nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu.
Mục tiêu giáo dục thời kỳ đổi mới đó là: đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy việc không ngừng nâng cao
trình độ học vấn, khả năng độc lập, sáng tạo, làm chủ khoa học hiện đại kết
hợp với bồi dưỡng văn hoá, đạo đức cho học sinh, sinh viên đặc biệt là văn
hoá ứng xử là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết của giáo dục hiện nay.
Giáo dục nhà trường hay giáo dục gia đình đều nhằm mục tiêu phát
triển toàn diện nhân cách con người về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, sức khoẻ,
lao động nhưng phải luôn thấy “đức” – văn hoá ứng xử là gốc như “cây phải
có gốc, sông phải có nguồn”, đức là cái trước hết, là cái quán triệt trong tất cả:
ý thức – hoạt động – quan hệ. Giáo dục văn hoá ứng xử là bộ phận có tính
chất nền tảng trong giáo dục gia đình, cũng như giáo dục nhà trường.
Ở tuổi Vị thành niên, giáo dục văn hoá ứng xử càng trở nên quan trọng
hơn. Những đặc trưng của tuổi mới lớn, tuổi dậy thì đang bước vào giai đoạn
đột biến về sinh học, về xã hội, đang mở rộng tầm nhìn, khát khao tìm hiểu
muốn tự khẳng định, nhưng đầy mâu thuẫn Đối với gia đình không thể bỏ
qua kinh nghiệm: bé không vin lớn gãy cành Bỏ qua giáo dục của trẻ em lúc
này sẽ không bao giờ “ bổ sung” lại được nhất là về mặt đạo đức.
Ông cha ta có câu: “Gia đình phải có gia giáo - giáo dục đạo đức, phẩm
chất, nhân cách cho con cái; gia lễ - đảm bảo kỷ cương, có thứ bậc, ngôi vị
trong gia đình; gia pháp - những phép tắc, luật lệ, khuôn phép của gia đình để
9

giáo dục con trẻ trong gia đình; gia phong - nề nếp, lề thói mà mỗi người
trong gia đình phải tuân thủ theo hết sức nghiêm ngặt”. Văn hóa ứng xử trong
gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng. Những giá trị đạo đức xã hội

của tư tưởng Nho giáo được cha ông răn dạy, chỉ bảo con cái từ thuở mới lọt
lòng đến khi trưởng thành được thể hiện rất rõ trong ca dao, tục ngữ. Đó là
những bài học ứng xử về hiếu nghĩa, đạo làm con: “Một lòng thờ mẹ, kính
cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”; tình thương yêu anh em ruột thịt:
“Anh em như chân, như tay. Như chim liền cánh, như cây liền cành”, “Em
thuận, anh hòa là nhà có phúc” Thế nhưng kinh tế thị trường cuốn con người
vào vòng xoáy làm kinh tế … cha mẹ, và những người lớn tuổi trong gia đình
ít có thời gian để quan tâm, chăm sóc, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn và cả
những tâm sự riêng tư trong cuộc sống của các thành viên trong gia đình, đặc
biệt là trẻ vị thành niên. Đã có nhiều gia đình bị rạn nứt về chuyện tình cảm,
hôn nhân gia đình không hạnh phúc… Các thành viên trong gia đình không
có sự kính trọng, thương yêu, giúp đỡ, chăm sóc lẫn nhau mà chỉ tình cảm
hoá sự chân thành, tình yêu thương bằng những nghĩa vụ và bổn phận cần
phải thực hiện nên đã vô hình chung tạo ra sự xa cách, lãnh cảm, không có sự
thân mật giữa cha mẹ, ông bà với trẻ như trước đây, đó cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng hiện nay có rất nhiều em nhỏ, trẻ em vị thành niên đã
mắc phải bệnh trầm cảm, nhiều em cảm thấy mình bị lạc lõng và bị bỏ rơi nên
lao vào con đường nghiện game online, các trò chơi điện tử, các tệ nạn xã
hội…với mục đích tìm các cảm giác lạ, tìm các niềm vui mới trong xã hội vốn
đã đầy rẫy sự phức tạp với vô vàn các tác động xấu.
Hơn nữa, thời gian gần đây đã có nhiều gia đình, trong đó cha mẹ
không quan tâm đến việc giáo dục nhân cách cho trẻ em, mà phần lớn đều có
tâm lý chung là chuyển giao nghĩa vụ này cho nhà trường và các thầy cô giáo.
Nhưng nhà trường và các thầy cô giáo chỉ chú trọng đến việc giáo dục và
10

