Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tin đồn trên báo chí (khảo sát một số tờ báo in, 2007 - 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.14 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THANH MAI





NHỮNG SỰ KIỆN XÃ HỘI CHỊU ẢNH HƯỞNG
BỞI “CƠ CHẾ TIN ĐỒN” TRÊN BÁO CHÍ
(Khảo sát một số tờ báo in, 2007-2008)





LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ
















HÀ NỘI – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THANH MAI


NHỮNG SỰ KIỆN XÃ HỘI CHỊU ẢNH HƯỞNG
BỞI “CƠ CHẾ TIN ĐỒN” TRÊN BÁO CHÍ
(Khảo sát một số tờ báo in, 2007-2008)



Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số : 60.32.01




LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ





Người hướng dẫn khoa học: PSG, TS. Nguyễn Đức Dũng







HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 8
7. Kết cấu 9

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TIN ĐỒN TRÊN
BÁO CHÍ 10

1.1. Tin đồn và cơ chế tin đồn 10
1.1.1. Tin đồn 10

1.1.2. Cơ chế tin đồn 11
1.2. Đặc điểm của tin đồn 13
1.2.1. Tin đồn là thông tin truyền miệng 13
1.2.2. Tin đồn thường không có căn cứ chính xác 15
1.2.3. Tin đồn là thông tin được nhiều người quan tâm 16
1.3. Những yếu tố tác động đến việc hình thành tin đồn 17
1.3.1. Hoàn cảnh chính trị 17
1.3.2. Trình độ văn hóa 18
1.3.3. Điều kiện kinh tế 19
1.3.4. Những yếu tố thuộc chủ thể tiếp nhận 20
1.3.5. Vai trò của cơ quan báo chí 21
1.4. Những khuynh hƣớng của tin đồn 21
1.4.1. Rút bớt chi tiết 21
1.4.2. Cường điệu hóa 22
1.4.3. Đồng hóa 23
1.5. Sự tác động của tin đồn đến đời sống báo chí 24
1.5.1. Tin đồn- nguồn sự kiện của báo chí 24
1.5.2. Tin đồn thông qua báo chí tạo dư luận xã hội 25
1.5.3. Tin đồn- tác nhân làm thay đổi truyền thông đại chúng 26
Tiểu kết chƣơng 1
27

Chƣơng 2: KHẢO SÁT BỐN SỰ KIỆN CHỊU ẢNH HƢỞNG BỞI
TIN ĐỒN TRONG HAI NĂM 2007- 2008 29

2.1. Tổng Giám đốc SSI bị bắt 32
2.1.1. Tin đồn ảnh hưởng uy tín cá nhân 32
2.1.2. Tổng Giám đốc SSI lên tiếng 33
2.2. Việt Nam và cơn sốt tăng giá gạo 39
2.2.1. Bối cảnh khiến giá gạo tăng cao 39

2.2.2. Khẳng định Việt Nam không thiếu gạo 40
2.3. Thánh vật ở sông Tô Lịch 48
2.3.1. Những thông tin li kì 48
2.3.2. Cần một cái nhìn khoa học và trung thực 51
2.4. Bƣởi gây ung thƣ 56
2.4.1. Bối cảnh xuất hiện tin đồn 56
2.4.2. Khẳng định bưởi gây ung thư không có ở Việt Nam 58
Tiểu kết chƣơng 2 63

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA TIN ĐỒN
TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY 66

3.1. Một số nhận xét 66
3.1.1. Tin đồn trong lĩnh vực kinh tế 66
3.1.2. Tin đồn trong lĩnh vực văn hóa- xã hội 69
3.2. Những bài học kinh nghiệm 73
3.2.1. Minh bạch thông tin 73
3.2.2. Tăng cường thể chế hóa phát ngôn chính thức 74
3.2.3. Coi trọng chức năng giáo dục dân trí và nâng cao nhận thức 75
3.2.4. Báo chí dự đoán xu hướng và tuyên truyền tạo lòng tin 76
3.3. Một số giải pháp cơ bản 77
3.3.1. Đối với cơ quan báo chí 77
3.3.2. Đối với người làm báo 79
3.3.3. Đối với người tiếp nhận 81
Tiểu kết chƣơng 3 81

KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89




1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ hàng ngàn năm nay, tin đồn đã tồn tại khách quan và trở thành cơ chế
truyền tin phổ biến trong môi trường làng xã Việt Nam truyền thống.
Kể từ cuộc giao lưu văn hoá Đông- Tây, trên nền của lớp văn hoá bản
địa Đông Nam Á và giao lưu văn hoá khu vực, tờ báo quốc ngữ đầu tiên của
Việt Nam chính thức ra đời (1965), đánh dấu sự xuất hiện của một cơ chế
truyền tin mới - cơ chế truyền tin bằng văn bản.
Cho đến ngày nay, dưới nhiều lớp văn hoá, cơ chế tin đồn vẫn tồn tại.
Thậm chí, mười năm trở lại đây, tin đồn đã trở thành một khái niệm xuất hiện
khá phổ biến trong các nghiên cứu khoa học, trên các diễn đàn về xã hội học,
đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Tin đồn trở thành một
khái niệm được so sánh với một số khái niệm liên quan, vốn là những vấn đề
đang được nghiên cứu mang tầm chiến lược như: Dư luận xã hội, chuẩn mực
xã hội Như vậy, tin đồn đang chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong đời
sống, cần được nghiên cứu, đặc biệt là trên phương diện báo chí học, vì các
phương tiện truyền thông đại chúng là một trong những “mảnh đất màu mỡ”
để tin đồn nảy sinh, tồn tại, và lan tỏa với những quy luật riêng.
Tin đồn ở một số lĩnh vực được quan tâm và đánh giá một cách nghiêm
túc, vì thế, nhiều nước trên thế giới thành lập viện nghiên cứu có thương hiệu
và uy tín cao, chuyên nghiên cứu về tin đồn và dư luận xã hội, phục vụ chủ yếu
cho công đoạn trước bầu cử và chiến dịch maketinh của các doanh nghiệp. Chỉ
cần thị trường có dấu hiệu bất thường, ngay lập tức cơ quan quản lí sẽ đưa ra
những phát ngôn chính thức để định hướng cho người dân.
Ở Việt Nam, cách đối phó mà chúng ta thấy hiện nay chỉ mang tính sự
vụ và tự phát. Trong nhiều trường hợp, hiện tượng bất thường của thị trường

