Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình (Khảo sát phóng sự ngắn trong chương trình thời sự 19h của VTV1 từ tháng 1 -2007 đến tháng 6-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.82 KB, 118 trang )



Đại học quốc gia Hà Nội
Tr-ờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa Báo chí & Truyền thông
//





Trần Văn Long



Kết cấu phóng sự ngắn
truyền hình
( Khảo sát phóng sự ngắn trong ch-ơng trình thời sự 19h của
VTV1 từ tháng 1/ 2007 đến tháng 6/2008)

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số 60 32 01

Luận văn thạc sỹ khoa học báo chí





Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TSKH. Đinh Thuý Hằng





Hà Nội 2008

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………….1

Chương 1 : NHẬN DIỆN PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH………8
1.1. Phóng sự và phóng sự truyền hình .……………………….… 8
1.1.1. Phóng sự….………………………………………………………8
1.1.2. Phóng sự truyền hình …… …………………………………….11
1.2. Phóng sự ngắn truyền hình trên sóng truyền hình Việt Nam 16
1.2.1. Sự ra đời của phóng sự ngắn truyền hình trên sóng
truyền hình Việt Nam……… ………………….…………… 16
1.2.2. Các quan niệm về phóng sự ngắn truyền hình………………… 18
1.2.3. Đặc trưng phóng sự ngắn truyền hình………… ………… … 21
1.2.4. Vị trí của phóng sự ngắn trong hoạt động sáng tạo truyền hình
trên sóng truyền hình Việt Nam ………….……………………34

Chương 2: KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH ….40
2.1.Kết cấu hình thức của phóng sự ngắn truyền hình……… … 41
2.1.1. Kết cấu tuyến tính.………………………….…………… … 42
2.1.2.Kết cấu theo kiểu “lấy điểm để nói diện”.…….………… ……47
2.1.3.Kết cấu theo kiểu diễn giải vấn đề.……………….……….……52
2.1.4. Kết cấu song hành……………….……………….……… … 56
2.2. Kết cấu nội dung của phóng sự ngắn truyền hình…… …62

2.2.1 Đề tài ……………………………………………………… …62
2.2.2. Sự kiện ………………………………………………….……66
2.2.3. Chi tiết…………………………………………………… …71
2.2.4. Quan điểm tư tưởng …………………….……………… 76

Chương 3 : ỨNG DỤNG PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỂ LOẠI 85
3.1. Ứng dụng phóng sự ngắn trong chương trình Thời sự trên
VTV1 ………………………………………………………….……84
3.1.1. Thành công ………………………………………… …….84
3.1.2. Hạn chế……….…………………………………………………… 92
3.2 Xu hướng báo chí tác động tới chất lượng phóng sự ngắn
truyền hình…… …………………………………………… 97
3.2.1. Xu hướng co ngắn về dung lượng tác phẩm………….……… 98
3.2.2. Xu hướng đan xen hoà trộn giữa các thể loại báo chí……… 98
3.3.Giải pháp nâng cao chất lượng phóng sự ngắn truyền hình 99
3.3.1 Về mặt lý luận……………………………………………… 99
3.3.2 Về mặt đội ngũ …………………………………………… …101
3.3.3 Về mặt cơ chế ………………………………………… … …103

KẾT LUẬN……………………………………………………… 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………… 108
PHỤ LỤC ……………………………………………………….…113



1

PHẦN MỞ ĐẦU


1 - Tính cấp thiết của đề tài
Phóng sự ngắn truyền hình là dạng thể loại đang được sử dụng khá phổ
biến trên sóng truyền hình trong và ngoài nước. Với ưu thế ngắn gọn, thông
tin trực diện, phóng sự ngắn là công cụ quan trọng của những người làm
truyền hình trong việc phản ánh phân tích mổ xẻ sự kiện vấn đề. Cũng vì lý
do này mà phóng sự ngắn được sử dụng khá hiệu quả trong các chương trình
tin tức thời sự. Hiện tại trung bình Chương trình Thời sự 19 giờ của Đài
Truyền hình Việt Nam sử dụng từ 5-6 phóng sự ngắn, chiếm chừng một nửa
lượng tin bài thời sự trong nước. Qua khảo sát của tác giả tại một số đài
truyền hình địa phương như Hà Nội, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, thời lượng
dành cho phóng sự ngắn trong một chương trình thời sự cũng chiếm từ 40 –
50%. Có thể khẳng định: phóng sự ngắn đã góp phần làm thay đổi diện mạo
các chương trình thời sự truyền hình.
Tại các kỳ liên hoan truyền hình toàn quốc ( sân chơi nghiệp vụ lớn nhất
dành cho người làm truyền hình trong cả nước), số lượng phóng sự ngắn
luôn chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng số tác phẩm dự thi. Không những vậy,
số lượng phóng sự ngắn tham dự kỳ Liên hoan sau bao giờ cũng cao hơn kỳ
Liên hoan trước. Ví dụ Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 21 (năm
2002) có 538 tác phẩm thuộc 8 thể loại dự thi thì phóng sự ngắn đã lên tới
149 tác phẩm, cao hơn hẵn thể loại phóng sự (123 tác phẩm), phim tài liệu
(62 tác phẩm); liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 22 (năm 2003) có
150 tác phẩm phóng sự ngắn trong tổng số 548 tác phẩm dự thi; liên hoan
Truyền hình toàn quốc lần thứ 25 (năm 2006) có 160 phóng sự ngắn trong
tổng số 635 tác phẩm dự thi; liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 27
(năm 2008) có 212 tác phẩm phóng sự ngắn trong tổng số 742 tác phẩm dự