chăm lo đến sự phát triển về tri thức, vì thế việc giáo dục về nhân cách cho trẻ
em và thế hệ học sinh, sinh viên vẫn cần sự quan tâm chăm sóc, chia sẻ, động
viên, giúp đỡ giáo dục nhân cách từ bố mẹ, ông bà, người thân trong gia đình.
Trước tình hình đó đặt ra cho người nghiên cứu hàng loạt câu hỏi như:

gia đình nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục văn hoá ứng xử cho vị
thành niên như thế nào; các nội dung và phương pháp của gia đình trong giáo
dục văn hoá ứng xử đối với vị thành niên hiện nay; các yếu tố ảnh hưởng đến
vai trò của gia đình trong giáo dục văn hoá ứng xử cho vị thành niên; các kiến
nghị để nâng cao hiệu quả vai trò của gia đình trong giáo dục văn hoá ứng xử
cho vị thành niên hiện nay? Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
"Vai trò của gia đình trong giáo dục văn hóa ứng xử cho trẻ em vị thành
niên ở Hà Nội hiện nay" đề nghiên cứu và trả lời các câu hỏi trên.
2. Ý nghĩa luận và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa luận.
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết trong hệ
thống lý thuyết xã hội học như lý thuyết xã hội hoá, lý thuyết vị thế vai trò, lý
thuyết lựa chọn hợp lý.
Kết quả nghiên cứu giúp hình thành quan niệm khoa học khi nhìn nhận
về việc giáo dục trẻ em.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp cho Nhà nước tổ chức định hướng truyền
thông dư luận xã hội về giáo dục văn hoá ứng xử cho vị thành niên.
Kết quả nghiên cứu giúp các gia đình cập nhật thông tin về thực trạng
văn hóa ứng xử của trẻ em, các nội dung, phương pháp cần giáo dục cho các
em trong điều kiện hiện nay.
11

Kết quả nghiên cứu giúp cho các viện nghiên cứu gia đình, các trung
tâm nghiên cứu gia đình trong việc phối hợp đưa ra các nội dung và tiêu chí
mới về giáo dục văn hoá ứng xử cho vị thành niên trong gia đình hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1.Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng vai trò của gia đình trong
giáo dục văn hoá ứng xử cho vị thành niên ở Hà Nội, đề tài đưa ra một số kiến

nghị nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong giáo dục văn hoá ứng xử cho
Vị thành niên
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thao tác hóa khái niệm sử dụng trong nghiên cứu: Vị thành niên, gia
đình, ứng xử, văn hóa, văn hóa ứng xử.
Tìm hiểu thực trạng đạo đức trẻ Vị thành niên ở Hà Nội hiện nay.
Tìm hiểu thực trạng việc giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ em thông qua
nghiên cứu nhận thức, nội dung và phương pháp giáo dục của cha mẹ.
Phân tích các yếu tố tác động đến việc giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ
em trong gia đình.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của gia đình trong giáo dục văn hóa ứng xử cho vị thành niên.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Các phụ huynh (ông, bà, cha, mẹ ) – những gia đình có trẻ VTN ở Hà
Nội hiện nay.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
12

Có nhiều nội dung về giáo dục văn hóa ứng xử như: ứng xử với bản
thân (cách ăn, mặc, đi lại, ngôn từ giao tiếp); ứng xử với môi trường; ứng xử
nơi công cộng; quan hệ ứng xử với bạn bè, đồng nghiệp; quan hệ ứng xử với
thầy, cô giáo; quan hệ ứng xử với người lớn tuổi; quan hệ ứng xử trong gia
đình (cha mẹ, con cái, anh chị em ). Mỗi nội dung có các chuẩn mực đạo
đức, chuẩn mực xã hội khác nhau quy định cách ứng xử của con người. Để
giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ em, cha mẹ cần có nhận thức về những
chuẩn mực đó và lựa chọn những nội dung, phương pháp phù hợp với từng
lứa tuổi. Trong giới hạn luận văn chúng tôi chưa thể phân tích đầy đủ các nội
dung của văn hoá ứng xử, vì vậy chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu của
đề tài như sau:

Giới hạn nhận thức: Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của giáo
dục văn hoá ứng xử cho VTN.
Giới hạn nội dung giáo dục – một số chuẩn mực ứng xử: Lòng hiếu
thảo; lòng nhân ái; kính trọng, biết ơn thầy cô giáo; tôn trọng người lớn tuổi;
sự trung thực; tình yêu lao động.
Giới hạn phương pháp giáo dục: Phương pháp nêu gương, phương pháp
khen thưởng; phương pháp trò chuyện chuyện tâm sự - khuyên bảo nhẹ nhàng.
Không gian nghiên cứu: Quận Ba Đình và huyện Từ Liêm – Thành phố
Hà Nội.
Quận Ba Đình: Trung tâm hành chính - chính trị quốc gia, nơi tập trung
các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ.
Đây còn là trung tâm ngoại giao, đối ngoại. Ba Đình có trụ sở nhiều tổ chức
quốc tế, sứ quán các nước, nơi thường xuyên diễn ra các hội quan trọng của
Nhà nước, quốc tế và khu vực. Là nơi có trình độ dân trí, kinh tế, văn hoá rất
phát triển. Ở đây có quá trình đô thị hoá diễn ra đã lâu; gia đình có thời gian
13

thích ứng với điều kiện mới; tất cả những tác động của nền kinh tế thị trường cả
tốt và xấu mọi thành viên trong gia đình đã có thời gian để tiếp thu và gạn lọc.
Huyện Từ Liêm là khu vực đang trong quá trình đô thị hoá, có sự chuyển
đổi mạnh mẽ của kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại
và dịch vụ. Trong quá trình chuyển đổi ấy xuất hiện nhiều những vấn đề mới nảy
sinh trong gia đình: có sự chuyển đổi nghề nghiệp dẫn đến sự thay đổi cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu lao động; văn hoá chuyển sự văn hoá làng xã sang văn hoá
đô thị; từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp. Vì vậy có sự giao
thoa giữa những chuẩn mực văn hoá cũ và mới, những chuẩn mực văn hoá
của người nông dân từ nhiều đời nay nay chưa mất đi, những chuẩn mực văn
hoá của người dân đôi thị vẫn chưa được định hình rõ nét. Một bộ phận không
nhỏ người dân không thích ứng kịp với những thay đổi đó. Trong khi đó thế hệ
trẻ thường năng động sáng tạo và dễ dàng hoà nhập vào nhịp sống mới

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi lựa chọn hai địa điểm này đại
diện cho những khu vực đã đôi thị hoá và những khu vực đang đô thị hoá ở
Hà Nội để làm rõ một số vấn đề nghiên cứu như: so sánh nhận thức của người
dân về một số giá trị đạo đức của dân tộc đó được đúc kết hàng ngàn năm có
thay đổi không? Họ có gặp những khó khăn gì trong quá trình giáo dục văn
hoá ứng xử cho trẻ em?
Thời gian nghiên cứu: Năm 2012
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định tính
Phân tích tài liệu: Trước khi tiến hành thực địa, áp dụng phương pháp
phân tích tài liệu để tìm hiểu về thực trạng đạo đức của trẻ em ở nước ta nói
chung và ở Hà Nội nói riêng. Kết quả phương pháp này là xác định được tổng
quan của vấn đề nghiên cứu. Mặt khác trên cơ sở phân tích tài liệu này sẽ giúp
14

cho việc nghiên cứu chính xác hơn.
Phỏng vấn sâu: Nhằm thu thập thông tin về vai trò của gia đình trong
giáo dục văn hoá ứng xử cho VTN ở Hà Nội. Từ các cuộc phỏng vấn sâu này
là cơ sở giải thích kết quả các mối quan hệ giữa các biến số thu được qua
nghiên cứu định lượng. Đối tượng phỏng vấn sâu 25 gia đình có con tuổi
VTN ở quận Ba Đình, huyện Từ Liêm.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Phương pháp này thu thập
những thông tin định lượng để đo lường thực trạng vai trò của gia đình trong
giáo dục văn hoá ứng xử cho VTN ở Hà Nội, cuộc khảo sát phát 200 phiếu
cho cha mẹ có con tuổi THCS tại quận Ba Đình và huyện Từ Liêm.
Với khách thể nghiên cứu là cha mẹ thì cơ cấu giới tính như sau:
45,6% là nam và 54,4% là nữ. Như vậy tỷ lệ giới tính trong mẫu khảo sát
phụ nữ nhiều hơn nam giới. Trong đó số gia đình có mức sống giàu có, khá
giả là 15,2%, số gia đình có mức sống trung bình là 75,3%, và số hộ nghèo
là 9,5%. Như vậy phần lớn các gia đình được khảo sát có mức sống trung