phải cực “nóng” kết hợp với sức ép dư luận thì cơ quan chịu trách nhiệm mới
đưa ra biện pháp giải quyết. Chúng ta vẫn thiếu những quy định và cách thức
2

phản ứng trước những diễn biến bất thường của thị trường một cách chuyên
nghiệp và bài bản.
Tin đồn thường gắn với những ý nghĩa tiêu cực, tuy nhiên, ở một khía
cạnh nào đó, tin đồn vẫn có ý nghĩa tích cực, điều này phụ thuộc phần lớn
vào bối cảnh và mục đích của người đưa tin. “Kết quả một nghiên cứu về tin
đồn ở Mỹ cho thấy có đến 75% tin đồn là có căn cứ” [37,57], theo đó tin
đồn có thể đúng, có thể sai, nhưng chúng ta phải có nhiệm vụ tìm ra những
chứng cứ để khẳng định hay bác bỏ tin đồn.
Trong lĩnh vực chớnh trị, tin đồn thường ít xuất hiện hơn do nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, quản lí hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Trước
những tin đồn vô căn cứ trờn lĩnh vực chính trị, các cơ quan báo chí nước ta rất
thận trọng trong việc xử lớ thông tin, vừa đảm bảo tính chính xác, kịp thời, vừa
có tính định hướng giúp hình thành dư luận xã hội tích cực và đúng đắn.
Riêng hai lĩnh vực kinh tế và văn hóa – xã hội, tin đồn thường gây tác
động mạnh mẽ hơn. Đó thường là những tin đồn khá phổ biến, và có khả
năng tái diễn, vì vậy, rất cần khảo sát và nghiên cứu nhằm hạn chế tối đa sự
tác động của những tin đồn này.
Hiện nay, chưa có một công trình nào thống kê đầy đủ sự tác động của
tin đồn đến đời sống xã hội, và mặc nhiên, tin đồn vẫn nảy sinh, tồn tại và lan
tỏa, gây thiệt hại không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa- xã hội, mà còn ít
nhiều ảnh hưởng tới tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội Tin
đồn không chỉ tác động đến một nhóm nhỏ trong xã hội, mà nó đó lan tỏa và
trở thành một vấn đề của dư luận xã hội. Nghĩa là, tin đồn thông qua báo chí
tạo ra dư luận xã hội. Vấn đề cấp thiết đặt ra là chúng ta phải có những
nghiên cứu cụ thể về sự tác động của cơ chế tin đồn đến đời sống báo chí.
Do đặc điểm của tin đồn là mập mờ và không có căn cứ chính xác,

nên ở phần nhiều các trường hợp, tin đồn thường tạo ra những sự kiện có tác
động tiêu cực đến đời sống xã hội. Từ góc độ tiếp cận đó, tôi chọn đề tài
“Những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi “cơ chế” tin đồn trên báo chí
3

(khảo sát một số tờ báo in,2007-2008)” để nghiên cứu, với mong muốn
thông qua việc khảo sát sự tác động của cơ chế tin đồn trong môi trường
truyền thông hiện đại có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ cả phía
người làm báo và người tiếp nhận, nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả do
cơ chế tin đồn mang lại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andecxen (1805- 1875) nổi tiếng với
tập “Truyện cổ Andecxen”, là người đầu tiên viết lên câu chuyện nói về sự
biến đổi của tin truyền miệng- đó là: “Chuyện hoàn toàn có thật” [11,241].
Chúng tôi xin vắn tắt câu chuyện để thấy được tin đồn biến đổi như
thế nào trong câu chuyện của Andecxen:
…Mụ gà thì thào kể: Lúc tắt mặt trời, một ả gà chân ngắn, lông trắng, đẻ
trứng đều đặn lấy mỏ rỉa lông và một chiếc lông tơ rơi ra. Ả nói: “Thế là đứt
một cái lông. Càng rụng lông ta càng đáng yêu hơn, không sao”. Tất nhiên ả
nói đùa vì ả luôn gây cười trong lũ gà mái. Sau đó ả đi ngủ. Bà gà đứng bên
cạnh nghe bập bà bập bõm câu chuyện của mụ gà bèn rỉ tai mụ bên cạnh: “Này
chị có nghe thấy chứ? Tôi không nói tên đâu, có một cô ả muốn bứt lông làm
đỏm. Nếu tôi là gà trống ấy à, tôi sẽ khinh ả!”. Đậu ngay trên đầu lũ gà mái,
gia đình nhà cú rất thính tai đã nghe câu chuyện hai mụ gà kháo nhau. Cú mẹ
trợn mắt quát lũ con: “Đừng có nghe lỏm chuyện một ả gà mái mới xong đã
quên cả mình là một gà nết na, thản nhiên rỉa trụi lông để chài một gã trống”.
Cú bố nhắc vợ: “Coi chừng bọn trẻ, đừng để chúng kháo nhau chuyện đó”.
Tiếng cú vang sang chuồng bồ câu. Lũ bồ câu kháo nhau: “Các vị có
nghe thấy gì không? Hú hú! ở trang trại kia kìa, chuyện thực mà kể lại thì
nhảm, nhưng là chuyện hoàn toàn có thực. “Có một ả gà vặt hết cả lông để

làm đỏm với gà trống. ả sẽ chết rét phen này. Hú hú”. Lũ bồ câu nhao nhao
chõ xuống sân gà vịt. Lũ vịt quạc quạc: “Có một ả gà mái, có kẻ còn bảo cả
hai, đã vặt trụi cả lông cho khác người để hấp dẫn gà trống. Hình như các ả
bị cảm lạnh chết vì sốt… Phải, cả hai ả đều chết rồi”. Gã gà trống mặc dù
4

