Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Báo chí Hà Nội thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HẰNG




BÁO CHÍ HÀ NỘI THÔNG TIN VỀ CÔNG TÁC XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ






Hà Nội - 2014
2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn 10
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÔNG TIN CÔNG
TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 11
1.1. Một số khái niệm 11
1.1.1. Đói nghèo 11
1.1.2. Công tác xóa đói giảm nghèo 12
1.1.3. Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo 17
1.1.4. Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trên báo chí 19
1.2. Vai trò của báo chí trong thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo 21
1.2.1. Báo chí là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận về các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về việc xóa đói giảm nghèo 21
1.2.2. Báo chí cung cấp kiến thức, thông tin hữu hiệu về thực trạng các giải pháp
xóa đói giảm nghèo 23
1.2.3. Báo chí đề xuất các giải pháp, tập trung huy động các nguồn lực trong xóa
đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân 24
Chương 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN MỘT SỐ
BÁO IN HÀ NỘI HIỆN NAY 28
2.1 . Sơ lược về báo chí Hà Nội và các tờ báo khảo sát 28
2.1.1. Đặc điểm tình hình báo chí Hà Nội 28
2.1.1. Khái quát về các tờ báo khảo sát 29
2.2 . Nội dung thông tin 32
3

2.2.1. Tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân 33
2.2.2. Báo chí phản ánh thực trạng xóa đói giảm nghèo 36

2.2.3. Báo chí thông tin về các hội nghị, hội thảo, những hiến kế nhằm xóa đói
giảm nghèo 38
2.2.4. Báo chí nêu gương, cổ vũ những cá nhân, tập thể, những mô hình sản xuất
điển hình thoát nghèo 41
2.2.5. Báo chí tham gia giám sát, phản biện trong quá trình thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo của các ban, ngành 43
2.3 . Hình thức thông tin 45
2.3.1. Về sử dụng hệ thống thể loại 45
2.3.2. Ngôn ngữ thể hiện 50
2.3.3. Cách trình bày 57
2.3.4. Chuyên trang, chuyên mục 58
2.4 . Hiệu quả từ công tác thông tin về xóa đói giảm nghèo trên báo chí 59
2.4.1. Nâng cao nhận thức cho xã hội trong việc thông tin xóa đói giảm nghèo 59
2.4.2. Phản biện, hoàn thiện những chính sách về xóa đói giảm nghèo 63
2.4.3. Nêu gương cổ vũ nhân tố mới trong công tác xóa đói giảm nghèo 64
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÔNG TIN CỦA BÁO CHÍ VỀ
CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 67
3.1. Những khó khăn, hạn chế của báo chí khi phản ánh vấn đề xóa đói giảm nghèo 67
3.2. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm 69
3.3. Một số kiến nghị tăng cường hiệu quả thông tin về công tác XĐGN của báo chí Hà
Nội hiện nay 72
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 92



4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một
bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD/ngày
và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong
trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi
nghèo đói. Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong
những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất. Theo báo cáo “Khởi đầu
tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành:Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm
nghèo và những thách thức mới” của Ngân hàng Thế giới (WB), công bố đầu
năm 2013, cho biết: tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ gần 60% xuống 20,7%
trong 20 năm qua (1990-2010) với khoảng 30 triệu người. Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng đạt được thành tựu ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ nhập học ở
bậc tiểu học của người nghèo hơn 90% và ở bậc trung học cơ sở là 70%. Tuy
nhiên, tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, khoảng cách giàu –
nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn; nhiều vùng còn nhiều khó khăn,
có vùng còn trên 50% hộ nghèo, cá biệt có vùng còn 60% -70% hộ nghèo. Tỷ
trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả
nước, thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập
bình quân cả nước.
Để đạt được những thành công, cũng như khắc phục những hạn chế về
đói nghèo, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn xuyên suốt theo
quan điểm tập trung phát triển kinh tế gắn với an sinh xã hội, xóa đói giảm
nghèo bằng nhiều chương trình, mục tiêu quốc gia. Trong đó, báo chí là lực
lượng hết sức quan trọng, đã thông tin kịp thời chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội. Ngoài
ra, báo chí còn có nhiều phản biện, phát hiện vấn đề và giúp các cơ quan quản
5

lý Nhà nước xây dựng, soạn thảo chính sách cho phù hợp với thực tiễn; phát
hiện nhiều vụ việc tiêu cực, những địa chỉ người nghèo, có hoàn cảnh khó

