Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Chính sách của các nước lớn (Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 148 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THU THẢO


CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC LỚN ( MỸ, NHẬT BẢN,
NGA, TRUNG QUỐC) ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Đình Chỉnh


Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THU THẢO



CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC LỚN ( MỸ, NHẬT BẢN,
NGA, TRUNG QUỐC) ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Đình Chỉnh


Hà Nội – 2012

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Bố cục của luận văn 6
PHẦN NỘI DUNG 7
Chương 1: VÀI NÉT VỀ BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1991 7
1.1 Chính sách của các nước lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ
1945-1953 7
1.2. Bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ 1953-1991 13
1.2.1. Chính sách của Mỹ và Nhật Bản 13
1.2.2 Vai trò của Liên Xô và Trung Quốc 17
1.3 Hai nhà nước Triều Tiên trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1953-1990 21
1.3.1 Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên 21

1.3.2. Đại Hàn Dân Quốc 23
Tiểu kết chương 1 26
Chương 2: CHÍNH SÁCH CỦA MỸ, TRUNG QUỐC, NGA VÀ NHẬT BẢN
ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ 1991 ĐẾN NAY 28
2.1. Chính sách của Mỹ 28
2.1.1 Đối với CHDCND Triều Tiên 37
2.1.2. Đối với Hàn Quốc 42
2. 2 Chính sách của Nhật Bản 49
2. 2.1. Đối với CHDCND Triều Tiên 50
2. 2.2. Đối với Hàn Quốc 55
2. 3. Chính sách của Trung Quốc 63
2.3.1. Đối với CHDCND Triều Tiên 64
2.3.2. Đối với Hàn Quốc 74
2. 4. Chính sách của Nga 78
2.4.1. Đối với CHDCND Triều Tiên 80
2.4.2. Đối với Hàn Quốc 89
Tiểu kết chương 2 93
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH CỦA MỸ, 95
TRUNG QUỐC, NGA VÀ NHẬT BẢN ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY 95
3.1. Đối với CHDCND Triều Tiên 95
3.1.1. Về chính trị 95
3.1.2.Về kinh tế 103
3.1.3. Về văn hóa-xã hội 110
3.2. Đối với Hàn Quốc 113
3.2.1. Về chính trị 113
3.2.2. Về kinh tế 123
3.2.3. Về văn hóa - xã hội 128
Tiểu kết chương 3 130
KẾT LUẬN 134

TÀI LIỆU THAM KHẢO 136
PHỤ LỤC 142

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
các quốc gia trên thế giới bước vào một giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách
thức mới. Trong lịch sử thế giới, châu Á là một khu vực chịu nhiều hệ luỵ của
chiến tranh lạnh để lại. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống thế giới cùng
với những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh bộ phận đã gây ra những hậu
quả nặng nề, trong đó khu vực bán đảo Triều Tiên ngày nay là một ví dụ điển
hình về hậu quả của chiến tranh lạnh.
Thực tế lịch sử cho thấy, sau năm 1953, bán đảo Triều Tiên bị chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, quan hệ giữa hai miền tiếp tục
diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Từ năm 1970, tình hình chính trị quốc tế có
chuyển biến mới, theo đó, mối quan hệ Liên Triều dần được cải thiện, những
cuộc tiếp xúc, trao đổi ban đầu giữa các tổ chức xã hội giữa hai miền là những
bước đi quan trọng mở đường cho tiến trình hoà hợp dân tộc, hoà bình và thống
nhất trên vùng bán đảo.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, bán đảo Triều Tiên bước vào giai đoạn
mới với những quan hệ mới nảy sinh. Bên cạnh mối quan hệ Liên Triều lúc thăng,
lúc trầm thì chính sách của các nước lớn như Mỹ, Nhật, Trung Quốc và Nga tiếp
tục có vai trò quan trọng tác động đến tiến trình hoà giải, hợp tác và thống nhất
của hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, khu vực Đông Bắc Á là một khu vực nhạy
cảm về chính trị và có tầm quan trọng chiến lược trong quan hệ quốc tế của khu
vực và thế giới. Có thể thấy, sau hơn hai thập kỷ chiến tranh lạnh kết thúc, tình
hình chính trị trên vùng bán đảo Triều Tiên vẫn diễn biến theo chiều hướng phức
tạp, quan hệ giữa hai miền lúc thăng, lúc trầm nhất là quan hệ về chính trị và vấn

đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Từ những nội dung nêu trên có thể thấy rằng, vấn đề thống nhất bán đảo
Triều Tiên, tác động của các nước lớn đối với vùng bán đảo này là một chủ đề

2
khoa học quan trọng cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
nhằm góp phần vào sự phát triển chung của xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Đối với CHDCND Triều Tiên, hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì mối
quan hệ truyền thống hữu nghị với nhà nước này. Tuy nhiên bên cạnh đó, quan
hệ Việt Nam- Hàn Quốc được thiết lập từ năm 1992 đến nay đã trở thành mối
quan hệ đối tác chiến lược. Việc Việt Nam tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ
với hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng góp phần vào sự phát triển chung của xu thế hội nhập và bảo vệ, gìn giữ
anh ninh chung của khu vực và quốc tế.
Từ những nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng, chủ đề khoa học này cần
phải được nghiên cứu toàn diện và hệ thống, với tinh thần đó, tôi xin chọn đề tài:
“Chính sách của các nước lớn (Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo
Triều Tiên từ năm 1991 cho đến nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành châu Á học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Thứ nhất, mục tiêu chủ yếu của đề tài dược tập trung vào việc nêu và phân
tích những chính sách của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc đối với
hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay
- Thứ hai, trên cơ sở nêu và phân tích chính sách của các nước lớn nêu trên,
đề tài luận văn tập trung làm rõ những tác động tích cực và những mặt hạn chế
của những nước này đến tình hình hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên.
- Thứ ba, đề tài sẽ rút ra một số kết luận bước đầu về những thách thức và
triển vọng của quá trình hoà hợp và thống nhất đất nước của hai miền trên vùng
bán dảo trong tương lai.

3 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bán đảo Triều Tiên với vị trí địa-chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á là nơi
diễn ra những cuộc đụng đầu lịch sử mang tính quốc tế sau chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của khu vực và thế
giới.

3
Đề cập đến chủ đề chính sách của các nước lớn, cũng như quan hệ giữa hai
miền trên vùng bán đảo Triều Tiên, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này. Chẳng hạn, có một số bài nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài đã được dịch hoặc biên soạn bằng tiếng Việt như “Nga và cuộc khủng
hoảng trên bán đảo Triều Tiên” của tiến sĩ sử học Denisov trên nguyệt san “Đời
sống quốc tế” của Nga, “Đối đầu Mỹ-Triều và địa chính trị Đông Nam Á năm
2003” của Quách Phi Hùng (Trung Quốc), “Chiến lược đối ngoại lâu dài của
Trung Quốc” của chuyên viên Viện quan hệ quốc tế- Đại học nhân dân Trung
Quốc, “Những thay đổi của Bắc Triều Tiên và quan hệ Trung -Triều” của giáo sư
Ri Nam Ju (Hàn Quốc), “Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy”, của Byung Nak Song,
Nxb Thống kê, Hà Nội 2002… Những tác phẩm nêu trên đã có nhiều nội dung
liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
Nghiên cứu về tình hình chính trị, quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á
nói chung và bán đảo Korea nói riêng, ở Việt Nam, đã có nhiều nhà hoạt động
chính trị, nhiều nhà khoa học, ngoại giao, nghiên cứu kinh tế… đã có các bài
nghiên cứu như: “Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga và Hàn Quốc” của Phạm Quỳnh
Hương, “Tổng quan về quan hệ Hàn- Mỹ” của Bùi Thị Kim Huệ, “Về chủ nghĩa
khu vực mới ở Đông Á” của Lê Văn Mỹ, “Về quan hệ Hàn Quốc- Nhật Bản” của
Ngô Hương Lan. Một số sách đã được xuất bản như: “Hàn Quốc trước thềm thế
kỷ 21” Ngô Xuân Bình (chủ biên)- Ban nghiên cứu Hàn Quốc Nxb Thống kê, Hà
Nội, 1999, “Một số vấn đề sau thống nhất của bán đảo Triều Tiên; góc nhìn từ
Việt Nam” của tác giả Ngô Xuân Bình và Phạm Quý Long, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội 2007, “ Lao động Triều Tiên nêu cao tự lực cánh sinh” của tác giả

Nguyễn Cư và Trần Quang, Nxb Lao động, Hà Nội 1964, Tra cứu văn hóa Hàn
Quốc” Hwang Gwi Yeon và Trịnh Cẩm Lan, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002,
“Ban biên soạn Hàn Quốc học, Bộ giáo trình Hàn Quốc học số 1 SNU-VNU”,
Đại học quốc gia Seoul, Đại học quốc gia Việt Nam, 2005…Nhìn chung, những
tài liệu nghiên cứu trên cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng liên quan đến
vấn đề nghiên cứu của đề tài.