vẫn ngái ngủ nhưng vẫn thao thao kháo chuyện: “Chuyện khủng khiếp quá,
tôi không muốn giữ kín nữa. Loan báo cho mọi người đi”. Lũ gà trống gáy
om lên, lũ gà mái quang quác ầm ĩ. Cứ thế, câu chuyện bay từ chuồng gà
này sang chuồng gà khác… Cuối cùng nó trở về nơi xuất phát: “Có năm mụ
gà mái vặt trụi lông vì tương tư với gã gà trống. Sau đó các mụ mổ nhau đến
đổ máu, nhào lộn chết quay lơ. Thật nhục nhã cho gia đình gà và thiệt hại
cho gia chủ”. Riêng ả gà lông trắng đêm qua làm rơi một chiếc lông tơ đã
không nhận ra chuyện của mình. Là người đứng đắn, ả nói: “Nhục nhã thay
cho những mụ gà ấy. Nhưng cái hạng ấy không hiếm đâu. Chuyện không thể
ỉm đi được. Tôi sẽ cố gắng đưa chuyện này lên mặt báo phổ biến ra cả nước
cho đáng đời lũ gà mái ấy và cả họ nhà chúng nữa” [11,245 ].
Và câu chuyện đồn đại này đã được đưa lên mặt báo, được xuất bản
với nhan đề “Chuyện hoàn toàn có thật: Một chiếc lông tơ có thể dễ dàng trở
thành năm con gà mái”.
Có thể nói, nội dung câu chuyện của Andecxen đăng trên báo cách
đây khoảng 150 năm đã phản ánh những quy luật của sự biến đổi thông tin
truyền miệng như: rút bớt chi tiết, nhấn mạnh một vài chi tiết theo động cơ
cá nhân, cường điệu hóa chi tiết và tổ chức, sắp xếp lại chi tiết… mà Barlett,
Allport, Post và nhiều tác giả khác sau gần 100 năm mới khái quát lên thành
quy luật của sự biến đổi tin đồn.
Năm 1965, Allport và Post trên cơ sở câu chuyện của Andecxen đã
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về sự biến đổi của tin đồn. Các thực nghiệm của
Allport và Post là một trong những chỗ dựa kinh điển để hiểu được sự biến
đổi của các thông điệp trong một giao tiếp. Lời đồn sở dĩ luôn tồn tại trong

cuộc sống vì chúng mang chức năng giải thích và làm giảm bớt những căng
thẳng xúc cảm. Chẳng hạn, việc nói tới một điều xấu của ai đó sẽ có hiệu
quả làm dịu bớt tạm thời sự ghét bỏ của người ta đối với người đó. Allport
và Post đã tìm cách xác định các quá trình truyền đi những lời đồn bằng
cách giải thích sự cường điệu đặc trưng của chúng.
5

Song song với những nghiên cứu về sự biến đổi của lời đồn là những
nghiên cứu kinh nghiệm mà tiêu biểu là Lời đồn Orleans Morin (1969).
Trước đó (1953), Dodd đã có một nghiên cứu thực nghiệm trình bày hiện
tượng lời đồn có nhan đề “Truyền một thông điệp tới Thành phố C”. Đối
tượng của thực nghiệm này là hình thức của đường cong lan tỏa của một tin
đồn theo không gian và thời gian trong một địa phương gọi là thành phố C
có khoảng 1000 dân. Thực nghiệm cho phép rút ra khái niệm chiều hướng
lan tỏa trong việc truyền bá những lời đồn.
Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học, khóa
luận, luận văn, luận án nào nghiên cứu về tin đồn. Chỉ có một vài cuốn sách
đề cập tới tin đồn, với vai trò là một khái niệm liên quan để so sánh và làm
rõ hơn vấn đề được nghiên cứu như: dư luận xã hội, chuẩn mực xã
hội…Nếu xét theo trình tự thời gian, có thể kể tới một số công trình sau:
Hữu Kiên (2005), Tin đồn và vấn đề quản trị thông tin, Tạp chí Ngân
hàng Ngoại thương (bàn về tin đồn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng)
Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội (so sánh tin đồn với dư luận xã hội).
Trần Thị Minh Đức (2008), Các thực nghiệm trong tâm lí học xã hội, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội (tin đồn là một phương thức giao tiếp ngôn ngữ phổ
biến).
Đó là những tài liệu quý, có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng, là cơ
sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề khá phức tạp này. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đưa ra được khái niệm, chức năng,

quy luật biến đổi của tin đồn, mà chưa chỉ ra đặc điểm của tin đồn, chưa đưa
ra những kết luận khoa học về sự tác động của cơ chế tin đồn. Vì vậy, có thể
coi đề tài của chúng tôi là một nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này nhìn từ
góc độ báo chí học, dựa trên những khảo sát cụ thể về một số sự kiện báo
chí tiêu biểu trong hai năm 2007- 2008.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6

- Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát những sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi cơ
chế tin đồn, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những tác động của cơ chế tin đồn đối
với đời sống báo chí trên phương diện ảnh hưởng tiêu cực, qua đó thấy được
vai trò của báo chí trong việc xử lí khắc phục và hạn chế tin đồn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện một
số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống vấn đề lí luận về tin đồn, cơ chế tin đồn, những yếu tố tác động
đến việc hình hành tin đồn, tin đồn trong môi trường truyền thông hiện đại với
những khuynh hướng chủ yếu, sự tác động của tin đồn đến đời sống báo chí
- Kháo sát một số sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi tin đồn trên báo in
Việt Nam trong hai năm 2007- 2008
- Rút ra những kết luận khoa học về việc xử lí tin đồn của các cơ quan
báo chí, đưa ra một số bài học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, kiến nghị để
nâng cao hơn nữa vai trò của báo chí trong việc thông tin, tuyên truyền và định
hướng dư luận xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát của luận văn là những sự kiện xã hội chịu ảnh
hưởng của tin đồn nói chung, trong đó tập trung khảo sát hai nhóm sự kiện thuộc
lĩnh vực kinh tế và văn hóa- xã hội. Cụ thể là các sự kiện:
+ Việt Nam và “cơn sốt” tăng giá gạo

+ Tổng Giám đốc SSI bị bắt
+ Thánh vật ở sông Tô Lịch
+ Bưởi gây ung thư
- Đối tượng nghiên cứu là việc xử lí tin đồn của những cơ quan báo chí
liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu
7