khăn trên cả nước; xây dựng nhiều chương trình truyền hình, chuyên trang,
chuyên mục về xóa đói giảm nghèo để bà con học hỏi cách làm hay và cả xã
hội cùng chung tay góp sức giúp đỡ…
Việc khảo sát thực tiễn hoạt động thông tin về công tác xóa đói giảm
nghèo của các tờ báo để tìm ra những thành công và hạn chế từ đó nâng cao
hiệu quả hoạt thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trên báo chí sẽ góp
phần tạo cơ sở khoa học cho đơn vị hoạch định những chính sách thông tin,
truyền thông xóa đói giảm nghèo, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, hiện chưa có một nghiên cứu đầy đủ, cụ thể và tổng quát
về lĩnh vực này, trong khi đó, những nghiên cứu về thông tin công tác xóa đói
giảm nghèo trên báo chí đặc biệt trên các tờ báo in của Hà Nội sẽ giúp các cơ
quan báo chí nâng cao chất lượng các thông tin của mình trên các chuyên
trang chuyên mục. Hơn nữa, việc luận văn lựa chọn khảo sát thông tin về đói
nghèo trên các tờ báo Hà Nội và các quận huyện của Hà Nội, nơi được nhắc
đến với Thủ đô của một đất nước, tuy nhiên thực trạng đói nghèo vẫn diễn ra;
và Hà Nội cũng là một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc chống
đói nghèo này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong công tác đảm bảo
an sinh mà còn với sự phát triển kinh tế xã hôi của một đất nước. Đồng thời
việc nghiên cứu những ưu, nhược điểm của các thông tin về công tác xóa đói
giảm nghèo trên báo chí sẽ giúp các cơ quan báo chí, nhà báo có những cái
nhìn toàn diện về mục tiêu, chiến lược, cũng như vị trí của mình trong công
cuộc chống đói nghèo hiện nay.
6

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu đề tài này, tôi nghiên cứu tư liệu và
nhận thấy rằng chưa có công trình nghiên cứu nào hệ thống đầy đủ về vấn đề
này.
Dưới góc độ và một vấn đề xã hội, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về đói nghèo như: Đề tài “Vấn đề đói nghèo trong quan hệ quốc tế hiện

nay”. Luận văn thạc sỹ ngành Quốc tế học năm 2011 của tác giả Khúc Diệu
Huyền, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà
Nội), hay đề tài “Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế”. Luận văn thạc sỹ ngành Quốc tế học năm 2011 của tác giả Vũ Thanh
Thủy, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà
Nội) Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các
vấn đề đói nghèo, xóa đói giảm nghèo như một vấn nạn của thế giới, của Việt
Nam. Vấn đề thông tin, truyền thông về xóa đói giảm nghèo trên các phương
tiện thông tin đại chúng và báo chí chỉ là một đề cập rất nhỏ trong các nhóm
giải pháp mà các đề tài này đưa ra.
Như vậy, có thể nói, mặc dù thông tin về vấn đề xóa đói giảm nghèo
thông qua cơ quan báo chí đã xuất hiện từ rất lâu nhưng tính đến thời điểm
hiện tại, vẫn chưa có một tài liệu nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về mảng
nội dung này. Chính vì vậy, đề tài “Báo chí Hà Nội thông tin về công tác xóa
đói giảm nghèo hiện nay” vẫn là một vấn đề hết sức hữu ích không chỉ đối với
các nhà báo- những người hoạt động trên lĩnh vực thông tin tuyên truyền mà
nó còn là nguồn tài liệu cho các nhà quản lý các hoạt động xã hội trong công
tác đảm bảo an sinh xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
7

Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu thông tin về công tác xóa đói giảm
nghèo, hiệu quả và hạn chế của nó trên 3 cơ quan báo chí trên địa bàn Hà Nội.
Mục đích trọng tâm và quan trọng nhất của luận văn là những vấn đề
mang tính lý luận soi vào thực tiễn nhằm phân tích hiệu quả của các hoạt
động xóa đói giảm nghèo cũng như công tác thông tin về các hoạt động này ở
Hà Nội. Qua đó luận văn muốn gửi đến đội ngũ lãnh đạo các cơ quan quản lý,
cơ quan báo chí, đội ngũ phóng viên, biên tập viên theo dõi lĩnh vực thông tin
xóa đói giảm nghèo nói riêng và các hoạt động vì xã hội nói chung những

thông tin tham khảo để thời gian tới có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả công
tác thông tin của báo chí về xóa đói giảm nghèo; Góp phần đảm bảo an sinh
xã hội trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai những nhiệm vụ cơ bản
sau:
+ Điều tra, tổng hợp các hoạt động mà các cơ quan báo chí đã tổ chức.
+ Sưu tầm, khái quát tất cả các tin bài liên quan đến hoạt động xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn Hà Nội của 3 cơ quan báo chí từ 1/6/2012 đến 1/6/2013.
+ Nhận xét, đánh giá hình thức hoạt động cũng như thông tin bài vở về công
tác xóa đói giảm nghèo của các báo này với những kết quả, đóng góp và hạn
chế.
+ Điều tra xã hội học, phỏng vấn công chúng và một số phóng viên, nhà báo
trực tiếp tham gia vào công tác thông tin về xóa đói giảm nghèo trên báo chí.
+ Khảo sát nhu cầu, sử dụng thông tin về xóa đói giảm nghèo của công chúng.
8