4
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu còn có nhiều bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu chuyên ngành tại Việt nam. Qua khảo sát chúng tôi có thể thống kê
một số bài nghiên cứu có nội dung lien quan đến chủ đề nghiên cứu gồm: “Một
số thông tin về quân chủng phòng không- không quân Hàn Quốc”trên Tạp chí
Kiến thức Quốc phòng hiện đại; số 1, năm 2001; “Chiến lược phát triển mới của
quốc phòng Hàn Quốc”;Tạp chí Khoa học Quân sự; số 12, tháng 12, năm 2001;
“Tuyên bố chung Nhật Bản-Hàn Quốc” Tài liệu tham khảo đặc biệt, Việt Nam
thông tấn xã, ngày 12.6.2003; “Tuyên bố chung Trung Quốc- Hàn Quốc” Tài
liệu tham khảo đặc biệt, Việt Nam thông tấn xã, ngày 12.7.2003; “Những yếu tố
văn hoá- xã hội, giáo dục con người trong quá trình phát triẻn kinh tế Hàn
Quốcvà những vấn đề đặt ra trong chiến lược toàn cầu hoá hiện nay; Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản; số 2-1998; “Chiến lược cải cách kinh tế của Hàn Quốc
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế ( 1997-1999)” Tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản; số 4-1999; “Vài nét về tư tưởng Nho giáo ở Hàn Quốc; Tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản; số 6-1999; “Các biện pháp kinh tế chủ yếu của Chính phủ Hàn Quốc
cho quá trình thống nhất bán đảo Triều Tiên” Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số
5- 2000; “Vài nét về quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Mỹ (1948-1979” Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản; số 2- 2001; “Nhân tố Nhật Bản trong sự phát triển kinh tế
của Hàn Quốc ( 1961-1993)”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số 5- 2001; „Giao
lưu hợp tác văn hoá giữa Hàn Quốc với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
trong những năm gần đây‟ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số 1- 2002.
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài đã có một số luận án tiến sĩ, luận

văn thạc sĩ đã bảo vệ thành công tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, chẳng hạn:
“Lê Đình Năm; Vấn đề Triều Tiên trong quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến nay;
Luận văn thạc sĩ Khoa Lịch sử, Hà nội 2004; Thư viện quân đội ký hiệu
LAV4798. Nguyễn Thị Giang: “Quan hệ Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
và Hàn Quốc từ năm 1948 đến nay” (Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử); Hà Nội
2001; Thư viện Quân đội; ký hiệu LAV4774; Nguyễn Quang Hồng, “Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-1995: Kinh
nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt nam” Luận án tiến sĩ; Trường Đại học

5
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2002; Nguyễn Nam Thắng; “Quan hệ Việt Nam- Hàn
Quốc giai đoạn 1992-2002 đặc điểm và khuynh hướng”, Luận Án Tiến sỹ Lịch
sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh- 2004;
Lê Đức Hạnh: “Quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1964-1973”, Luận văn thạc sĩ sử học; Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Đại Học Quốc gia Hà Nội; Hoàng Văn Hiển:
“Quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Hàn Quốc (1961-1993) và kinh nghiệm
đối với Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu của đề tài là từ góc độ khu vực
học, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá về một số chính sách của các nước
lớn trên vùng bán đảo Korea và phân tích những mặt tích cực và hạn chế của
những chính sách này đối với vùng bán đảo cũng như một số dự báo về tương lai
của hai miền trên vùng bán đảo Korea trong những thập kỷ tiếp theo của thế kỷ
XXI.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đề cập đến nội dung chủ yếu về chính sách
của bốn nước lớn là Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc đối với Hàn Quốc và
CHDCND Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh cho đến nay. Qua đó có thể
thấy được những tác động tích cực và hạn chế của các chính sách đó tới hai nước

của bán đảo Triều Tiên và đồng thời cũng cho thấy được mục tiêu của các nước
lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong tương lai.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hai nhà nước CHDCND Triều Tiên và Hàn
Quốc được xoay quanh trục quan hệ chính các nước lớn là Mỹ, Nhật, Nga, Trung
Quốc.
5 . Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn này chủ yếu sử dụng phương
pháp mô tả lịch sử và liên ngành. Trong đó, phương pháp mô tả lịch sử sẽ giúp
cho đề tài hệ thống hóa được nội dung nghiên cứu và có cái nhìn hệ thống về các
vấn đề lịch sử. Phương pháp nghiên cứu liên ngành còn mở rộng phạm vi nghiên