Những sự kiện nêu trên đều có sự tham gia, vào cuộc của đài phát
thanh, truyền hình, báo in, báo mạng ở nước ta. Tuy nhiên, do thời gian có
hạn và khó khăn về mặt tài liệu nên chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát trên
một số tờ báo in.
Đối với sự kiện tăng giá gạo, chúng tôi lựa chọn các tờ báo: Thanh niên,
Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh, Sài Gòn Giải phóng, Sài Gòn Tiếp thị, Tiền Phong,
Công an Nhân dân, Gia đình&Xã hội để khảo sát dựa trên tiêu chí:
- Là những tờ báo ngày có khả năng thông tin kịp thời về trực trạng và
những giải pháp nhằm bình ổn giá gạo trên thị trường;
- Các tờ báo ở khu vực phía nam, vì cơn sốt tăng giá gạo bắt nguồn từ
vùng đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của Việt Nam.
- Các tờ báo thông tin kịp thời các vấn đề xã hội, vì lúa gạo là những
nguyên liệu không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của mỗi gia đình.
Với sự kiện “Tổng Giám đốc SSI bị bắt”, chúng tôi khảo sát các tờ: Thời
báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư chứng khoán, Diễn đàn Doanh nghiệp, Thương
mại, Đầu tư, Thanh niên, Tiền Phong, Hànộimới dựa trên tiêu chí:
- Là những tờ báo chuyên đề về thị trường chứng khoán.
- Là những tờ báo có chuyên mục Tài chính, Tiền tệ và là tờ báo ngày,
có khả năng thông tin nhanh và cải chính kịp thời.
Về sự kiện “Thánh vật ở sông Tô Lịch”, chúng tôi chọn khảo sát các tờ
báo: Bảo vệ Pháp luật, Tiền Phong, Khoa học&Đời sống, Gia đình&Xã hội,
Văn hóa, Thể thao & Văn hóa, Hànộimới, Lao động, Người Lao động vì:

- Đây là những tờ báo đưa tin sớm nhất về hiện tượng này;
- Là diễn đàn để các nhà khoa học, những người có trách nhiệm liên
quan đến lĩnh vực Văn hóa lên tiếng.
- Thông tin kịp thời các vấn đề của đời sống xã hội.
Và với sự kiện “Bưởi gây ung thư”, chúng tôi khảo sát các tờ: Khoa học
Phổ thông, Thanh niên, Đời sống&Pháp luật, Khuyến học&Dân trí, Công an
TP Hồ Chí Minh căn cứ vào các tiêu chí:
8

- Là những tờ báo đầu tiên đăng thông tin thiếu kiểm chứng
- Là những tờ báo khai thác các vấn đề liên quan đến đời sống, pháp luật…
Chúng tôi chọn thời gian khảo sát các sự kiện trong hai năm 2007- 2008, là vì:
- Ngày 11 tháng 1 năm 2008: Việt Nam chính thức trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO; Trong đời
sống kinh tế, văn hóa và xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi báo chí phải
vào cuộc để thông tin kịp thời và định hướng dư luận.
- Đây là những sự kiện diễn ra ở thời điểm gần, thể hiện chuẩn xác
những đặc điểm của tin đồn thời nay.
- Những sự kiện này có thể lặp lại trong thời gian tới nếu không có
những giải pháp xử lí kịp thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của báo chí vô sản và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về báo chí. Các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử sẽ được vận dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp công cụ
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp
công cụ như:
- Thống kê, phân loại để lựa chọn các tờ báo, bài báo có liên quan.

- Phỏng vấn sâu để thu thập ý kiến của những nhà quản lí báo chí, các
nhà báo về những vụ việc có liên quan.
- Phân tích, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa luận
Luận văn là công trình đầu tiên hệ thống hóa, phân tích, đánh giá về
những tác động của cơ chế tin đồn trên báo chí thông qua việc khảo sát những
sự kiện xã hội cụ thể.
9

Luận văn góp phần làm sáng tỏ trên phương diện lí luận và thực tiễn về
mối quan hệ giữa tin đồn và báo chí.
Góp phần làm cho lí luận báo chí trở nên gần gũi hơn, hiệu quả hơn
trong việc xử lí những tác động của cơ chế tin đồn.
Luận văn là đề tài nghiên cứu đầu tiên, có thể đặt cơ sở cho những đề tài
nghiên cứu khác về sự tác động của cơ chế tin đồn và việc xử lí tin đồn của các
cơ quan báo chí.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn giúp cho những người làm công tác quản lí báo chí nắm bắt
được cơ chế hoạt động của tin đồn, dự đoán được xu hướng để có những ứng
xử kịp thời nhằm hạn chế tác động tiêu cực của tin đồn.
Cung cấp những thông tin cần thiết để tòa soạn có những định hướng
trong việc tiếp nhận thông tin và chuyển tải thông tin.
Cung cấp kinh nghiệm cho những người làm báo trong việc xử lí những
sự kiện xã hội chịu ảnh hưởng bởi tin đồn.
Luận văn nêu ra những giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm góp phần
hạn chế và khắc phục hậu quả của tin đồn.
Luận văn còn có ý nghĩa đối với bản thân học viên, góp phần giúp tác
giả tự nâng cao trình độ và biết cách tổ chức một công trình khoa học.
7. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tin đồn trên báo chí
Chương 2: Khảo sát bốn sự kiện chịu ảnh hưởng bởi tin đồn trong hai
năm 2007 -2008.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế tác động của tin đồn trên báo chí
hiện nay.
Sau những nội dung chính nêu trên, cuối luận văn còn có phần phụ lục,
tập hợp một số bài báo có liên quan đến công trình nghiên cứu này.

10

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TIN ĐỒN TRÊN BÁO CHÍ


1.1. Tin đồn và đặc điểm của tin đồn
1.1.1. Khái niệm về tin đồn và cơ chế tin đồn
- Khái niệm tin đồn:
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, tin đồn là “tin được truyền miệng
cho nhau một cách không chính thức, không rõ nguồn gốc và không có sự đảm
bảo về tính chính xác”

[16, 232 ]
Theo Allport và Postman, hai nhà tâm lý học xã hội người Mỹ thì tin
đồn là “một sự khẳng định về một chủ thể được quan tâm mà không có đủ
bằng chứng đáng tin cậy được đưa ra”. Trong tin đồn thông thường có một
phần được cho là sự thật [37, 54 ].
Tin đồn là một sản phẩm tâm lí xã hội, vì thế nó phụ thuộc nhiều vào
trạng thái tâm lí của người tiếp nhận và người đưa tin. Chính vì vậy, trong
những bối cảnh hoảng loạn, thiếu thông tin, bao giờ cũng nảy sinh nhiều tin