2
thi. Tác giả Quang Ninh trong một bài viết đăng trên báo Truyền hình số ra
ngày 17/1/2001 đưa ra lời nhận xét về vị trí của phóng sự ngắn tại Liên hoan
truyền hình toàn quốc lần thứ 20 như sau: “ trái với quan niệm lâu nay về

sức hấp dẫn của các chương trình tuyền hình, vượt qua cả phim truyện và
phim ca nhạc, phóng sự ngắn đã thu hút được sự chú ý của người xem nhiều
nhất” [ 37].
Phóng sự ngắn đang ngày càng khẳng định vai trò xung kích trong các
chương trình thời sự, thế nhưng ở góc độ lý luận lại còn rất thiếu những
công trình nghiên cứu công phu, đầy đủ. Còn nhiều ý kiến tranh luận về tên
gọi, dấu hiệu đặc trưng cũng như vị trí của dạng thể loại sinh động, hiệu quả
này. Trong cách sử dụng của các đài truyền hình nước ngoài, phóng sự ngắn
được xác định như là một dạng của tin, còn trong quan niệm của những
người làm truyền hình ở Việt Nam phóng sự ngắn lại được xem là một dạng
của phóng sự. Điều này giải thích vì sao phóng sự ngắn rất ít khi trở thành
đối tượng nghiên cứu độc lập. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu để rút ra
những đặc điểm tương đồng về kết cấu hình thức cũng như kết cấu nội dung,
từ đó đề xuất những căn cứ khoa học cho công việc sáng tạo tác phẩm là
chưa có. Người làm nghề chủ yếu tự đúc rút kinh nghiệm từ chính hoạt động
thực tiễn hoặc tiếp thu kinh nghiệm từ các đài truyền hình nước ngoài. Hệ
quả tất yếu là chất lượng phóng sự ngắn trên sóng không đều. Nhiều phóng
sự ngắn bộc lộ sai sót hoặc không phát huy được những thế mạnh vốn có.
Trong khi đó trước yêu cầu ngày càng khắt khe của công chúng và trước sự
cạnh tranh quyết liệt của các loại hình truyền thông, hoạt động sáng tạo
truyền hình nói chung, sáng tạo phóng sự ngắn truyền hình nói riêng đang
thường xuyên phải đối diện với áp lực đổi mới. Một trong những giải pháp
đổi mới đó là phải tiếp tục hoàn thiện về mặt lý luận, xác định lý luận là cơ
sở cho hoạt động sáng tạo.

3
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “ Kết
cấu phóng sự ngắn truyền hình” với mong muốn vừa khái quát thực tiễn vừa
xây dựng những căn cứ khoa học cho hoạt động sáng tạo thực tiễn.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khi các thể loại báo chí truyền hình như phóng sự truyền hình, tin
truyền hình, phỏng vấn trên truyền hình… được nghiên cứu khá kỹ lưỡng thì
số công trình nghiên cứu về phóng sự ngắn lại còn hết sức khiêm tốn. Cho
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách bài
bản công phu về phóng sự ngắn truyền hình. Phóng sự ngắn thường chỉ được
đề cập đến một cách gián tiếp khi các tác giả nghiên cứu một số thể loại
khác như phóng sự truyền hình hoặc tin truyền hình. Chẵng hạn trong tác
phẩm Phóng sự truyền hình (NXB Thông tấn 2003), nhóm tác giả Brigitte
Besse, Didier Desormeaux đã chỉ ra cách lựa chọn góc độ tiếp cận vấn đề
đối với những phóng sự có thời lượng chưa đầy 2 phút và những phóng sự
có thời lượng từ 2 đến 4 phút. Nhóm tác giả cũng xây dựng công thức chung
của phóng sự “một phút 30 giây” (còn gọi là phóng sự một ba mươi) là:
“một chủ đề = một phóng sự = một phút 30 giây hình ảnh âm thanh” [ 4, tr.
60]. Đây là những dạng phóng sự được sử dụng phổ biến trong chương trình
thời sự với các đặc điểm tương đồng đặc điểm phóng sự ngắn.
Công trình được xem là đã đề cập đến những nét cơ bản và những thủ
thuật sáng tạo phóng sự ngắn rõ nhất là cuốn: “Sổ tay phóng viên, Tin-
Phóng sự truyền hình” của Neil Everton do Quỹ Reuters xuất bản năm 1999
( Lê Phong dịch, Trần Bình Minh hiệu đính). Mặc dù tác giả không trực tiếp
gọi tên đối tượng nghiên cứu là phóng sự ngắn hay phóng sự thời sự nhưng
nội dung được đề cập đều hướng tới phóng sự trong chương trình thời sự.
Tác phẩm chỉ ra được những kinh nghiệm và nguyên tắc khi thực hiện một

4
tác phẩm phóng sự sử dụng trong chương trình thời sự như nguyên tắc về
ghi hình, dựng hình, phỏng vấn, thể hiện lời bình…
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu phóng sự ngắn còn có thể kể ra
những bài báo của các nhà nghiên cứu hoặc những người làm truyền hình
đăng tải rải rác trên các báo, tạp chí, các website điện tử Mỗi bài báo chỉ

có thể đưa ra một góc nhìn, một cách đánh giá cụ thể và phụ thuộc nhiều vào
quan điểm cá nhân, do vậy thường chỉ mang ý nghĩa tham khảo về mặt khoa
học.
Gần đây sinh viên và học viên cao học tại một số cơ sở đào tạo báo chí như
Học viện báo chí và tuyên truyền, Khoa Báo chí – Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)…đã chọn phóng sự ngắn làm
đối tượng nghiên cứu cho khoá luận hoặc luận văn tốt nghiệp. Mỗi luận văn
xác định một hướng nghiên cứu riêng như tính độc đáo của phóng sự ngắn,
nhận dạng phóng sự ngắn, vai trò xung kích của phóng sự ngắn… qua đó có
những đóng góp thiết thực vào hệ thống lý luận. Tuy nhiên ở góc độ kết cấu
phóng sự ngắn lại chưa có bất cứ một công trình nghiên cứu nào.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và đề xuất các dạng kết cấu về hình
thức và nội dung của phóng sự ngắn truyền hình. Qua đó luận văn gợi mở
những nguyên tắc sáng tạo trong hoạt động sáng tạo tác phẩm phóng sự ngắn
truyền hình.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích những dấu hiệu đặc trưng như thời lượng, lời dẫn, hình ảnh,
âm thanh, phỏng vấn, dẫn hiện trường…để nhận diện phóng sự ngắn truyền
hình trong chương trình Thời sự 19h của VTV1.