+ Đề xuất một số giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả thông tin của báo
chí về công tác xóa đói giảm nghèo của các cơ quan báo chí trên địa bàn Hà
Nội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Với tên đề tài "Báo chí Hà Nội thông tin về công tác xóa đói giảm
nghèo hiện nay", đối tượng của đề tài là những thông tin về công tác xóa
đói giảm nghèo trên các tờ báo của Hà Nội, những hiệu quả, hạn chế và
những tác động.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát các tờ báo in của Hà Nội là:
Báo Hà Nội mới, Báo Phụ nữ thủ đô và Báo Kinh tế đô thị từ tháng 6/2012
đến tháng 6/2013.

Ngoài ra, còn hệ thống các số liệu và văn bản quản lý nhà nước về công
tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu quan trọng
trong việc nghiên cứu và phân tích khi nghiên cứu các thông tin báo chí về
công tác xóa đói giảm nghèo hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh dựa trên đường lối chính sách và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về chức năng, nhiệm vụ của báo chí; dựa trên những lý thuyết về truyền
thông báo chí. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa kết quả của những công
trình khoa học liên quan đã được công bố với các phương pháp cụ thể như:
9

+ Phương pháp logic lịch sử: Nhìn nhận, đánh giá các tác phẩm mang nội
dung thông tin về việc xóa đói giảm nghèo trên nền tảng là thực trạng xã hội
diễn ra các hoạt động đó.
+ Phương pháp tổng hợp: so sánh các tác phẩm báo chí và các hoạt động
liên quan đến phạm vi, đối tượng đề tài nghiên cứu qua việc hệ thống hóa các
tài liệu và các tác phẩm báo chí.
+ Phương pháp nghiên cứu văn bản: cụ thể là đánh giá, phân tích các tác
phẩm mang nội dung xóa đói giảm nghèo trên báo chí.
+ Phỏng vấn sâu: để thu thập ý kiến của những nhà quản lý báo chí, các
phóng viên, nhà báo về những vấn đề có liên quan
+Điều tra xã hội học để thu thập thông tin của đối tượng trực tiếp được
hưởng lợi ích từ việc thông tin xóa đói giảm nghèo của cơ quan báo chí và các
đối tượng công chúng tờ báo tác động tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu các thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trên báo chí của
Hà Nội hiện nay, luận văn làm rõ vấn đề lý luận về tầm quan trọng, chức
năng, nội dung và cách thức hoạt động cũng như thông tin xóa đói giảm

nghèo trên báo chí Hà Nội. Thông qua đó, luận văn góp phần đưa ra những
tổng kết mang tính đặc trưng nhất về mảng thông tin xóa đói giảm nghèo trên
báo chí cũng như các hoạt động xã hội bên lề của các cơ quan báo chí hiện
nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với việc khảo sát đầy đủ, toàn diện, có hệ thống cách thức và nội dung
thông tin xóa đói giảm nghèo trên báo chí Hà Nội, luận văn phác họa những
10

nét cơ bản nhất về hoạt động xóa đói giảm nghèo và thông tin về công tác xóa
đói giảm nghèo trên báo chí hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin của các cơ quan báo chí.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo chính xác,
có hệ thống đầy đủ cho các nhà báo đang hoạt động trên lĩnh vực thông tin
nói chung và thông tin xã hội nói riêng thông qua những thông tin xóa đói
giảm nghèo trên báo chí như báo Hà Nội Mới, báo Phụ nữ Thủ Đô, Báo Kinh
tế và Đô thị. Đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức
xã hội trong hoạt động truyền thông xóa đói giảm nghèo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn có
nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thông tin công tác
xóa đói giảm nghèo
Chương 2: Thực trạng thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo
trên một số báo in Hà Nội hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin về công tác xóa
đói giảm nghèo trên báo chí








11

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÔNG
TIN CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Đói nghèo
Quan niệm về đói nghèo chỉ mang tính chất tương đối bởi nó phụ thộc
vào điều kiện không gian, địa lý, điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của từng
vùng, từng địa phương, từng quốc gia. Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau
về vấn đề đói nghèo.
Quan điểm đói nghèo trên thế giới
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Đói nghèo được định nghĩa là tình
trạng vô cùng thiếu thốn do không có đủ nguồn lực đáp ứng các nhu cầu cá
nhân cơ bản. Tình trạng đói nghèo cũng đồng nghĩa với không có chỗ ở, nước
sạch. Đói nghèo cũng làm cho người ốm không thể đi khám bác sỹ, người mù
chữ không được đến trường, người lao động không có kỹ năng và trình độ,
thất nghiệp phổ biến. Đói nghèo cũng đồng nghĩa với việc lo lắng về tương
lai, sống ngày nào biết ngày đấy. Đói nghèo là điều không ai muốn [12,tr.11].
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đói nghèo được hiểu là sự thiếu cơ
hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất
định. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa các
thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia. Cũng theo WHO
thì thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo
thay đổi theo từng địa phương và theo thời gian [19, tr.96].
Theo Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương
(ESCAP), đói nghèo được định nghĩa là: Tình trạng một bộ phận dân cư