đồn. Tốc độ lan truyền của tin đồn tỷ lệ thuận với tầm quan trọng và sự mập
mờ của tin đồn đó. Nói cách khác, vấn đề mà tin đồn đề cập đến càng quan
trọng, càng hấp dẫn với cá nhân bao nhiêu, càng mơ hồ bao nhiêu thì càng
xuất hiện nhiều tin đồn bấy nhiêu.
Theo đó, chúng tôi quan niệm tin đồn là thông tin được truyền miệng
một cách không chính thức, không có căn cứ chính xác và được nhiều người
quan tâm.
Tin đồn thường là thông tin được nhiều người quan tâm, vì vậy những
vấn đề mà tin đồn hướng tới thường rất phong phú. Xét trên bình diện mức
độ biểu hiện, tin đồn chia thành hai loại: Tin đồn dễ phát hiện và tin đồn khó
phát hiện. Xét trên bình diện giá trị, tin đồn có hai loại: tin đồn dễ xử lí và
tin đồn khó xử lí. Nhưng xét về lĩnh vực thì tin đồn lại chia thành nhiều
nhóm: tin đồn chính trị, tin đồn kinh tế và tin đồn văn hóa- xã hội
11

- Cơ chế tin đồn
Theo Từ điển Tiếng Việt, cơ chế là “cách thức theo đó một quá trình
thực hiện” [27, 245]. Như vậy, cơ chế có thể được hiểu là một quá trình và
cách thức diễn ra hay thực hiện của một hiện tượng xã hội, quá trình và cách
thức ấy bao gồm các công đoạn và mối quan hệ giữa chúng theo một trật tự
logic nhằm hướng tới một mục tiêu nào đó. Như vậy, tìm hiểu cơ chế tức là tìm
hiểu các yếu tố, công đoạn và trình tự diễn ra cũng như mối quan hệ chặt chẽ
quy định lẫn nhau giữa các yếu tố và công đoạn ấy. Nhưng trong khi nghiên
cứu các vấn đề xã hội, việc mô tả các hiện tượng xã hội, các sự kiện xã hội
cũng như cơ chế tác động của nó thường rất khó khăn vì tính phức tạp, đa
chiều của nó trong các mối quan hệ. Do đó, khi nghiên cứu vấn đề này, chúng
tôi đã trừu tượng hóa một số yếu tố cũng như mối quan hệ để có thể thống kê
những ảnh hưởng của tin đồn đối với các sự kiện xã hội thông qua báo chí, để
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế sự tác động của cơ chế tin đồn.
Vì tin đồn thường là những vấn đề được nhiều người quan tâm, nên ngay

sau khi xuất hiện, nó thường lan truyền rất nhanh và có tác động không nhỏ đến
đời sống xã hội. Khi có tin đồn về tăng giá hay thiếu hụt hàng hóa nào đó,
đồng thời với việc người dân chen chúc nhau, đổ xô đi mua mặt hàng đó, thì
tin đồn dường như trở thành sự thật, và ngày càng có nhiều người tham gia
củng cố và lan truyền tin đồn ấy. Nếu tất cả mọi người đều đổ xô đi mua và
tích trữ hàng hóa đó thì tất yếu dẫn đến sự thiếu hụt, cửa hàng hết hàng hóa và
người dân lại càng có động cơ đi mua và tích trữ hơn. Và như vậy, trên thực tế
sẽ xuất hiện tình trạng thiếu hụt một cách giả tạo, tin đồn ban đầu dần trở thành
hiện thực. Tin đồn Ngân hàng ACB giải thể chính là ví dụ cụ thể cho luận điểm
này. Nếu những người gửi tiền mất niềm tin vào ngân hàng vì bất cứ lý do gì
(có thể do tin đồn thất thiệt) mà đổ xô đi rút tiền gửi của mình tại một ngân
hàng thì ngân hàng ấy chắc chắn sẽ đổ, dù tình hình của nó có lành mạnh đến
thế nào.
12

Nghiên cứu về cơ chế lan truyền của tin đồn, hai nhà tâm lí học xã hội
người Mĩ Allport và Postman đã tiến hành nghiên cứu cơ chế truyền tin này
trong phòng thí nghiệm. Phương pháp của các nhà nghiên cứu khá đơn giản.
Đầu tiên là đưa thông tin cho người thứ nhất và yêu cầu người này truyền tin
cho người thứ hai với chỉ dẫn là “thuật lại tất cả chính xác nhất có thể” với
khoảng 20 chi tiết. Sau đó người thứ nhất về chỗ ngồi và người thứ ba vào
nghe người thứ hai kể. Mỗi người sau đó vào nghe và thuật lại câu chuyện
theo cách tương tự. Như vậy, có thể quan sát sự sai lệch thông tin của tin đồn
bằng cách so sánh những lần kể lại kế tiếp. Tuy nhiên, bản thân Allport và
Postman cũng nhận thấy có những yếu tố làm cho quá trình lan tỏa thông tin
trong thí nghiệm khác với quá trình lan tỏa của nó trong cuộc sống thực hàng
ngày:
Sự ảnh hưởng của người đứng ra làm thí nghiệm (chủ tọa) là đáng kể, nó
có khuynh hướng tạo ra sự thận trọng và rút ngắn hơn bản tường thuật. Khi
không có người làm thí nghiệm, người tham gia thí nghiệm đưa ra số lượng chi

tiết gấp hai lần so với khi có người thí nghiệm. Có 4 lí do dẫn đến hiện tượng
này.
Một là: Ảnh hưởng của lời chỉ dẫn khiến người tham gia thí nghiệm
chính cẩn trọng hơn và đưa ra thông tin chính xác tối đa. Trong sự lan tỏa tin
đồn thực tế, không có người quan sát để xem liệu chuyện phiếm kể lại có đúng
không.
Hai là: Không có cơ hội cho người được nghiên cứu đặt câu hỏi lại
người truyền thông tin. Bình thường, sự lan tỏa tin đồn, người nghe có thể bàn
tán với người đưa tin, và nếu anh ta muốn kiểm tra chéo lại anh ta.
Ba là: Khoảng cách thời gian giữa người nghe và nói lại trong tình
huống thí nghiệm là rất ngắn. Trong quá trình lan tỏa tin đồn bình thường, nó
là rất lớn.
Bốn là: Trong nghiên cứu, động cơ để đưa tin đồn không rõ ràng. Người
được nghiên cứu cố gắng miêu tả chính xác. Hay nói cách khác, anh ta không
13