bình.
Nghề nghiệp chủ yếu của khách thể nghiên cứu là: cán bộ, viên chức
nhà nước chiếm 32,8%, buôn bán dịch vụ 17,8%, lao động phổ thông 16%,
công nhân 9,8%, không nghề không việc 8,5%, về hưu, già yếu 9,5%, nông
nghiệp 5,6%.
Trình độ học vấn của người trả lời tương đối cao: trình độ THCS trở
xuống chiếm 17,8%, trình độ THPT chiếm 38,2%; TC,CĐ chiếm 16,4%;
ĐH&SĐH chiếm 27,6%.
Về độ tuổi: dưới 40 tuổi 30,4%; từ 40 đến 50 tuổi 52,6%; 50 tuổi trở
lên là 17%. Trong tổng số phụ huynh được hỏi số người có vợ có chồng
chiếm đa số 93,5%, còn lại có gia cảnh goá và li thân, li hôn 6,5%. Số gia
đình 2 thế hệ là 77,8%, số gia đình 3 thế hệ trở lên là 22,2%.
15

6. Câu hỏi nghiên cứu:
- Đạo đức của trẻ em hiện nay như thế nào?
- Các gia đình có giáo dục văn hoá ứng xử cho trẻ em trong gia đình không?
- Nội dung nào trong giáo dục văn hoá ứng xử được gia đình quan tâm?
- Những phương pháp nào được gia đình sử dụng trong giáo dục văn hoá ứng
xử.
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
Một là: Hầu hết các phụ huynh đều nhận thức được vai trò, tầm quan
trọng của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em. Giáo dục con cái trong
gia đình đang chịu tác động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội, đặc
biệt là gia đình khu vực đô thị nơi ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường có
những biểu hiện rõ nét.
Hai là: Những đặc điểm khác biệt về kinh tế, văn hoá, trình độ học vấn,
nghề nghiệp, quan hệ gia đình tạo nên sự khác nhau trong nhận thức, nội dung
và phương pháp giáo dục của các bậc phụ huynh trong gia đình.
Ba là: Ở khu vực đô thị hoá ổn định, tác động mạnh mẽ của nền kinh tế

thị trường làm cho gia đình biến đổi nhanh về cơ cấu, quy mô, thu nhập, mức
sống…, xuất hiện sự không đồng nhất về giá trị chuẩn mực giữa cha mẹ và
con nên các bậc phụ huynh quan tâm tới giáo dục đạo đức cho con cái hơn
khu vực đang trong quá trình đô thị hoá.







16

Khung lý thuyết

























Chương 1



ĐIỀU KIỆN KINH TẾ- XÃ HỘI HÀ NỘI
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
CHÍNH SÁCH VỀ GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC
TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH
Đặc điểm gia
đình
Hệ thống truyền
thông
Văn hoá cộng
đồng
Chính quyền
đoàn thể
Nhận thức của gia đình về giáo dục
văn hóa
Ứng xử cho trẻ em
Hoạt động giáo dục
văn hóa ứng xử cho trẻ em
trong gia đình

Đạo đức của trẻ em
17

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm
Khái niệm văn hoá ứng xử
Ứng xử
Từ lâu vấn đề ứng xử của con người là một phạm trù được nhiều nhà
tâm lý học, xã hội học, sinh học quan tâm. Khẳng định vai trò của ứng xử,
nhà sư phạm người Nga Usinxki đã khẳng định: “sự khéo léo ứng xử về sư
phạm mà nếu không có nó thì các nhà giáo dục học dù giỏi tới mức nào cũng
không bao giờ trở thành nhà thực hành giáo dục tốt, về bản chất không phải
cái gì khác là sự khéo léo đối xử”[74; tr191].
Vấn đề ứng xử đã được nhiều người sử dụng khái niệm kép: giao tiếp -
ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội, con người với gia đình và con người với chính mình.
Dưới góc độ sinh học, các nhà khoa học cho rằng: Ứng xử là toàn thể
phản ứng thích nghi có thể quan sát khách quan mà một cơ chế có một hệ
thống thần kinh thực hiện để đáp trả lại những sự kích thích… Điều đáng chú
ý là những phản ứng ấy, những ứng xử, xử lý để đáp ứng cơ chế kích thích,
tác động “được diễn ra theo cách tương đối ổn định” [23; tr124].
Dưới góc độ tâm lý học: Ứng xử được khai thác dưới hình thức là
những phản ứng của con người trong quan hệ giao tiếp, bản chất của ứng xử
là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi,
cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người xung quanh và yếu tố
bên ngoái tác động vào con người.[10; tr30].
18