6
cứu của đề tài, cũng như sắp xếp, xử lý các nguồn tài liệu nghiên cứu. Ngoài ra,
đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp tổng hợp và phân
tích…
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo của luận văn, đề tài
luận văn được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1: Vài nét về bán đảo Triều Tiên từ năm 1945 đến năm 1991
Chương 2: Chính sách của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga đối với
bán đảo Triều Tiên từ năm 1991 đến nay
Chương 3: Ảnh hưởng của chính sách của Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Nga đối với bán đảo Triều Tiên từ năm 1991 đến nay

7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: VÀI NÉT VỀ BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1991
1.1 Chính sách của các nước lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong thời
kỳ 1945-1953
Giai đoạn nửa sau thế kỷ XX, thế giới loài người tiếp tục phải đối mặt với

một cuộc chiến tranh mới- cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên phạm vi thế giới mà
nội dung chủ yếu của nó là cuộc chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống thế giới với
một bên là khối các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và một bên là
khối các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ. Có thể thấy, cuộc chạy đua vũ
trang khi ngấm ngầm, khi công khai cùng với những cuộc chiến tranh khu vực,
chiến tranh bộ phận, sản xuất vũ khí hiện đại, chạy đua thám hiểm vũ trụ… đều
có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của hai hệ thống thế giới.
Đến nay, tuy chiến tranh lạnh đã kết thúc, thế giới đã bước sang một thời
kỳ phát triển mới, song trên bình diện quốc tế, các cuộc chiến tranh, tranh chấp
và những mâu thuẫn khu vực, bộ phận vẫn tiếp tục xuất hiện với những mức độ
và phạm vi khác nhau.
Khi đề cập đến chiến tranh lạnh và sự ảnh hưởng của nó trên phạm vi thế giới,
đã có nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu, các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế…của nhiều nhà hoạt động
chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc nhiều ngành khoa
học khác nhau nghiên cứu về vấn đề này.
Chẳng hạn, theo định nghĩa của từ điển của từ điển bách khoa toàn thư:
“Chiến tranh lạnh (1945–1991) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng
thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ
yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia vệ tinh của nó, với các cường quốc
thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ. Dù các lực lượng tham gia chủ yếu
không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các
liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc
chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh uỷ nhiệm, tuyên truyền, và
cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian.”[53].

8
Là một nước một cường quốc đứng đầu thế giới tư bản sau Đại chiến thế
giới lần thứ II, với âm mưu làm bá chủ thế giới, Mỹ cho rằng: “Chiến tranh lạnh
trước hết là cuộc chiến tranh của các tư tưởng, một cuộc đấu tranh về các

nguyên tắc tổ chức xã hội loài người, một cuộc đua tranh giữa chủ nghĩa tự do
và chủ nghĩa tập thể cưỡng ép. Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh lạnh là cam kết thực
sự bền vững đầu tiên của đất nước trong Nền Chính trị Cường quốc, và nó đòi
hỏi người dân Mỹ phải để cho những xung lực trái ngược nhau của họ đối mặt
với thế giới bên ngoài: mong muốn tồn tại biệt lập và mong muốn bảo vệ tự do
cho những dân tộc khác – vì sự thúc đẩy của cả chủ nghĩa vị tha lẫn tư tưởng tư
lợi.” [12].
Như vậy, từ góc nhìn chính trị có thể thấy cuộc chiến tranh lạnh chính là
sự hình thành mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới mà chủ yếu là sự đối lập về
mục tiêu chiến lược giữa hai cường quốc Liên Xô và Mỹ.
Đối với Liên Xô, là nước đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, Liên Xô
muốn duy trì hòa bình và an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ
nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, về phía Mỹ,
mục tiêu chiến lược toàn cầu là bao vây, chống phá Liên Xô và các nước XHCN,
đẩy lùi phong trào cách mạng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh nhằm
thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Trước sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào dân tộc
trên phạm vi thế giới, đầu năm 1947, Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đưa ra
chủ nghĩa Truman lộ rõ âm mưu chiến lược toàn cầu với quan điểm rằng Mỹ
phải đứng ra đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do, phải giúp đỡ cho các
dân tộc trên thế giới chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự
bành trướng của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Cũng
từ đó, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh chống Liên Xô và các nước XHCN, đàn
áp phong trào giải phóng dân tộc.
Ở khu vực châu Á, bán đảo Triều Tiên nằm ở khu vực Đông Bắc Á, là
một trong những khu vực có vị trí địa - chiến lược quan trọng. Không phải ngẫu
nhiên mà trong nhiều thập kỷ qua, vùng bán đảo này luôn được các nước lớn như