phải là tác nhân tự phát như anh ta vẫn làm trong cuộc sống hàng ngày. Sự góp
mặt trong việc truyền đạt tin đồn ở thí nghiệm không mang tính cá nhân và
cũng không có động cơ sâu sắc. [37, 60].
Như vậy, về cơ bản chúng ta thấy quy luật lan tỏa của tin đồn trong
phòng thí nghiệm và ngoài đời là giống nhau: đều là quá trình “bóp méo”
thông tin một cách tự nhiên. Tuy nhiên, trên thực tế, tin đồn trong đời sống
thường thiếu chính xác hơn vì người đưa tin không bị ảnh hưởng và không phụ
thuộc vào các điều kiện thí nghiệm như trong nghiên cứu của Allport và
Postman.
1.1.2. Đặc điểm của tin đồn
- Tin đồn là thông tin truyền miệng
Tin đồn có thể xuất hiện từ một sự kiện có thực bị làm méo mó đi ít
nhiều trong quá trình truyền tin, hoặc cũng có thể xuất hiện từ những thông
tin hoàn toàn do tưởng tượng ra nhưng được tổ chức theo những quy luật

tâm lí nhất định.
Tin đồn được truyền từ người này sang người khác làm cho các chi tiết
bị quên lãng hoặc nhớ thiếu chính xác. Các ngôn từ bị thay thế khi kể truyền
tiếp. Nội dung và cách hiểu câu chuyện phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cá nhân
mỗi người… vì thế, tin đồn thường bị méo mó, sai lệch, thiếu chính xác. Có
thể coi tin đồn là sự khẳng định chung về một điều gì đó có vẻ như là thật,
nhưng thiếu các dữ kiện cụ thể cho phép kiểm tra độ chính xác (không giống
như cách truyền tin bằng văn bản). Câu chuyện của nhà văn Andecxen chính là
ví dụ cụ thể và sinh động cho đặc điểm này của tin đồn.
Tin đồn không phải bao giờ cũng sai, nhưng nó là thông tin không chính
thức. Vì vậy, để tin đồn có thể truyền đi được, chủ thể truyền tin phải nhào nặn
sao cho tin đồn như là có thật, tổ chức thông tin sao cho nó hấp dẫn và có độ
tin cậy ở một mức độ nào đó và phải được người nghe mong đợi. Quá trình này
được lặp đi lặp lại theo phương thức truyền miệng, do đó, tin đồn ngày càng bị
“tam sao thất bản”.
14

Nhiều ngày liên tiếp đầu tháng 6 năm 2009, hàng trăm người dân thị xã
Bạc Liêu ùn ùn kéo nhau đi xem “mộ cổ” có hàng trăm năm tuổi ở khóm 5,
phường 1. Người ta kháo nhau rằng, ngôi mộ này rất linh thiêng, cầu gì được
nấy và mang lại “vinh hoa phú quý”! Nhưng trên thực tế đây chỉ là hai ngôi mộ
của người dân bình thường bị bỏ hoang
Trước đó, người dân nườm nượp đổ xô về ngôi đền cổ ở xã Cao Ngạn,
thành phố Thái Nguyên để hứng “nước thần” tiết ra từ cây hoa sữa cổ thụ.
Thực tế cho thấy, tại thời điểm đó thời tiết ẩm thấp, sương đêm tích tụ trên các
tán lá ở tầng cao nhỏ thành dòng xuống tầng lá thấp. Trên cây hoa sữa này có
hàng nghìn con ve sầu, nước giải của nó hòa với nước sương tạo nên hiện
tượng như vậy, chứ hoàn toàn không phải là “nước thần”.
Cả hai câu chuyện trên đều bắt nguồn từ tin đồn. Người nọ “rỉ tai” người
kia. Mỗi người “dệt thêu” thêm một chút nên sự việc ngày càng được thần

thánh hóa khiến người ta bán tín bán nghi và biến mình trở thành nạn nhân của
hiện tượng mê tín dị đoan.
Do thông tin truyền miệng một cách dễ dàng nên nó lan tỏa rất nhanh
và gây ra bao phiền toái, hệ lụy. Người dân bỏ bê công việc làm ăn, thậm
chí không ít người làm khổ chính mình. Chính quyền cơ sở và các lực lượng
chức năng phải tập trung nhiều thời gian để vừa tích cực giải thích, tuyên
truyền, vận động, giải tán đám đông, vừa tăng cường lực lượng giữ gìn an
ninh, trật tự an toàn xã hội. Phải một thời gian sau đó, tin đồn mới đi qua,
nhưng cũng để lại không ít hậu quả. Cuộc sống của người dân bị xáo trộn.
Nhiều người rơi vào tình trạng hoang mang khi có quá nhiều người truyền
tai nhau về những thông tin chưa được kiểm chứng
- Tin đồn thường không có căn cứ chính xác
Do tính chất truyền miệng, nên hậu quả là tin đồn thường không có căn
cứ chính xác. Tin đồn được truyền miệng từ người này sang người kia làm cho
các chi tiết bị lãng quên hoặc bị nhớ sai. Mỗi cá nhân nhận thức câu chuyện
dựa trên hiểu biết riêng và lựa chọn ngôn từ khác nhau khi kể khiến nội dung
15

của câu chuyện có thể bị sai lệch vì thế tin đồn ban đầu so với tin đồn sau đó
thường bị méo mó và không còn chính xác.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tin đồn, trong đó phải kể đến chính bản
thân thông tin không có độ chính xác cao và khó có khả năng kiểm chứng. Vì
vậy, mỗi lần thông tin được truyền tải lại được tổ chức theo ý chủ quan của
người nghe. Đó chính là nguyên nhân làm tin bị méo mó.
Ngoài ra, xu hướng nhìn nhận ở mỗi người là khác nhau, trong đó các cá
nhân thường có xu hướng nhớ những thông tin, chi tiết gần gũi với kinh
nghiệm hiểu biết của mình, và khi truyền thông tin, các cá nhân thường cố
gắng thuyết phục người nghe tin vào mình, nên họ thường thêm thắt các cứ
liệu cho có vẻ đáng tin cậy. Điều này cho thấy bản chất tin đồn đã chi phối
người truyền tin làm cho thông tin càng trở nên không có căn cứ chính xác.