Như vậy có nhiều cách hiểu, nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái
niệm ứng xử. Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi tiếp cận và sử dụng khái
niệm ứng xử dưới góc độ xã hội học: ứng xử dùng để chỉ cách hành động như
thế nào đó của một vai trò này đối diện với một vai trò khác và do đó là
những hành động, hoặc là phản ứng theo một cách tương đối. Ứng xử không
chỉ giới hạn giữa các vai trò xã hội với nhau mà còn ứng xử với mình, với tác
động bên ngoài.[12;tr20]
Những ứng xử có vai trò (cá nhân, tập thể, cộng đồng) này từ chỗ mang
tính đơn lẻ dần dần được lựa chọn, tập hợp, đánh giá khái quát hoá để trở
thành khuôn mẫu chung cho những quan hệ ứng xử, tức là nếp ứng xử hay
khuôn mẫu ứng xử hoặc khuôn mẫu văn hoá một khi trở thành khuôn mẫu
mang tính chuẩn mực, xã hội mang tính cộng đồng, nếp ứng xử văn hoá dần
định vị thành văn hoá ứng xử mang tính chuẩn mực cộng đồng xã hội.
Văn hóa
Năm 1871, Edward Burnett Taylo – một nhà dân tộc học, nhân chủng
học người Anh trong tác phẩm “Primitive cultuer (Văn hoá nguyên thuỷ) đưa
ra định nghĩa đầu tiên về văn hoá: Văn hoá là phức thể bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng những khái niệm và
thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đạt được với tư
cách là một thành viên trong xã hội.
Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá, dưới
đây tôi xin trích dẫn một số định nghĩa tiêu biểu về văn hoá của một số nhà
Xã hội học nổi tiếng:
Theo M.Weber, “văn hóa” chính là: “Khuôn mẫu hành vi, sự định
hướng giá trị của con người tiếp thu từ sớm. Nó quy định, điều chỉnh sự
giao tiếp con người với nhau và từ đó tạo cho họ sự an toàn trong thái độ
19

và hành động của mình”.
“Cột trụ của văn hóa là giá trị. Giá trị cơ bản của phương Tây cổ đại

cũng như hiện đại là tư tưởng tự do” (Alfred Weber).
“Văn hóa là hình thái toàn diện của hệ thống thể chế (chính trị, kinh
tế, gia đình, giáo dục, tín ngưỡng và giải trí,…) mà con người cũng có
chung trong xã hội” (J.H Fichter).
“Văn hóa là tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện
sống của nó” (W.Summer).
“Văn hóa là một hệ thống các khuôn mẫu và chuẩn mực được soạn
thảo về hành vi, hoạt động, giao tiếp và tương tác của con người. Nó có
chức năng điều tiết và khống chế trong tập thể lớn.” (T.M.Dridze).
“Văn hóa là cấu trúc có bề sâu, qui định hành vi, điều chỉnh hành động
của con người, Cuộc sống xã hội được phản ánh ở bề mặt, còn tầng dưới là
văn hóa thường tiềm ẩn vào vô thức. Tầng này có sự sắp xếp các qui tắc văn
hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên.” (J.Matser – Giáo sư Xã hội học Đức).
Có thể nhận thấy “văn hóa” dưới góc độ xã hội học có những điểm
cơ bản như sau:
Là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội.
Là một hệ thống hình thái biểu thị giá trị của một xã hội, là cấu trúc
– chức năng xã hội, kỹ thuật, thể chế, các hệ tư tưởng, được hình thành
trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn và truyền
lại cho các thế hệ sau.
Là khuôn mẫu chuẩn mực quy định các hành vi xã hội. Mỗi cá nhân
muốn trở thành con người xã hội phải tiếp thu, tuân thủ theo các chuẩn
mực đó (Về phương diện này có thể coi văn hóa của xã hội là mục tiêu
của quá trình xã hội hóa cá nhân).
20

Văn hoá ứng xử
Từ khái niệm về ứng xử và văn hoá chúng tôi cho rằng con đường để nắm
bắt nội dung và phạm vi của văn hóa ứng xử là tìm hiểu các hành động xã hội
(hành vi ứng xử), cách thức hình thành và định hình các khuôn mẫu ứng xử.