5
+ Vận dụng lý luận kết cấu tác phẩm báo chí vào thực tiễn sáng tạo tác
phẩm phóng sự ngắn trong chương trình thời sự 19h của VTV1, luận văn đề
cập tới các dạng kết cấu về hình thức cũng như kết cấu về nội dung phóng sự
ngắn.
+ Đánh giá vị trí của phóng sự ngắn trong các chương trình truyền hình,
đặc biệt là trong chương trình thời sự, từ đó đề xuất những giải pháp nâng

cao chất lượng phóng sự ngắn.
- Phạm vi nghiên cứu
Nếu căn cứ vào tiêu chí thời lượng thì trong thực tế những phóng sự có
thời lượng dưới 5 phút được sử dụng khá phổ biến trong rất nhiều chương
trình truyền hình. Tuy nhiên không phải phóng sự nào dưới 5 phút cũng là
phóng sự ngắn bởi “ngắn” ở đây không có nghĩa là sự rút ngắn cơ học mà
phải là sự rút ngắn sáng tạo. Nói cách khác ngoài yếu tố thời lượng, một
phóng sự ngắn đúng nghĩa còn phải hội tụ nhiều dấu hiệu đặc trưng khác.
Theo tác giả, phóng sự ngắn hội tụ được đầy đủ các yếu tố đặc trưng nhất là
những phóng sự sử dụng trong chương trình thời sự.
Hiện tại trên VTV1 có 6 chương trình thời sự tổng hợp nhưng chương
trình được đầu tư công phu nhất, có độ chọn lọc thông tin cao nhất là
chương trình thời sự 19 giờ. Chương trình thời sự 19 giờ có tổng thời lượng
45 phút, trong đó 32 phút giành cho tin tức trong nước. Đây là chương trình
được nhiều người xem nhất vì phát vào thời điểm công chúng có khả năng
tiếp nhận lớn nhất (giờ vàng). Do vậy các phóng sự ngắn sử dụng trong
chương trình thời sự 19 giờ, về nguyên tắc phải là những phóng sự tốt nhất.
Xuất phát từ nhận thức nói trên, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là
các phóng sự ngắn sử dụng trong chương trình thời sự 19 giờ trên VTV1-
Đài Truyền hình Việt Nam. Thời gian khảo sát là từ tháng 1 năm 2007 cho
đến tháng 6/2008.

6

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vừa là thế giới quan,
vừa là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu. Việc nghiên cứu còn

phải dựa trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về báo chí.
Đề tài luận văn kế thừa và phát huy sáng tạo thành quả nghiên cứu từ các
công trình lý luận cơ sở về báo chí như lý luận báo chí truyền thông, lý luận
báo chí truyền hình, lý luận về hoạt động sáng tạo tác phẩm truyền hình, lý
luận về phóng sự truyền hình…
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê… Do hoạt động sáng
tạo phóng sự ngắn trong thực tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm
cá nhân nên tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập ý
kiến, quan điểm, kinh nghiệm nghề nghiệp từ các nhà báo, các phóng viên
truyền hình. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu.

5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở nhận diện đặc thù thể loại, đề tài tập trung phân tích sâu kết cấu
phóng sự ngắn truyền hình. Qua đó đề xuất các dạng kết cấu phổ biến về
hình thức và nội dung, góp phần hình thành cơ sở khoa học cho hoạt động
nghiên cứu và sáng tạo phóng sự ngắn truyền hình.

7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
Bằng việc phân tích và đề xuất các dạng kết cấu của phóng sự ngắn truyền
hình, tác giả hy vọng luận văn sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống công trình
nghiên cứu về phóng sự truyền hình nói chung và phóng sự ngắn nói riêng.
Đây là sự nối tiếp cho hoạt động nghiên cứu phóng sự ngắn truyền hình
đồng thời là cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu tiếp theo ở những

góc độ mới mẻ hơn.
- Ý nghĩa thực tiễn
Bằng việc chỉ ra dấu hiệu đặc thù và những dạng kết cấu về hình thức lẫn
nội dung của phóng sự ngắn, tác giả hy vọng luận văn sẽ cung cấp thêm
những cơ sở khoa học cho hoạt động thực tiễn. Người làm phóng sự ngắn sẽ
có thêm những nguyên tắc trong phát hiện đề tài, sự kiện, chi tiết, trong việc
biểu thị quan điểm tư tưởng cũng như xây dựng kết cấu cho tác phẩm. Ngoài
ra luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, hoạt động quản lý, biên tập, tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình…
Riêng đối với cá nhân tác giả, đề tài nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc trang bị cách nhìn, cách làm phóng sự ngắn,
phục vụ thiết thực cho công việc thời sự ở một đài truyền hình địa phương.

7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm 108 trang. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung
chính của luận văn bao gồm ba chương:
- Chương 1 : Nhận diện phóng sự ngắn truyền hình
- Chương 2: Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình

8
- Chương 3: Ứng dụng phóng sự ngắn truyền hình và giải pháp nâng cao
chất lượng thể loại


Chương 1
NHẬN DIỆN PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH

1.1. Phóng sự và phóng sự truyền hình
1.1.1. Phóng sự

Thuật ngữ phóng sự tiếng Pháp là Reportage, tiếng Anh là Report. Hai từ
này có nguồn gốc từ tiếng La tinh là Reporto, có nghĩa là truyền đạt, báo tin,
thông báo. Theo một số nhà nghiên cứu về báo chí truyền thông thì thể loại
phóng sự ra đời đầu tiên ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với những
thành tựu trong tiến trình đấu tranh vì tự do báo chí và sự phát triển vượt bậc
của các tư tưởng dân chủ tiến bộ. Giáo sư Tiến sỹ Karel Storkan ( khoa Báo
chí trường Đại học Sáclơ - Cộng hoá Séc ) cho rằng phóng sự xuất hiện đầu
tiên là ở nước Pháp vào cuối thế kỷ XIX khi trên tờ Tin tức văn học lúc bấy
giờ mở chuyên mục phóng sự với sự tham gia của những nhà văn có tiếng
như Jean Cocteau, Georges Girard, Angdre Maurois… Cũng có ý kiến cho
là phóng sự xuất hiện đầu tiên ở Anh, ở Mỹ, ở Nga… Tuy nhiên có một thực
tế là vào đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất
(1914 -1918), thể loại phóng sự mới được sử dụng rộng rãi trên mặt báo, với
nhiều cách viết sinh động. Phóng sự không chỉ dừng ở việc đưa lại sự kiện
mà còn đi sâu phân tích sự kiện bằng cách đưa ra các ý kiến khác nhau do
phóng viên phỏng vấn. Tại một số nền báo chí đã xuất hiện những thiên
phóng sự mang tầm vóc thời đại như “Mười ngày rung chuyển thế giới” (