không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được
xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập
12

quán của từng địa phương. Đây là một khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo
được nhiều nước trên thế giới sử dụng trong đó có Việt Nam [18].
Quan điểm đói nghèo của Việt Nam
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống
đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do Ủy ban Kinh tế xã hội khu
vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan
tháng 9/1993 đó là: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này
đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong
tục tập quán của địa phương [5, tr.16].
Tóm lại, dù tiếp cận theo phương pháp nào thì những quan điểm đói
nghèo ở trên đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo đó là: Có
mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; không được
thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiều dành cho con người; thiếu
cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng.
Đói nghèo là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là sự thể hiện
tính công bằng trong phân phối và chuyển tải các thành quả về phát triển kinh
tế đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người dân. Vì vậy, để đảm
bảo công bằng xã hội, để nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế thì không
riêng Việt Nam mà tất cả các nước đều phải chú ý thực hiện công cuộc xoá
đói giảm nghèo.
1.1.2. Công tác xóa đói giảm nghèo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa: “Xóa đói giảm nghèo là
một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và
phát triển kinh tế tại Việt Nam”.
13


“Công tác xóa đói giảm nghèo là quá trình đưa các chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
dân, đặc biệt là hộ nghèo, xã nghèo trên cả nước” [37].
Xóa đói giảm nghèo được xem là thách thức lớn nhất mà thế giới hiện
phải đối mặt. “Trong giai đoạn 2011-2013 ước tính số người bị đói trên thế
giới là 842 triệu người, giảm 17% so với giai đoạn 1990-1992. Tại châu Phi
cận Sahara, dù tình hình đã được cải thiện tại một số quốc gia, song nhìn
chung đây vẫn là khu vực có tỷ lệ người bị đói cao nhất thế giới: cứ 4 người
lại có 1 người bị đói. Trong khi đó, các nước Đông Á, Đông Nam Á và Mỹ La
tinh lại ghi nhận những bước tiến rõ rệt. Báo cáo cũng cho thấy, khoảng 75%
trong số những người dễ bị tổn thương nhất thế giới sống ở khu vực nông
thông và phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp” [44].
Rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến điều này, quan trọng nhất là nền kinh
tế phát triển chậm lại có nghĩa là người mất việc nhiều hơn và thu nhập cũng
thấp hơn. Thêm vào đó, giá lương thực tăng cao, đặc biệt là giá lương thực
biến động rất lớn vào những năm gần đây.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua đã đẩy giá thực phẩm
tăng mạnh nhất kể từ những năm 1970. Điều này những tưởng đã đẩy hàng
triệu người trên thế giới lâm vào tình cảnh đói nghèo. Tuy nhiên, ước tính của
Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, trong năm 2008, năm đầu tiên của cuộc
khủng hoảng tài chính và lương thực, cả số lượng và tỷ lệ người có mức sống
dưới 1,25 USD/ngày đã giảm trên mọi khu vực của thế giới. Đây là lần suy
giảm rộng khắp đầu tiên kể từ khi WB bắt đầu tổng hợp số liệu năm 1981.
Trong gian đoạn 2008 - 2010, tốc độ giảm nghèo vẫn được duy trì ở
mức trên 1%, người dân tại các nước đang phát triển có tiêu chuẩn sống dưới
1,25 USD/ngày giảm từ 50% dân số toàn cầu năm 1981 xuống còn 21% trong
14