Từ đó phân tích cách thức cách thức kết hợp các khuôn mẫu ứng xử và các
vai trò xã hội của chúng cũng như mối liên hệ qua lại giữa chúng trên cơ sở
những chuẩn mực văn hóa xã hội nhất định. Tổng hòa các khuôn mẫu ứng xử
trên cơ sở các chuẩn mực xã hội được vận hành theo một bảng giá trị nào đó
trong toàn bộ điều kiện xã hội cụ thể.
Khuôn mẫu ứng xử là các hành động ứng phó và xử lý được lặp lại một
cách lâu bền ở đa số cá nhân trong cộng đồng xã hội thuộc các cấp độ khác
nhau từ địa phương nhỏ(làng, xã ) đến vùng, miền theo những chuẩn mực
xã hội nhất định. Nó được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa và hợp thức hóa để
làm mẫu mực chỉ dẫn cho cá nhân và cả cộng đồng xã hội đó.
Khuôn mẫu ứng xử gồm 4 tiêu chí:
 “Sự lặp đi lặp lại của các ứng xử thông thường.
 Ứng xử được đa số người trong cộng đồng thực hiện thống nhất
theo một cách.
 Chuẩn mực xã hội hay quy tắc ứng xử
 ý nghĩa xã hội của ứng xử”[56,tr28]
Khuôn mẫu ứng xử phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên, môi trường
xã hội và môi trường văn hóa.
Khuôn mẫu ứng xử là thể chế hành động (ứng phó và xử lý) của con
người trong môi trường văn hóa lịch sử - cụ thể, cho nên nó được thể hiện
và thực hiện thông qua các chuẩn mực xã hội (tiêu chí, quy ước, quy
21

chế ) và cả những kỹ năng ứng xử. Các chuẩn mực này cơ bản dựa vào
các giá trị văn hóa (luân lý, đạo đức, khoa học, pháp luật, thẩm mỹ )mà
mỗi con người hay cộng đồng tự xác định tin tưởng làm theo; và xã hội
đòi hỏi sự “trở thành” của nhân cách.
Các kỹ năng ứng xử chỉ đạt đến chuẩn mực văn hóa khi chúng được
rèn luyện, bồi dưỡng bởi những tư tưởng, đạo đức, lối sống có văn hóa.
Các kỹ năng này được hình thành chủ yếu thông qua con đường giáo dục.

Tính chất định hướng cơ bản và xuyên suốt của khuôn mẫu ứng xử là
thái độ ứng xử. Thái độ ứng xử với việc lựa chọn, thực hiện khuôn mẫu
ứng xử; thái độ ứng xử trong môi trường thiên nhiên xã hội và văn hóa cụ
thể; thái độ với việc thể hiện thực hiện các kỹ năng ứng xử.
Tóm lại “văn hóa ứng xử là hệ thống các khuôn mẫu ứng xử được thực
hiện ở thái độ, kỹ năng ứng xử của cá nhân và cộng đồng người trong
mối quan hệ với môi trường thiên nhiên, xã hội và bản thân, trên cơ sở
những chuẩn mực văn hóa – xã hội nhất định, để bảo tồn, phát triển cuộc
sống của cá nhân và cộng đồng người nhằm làm cho cuộc sống của cá
nhân và cộng đồng giàu tính người hơn”(56,tr36)
Khái niệm vị thành niên
Thuật ngữ Adolescen được đưa ra vào năm 1904 theo đề xuất của nhà tâm
lý học G.Stanley, nhằm để chỉ một thời kỳ quá độ từ trẻ con chuyển sang người
lớn. Nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hay trưởng thành.
Bộ luật Lao động Việt Nam qui định “người lao động vị thành niên”
(VTN) là người lao động chưa đến 18 tuổi (điều 119, khoản 1).
Năm 1998 trong một tuyên bố chung giữa tổ chức WHO, UNICEF,
UNFPA thống nhất phân loại nam nữ trẻ tuổi thành ba loại như sau: VTN
(adolescen) từ 10 – 19 tuổi; thanh niên (youth) từ 15 – 24 tuổi, người trẻ
22