9
John Reed), “Viết dưới giá treo cổ” ( Julius Fucik), “Qua dãy núi Alper”
(Richard Halliburton)…
Ở Việt Nam cùng với sự du nhập của văn minh phương Tây theo bước
chân quân xâm lược Pháp, báo chí Tiếng Việt và Tiếng Pháp đã xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thể loại phóng sự được biết đến trên
mặt báo vào đầu thế kỷ XX khi báo chí Tiếng Việt bắt đầu có sự “bừng nở”
cả về số lượng đầu báo lẫn phong cách làm báo. Các phóng sự đề cập đến
nhiều mặt trong đời sống, đặc biệt phát huy thế mạnh khi đi vào những góc
khuất, những mặt trái của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Nhiều cây bút
phóng sự tài năng được khẳng định như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam
Lang, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp… nhiều thiên phóng sự nổi danh xuất

hiện như “Tôi kéo xe”, “Cơm thầy cơm cô”, “Kỹ nghệ lấy tây”, “Việc làng”,
“Ngoại ô”, “Hà Nội lầm than”…
Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể và xu thế phát triển khác nhau của từng nền
báo chí nên trong thực tế đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về phóng
sự. Người Đức - những người nổi tiếng về tính chính xác và logic trong tư
duy thì coi phóng sự đơn giản chỉ là " sự đưa tin". Họ luôn hướng tới yếu tố
xác thực và ngắn gọn khi trình bày sự kiện. Người Pháp - những người hài
hước và tế nhị coi phóng sự là điều tra, là khám phá những mới mẻ hấp dẫn
của sự việc. Còn người Mỹ - những người nổi tiếng thực dụng lại đưa ra tiêu
chí phóng sự ở góc độ mô tả, tường thuật. Trong cuốn " Người phóng viên
toàn năng", các tác giả Tennesse và Jolian Narit cho rằng: " phóng sự là một
bài tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có tính
văn học". [41, tr.37]. TS Đức Dũng trong tác phẩm “ Phóng sự báo chí hiện
đại” định nghĩa: “ phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả
năng trình bày diễn tả những sự kiện con người tình huống điển hình trong
một quá trình phát sinh phát triển, đồng thời thẩm định hiện thực đó thông

10
qua cái tôi trần thuật vừa tỉnh táo lý trí, vừa cảm xúc với với một bút pháp
giàu chất văn học”[12, tr.27]. Theo PGS.TS Dương Xuân Sơn ( trong tác
phẩm: Thể loại báo chí chính luận nghệ thuật) thì “phóng sự là một thể loại
báo chí, phản ánh những sự kiện, sự việc, vấn đề đang diễn ra trong hiện
thực khách quan có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều
người bằng phương pháp miêu tả hay tự thuật, kết hợp nghị luận ở mức độ
nhất định. Trong phóng sự cái tôi trần thuật - nhân chứng khách quan rất
quan trọng”.[41, tr.41]
Qua các ý kiến trên đây có thể thấy thể loại phóng sự là một thể loại năng
động đa dạng có nhiều sự vận dụng trong thực tiễn. Những đặc điểm nổi bật
của phóng sự đó là phản ánh sự kiện hiện tượng con người trong quá trình
vận động biện chứng, sử dụng ngôn ngữ bút pháp linh hoạt uyển chuyển, thể

hiện vai trò tích cực của cái tôi cá nhân trong việc quan sát phân tích mổ xẻ
sự kiện hiện tượng.
Ngày nay phóng sự được đánh giá là thể loại “ xương sống” của các loại
hình báo chí. Sở dĩ như vậy bởi phóng sự là thể loại xuất hiện thường xuyên
trên mặt báo, chiếm lượng thông tin quan trọng trong cơ cấu thông tin của tờ
báo. Đấy có thể là phóng sự sự kiện, phóng sự vấn đề, phóng sự điều tra,
phóng sự chân dung, phóng sự về hoàn cảnh hiện trạng ( theo cách chia dựa
trên cơ sở đối tượng phản ánh của TS Đức Dũng); có thể là phóng sự kinh
tế, phóng sự chính trị xã hội, phóng sự miền đất lạ…( theo cách chia dựa
trên tiêu chí nội dung của TS Nguyễn Thị Thoa). Hiếm có tờ báo nào lại
không sử dụng thể loại phóng sự như một công cụ đắc lực và hiệu quả trong
việc phân tích, phản ánh sự kiện. Thế mạnh của phóng sự là kết hợp nhuần
nhuyễn giữa việc mô tả với phân tích đánh giá, kết hợp vai trò năng động
của cái tôi trần thuật với bút pháp linh hoạt, phóng túng. Do vậy phóng sự có

11
khả năng quyết định bản sắc diện mạo của từng tờ báo, tạo dựng uy tín nghề
nghiệp cho từng nhà báo.

1.1.2.Phóng sự truyền hình
- Quá trình hình thành và phát triển của phóng sự truyền hình.
Thuật ngữ truyền hình Television có nguồn gốc từ hai từ ghép của tiếng
La Tinh và Hi Lạp: “tele” nghĩa là xa và “vedre” nghĩa là xem, “televedre”
nghĩa là xem ở xa.
Sự xuất hiện của truyền hình gắn liền với hàng loạt phát minh khoa học vào
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Theo tác giả Nhật An trong tác tác phẩm
“Đường vào nghề phát thanh truyền hình” thì năm 1927 là năm đánh dấu
mốc quan trọng của lịch sử ngành truyền hình thế giới. Lần đầu tiên một
chương trình truyền hình giữa New York và Washington (Mỹ) được dàn
dựng đồng thời phát sóng với quy mô lớn. Năm 1935 nước Pháp lắp đặt giàn

ăng-ten trên đỉnh tháp Effel, chính thức phát sóng truyền hình. Năm 1936
một công ty truyền thông ở Anh xây dựng đài truyền hình trên cung điện
Alisanta với thời lượng phát sóng 2 giờ mỗi ngày. Cũng trong năm 1936
nước Đức tổ chức truyền hình trực tiếp thế vận hội Olympic khai mạc tại
Berlin. Việc phát sóng truyền hình qua hệ thống điện bắt đầu được áp dụng
vào năm 1936 tại Mỹ và Anh, năm 1938 tại Liên Xô, Pháp, Đức, Italia. Năm
1954 có truyền hình màu. Vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX tín hiệu truyền hình
được chuyển tải qua vệ tinh nhân tạo đến với nhiều quốc gia, tiếp đó là sự ra
đời của truyền hình cáp và ngày nay có thêm truyền hình kỹ thuật số, truyền
hình qua Internet Có thể nói cùng với thời gian, truyền hình đã tạo được
những bước tiến khổng lồ về kỹ thuật, công nghệ đồng thời tham gia mạnh
mẽ vào các hoạt động của đời sống, trở thành kênh truyền thông đại chúng
đầy ưu thế. Theo đánh giá của độc giả tuần báo Times (Anh): vô tuyến