năm 2011. Như vậy, khoảng 1 tỷ người đã thoát khỏi ngưỡng đói nghèo và dù

rất nhiều mục tiêu thiên niên kỷ (như giảm 3/4 tỷ lệ bà mẹ tử vong và giảm
2/3 tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong) bị bỏ lỡ nhưng thế giới đã đạt được mục tiêu
giảm người nghèo trong giai đoạn 1990 – 2015 sớm hơn 5 năm so với dự tính.
Trên thực tế, tỷ lệ nghèo đói bắt đầu giảm mạnh từ cuối thế kỷ XX (tỷ
lệ trung bình hằng năm là 4,3% trong giai đoạn 1960-2000, và 6% trong giai
đoạn 2000-2010). Nguyên nhân chủ yếu là do các nền kinh tế đang phát triển
tăng tốc. Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh đến nỗi bất chấp chênh
lệch giàu nghèo ngày càng tăng nhanh, các hộ cực nghèo đang dần biến mất.
Trong giai đoạn 1981 – 2010, Trung Quốc đã giúp 680 triệu người dân thoát
khỏi đói nghèo, đồng thời tỷ lệ cực nghèo giảm từ mức 84% trong năm 1980
xuống còn 10%.
Thế giới cũng có các cách giảm nghèo khác khá đa dạng. Rất nhiều
chính sách đã phát huy hiệu quả như: mạng lưới an sinh xã hội và chương
trình chuyển tiền Bolsa Familia của Brazil, chương trình trợ cấp nhiên liệu
cho tầng lớp trung lưu ở Indonesia… Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia thì
phương thức hiệu quả nhất chính là tự do hóa thị trường để giúp người nghèo
giàu có hơn”. [28]
Nghèo đói là một hiểm họa đã tồn tại từ rất lâu trên thế giới. Đây chính
là nguyên nhân dẫn tới bất ổn xã hội và là mối đe dọa đối với hòa bình và an
ninh. Cuộc chiến chống đói nghèo không chỉ đòi hỏi nỗ lực của từng cá nhân,
mà trên hết là sự hợp tác từ phía cộng đồng quốc tế. Thế giới cần chung tay
hành động để hướng tới phát triển bền vững, mà trước mắt là hoàn thành các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ vào năm 2015.
Tại Việt Nam, mặc dù kinh tế đất nước còn không ít khó khăn nhưng
Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong những mục tiêu
15

quan trọng. An sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong những lĩnh vực
ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ những năm qua.
Từ năm 1998 đến 2010, xóa đói, giảm nghèo đã trở thành chương trình

mục tiêu quốc gia và được đưa vào kế hoạch định kỳ 5 năm của Chính phủ và
các địa phương.
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy
đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên
Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của
chuyên gia các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế),
UNDP (Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc), WB (Ngân hàng thế
giới), tổng hợp thành các mục tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá
chiến lược bằng các chương trình, dự án được triển khai, được giám sát và
đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói
nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với
8 mục tiêu:
- Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
- Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
- Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
- Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
- Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
- Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
- Đảm bảo bền vững môi trường.
- Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
16

Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm
nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy
ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và
phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo
thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả
bất ổn định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương
thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo.

Giảm nghèo bền vững là một trong những trọng tâm của Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước
nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng
nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
“Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ;
đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững,
nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích
làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên.
Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo,
giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn
thiện hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghèo. Nhiều nghị quyết, chỉ thị,
chiến lược, quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm nghèo
đã được ban hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước như:
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc, miền núi (Chương trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm
17

nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a) và các
chương trình kinh tế - xã hội khác hướng vào mục tiêu giảm nghèo…
Các chương trình, chính sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội) và sự vươn lên của chính người nghèo ,
tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn lực của Nhà nước thực hiện hiệu quả
công tác có ý nghĩa xã hội sâu sắc này. Thông qua các chương trình, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các địa phương…. Giúp

đỡ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống,
nâng cao mức thu nhập và các nhu cầu thiết yếu khác. Qua đó, từng bước giúp
họ thoát nghèo, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng,
các địa phương đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng núi và đồng
bằng và giữa các dân tộc trong cả nước.
1.1.3. Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Thông tin (inform) có
nghĩa là thông báo tin tức.
Như vậy, thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo là việc thông báo
các tin tức về công tác xóa đói giảm nghèo.
Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo là một trong những hoạt
động không thể thiếu trong nỗ lực giảm nghèo bền vững của các cấp ngành ở
Việt Nam. Mục tiêu chủ yếu của công tác thông tin về xóa đói giảm nghèo đó
là:
Nhằm tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm
nghèo. Thông qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, tác động tới ý thức của
người dân cùng tham gia xóa nghèo đói, từ đó thay đổi hành vi theo định
18

hướng của cơ quan chức năng, như: thông tin cho mọi người về những điều
chưa biết (như những chủ trương, chính sách mới về phát triển kinh tế, hỗ trợ
người nghèo làm kinh tế, nước sạch, y tế… cho các hộ nghèo…); Hướng dẫn
mọi người làm những việc mà họ chưa biết nhằm thoát nghèo (như đưa ra
những mô hình kinh tế hay, những cách làm hiệu quả).
Thông qua các hoạt động thông tin của báo chí nhằm tích cực vận động
các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào xóa đói giảm nghèo (như khuyến
khích các công ty, tập đoàn lớn cùng đầu tư vào các vùng khó khăn, người
dân cùng tham gia ủng hội, khuyên góp giúp người nghèo…); tạo ra động lực
thi đua làm giàu, xóa nghèo ở các địa phương góp phần xóa nghèo đói.