(young pepole) từ 10 – 24 tuổi.
Một số tài liệu khác lại phân định tuổi VTN theo các nhóm sau: nhóm
VTN sớm (10-14 tuổi); nhóm VTN trung bình (15 – 17 tuổi), vị thành niên
muộn (18- 19 tuổi).
Năm 1996, vụ bảo vệ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hoá gia đình thuộc bộ
Y tế Việt Nam đã đưa ra đề nghị xếp tuổi VTN thành hai nhóm tuổi: nhóm 1
từ 10 – 14 tuổi, nhóm 2 từ 15 – 19 tuổi.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm VTN, nhưng
đều có điểm chung là xác định VTN là những người chưa trưởng thành và cần

có người bảo hộ.
Trong đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu nhóm vị thành niên VTN
sớm (10 – 14 tuổi) - lứa tuổi THCS.
Ở độ tuổi này các em có những đặc điểm tâm, sinh lý sau:
- Tăng trưởng nhanh nhất về thể chất và tinh thần;
- Dễ bị tổn thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn;
- Xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng;
- Dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn;
- Nhiều hoài bão, nhìn chung thiếu thực tế, thiếu kinh nghiệm,
Khái niệm gia đình
Gia đình là một phạm trù xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài
người và đã không ngừng biến đổi cùng với những bước tiến của văn minh
nhân loại. Gia đình là một tế bào cơ sở của xã hội, là thiết chế xã hội đặc thù
luôn vận động biến đổi cùng với bước tiến của nền văn minh nhân loại. Gia
đình là yếu tố năng động vì vậy khái niệm gia đình có nhiều cách biểu đạt
khác nhau.
23

Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845) khi luận chứng cho những
điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của con người, C.Mác và Ph.Ănghen đã đưa
ra nhận định: “Hằng ngày ngoài việc tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người còn tạo ra những cái khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ vợ
chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [75, tr248].
Theo Lê Ngọc Hùng: “gia đình là cấu trúc xã hội dựa trên quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, hoặc những quan hệ thân
thiết khác giữa các cá nhân để cùng chung sống” [34, tr273].
Các nhà nghiên cứu thường quan niệm gia đình là tế bào của xã hội,
“nơi chứa đựng và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, cái nôi giáo dục
nhân cách con người, tính người và tình người, giáo dục hành vi ứng xử văn
hoá của con người”[22, tr25].

Luật hôn và gia đình Việt nam (2000) thừa nhận: “Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh những nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau”
[39, tr 9].
Mặc dù các nhận thức và lý giải chung về khái niệm gia đình có khác
nhau, song phần lớn mọi người vẫn có thể hiểu một cách thông thường rằng gia
đình là một thiết chế xã hội liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc
duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Trong các mối quan hệ, gia đình còn
được coi là của hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng
để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngưỡng ; các
thành viên quan hệ với nhau trên cơ sở định ước, quy định rõ ràng về sự được
phép cấm đoán; có mối liên hệ với nhau về tình cảm, quyền lợi, trách nhiệm và
có những ràng buộc pháp lý được nhà nước thừa nhận, bảo vệ.
Với những đặc trưng cơ bản như vậy, rõ ràng gia đình có vị trí, vai trò
24

đặc biệt quan trọng không chỉ với bản thân mỗi con người mà còn cả với quốc
gia và toàn xã hội.
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm gia đình theo quan
niệm của xã hội học: “Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã
hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân,
quan hệ thuyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt,
trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các
thành viên cũng như để thực hiện tính chất tất yếu của xã hội về tái sản xuất
con người” [21, tr310].
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận
Một lý thuyết không thể cung cấp cho chúng ta đủ cơ sở để phân tích các
vấn đề xã hội vì vậy việc áp dụng nhiều lý thuyết, quan điểm khác nhau cho phù
hợp với tình hình nghiên cứu là điều rất cần thiết. Trong đề tài này tôi sử dụng lý
thuyết xã hội hoá, lý thuyết vai trò xã hội, lý thuyết lựa chọn hợp lý.

Lý thuyết xã hội hoá
“Xã hội hoá” là một phạm trù cơ bản của xã hội học chỉ quá trình các
cá thể tiếp thu học hỏi nền văn hoá xã hội mà anh ta được sinh ra và sống -
tức là lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, học những gì phải làm, những gì
không được làm; học ngôn ngữ, học các chuẩn mực giá trị để thích ứng được
với xã hội …” [69, tr8].
“Xã hội hoá là quá trình trong đó cá nhân học hỏi cách thức hành động
tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho các mô hình hành vi tương
ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân đó phải đóng trong cuộc đời mình”[21,
tr258]
Quá trình xã hội hoá diễn ra đầu tiên ở môi trường xã hội nhỏ là gia
đình - nó thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình. Dần dần đứa trẻ xâm
25