12
truyền hình là một trong 10 phát minh quan trọng nhất của nhân loại trong
thế kỷ XX .
Như vậy phải đến đầu thế kỷ XX truyền hình mới chính thức ra đời với tư
cách là phương tiện truyền thông đại chúng và đương nhiên kéo theo sự ra
đời của các thể loại báo chí truyền hình, trong đó có phóng sự truyền hình.
Tuy nhiên theo cách lập luận của các tác giả Cudơnhétxốp, Xvích, Iurốpxki (
trong tác phẩm Báo chí truyền hình) thì điện ảnh là tiền thân trực tiếp của
truyền hình và trong thời kỳ đầu quan niệm cũng như cách làm một số tác
phẩm điện ảnh đã khá giống với thể loại phóng sự xuất hiện phổ biến trên
truyền hình về sau. Có thể thấy rõ mối liên hệ này qua các thước phim thời
sự như Tàu vào ga Lixiôta của anh em nhà Luymier ( Pháp), Tinh thần Saint
Louis của anh em nhà William Fox ( Mỹ), Ca sỹ nhạc Jazz của anh em nhà
Warner (Mỹ) Sở dĩ có thể gọi những tác phẩm điện ảnh này gần với phóng
sự truyền hình bởi phương châm phản ánh cuộc sống như nó vốn có.
Theo giới nghiên cứu thì phóng sự truyền hình đúng nghĩa đầu tiên là

phóng sự do Hãng Phát thanh và Truyền hình Anh quốc BBC thực hiện vào
năm 1937 khi nhà vua George VI đăng quang. Các tác giả Cudơnhetxốp,
Xvích, Iurôpxki trong tác phẩm Báo chí truyền hình cho rằng hình thức thứ
nhất hay hình thức ban đầu của phóng sự truyền hình là phóng sự không
bình luận (còn gọi là phóng sự truyền hình sự kiện). Hình thức này dựa trên
cơ sở truyền hình trực tiếp sự kiện. Đó là những sự kiện chính trị xã hội hoặc
sự kiện văn hoá quan trọng nhất mà khán giả quan tâm đến việc đang diễn
ra. Thời kỳ đầu các sự kiện được truyền trực tiếp thường là những cuộc họp
có ý nghĩa nền tảng mà các cơ quan lập pháp tối cao của đất nước tổ chức,
các cuộc họp báo từ các nhà hoạt động nhà nước… Phóng sự do hãng BBC
thực hiện về lễ đăng quang của vua George VI chính là phóng sự truyền trực
tiếp, không bình luận. Khác với phóng sự không bình luận, trong loại hình

13
phóng sự có bình luận xuất hiện sau đó, bên cạnh người quay phim, đạo
diễn, các chuyên gia âm thanh thì phóng viên làm phóng sự trở thành nhân
vật hành động. Phóng viên là “hướng dẫn viên” của khán giả truyền hình, là
người dùng lời nói sinh động, thái độ biểu cảm, giúp khán giả hiểu thực chất
sự việc diễn biến trên màn ảnh. Phóng sự không bình luận và phóng sự có
bình luận đều dựa trên cơ sở truyền trực tiếp sự kiện. Những phóng sự ghi
lại sự kiện chỉ xuất hiện khi ra đời băng từ và kỹ thuật ghi băng. Bên cạnh
phóng sự truyền trực tiếp, phóng sự ghi lại sự kiện tạo ra những thay đổi
không chỉ về cách làm mà cả về cách quan niệm thể loại.
Ở Việt Nam phải đến tháng 9/1970 mới bắt đầu có truyền hình. Tuy nhiên
thể loại phóng sự truyền hình đã hình thành manh nha trước đó với sự xuất
hiện các thước phim thời sự tài liệu của điện ảnh cách mạng. Một số bộ
phim như Trận đánh ô Cầu Dền năm 1946, Hồ Chủ Tịch từ Pháp trở về…
đã mang những đặc trưng của phóng sự truyền hình. Ngày 7/9/1970 đài
Truyền hình Việt Nam chính thức thành lập. Trong bối cảnh đất nước chia
cắt, toàn Đảng toàn dân đang dồn sức chống chiến tranh phá hoại ở miền

Bắc và đấu tranh giải phóng ở miền Nam, phóng viên truyền hình đã có mặt
kịp thời trên các điểm nóng phản ánh tinh thần chiến đấu anh dũng, động
viên phong trào thi đua sản xuất, giết giặc lập công, đấu tranh bẻ gãy các
luận điệu xuyên tạc thù địch. Trong thời kỳ này các phóng sự như “Hà Nội 5
ngày đọ sức” (1973), “ Tiếng trống trường” (1973), “Việt Nam và chiếc xe
đạp” (1975)… đã tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng người xem, để lại
những bài học sâu sắc về kỹ năng làm nghề cũng như lòng nhiệt tình nghề
nghiệp. Đồng hành với sự lớn mạnh của truyền hình Việt Nam trong gần 40
năm qua, nhiều chương trình truyền hình phong phú hấp dẫn đã ra đời, kéo
theo là sự xuất hiện của nhiều thể loại. Trong xu thế phát triển chung, thể

14
loại phóng sự vẫn đóng vai trò nòng cốt trong nhiều chương trình, tạo dựng
“thương hiệu” cho các chương trình cũng như hình ảnh cho từng phóng viên.

- Các quan niệm về phóng sự truyền hình
Phóng sự truyền hình trước hết là một dạng của phóng sự báo chí do vậy
phải kế thừa đặc điểm của thể loại phóng sự báo chí nói chung. Nghĩa là
phóng sự truyền hình vẫn phải hội tụ đầy đủ các đặc điểm cơ bản như phản
ánh phân tích sự kiện hiện tượng trong quá trình vận động biện chứng, bút
pháp linh hoạt, thể hiện rõ nét vai trò cái tôi cá nhân Điểm khác biệt của
phóng sự truyền hình so với phóng sự của các loại hình báo chí khác chính
là phương tiện thông tin của nó. Đó là phương tiện chuyển tải thông tin bằng
ngôn ngữ hình ảnh, âm thanh, tác động tới người xem theo nguyên tắc hình
tuyến.
Theo các tác giả Cudơnhétxốp, Xvic, Iarốpxki thì “tính chất phóng sự là
thuộc tính nội tại (đặc trưng bên trong), có tính bản chất của truyền hình”
[9, tr. 58]. Điều này có nghĩa rằng: truyền hình tự thân nó đã mang những
đặc tính của phóng sự và do vậy cũng thật dễ hiểu khi “phóng sự là thể loại
phổ biến nhất, có hiệu quả nhất và là thể loại chủ đạo của báo chí truyền

hình” [9, tr .59] Cũng theo nhóm tác giả này, phóng sự truyền hình có thể
phân chia thành ba loại là phóng sự sự kiện, phóng sự chuyên đề và phóng
sự dàn dựng:
+ Phóng sự sự kiện là phóng sự trình chiếu sự kiện thực tế diễn ra
không phụ thuộc vào phóng viên nhằm thông báo chính xác đầy đủ và
chi tiết về sự kiện. Trong phóng sự sự kiện thì sự kiện là yếu tố quyết
định, là bất khả xâm phạm, sự kiện diễn ra trong thời gian và không
gian thực tế trước các phương tiện kỹ thuật truyền hình.