Các hoạt động thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo còn nhằm
nâng cao trách nhiệm, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, công
tác quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp trong việc thực hiện các
chương trình, biện pháp nhằm xóa đói giảm nghèo, có biện pháp hữu hiệu, chỉ
đạo quyết liệt, thường xuyên, theo lĩnh vực nhiệm vụ được phân công nhằm
giúp nhân dân thoát nghèo bền vững.
Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo có thể thực hiện qua nhiều
cách khác nhau: thông tin trên báo chí, thông tin qua tờ rơi, áp phích, qua
tuyên truyền trực tiếp,… Dù qua con đường nào thì tóm lại, mục đích của
thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trước tiên là nâng cao sự hiểu biết
của nhân dân về công tác này, hình thành lòng tình vào các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói giảm nghèo; Thứ hai là là nâng cao trách
nhiệm của các cấp, ngành cũng như tác động vào ý thức cộng đồng trong việc
cùng chung tay xóa đói giảm nghèo; Qua đó góp phần thực hiện mục tiêu
quan trọng là: giúp người nghèo thoát nghèo bền vững.
19

1.1.4. Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trên báo chí
Báo chí là một hoạt động truyền thông quan trọng phục vụ công tác
quản lý, điều hành xã hội của tổ chức cầm quyền. Báo chí là tiếng nói của
Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân,
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật,
tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí. Báo chí
của ta là cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để của Đảng và quản lý của Nhà
nước.
Công tác xóa đói giảm nghèo là một trong những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện
nhiệm vụ, chức năng của mình, các thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo

được báo chí đăng tải, cập nhật thường xuyên.
Thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo trên báo chí được thể hiện
trên nhiều lĩnh vực với những chuyên trang, chuyên mục phong phú của các
cơ quan báo chí về các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông
thôn, nông dân…. Những thông tin này đã được các cơ quan báo chí tuyên
truyền, nhanh nhạy, kịp thời đến các tầng lớp nhân dân, cũng như các cơ quan
chính quyền.
Theo đó, hiệu quả của thông tin công tác xóa đói giảm nghèo trên báo
chí cũng được đánh giá và xem xét ở nhiều mặt khác nhau. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc đánh giá hiệu quả thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo rất
khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, hoạt động; vừa phải đánh
giá định tính khi xem xét sự cải thiện của tình hình đói nghèo, sự tham gia
vào các hoạt động an sinh xã hội của người dân, vừa phải đánh giá định lượng
20

khi xét giá trị bằng tiền chi phí đầu tư cho công tác tuyên truyền, mức độ hài
lòng của công chúng đối với tờ báo hay bản tin…
Mặt khác, việc lượng hóa hiệu quả thông tin của báo chí về công tác
xóa đói giảm nghèo không phải lúc nào cũng đánh giá định lượng được bằng
con số cụ thể, chính xác tuyệt đối hoặc lượng hóa được bằng tiền. Kết quả có
thể thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Ví dụ, thông tin về “Chương trình phát
triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền
núi (Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135), là
một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước
Việt Nam triển khai từ năm 1998. Thông tin báo chí góp phần tuyên truyền và
thực hiện các mục tiêu cụ thể của Chương trình như: Phát triển sản xuất, nâng
cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển
các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế,
nước sạch; Nâng cao đời sống văn hóa – Đây là hiệu quả trực tiếp; Còn hiệu
quả gián tiếp lại là sự tác động nhiều chiều của công tác xóa đói giảm nghèo

với đời sống chính trị- xã hội, tư tưởng của cộng đồng và toàn xã hội.
Có thể nêu một số tiêu chí đánh giá hiệu quả thông tin xóa đói giảm
nghèo của báo chí như sau:
Trước hết, công chúng nắm bắt được tính chính xác, kịp thời thông tin
về tình hình đói nghèo, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong
công tác xóa đói giảm nghèo qua đó cùng sẻ chia và góp sức vào công cuộc
xóa đói giảm nghèo.
Thứ hai, mức độ hài lòng của công chúng đối với báo chí trong hoạt
động thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo.
Thứ ba, hiệu quả của hoạt động thông tin về xóa đói giảm nghèo phải
thể hiện ở việc báo chí góp phần tác động tích cực tới các cơ quan quản lý
21

trong việc ban hành các chính sách về xóa đói giảm nghèo một cách bền
vững; đồng thời, điều chỉnh giải pháp quản lý, chính sách cho phù hợp thực
tiễn,…
Thứ tư, thông tin báo chí góp phần sẻ chia cùng các hoàn cảnh khó
khăn, giúp đỡ các hoàn cảnh nghèo, khuyến khích người nghèo vươn lên
trong cuộc sống, tiến tới một xã hội bình đẳng, xóa nhòa ranh giới giàu nghèo,
nông thôn, thành thị, miền núi.
1.2. Vai trò của báo chí trong thông tin về công tác xóa đói giảm nghèo
1.2.1. Báo chí là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận về các
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về việc xóa
đói giảm nghèo
Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ
vào xã hội, hoạt động báo chí có vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong công
tác tư tưởng nói chung, công tác truyền thông về xóa đói giảm nghèo nói
riêng. Nó không chỉ góp phần quan trọng tạo dư luận xã hội mà còn góp phần
định hướng, hướng dẫn dư luận xã hội, phản ứng tích cực hoặc tiêu cực trong
xã hội.