9
Liên Xô (nay là Nga), Trung Quốc, Mỹ và Nhật đặc biệt quan tâm. Là một bán

đảo nằm án ngữ ngã ba chiến lược cả trên biển lẫn lục địa, chiếc cầu nối Thái
Bình Dương với lục địa châu Á và châu Âu nên vùng bán đảo này đã sớm trở
thành khu đệm, điểm nóng của sự tranh chấp quyền lực quốc tế.
Trở lại với bối cảnh quốc tế của bán đảo có thể thấy, trước khi Đại chiến
thế giới lần thứ hai kết thúc, vấn đề độc lập của bán đảo Korea đã trở thành nội
dung quan trọng của nhiều hội nghị quốc tế.
Tháng 11.1943, tại Hội nghị Cai rô Ai Cập, Tổng thống Mỹ Franklin D.
Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchil và đại diện Trung Quốc lúc đó là
Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai- shek) đã ra Tuyên bố chung - Tuyên bố nêu rõ:
“Ba nước đồng minh cùng chiến đấu để ngăn cản và trừng phạt cuộc xâm lăng
của Nhật Bản. Ba nước không muốn tìm kiếm lợi ích riêng và không hề nghĩ đến
việc bành trướng đất đai. Mục đích của ba nước là buộc Nhật bỏ hẳn các đảo tại
Thái Bình Dương mà Nhật đã chiếm cứ hay đóng quân kể từ khi bắt đầu từ chiến
tranh thế giới thứ nhất vào năm 1914, cùng tất cả các lãnh thổ Nhật đã cướp của
Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan, và quần đảo Bành Hồ, phải được giao lại
hoàn toàn cho Cộng hoà Trung Hoa. Về vấn đề Triều Tiên, ba nước nói trên
cũng nêu rõ: “vào một lúc thích hợp, Triều Tiên sẽ trở nên tự do và độc lập” [1,
tr251].
Có thể thấy, sau tuyên bố Cairo, một không khí vui mừng, phấn khởi bao
trùm trên khắp bán đảo Triều Tiên, viễn cảnh cho một nước Triều Tiên giải
phóng thoát khỏi ách chiếm đóng của Nhật đang hiện ra trước mắt họ. Tuy nhiên
cụm từ mà họ còn chưa chú ý đến trong Tuyên ngôn Cairo đó là vào một lúc
thích hợp, nếu hiểu một cách cụ thể thì độc lập và tự do của vùng bán đảo này
đang nằm trong tay các thế lực quốc tế và như vậy, khi nào thì thời gian cho tự
do và độc lập của Triều Tiên là sẽ thích hợp, tương lai về một nước Triều Tiên
độc lập và tự do như vẫn chưa có hồi kết.
Mặc dầu vậy, Tuyên bố Cairo cũng có một ý nghĩa quan trọng với khu
vực Thái Bình Dương nói chung và bán đảo Triều Tiên nói riêng. Đây không chỉ
là một cuộc dàn xếp có chủ định của ba cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương


10
sau sự thất trận của Nhật, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của bán đảo Triều
Tiên.
Vào thời điểm khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối,
sau Hội Nghị Teheran, Hội nghị Yalta họp vào thời điểm tháng 2 năm 1945, các
nước Đồng minh và Liên Xô tiếp tục đề cập đến vấn đề bán đảo Triều Tiên, đối
với vấn đề Triều Tiên, Hội nghị đã thông qua quy định:
- Nhằm xây dựng một nước Triều Tiên độc lập, thành lập một chính phủ
dân chủ lâm thời Triều Tiên để đảm nhiệm việc phát triển nông nghiệp, công
nghiệp, vận tải và nền văn hoá quốc gia chung cho cả nước Triều Tiên, đồng thời
sớm thanh toán những hậu quả chiến tranh do Nhật Bản gây ra.
- Để giúp cho việc thành lập chính phủ lâm thời Triều Tiên, Uỷ ban liên
hợp gồm đại diện bộ chỉ huy Liên Xô và Mỹ ở Triều Tiên được thành lập. Uỷ
ban này sẽ thăm dò ý kiến của các đảng phái, và các tổ chức dân chủ để thảo ra
những đề nghị về giải quyết vấn đề Triều Tiên. Những khuyến nghị này của uỷ
ban sẽ được gửi đến bốn nước Liên Xô, Anh, Mỹ và Trung Quốc xét và hai chính
phủ Liên Xô và Trung Quốc sẽ có quyết định cuối cùng.
Hội nghị cũng quy định thời gian ủy trị của 4 cường quốc là không quá 5
năm và việc uỷ trị của các nước này chỉ nhằm khuyến khích và giúp đỡ cho sự
tiến bộ về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phát triển quyền tự quản dân chủ
cho nền độc lập dân tộc của Triều Tiên [13, tr229].
Tuy nhiên, những quyết định nêu trên đã không được thực hiện theo đúng
tinh thần của nó, vì do những bất đồng về quan điểm giữa Liên Xô và Mỹ trong
cách giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên.
Như vậy, sự bất đồng quan điểm giữa Liên Xô và Mỹ đã gây ra những ảnh
hưởng nghiêm trọng trong việc thống nhất hai miền bán đảo Triều Tiên thời điểm
đó. Cuối cùng, Uỷ ban tạm thời của Liên Hợp Quốc đến bán đảo Triều Tiên làm
nhiệm vụ tổ chức bầu cử thành lập một Uỷ ban tạm thời, nhưng sau đó tình hình
diễn ra cũng không theo đúng dự định, các mục tiêu ban đầu của Liên Hợp Quốc
về vấn đề bán đảo Triều Tiên đã bị loại bỏ.


11
Cũng trong thời gian này, tình hình nội bộ bán đảo Triều Tiên cũng diễn
ra nhiều biến động phức tạp, sự đối nghịch giữa các lược lượng quốc gia dân chủ
với những người cộng sản cũng trở nên căng thẳng. Trong bối cảnh đó, nhiều
đảng phái trong nước cũng đã lần lượt xuất hiện vào thời gian này. Những người
theo phái dân tộc chủ nghĩa thì kiên trì chờ đợi những nhà lãnh đạo Chính phủ
cách mạng lâm thời đang sống lưu vong ở nước ngoài trở về. Ngược lại, những
người cộng sản thì muốn thiết lập ngay một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quan
điểm này đã xuất hiện khi họ còn là những thành viên của Chính phủ cách mạng
lâm thời và giờ đây lý tưởng đó lại bùng lên.
Sự có mặt của quân đội Liên Xô đã có mặt ở Bắc bán đảo Triều Tiên thời
điểm tháng 8.1945 và sau đó là quân đội Mỹ tiếp quản Nam bán đảo Triều Tiên
tháng 9.1945 theo Hiệp định Yanta càng làm cho tình hình vùng bán đảo trở nên
phức tạp. Nhiều đảng phái trong nước đã xuất hiện như Hàn Quốc Dân Chủ Đảng
( Hanguk Min Ju dang) do Song Chin U (Tống Trấn Vũ) cầm đầu; Kung Min
Dang ( Quốc Dân Đảng) của An Chac Hong (An Tại Hồng); Choson Kong san
Dang (Triều Tiên Cộng Sản Đảng) của Pak Hon Yong (Phác Hiến Vĩnh)… Sự
xuất hiện của nhiều đảng phái ngày càng làm cho tình hình chính trị của miền
Nam trở nên phức tạp, trong khi đó, cuộc hội đàm cấp cao Xô- Mỹ nhằm thi hành
chế độ thác quản ở bán đảo Triều Tiên vẫn dược tiến hành vào đầu năm 1946.
Do quan điểm Xô-Mỹ bất đồng nên việc giải quyết vấn đề bán đảo Triều
Tiên đã không đem lại kết quả. Trước tình hình đó, với sự thoả thuận của Lý
Thừa Vãn, Uỷ ban lâm thời của Liên Hợp Quốc về Triều Tiên lúc đó đã quyết
định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra quốc hội riêng ở miền Nam vào ngày
10.5.1948. Sau đó, một hiến pháp được thông qua (còn gọi là hiến pháp dân chủ)
ngày 20.7.1948 và ngày 15.8.1948 nước Đại Hàn Dân Quốc (gọi tắt là Hàn
Quốc) được thành lập.
Trong khi đó ở phía Bắc, dưới sự tiếp quản của Liên Xô, một Uỷ ban nhân
dân lâm thời của 5 tỉnh được thành lập do Cho Man Sik (Tào Văn Thực) đứng