Ngay sau khi xuất hiện tin đồn về Vinaconex, từ câu chuyện liên quan
đến phát hành cổ đông lớn đến chuyện về một dự án hấp dẫn khác, thị
trường lại nóng lên bởi những thông tin không rõ nguồn gốc về Tổng Giám
đốc tập đoàn Vincom Trong vô vàn tin tức vỉa hè ấy, có thông tin sau khi
được kiểm chứng hóa ra lại chính xác, khiến cho nhà đầu tư khó cưỡng lại
sự hấp dẫn của những tin tức cùng loại. Chính điều này đã gây tâm lí hoang
mang cho nhà đầu tư trong việc trả lời câu hỏi tin hay không tin. Rất khó để
xác minh được thông tin nào là do sự suy đoán thiếu hiểu biết, tin đồn nào
được tung ra với mục đích “tung hứng” giá chứng khoán. Những trường hợp
như Vinaconex nhà đầu tư đã nhanh chóng được phản hồi từ phía doanh
nghiệp, báo chí. Nhưng với những trường hợp còn lại, làm sao để nhà đầu tư
nhanh chóng xác minh tính thật, giả của vấn đề, nếu cơ quan quản lí, doanh
nghiệp không nhận diện nhanh để có thể phản ứng kịp thời?
- Tin đồn là thông tin được nhiều người quan tâm
Như đã nói ở trên, vấn đề mà tin đồn đề cập đến càng quan trọng, càng
hấp dẫn với cá nhân bao nhiêu thì càng xuất hiện nhiều tin đồn bấy nhiêu.
16

Có thể lấy ví dụ cụ thể, ngay sau sự kiện vụ khủng bố ngày 11 tháng 9
năm 2001 tại Mỹ, trong lòng nước Mỹ cũng như ở nhiều nước khác trên thế
giới xuất hiện nhiều tin đồn khác nhau liên quan đến số lượng người chết, về
những cuộc tấn công tiếp theo của bọn khủng bố, về kế hoạch quân sự đánh trả
của Mỹ, về những hậu quả kinh tế… Đây là sự kiện thu hút sự quan tâm của
toàn thế giới vào thời điểm lúc bấy giờ. Bản thân khi đó tại Việt Nam cũng có
tin đồn về việc Ngân hàng nhà nước sẽ bán tháo dự trữ ngoại tệ bằng đồng đôla
để mua đồng euro. Rõ ràng, bối cảnh vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 đã làm
nhiều người sốc, và hoảng sợ. Những yếu tố tâm lý này chính là cơ sở, mảnh
đất màu mỡ để nảy sinh, lan truyền những tin đồn.
Các nghiên cứu chỉ rõ, tin đồn thường là thông tin nhập nhằng mang tính
nước đôi, được nhiều người đón nhận vì ít nhiều đáng tin cậy. Điều đó có

nghĩa là: Vấn đề nào càng gây hấp dẫn, gây sự hiếu kì, hứng thú… cho người
nghe, càng khó kiểm chứng được tính xác thực thì vấn đề đó càng dễ được
truyền tới nhiều người.
Thực tế chỉ ra rằng, trong cùng một thời điểm, nếu có nhiều sự kiện cùng
diễn ra thì công chúng thường quan tâm tới những sự kiện liên quan trực tiếp
đến lợi ích thiết thân hàng ngày của họ. Người ta thường quan tâm đến đám
cháy trong khu tập thể hơn là một tai nạn giao thông nghiêm trọng ở nước
ngoài.
Những vấn đề quan trọng nhất, theo nghĩa là nó liên quan nhiều nhất đến
lợi ích của số đông sẽ được xã hội chú ý và trở thành chủ đề của tin đồn.
Tháng 7/2007, tin đồn về việc người dân ở quận Cẩm Lệ (Đà Nẵng)
ăn thịt lợn, tiết canh dẫn đến tử vong nhanh chóng phát tán ra các thành phố
lớn của cả nước khiến giá thịt lợn giảm mạnh vì người người tiêu dùng đồng
loạt tẩy chay thịt lợn và các thực phẩm liên quan, đồng thời cũng khiến giá
các loại thực phẩm khác như cá biển, thịt gà tăng vọt. Vài ngày sau đó, tin
đồn vô căn cứ trên đã được Sở Y tế Thành phố Đà Nẵng làm rõ, thị trường
17

dần trở lại bình thường nhưng giá cả các loại mặt hàng chưa thể xuống ngay
được và người tiêu dùng tiếp tục bị móc túi.
Những sự kiện xuất hiện bất ngờ thường gây tâm lí hoảng loạn gắn với
đó là những đánh giá thiếu chính xác, là môi trường thuận lợi để nảy sinh tin
đồn. Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành cho biết: “Tin đồn là một điều hết
sức bình thường trong mọi thị trường. Tuy nhiên, có một vài quyết định trong
thời gian qua của các cơ quan chức năng đã khiến dân chúng bất ngờ và điều
này tạo đất tốt cho tin đồn thất thiệt trong đời sống dân cư” [36].
Ngày 21/7/2008, Bộ Tài chính khẳng định trên một số tờ báo là không
tăng giá các mặt hàng thiết yếu cho đến hết năm. Điều này khiến người dân dễ
hiểu rằng, sẽ không có tăng giá xăng dầu. Và sau đó, cơ quan chức năng đột
nhiên tăng giá xăng lên rất cao, lên tới 31%, làm cho người dân dễ hiểm lầm là

giữa lời tuyên bố và việc làm không đồng nhất với nhau. Hay một kiểu đưa tin
nay thế này, mai thế khác của Bộ Y tế liên quan đến sự kiện sữa nhiễm
melamin
Tính thời sự của sự kiện cũng khiến tin đồn hình thành nhanh hơn. Sự
kiện mới xảy ra, chưa có thông tin đánh giá cụ thể, người ta thường mang ra để
bàn tán, đồn thổi. Những sự kiện đã có độ lùi, người ta thường ít quan tâm hơn
và nếu có thì cũng là khi sự kiện đó có những tình tiết mới.
1.2. Những yếu tố tác động đến việc hình thành tin đồn
1.2.1. Hoàn cảnh chính trị:
Trong điều kiện có dân chủ rộng rãi, xã hội có thông tin phong phú,
đầy đủ, mọi người sẵn sàng cởi mở, bộc lộ ý kiến, suy nghĩ của mình, sẵn
sàng đưa ra nhận định về một vấn đề, phân tích và dự đoán xu hướng thì
tin đồn ít có điều kiện để nảy sinh và tồn tại. Ngược lại, trong điều kiện
thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, đôi khi còn bị cắt xén, xuyên tạc… thì
càng có nhiều mảnh đất cho tin đồn lan tỏa…
Sự đối lập về quan điểm chính trị cũng là điều kiện để nảy sinh tin đồn.
Ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo hệ thống truyền thông đại chúng là nguyên tắc
18