Báo chí định hướng xã hội bằng việc tác động vào ý thức quần chúng,
tạo ra khả năng xác định hành động và hành động đúng của quần chúng vì lợi
ích của giai cấp, của xã hội. Vì vậy, báo chí luôn được xác định là một trong
những phương tiện quan trọng của Đảng, thực hiện chức năng giáo dục chính
trị tư tưởng cho quần chúng, định hướng dư luận xã hội, hình thành ý thức xã
hội.
Để làm tốt vai trò, chức năng giáo dục, báo chí hướng dẫn và hình
thành dư luận xã hội tích cực đúng đắn trên cơ sở thông tin nhanh chóng, đầy
đủ và phong phú về các sự kiện thời sự, những vấn đề nảy sinh trong đời sống
22

xã hội, trong đó có vấn đề về công tác xóa đói giảm nghèo. Dư luận xã hội
phản ánh nhận thức của nhân dân trước những sự kiện thời sự. Dư luận xã hội
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự ổn định chính trị- xã hội- một điều kiện
sống còn cho sự phát triển xã hội.
Thông tin là bản chất và là thế mạnh của báo chí. Bằng thông tin, báo
chí tác động đến đông đảo công chúng trong xã hội, góp phần tạo dư luận và
định hướng dư luận. Việc thu thập đầy đặn thông tin, phản ánh chính xác, kịp
thời thông tin đã trở thành điều kiện cần thiết trong việc tham gia đầy đủ vào
cuộc sống hiện đại của báo chí. Với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học kỹ thuật,
chức năng thông tin ngày càng được đề cao đối với báo chí.
Thông tin báo chí mang đến cho công chúng về tình hình đói nghèo,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm
nghèo. Báo chí giúp công chúng nhìn nhận, đánh giá tình hình và chủ trương
đó. Định hướng sự chú ý của công chúng vào việc nhận thức cái gì là cần
thiết; từ đó công chúng tự định hướng hành vi và ý thức của mình. Tiếng nói
của báo chí vừa là tiếng nói của Đảng vừa là tiếng nói của nhân dân. Sức
mạnh của báo chí thể hiện ở việc đưa những thông tin giúp đông đảo người
dân và các nhà quản lý thảo luận và đưa ra những hướng giải quyết những vấn
đề liên quan đến đói nghèo đang đặt ra; phê bình và chống lại những hiện

tượng tiêu cực, lạc hậu, trì trệ, kém hiệu quả, không khả thi trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo.
Báo chí còn có vai trò định hướng và điều hòa dư luận xã hội, điều hòa
tâm lý và tâm trạng xã hội. Dù khơi nguồn như thế nào, cuối cùng báo chí
cũng thực hiện chức năng định hướng nhận thức, thái đội và hành vi của quần
chúng nhân dân trong đời sống xã hội. Vì bản chất của báo chí là một hoạt
đông thông tin chính trị- xã hội. Báo chí là tiếng nói của giai cấp, là công cụ
23

quản lý xã hội của giai cấp. Không có giai cấp nào không dùng báo chí như
một công cụ quản lý xã hội.
1.2.2. Báo chí cung cấp kiến thức, thông tin hữu hiệu về thực trạng các
giải pháp xóa đói giảm nghèo
Thông tin là nhu cầu sống còn của con người và xã hội. Xã hội càng
phát triển, càng văn minh thì nhu cầu thông tin càng cao. Trong quá trình đáp
ứng nhu cầu thông tin, báo chí càng phát triển không ngừng và đa dạng về các
loại hình. Mỗi loại hình với những thế mạnh khác nhau, mang đến thông tin
phong phú, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu thông tin về mọi lĩnh vực của công
chúng, trong đó có thông tin về các hoạt động xóa đói giảm nghèo- lĩnh vực
có liên quan trực tiếp tới sự phát triển của một quốc gia.
Hàng ngày, hàng giờ, báo chí thông tin nhanh nhất về tình hình đói
nghèo, những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xóa đói
giảm nghèo; phản ánh những thực trạng đói nghèo ở các vùng khó khăn; đề
xuất những biện pháp nhằm cải thiện tình hình; phản ánh những mong muốn
của nhân dân trong công cuộc cùng Đảng và Nhà nước tham gia xóa đói giảm
nghèo; những mô hình, cá nhân, tập thể điển hình trong công cuộc xóa đói
giảm nghèo. Báo chí dự báo nhu cầu, tâm lý, sở thích, quyền lợi và nguyện
vọng của nhân dân về các hoạt động chống đói nghèo.
Những thông tin bằng lời, hình ảnh, âm thanh do báo chí mang lại vừa
kịp thời, vừa chính xác, có sức thuyết phục, giúp người dân nâng cao kiến

thức, nhận thức về các vấn đề đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam; đồng
thời cũng là nguồn cung cấp kiến thức và phản ánh tình hình thực tiễn sôi
động cho các cơ quan quản lý, giúp họ nâng cao năng lực quản lý điều hành
về việc đưa ra các chủ trương, chính sách nhằm xóa đói giảm nghèo và công
tác thông tin tuyên truyền về đói nghèo.
24