15
+ Phóng sự chuyên đề ( còn gọi là phóng sự tổng quan, phóng sự
đặt vấn đề) là kiểu phóng sự mà người làm truyền hình trình chiếu sự
kiện hiện tượng theo đề tài và chủ đề tư tưởng đã được xác định. Do
vậy phóng sự chuyên đề đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về kịch
bản, phải xác định được những yếu tố then chốt của sự việc và phóng
viên trở thành người can dự vào sự kiện.
+ Phóng sự dàn dựng là dạng phóng sự mà nhà báo công khai đóng
vai trò tổ chức sự kiện, thiết kế sự kiện, tạo ra những tình huống khơi
gợi (tất nhiên vẫn phải tôn trọng tính trung thực khách quan của sự
kiện).
Hiện nay trong lý luận báo chí có nhiều cách quan niệm và cách phân chia
phóng sự truyền hình dựa trên những tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn dựa trên
tiêu chí đối tượng phản ánh người ta chia phóng sự truyền hình thành phóng
sự sự kiện, phóng sự vấn đề, phóng sự chân dung, phóng sự điều tra; dựa
trên tiêu chí phương pháp phản ánh người ta chia thành phóng sự trực tiếp và
phóng sự có xử lý hậu kỳ, dựa trên tiêu chí thời lượng có phóng sự thời sự,
phóng sự tài liệu Tuy nhiên theo TS Đức Dũng thì ở một số nước phương
Tây người ta không quá chú trọng về lý thuyết mà chủ yếu quan tâm đến kỹ
năng sáng tạo tác phẩm, do vậy mới có quan niệm cho rằng phóng sự truyền
hình chỉ là “một dạng tin trong những dạng tin thường được sử dụng trên

sóng truyền hình như tin Thời sự, tin đặc tả, tin phỏng vấn, tin phóng sự, tin
tường thuật ” [48, tr.79].
Thực tiễn hoạt động sáng tạo truyền hình ở nước ta cho thấy: phóng sự
truyền hình đang khẳng định vai trò đắc lực trong việc chuyển tải thông điệp
với nhiều dạng tồn tại, nhiều kiểu biểu hiện khác nhau. Hiện trên sóng
truyền hình đang tồn tại phổ biến các kiểu phóng sự: phóng sự ngắn (phát
trong chương trình thời sự và trong các chương trình giao lưu toạ đàm ),

16
phóng sự phát trong các chương trình chuyên đề ( thường có thời lượng từ
10-15 phút), phóng sự chân dung, phóng sự điều tra, phóng sự khoa giáo,
phóng sự tài liệu phát độc lập với tư cách là một chương trình…Trong đó
phóng sự ngắn là một hiện tượng khá thú vị và độc đáo cả về tên gọi, quan
niệm lẫn phương pháp sáng tạo.

1.2. Phóng sự ngắn truyền hình trên sóng truyền hình Việt Nam
1.2.1. Sự ra đời của phóng sự ngắn truyền hình trên sóng truyền hình
Việt Nam
Trong hoạt động sáng tạo truyền hình trên thế giới thật ra không có khái
niệm phóng sự ngắn truyền hình. Phóng sự là Report và để phân biệt với
Report là News ( Tin tức), Interview ( phỏng vấn), Comment ( bình luận),
Documentary ( phim tài liệu), không hề có thể loại nào gọi là “ short report”
( hay một cụm từ tương đương). Trong bản tin của truyền hình nước ngoài
tất cả các mục xuất hiện đều được gọi là tin tức (news). Khái niệm News bao
gồm “news in brief” là những tin vắn thuần tuý và “news story” hoặc “news
package” là những tin sâu hơn, tin có phỏng vấn, có bình luận. Trong quan
niệm của những người làm truyền hình nước ngoài, “news story” là những
sản phẩm thời sự được sản xuất tốt hơn, công phu hơn nhưng vẫn là tin. Tuy
nhiên theo quan niệm của những người làm truyền hình Việt Nam “news
story” được coi là phóng sự ngắn (tính đến các yếu tố thời lượng lẫn phỏng

vấn, bình luận, kết cấu ). Trong một số tài liệu dịch bài viết của các chuyên
gia báo chí nước ngoài về chương trình thời sự truyền hình ( như Tin- phóng
sự truyền hình của Neil Everton, tập bài giảng Làm phóng sự của Đại học
Lille, bài giảng phóng sự truyền hình của tổ chức SIDA ) các dịch giả cũng
đã dịch “News story” là phóng sự.

17
Ở Việt Nam phóng sự ngắn truyền hình ra đời cùng với quá trình vận động
đổi mới của các chương trình trên sóng mà trực tiếp nhất là chương trình
thời sự. Trước đây chương trình Thời sự của truyền hình Việt Nam kết cấu
theo công thức: 15 phút tin liên tục, tiếp đó là một đến hai phóng sự kéo dài
từ 5-10 phút trước khi chuyển sang bản tin quốc tế. Riêng phóng sự nếu làm
dưới 5 phút thì không được tính nhuận bút với tư cách là một phóng sự và do
vậy dài là một yêu cầu bắt buộc. Đặc điểm này chịu sự chi phối của cách
làm báo hành chính, chỉ tính thời lượng mà không tính đến hiệu quả thông
tin. Nói cách khác đấy là cách làm báo mang nặng tính tuyên truyền diễn
giải; cách làm báo một chiều mà không tính đến quy luật tiếp nhận và phản
hồi trong quá trình truyền thông.
Cùng với những đổi thay của đời sống kinh tế xã hội, báo chí cũng chuyển
mình mạnh mẽ, một số phương thức làm báo truyền thống không còn phù
hợp. Trong xu thế đó cách tổ chức chương trình thời sự trên VTV1 theo
công thức truyền thống trở nên lạc hậu, bởi tin tức truyền hình cần phản ánh
rất nhiều sự kiện diễn ra trong ngày. Hơn nữa người xem cũng đòi hỏi nhiều
thông tin và giường như không đủ kiên nhẫn để xem những phóng sự kéo
dài 5 phút, 10 phút hay một bản tin 15 phút chỉ đậm đặc tin tức, nhất là trong
bối cảnh cuộc sống ngày càng trở nên khẩn trương và gấp gáp. Người xem
đòi hỏi phải có những góc nhìn sâu bên cạnh lượng thông tin dồi dào chuyển
tải qua một chương trình thời sự. Nói cách khác chương trình thời sự phải
cung cấp lượng thông tin tối đa trong một thời lượng tối thiểu.
Vào những năm 90 của thế kỷ trước, với sự tiếp sức của một số dự án đào