hàng đầu, một điều kiện quyết định đảm bảo hiệu quả và sức mạnh của phương
tiện truyền thông đại chúng.
Về bản chất, Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng là một điều kiện
để mang lại nhiều tự do hơn cho cả hai phía: những nhà truyền thông và
người tiếp nhận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thông đại chúng được
phát triển toàn diện, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Mặt khác, sự
lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho tính khách quan, tính nhân dân,
tính khoa học của truyền thông đại chúng.
Hệ thống truyền thông đại chúng một mặt phải nhạy bén về chính trị
xã hội, cảnh giác với những âm mưu phá hoại, có quan điểm chính trị- xã
hội đúng đắn, tích cực, trung thành với chế độ. Mặt khác, phải bảo đảm

cung cấp cho xã hội những sản phẩm ngày càng hấp dẫn, có chất lượng cao,
có sức thuyết phục đối với các tầng lớp nhân dân. Những yêu cầu trên của
hệ thống truyền thông đại chúng phải gắn liền với chất lượng chính trị, tư
tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính trị phải làm chủ. Đường
lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí
của ta đều phải có đường lối chính trị đúng” [23 ,414].
1.2.2. Trình độ văn hóa
Văn hóa truyền thống của người Việt Nam được hình thành trên cơ sở
lao động trồng lúa nước, các cư dân cư trú thành các làng xã có các gia đình
huyết tộc kiểu Nam Á. Văn hóa truyền thống của người Việt Nam hình thành
nhiều giá trị tốt đẹp trong quan hệ giao tiếp tình làng, nghĩa xóm, bán anh em
xa, mua láng giềng gần. Quan hệ giao tiếp của con người thường gắn với các tụ
điểm dân cư.
Chúng ta đã từng xây dựng một hệ thống giá trị về con người mới khi
giao tiếp với các nền văn hóa của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây. Song,
mỗi hệ giá trị về con người có tính lịch sử cụ thể của nó. Từ một nước đang
phát triển, xây dựng cuộc sống mới, con người Việt Nam không chỉ thiếu hụt
về trình độ khoa học, công nghệ mới, tính sáng tạo cao, kỷ luật sản xuất, mà
19

còn thiếu hiểu biết về một nền dân chủ. Dân chủ không phải là ai muốn làm gì
thì làm. Mọi người được sống tự do và bình đẳng trước pháp luật, chịu trách
nhiệm trước pháp luật là các chuẩn giá trị cao đẹp của nền văn hóa mới Việt
Nam.
Trong 20 năm đổi mới, xã hội ta đã có một bước tiến đáng kể về việc
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Cái nổi bật nhất trong quyền dân chủ
đó là: Quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Đó là biểu
hiện của một nền văn hóa tốt đẹp. Quyền đó được ghi trong cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư duy
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một

đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân
chủ, tiến bộ… Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công
dân…” [34,152]
1.2.3. Điều kiện kinh tế
Kinh tế phát triển, đời sống nâng cao, công chúng có điều kiện mua sắm
thiết bị, phương tiện nghe nhìn, có điều kiện thỏa mãn nhu cầu thông tin, có
tiền đề, điều kiện để đánh giá thông tin khách quan.
Kinh tế chậm phát triển, lợi ích kinh tế không được đảm bảo sẽ ảnh
hưởng đến niềm tin và tinh thần của công chúng, ý kiến khó thống nhất, nảy
sinh nhiều luồng thông tin khác nhau.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, tin đồn thường xuất hiện khi có sự
không rõ ràng, nhất quán trong chính sách của cơ quan quản lí. Đặc biệt là khi
có sự thay đổi lớn trong chính sách, quyết định của Nhà nước. Tháng 1 năm
2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại kinh tế Thế giới. Đây là cơ hội và cũng là thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam, phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó có vấn đề đối
phó và xử lí những tác động của cơ chế tin đồn trên thị trường
1.2.4. Những yếu tố thuộc chủ thể tiếp nhận
20

Đó được hiểu là mức độ chuẩn bị của mỗi người để tiếp nhận thông tin
từ những sự kiện xã hội. Muốn phán xét, đánh giá về một hiện tượng, một sự
kiện, một vấn đề, hay nói cụ thể là một tin đồn, trước hết phải có thông tin về
sự kiện, thông tin phải có số lượng, chất lượng cần thiết, nếu thông tin không
đầy đủ sẽ dẫn đến khả năng tin đồn sẽ còn lan nhanh và tiếp tục ảnh hưởng
đến đời sống xã hội.
Trình độ văn hóa, trình độ chính trị, tâm lí cá nhân, tâm lí đám đông,
tâm lí xã hội… có vai trò quyết định trong việc đánh giá các sự kiện trong đời
sống xã hội. Người tiếp nhận có trình độ văn hóa cao thì tích cực tham gia vào
việc đánh giá sự kiện. Tầng lớp dân cư thành thị có mặt bằng dân trí cao nhạy

bén hơn trước tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Họ có khả năng nắm
bắt, thẩm định thông tin nhanh, xử lí thông tin kịp thời và có khả năng dự đoán
xu hướng phát triển: Việt Nam không thiếu gạo vì Việt Nam là nước xuất khẩu
gạo đứng thứ hai trên thế giới.
Phong tục tập quán cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá, phán xét
sự kiện. Những vùng có phong tục tập quán lạc hậu khi đánh giá bị chi phối
bởi quan niệm lạc hậu và hay tin theo ý kiến của một người nào đó.
Trình độ chính trị tác động và quyết định phương pháp và khuynh hướng
đánh giá. Công chúng có trình độ lí luận, hiểu biết chính trị và có kinh nghiệm
trong hoạt động chính trị thường xử lý tốt những tin đồn gây bức xúc. Họ
thường bình tĩnh, sáng suốt khi đánh giá những biến cố của đời sống và thường
có những đánh giá chính xác.
1.2.5. Vai trò của cơ quan báo chí
Không còn nghi ngờ gì khi những phương tiện truyền thông đại chúng
có ảnh hướng tới việc hình thành tin đồn. Phương tiện truyền thông không đơn
giản chỉ truyền phát thông tin, bằng việc chọn lọc, nhấn mạnh, giải thích những
sự kiện và công bố những thông tin quan trọng đôi khi là cơ sở để hình thành
tin đồn. Trường hợp “Tăng giá gạo” và “Bưởi gây ung thư” là hai ví dụ điển
hình. Trường hợp thứ nhất, báo chí đã quá nhạy cảm khi đưa tin thế giới đang

×