Tóm lại, có thể khẳng định, trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện
nay, các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng đóng vai trò to lớn đối
với đời sống xã hội. Đó là khả năng thông tin nhiều chiều, tác động trực tiếp
và đồng thời đến đại bộ phận dân chúng trong xã hội, tạo thành dư luận xã hội
dẫn đến sự thay đổi trong hành vi. Các bài viết trên các báo còn là tư liệu quý
giúp người dân tìm hiểu, học tập nâng cao kiến thức, trình độ mọi mặt. Thông
qua các phương tiện truyền thông, cùng một lúc nhiều người cùng theo dõi
một chương trình thông tin, cùng đọc báo… đều có khả năng hòa nhập những
cá nhân riêng rẽ thành một cộng đồng rộng lớn, cùng quan tâm đến một vấn
đề của xã hội và cùng hành động vì lợi ích chung. Đây chính là cơ sở để báo
chí thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, thúc đầy đưa nghị quyết
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung, về xóa đói giảm nghèo
nói riêng vào cuộc sống, phát huy vai trò của mình trong việc thúc đẩy mọi
mặt đời sống xã hội cùng phát triển.
1.2.3. Báo chí đề xuất các giải pháp, tập trung huy động các nguồn lực
trong xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân
Báo chí giữ vai trò là trung gian, là cầu nối giữa chủ thể và khách thể
quản lý. Thông qua việc đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước và các cấp, các ngành cho các tổ chức và
các thành viên xã hội biết, hiểu, nhận thức và hành động trong thực tiễn.
Báo chí cũng tham gia tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo.

Điều này cho thấy, báo chí không chỉ tuyên truyền, động viên và tổ chức quần
chúng nhân dân thực hiện vào thực tế mà còn tham gia trực tiếp vào việc xây
dựng mới, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chính sách đó. Những ý
kiến chân thành, thẳng thắn, trí tuệ, có tính xây dựng và thể hiện tinh thần,
25

trách nhiệm của các nhà tri thức, khoa học, các nhà nhiên cứu của tầng lớp
nhân dân sẽ là nguồn tri thức phong phú, xác thực, có giá trị lý luận và thực
tiễn giúp Đảng, Nhà nước hoàn thiện đường lối, chính sách phù hợp với yêu
cầu, nguyện vọng của nhân dân và thực sự có tính khả thi.
Báo chí phản ánh, phân tích kịp thời tình hình thực tế, diễn biến phát
triển kinh tế xã hội, đói nghèo. Các số liệu, sự kiện, con người, khó khăn,
thuận lợi được báo chí phản ánh khách quan, cụ thể và kịp thời là cơ sở để
giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý nắm bắt nhanh thực tiễn, kịp thời điều
chỉnh, bổ sung hoặc hủy bỏ chính sách không phù hợp. Hoạt động này đòi hỏi
báo chí phải có tính năng động, nhạy bén với thời cuộc, bám sát thực tiễn
cuộc sống, luôn có mặt ở những nơi bức xúc của đời sống xã hội, gần gũi với
nhân dân để nắm được tình hình, phát hiện những vấn đề mới mẻ, có ích để
phân tích và phản ánh kịp thời.
Báo chí cùng với nhân dân đề xuất sáng kiến, đưa ra kiến nghị, giải
pháp cho hoạt động quản lý hiệu quả hơn trên cơ sở phân tích sâu sắc, toàn
diện và khoa học các số liệu, dữ liệu cần thiết. Báo chí không chỉ nêu thuận
lợi, khó khăn, những kết quả đạt được, phản ánh những tồn tại, hạn chế và đề
xuất những giải pháp, sáng kiến khắc phục tình trạng đó.
Là diễn đàn của nhân dân, báo chí tập hợp, phản ánh kịp thời tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân và việc tổ chức thực hiện các chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo. Một
điều quan trọng nữa là báo chí phản ánh kịp thời ý kiến đóng góp của nhân
dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để giúp Đảng,
Nhà nước rút kinh nghiệm khi ban hành, triển khai những chủ trương, chính

sách nói chung, công tác xóa đói giảm nghèo nói riêng.

×