nhập vào môi trường xã hội rộng lớn hơn như nhà trường, các đoàn thể, các tổ
chức xã hội, bạn bè… Con người ngày càng tiếp xúc với nhiều thông tin
phong phú thì nhân cách ngày càng được phát triển và hoàn thiện.
Xã hội hoá cũng cho thấy mối quan hệ cơ bản giữa cá nhân và xã hội.
Một mặt xã hội hoá cho phép cá nhân học hỏi những điều cơ bản từ đời sống
xã hội bằng cách học hỏi từ những người thân trong gia đình và mô phỏng
tấm gương của họ. Mặt khác xã hội hoá cũng cho phép lưu truyền nền văn
hoá xã hội, đảm bảo tính liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khái quát quá trình xã hội hoá cá nhân hay xã hội hoá trẻ em từ giai
đoạn ấu thơ đến lúc trưởng thành bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, giúp cá nhân tiếp thu kinh nghiệm xã hội mà chủ yếu những
kinh nghiệm được hình thành trong mối quan hệ giữa con người với con
người trong đời sống gia đình. Từ đó chuẩn bị tiếp thu những kinh nghiệm
ngoài xã hội.
Thứ hai, giúp cá nhân nắm vững các chuẩn mực, giá trị xã hội. Đó là
những chuẩn mực xã hội được tiếp nhận qua lăng kính gia đình, những chuẩn

mực của nhóm tâm lý gia đình tạo ra thành mô hình hoạt động và tiêu chuẩn
hành vi trong gia đình.
Thứ ba, giúp cho cá nhân tiếp thu các chuẩn mực ngoài xã hội. Qua lăng
kính gia đình, một hệ giá trị được tiếp nhận để hình thành một tiểu văn hoá gia
đình. Vấn đề ở đây là cần phải đạt được sự thích nghi và điều chỉnh sao cho cá
nhân ra ngoài xã hội không bị bỡ ngỡ, lạc hậu.
Thứ tư, xã hội hoá giúp các cá nhân chuẩn bị đảm nhiệm vai trò xã hội.
Bằng việc đảm nhiệm các vai trò trong gia đình (người con, người cháu, người
em…). Cá nhân dần dần làm quen và đảm nhận tốt các vai trò khi thâm nhập vào
đời sống xã hội (vai trò người bạn, người học sinh, sinh viên, vai trò công dân…)
26

Tóm lại, xã hội hoá là một chức năng then chốt của gia đình, có vai trò
không thể thay thế trong việc biến một cá nhân từ một thực thể tự nhiên thành
con người xã hội. Nó góp phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển và
hoàn thiện nhân cách của con người.
Xã hội hoá trẻ em được thực hiện bằng cách nào? khó có thể đưa ra
được câu trả lời một cách toàn diện giúp giải thích bản chất của quá trình này.
sự phân tích bốn yếu tố tâm lý: sự bắt chước, sự đồng nhất, lòng biết lỗi và lòng
xấu hổ giúp nhận diện quá trình xã hội hoá trẻ em rõ nét hơn.
Bắt chước là sự làm theo một cách có nhận thức của đứa trẻ. Trẻ sao
chép lại mẫu hành vi nhất định của bố mẹ và những người xung quanh.
Sự đồng nhất là phương pháp lĩnh hội hành vi cha mẹ của trẻ em,
những mục đích, giá trị như là của riêng mình. Trẻ em tiếp nhận những đặc
điểm nhân cách của bố mẹ và những người mà chúng gắn bóthân thiết.
Sự xấu hổ xảy ra khi trẻ có hành vi sai lệch bị mọi người bắt gặp và trẻ
có cảm giác việc làm của mình là sai trái
Lòng biết lỗi gắn liền với những dằn vặt nhưng ở đây nói về sự tự trừng
phạt về hành vi sai lệch của chính bản thân mình, không phụ thuộc vào người
khác. Cũng như sự bắt chước và sự đồng nhất, cảm giác xấu hổ và sự ăn năn

hối lỗi là những cơ chế, những “bộ máy” tâm lý có tác dụng điều chỉnh quá
trình học hỏi kinh nghiệm sống của trẻ em tức là quá trình xã hội hoá trẻ em.
Tiếp cận lý thuyết xã hội hoá trong nghiên cứu Vai trò của gia đình
trong giáo dục văn hoá ứng xử cho vị thành niên ở Hà Nội hiện nay cho ta
thấy gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên rất quan trọng đối với trẻ em.
Đó là cách ứng xử của các thành viên trong gia đình đối với người thân, bạn
bè, những người xung quanh, ảnh hưởng như thế nào nhận thức, thái độ và
hành vi của trẻ và ngược lại cách ứng xử của trẻ cũng có tác động không nhỏ

×