tạo hỗ trợ nâng cao chất lượng chương trình thời sự của Thuỵ Điển,
Australia, Pháp, chương trình thời sự trên sóng Truyền hình Việt Nam bắt
đầu có những thay đổi mạnh mẽ. Một trong những dấu ấn rõ nét của sự thay
đổi đó là việc ra đời bản tin “Chào buổi sáng” phát trực tiếp vào năm 1997.

18
Các chương trình Thời sự cũng thay đổi kết cấu theo hướng sử dụng tin tức
xen kẽ phóng sự. Lần đầu tiên quan niệm trong một chương trình thời sự
phải có nhiều phóng sự với nhiều góc nhìn chính thức được khẳng định. Tất
nhiên do yêu cầu của thời lượng và yêu cầu về chất lượng thông tin nên
chương trình không thể bao chứa được những phóng sự dài, những phóng sự
chiếm quá nhiều “chỗ” mà phải là những kiểu phóng sự có thời lượng ngắn.
Cũng vào năm 1997, tại Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 17, một
phóng sự có độ dài gần 6 phút mang tên: “ Khi cả xóm tập đi xe đạp” của
Đài Truyền hình Phú Yên tạo ấn tượng mạnh và đạt huy chương vàng. Việc
một phóng sự có độ dài gần 6 phút đạt giải cao nhất giành cho thể loại phóng
sự là chưa từng có tiền lệ. Thành công của phóng sự mang đến những cách
nhìn mới về thể loại. Một phần từ thành công này mà trong kỳ Liên hoan
tiếp theo ban tổ chức chính thức đưa vào điều lệ một nội dung thi mới giành
cho thể loại phóng sự có thời lượng không quá 5 phút. Đấy là phóng sự
ngắn. Tên gọi phóng sự ngắn chính thức được thể lệ hoá tại Liên hoan
truyền hình toàn quốc lần thứ 18 (năm 1998).
Như vậy có thể khẳng định thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của phóng sự
ngắn truyền hình trên sóng thời sự truyền hình Việt Nam là vào khoảng nửa
sau thập niên 90 của thế kỷ trước. Đây là kết quả của cả một quá trình vận
động đổi mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin ngày càng cao của công
chúng đồng thời tiếp cận với xu thế làm truyền hình hiện đại trên thế giới.
Qua hơn 10 năm áp dụng, phóng sự ngắn liên tục có những đổi mới, ngày
càng hoàn thiện cả về cách nhìn vấn đề lẫn cách thể hiện vấn đề. Phóng sự
ngắn thực sự là một công cụ hiệu quả trong việc chuyển tải, phân tích mổ xẻ

thông tin của không chỉ chương trình thời sự.
1.2.2. Các quan niệm về phóng sự ngắn truyền hình

19
Mặc dù đã khẳng định được vai trò đắc lực trên sóng truyền hình tuy nhiên
quan niệm và tên gọi phóng sự ngắn đến nay vẫn chưa thực sự thống nhất.
Như đã nêu ở trên, ở nước ngoài không có khái niệm phóng sự ngắn. Tin
tức thời sự được thể hiện dưới hai dạng: tin ngắn (có trích phỏng vấn ngắn
hoặc không có) và news story hoặc news package ( được hiểu là một câu
chuyện, một vấn đề được phóng viên kể lại có phỏng vấn biểu thị chính kiến
và quan điểm). Nếu theo cách hiểu này thì phóng sự ngắn chỉ là một dạng
của tin tức, trong đó phải đảm bảo công thức 5W+1H (còn gọi là công thức
Quintilianus*), đồng thời phải ngắn gọn, phản ánh trực diện vấn đề và mang
tính thời sự cao.
Theo nhà báo Thanh Lâm- nguyên phó ban Thời sự đài truyền hình Việt
Nam thì phóng sự ngắn khác với tin ở chỗ: phóng sự phải nói được điều gì
đó mà tin không thể nói được. Nghĩa là phóng sự ngắn không đơn thuần chỉ
phản ánh mà phải tạo ra một góc nhìn, phải có sự phân tích, định hướng
công chúng. Điều này dẫn tới một yêu cầu tất yếu đó là: trong phóng sự phải
có phỏng vấn. Trong tin có thể có phỏng vấn, có thể không có phỏng vấn
nhưng trong phóng sự ngắn nhất thiết phải có phỏng vấn. Ngoài ra phóng sự
ngắn còn phân biệt với tin ở cách xử lý thông tin. Quan điểm này cũng khá
trùng hợp với lập luận của Claudia Mast khi ông cho rằng các News story
được dịch ra là “ chuyện thời sự” ( hay “ chuyện tin tức”) vừa “một mặt
phản ánh tin tức nhưng mặt khác cũng trình bày giải thích sự kiện với một
dụng ý.” [31, tr.74].
Có ý kiến cho rằng phóng sự ngắn không phải là một thể loại báo chí độc
lập mà thực chất chỉ là một dạng phái sinh của thể loại phóng sự. Nghĩa là
trước nhu cầu đưa thật nhiều phóng sự vào một chương trình thời sự bắt


20
buộc phải xây dựng những phóng sự có thời lượng thích hợp. Phóng sự đấy
chúng ta quen gọi là phóng sự ngắn nhưng thực chất vẫn là phóng sự.
Ở Việt Nam cách gọi phóng sự ngắn là cách gọi của giới làm nghề, cách
gọi theo thói quen, bởi đến nay trong lý luận tác phẩm báo chí chưa xuất
hiện khái niệm này. Tên gọi phóng sự ngắn được thể lệ hoá tại điều lệ của
các kỳ liên hoan truyền hình toàn quốc nhưng theo nhà báo Thanh Lâm –
nguyên phó ban Thời sự đài Truyền hình Việt Nam thì đấy thực chất là cách
gọi về một dạng thể loại giành cho những người làm thời sự dự thi. Cũng có
ý kiến cho rằng tên gọi phóng sự ngắn đơn thuần chỉ là do căn cứ vào thời
lượng. Và nếu dựa theo tiêu chí thời lượng thì sẽ có phóng sự ngắn và phóng
sự dài. Tuy nhiên như thế nào được gọi là “ngắn”, như thế nào được gọi là
“dài” lại là điều không dễ thống nhất. Chẵng hạn điều lệ Liên hoan truyền
hình toàn quốc cho phép thời lượng tối đa của phóng sự ngắn là 5 phút
nhưng nếu phóng sự sử dụng trong các bản tin của VTV1 mà kéo dài tới 5
phút lại không hợp lý. Ngắn như thế nào và ngắn tới đâu phụ thuộc vào yêu
cầu bản tin cũng như văn hoá tiếp nhận của từng đối tượng công chúng.
Trong bài viết “ Nhận diện phóng sự trong chương trình thời sự truyền
hình” đăng trên Tạp chí Người làm báo ( số tháng 6/2005) thạc sỹ Thái Kim
Chung đề xuất nên gọi dạng phóng sự này là phóng sự thời sự bởi xuất phát
từ một thực tế: đây là thể loại thường xuyên của chương trình thời sự với
chức năng cơ bản là thông tin mà không thiên quá nhiều về chức năng giáo
dục tuyên truyền giải trí.
Theo quan điểm của tác giả, phóng sự ngắn là một dạng của phóng sự
truyền hình. Phóng sự ngắn chưa hội tụ những điều kiện để trở thành một thể
loại báo chí độc lập bởi những nguyên tắc sáng tạo vẫn nằm trong hệ thống
nguyên tắc sáng tạo chung của phóng sự truyền hình. Thêm vào đó, phóng

21
sự ngắn chỉ thực sự phát huy vai trò khi đặt mình trong một tổng thể chương

trình. Không có sự tồn tại độc lập của phóng sự ngắn kiểu như “ chương
trình phóng sự ngắn” hay “ chuyên mục phóng sự ngắn”… Cũng theo quan
điểm tác giả, tên gọi phóng sự ngắn là tên gọi phù hợp nhất cho dạng phóng
sự độc đáo này. Sở dĩ như vậy bởi hai lẽ: đặc trưng ngắn về thời lượng là
đặc trưng quan trọng nhất, chi phối các đặc trưng khác cũng như kết cấu của
thể loại. Khi một thể loại buộc phải giới hạn trong phạm vi dưới 5 phút dẫn
tới cách làm, các thủ pháp sáng tạo phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định để sự rút ngắn là rút ngắn sáng tạo chứ không phải rút ngắn cơ học. Mặt
khác trong xu thế đa dạng hoá chương trình hiện nay, thể loại phóng sự ngắn
không chỉ được sử dụng trong chương trình thời sự mà còn đóng vai trò linh
kiện trong nhiều chương trình khác. Nhiều phóng sự linh kiện cũng có thể
phát trong chương trình thời sự và ngược lại nhiều phóng sự thời sự đã trở
thành phóng sự linh kiện của các talk show, game show, live show. Do vậy
phóng sự ngắn là tên gọi phù hợp nhất cả về nội hàm khái niệm lẫn cách
thức sử dụng trên thực tế.
Trên cơ sở tìm hiểu các tài liệu liên quan cũng như dựa vào việc thu thập ý
kiến từ các nhà nghiên cứu, các nhà báo truyền hình, tác giả mạnh dạn đưa
ra định nghĩa về phóng sự ngắn truyền hình như sau: “ phóng sự ngắn
truyền hình là một dạng của phóng sự truyền hình có thời lượng không quá
5 phút. Phóng sự ngắn phản ánh và phân tích sự kiện hiện tượng trong xu
thế vận động phát triển với yêu cầu ngắn gọn, các trích đoạn phỏng vấn súc
tích, tạo ấn tượng mạnh về tiết tấu, về cách sử dụng ngôn ngữ hình ảnh âm
thanh. Phóng sự ngắn chỉ phát huy vai trò khi được đặt trong cấu trúc của
tổng thể chương trình truyền hình”.

1.2.3. Đặc trưng của phóng sự ngắn truyền hình

22
Với sự ngắn gọn về thời lượng, yêu cầu cao về tính thời sự đồng thời phản
ánh trực diện vấn đề, phóng sự ngắn thể hiện rõ dấu hiệu đặc trưng trên hầu

hết phương tiện và thủ pháp biểu đạt.

- Đặc trưng về thời lượng
Dấu hiệu đặc trưng nhất của phóng sự ngắn truyền hình chính là thời
lượng ngắn. Theo điều lệ tại các kỳ liên hoan truyền hình toàn quốc, quy
định thời lượng giành cho phóng sự ngắn là không quá 5 phút. Tuy nhiên
trong thực tế một phóng sự ngắn có thời lượng 5 phút hoặc gần 5 phút đã là
quá dài, vừa không đủ thời lượng chương trình để chuyển tải vừa gây cảm
giác mệt mỏi trong tâm lý tiếp nhận. Điều này có căn cứ khoa học bởi một
số kết quả nghiên cứu cho rằng “ sau 50 giây, khán giả truyền hình không
còn chú ý nữa” [4, tr.60,61] (tất nhiên là đối với những thông tin thông
thường ẩn chứa trong những cách thể hiện thông thường). Theo các tác giả
Brigtte Besse và Didier Desormeaux, ở phương Tây phóng sự trong chương
trình thời sự được tiêu chuẩn hoá xung quanh một phút rưỡi đến nỗi thuật
ngữ “ một ba mươi” đồng nghĩa với phóng sự thời sự. Trong khuôn khổ thời
lượng như vậy phóng sự chỉ có thể thực hiện theo nguyên tắc “một chủ đề
duy nhất bằng một câu chuyện duy nhất và được dẫn từ một góc độ duy
nhất” [4, tr. 38]. Thực tế sáng tạo ở các kênh truyền hình nổi tiếng như
CNN, BBC, nhiều “phóng sự” ( News story) thậm chí có thời lượng còn
ngắn hơn tiêu chuẩn 1 phút 30 giây. Trong chương trình thời sự trên VTV1
hiện nay, thời lượng phổ biến của các phóng sự ngắn là từ 2,5 – 3,5 phút.
Cũng có những phóng sự dài tới mức trên dưới 5 phút nhưng trường hợp này
không xuất hiện thường xuyên.
Thời lượng ngắn tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch tổ chức sản xuất, lắp
ghép kết nối chương trình. Thời lượng ngắn của phóng sự cũng cho phép gia

×