đầu. Sau đó, Kim Il Sung là người thay thế nắm quyền chủ tịch.

12
Ngày 9.9.1948, Hội nghị nhân dân toàn bán đảo Korea tuyên bố thành lập
nước CHDCND Triều Tiên và tiến hành thành lập chính phủ do Kim Il Sung làm
thủ tướng. Hiến pháp CHDCND Triều Tiên cũng xem Seoul là thủ đô và chỉ định
Pyeongyang là thủ đô tạm thời. Từ đó, tình hình phát triển của hai miền Nam-
Bắc Triều Tiên diễn ra theo hai hướng khác nhau, vĩ tuyến 38 trở thành đường
gianh giới tạm thời giữa hai miền.
Như vậy, trước khi xảy ra cuộc nội chiến, bán đảo Triều Tiên là một khu
vực hết sức nhạy cảm về chính trị và quan hệ quốc tế. Đại chiến thế giới thứ hai
kết thúc, Triều Tiên được giải phóng, nhưng vùng bán đảo này lại đặt dưới sự Uỷ
trị quốc tế, mà ở đó là thế lực của các cường quốc quốc tế, đại diện là Liên Xô và
Mỹ. Về một phương diện nào đó, bán đảo Triều Tiên đã được đặt trên bàn cờ
quốc tế, người Triều Tiên không tự giải phóng được cho mình mà đã đặt quốc gia
mình vào một thế lưỡng khó đảo ngược. Hơn nữa, trước vận mệnh của lịch sử,
người Triều Tiên đã không nắm được thời cơ và không tìm được tiếng nói chung
trong việc thống nhất bán đảo mà đã đặt quốc gia dưới sự chi phối của các quốc
gia lớn là Mỹ và Liên Xô thời điểm đó.
Vậy là, cho đến thời điểm năm 1948, bán đảo Triều Tiên đã xuất hiện hai
nhà nước với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau và hai hệ tư tưởng đối lập
nhau. Hai nhà nước này ngoài việc không thừa nhận chế độ của nhau mà còn
thường xuyên công kích và muốn lật đổ nhau bằng biện pháp quân sự. Sự tồn tại
của hai nhà nước có chế độ chính trị và hệ tư tưởng đối lập nhau trong thời điểm
sau khi bán đảo Triều Tiên vừa giải phóng khỏi ách thống trị của Nhật Bản là
điều khó có thể tránh khỏi dẫn tới sự xung đột thôn tính lẫn nhau giành quyền
thống trị.
Từ tháng 6.1950 đến tháng 7.1953, trên vùng bán đảo Korea đã xảy ra
cuộc nội chiến giữa hai miền Nam- Bắc. Xét về tính chất, cuộc chiến tranh này
không chỉ dừng lại ở một cuộc nội chiến mà nó chính là một cuộc đụng đầu lịch

sử giữa hai hệ thống thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa một bên là hệ
thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu với một bên là hệ thống tư bản chủ
nghĩa do Mỹ cầm đầu. Mặc dù Liên Xô là nước không trực tiếp tham chiến, song

13
lại có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hậu thuẫn giúp CHDCND Triều Tiên
và đứng ra giải quyết chiến tranh. Mỹ và Trung Quốc là hai thế lực quốc tế lớn
đã trực tiếp tham gia cuộc chiến. Khi đề cập đến nguyên nhân gây ra chiến tranh
đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Trong đó, Liên Xô và các nước XHCN thời
điểm đó cho rằng Mỹ đã cố tình gây ra cuộc chiến tranh xâm lược bán đảo Korea,
chính Nam Triều Tiên xâm lược Bắc Triều Tiên. Ngược lại, Mỹ và các nước
đồng minh thân Mỹ lại khẳng định: “Liên Xô và Trung Quốc đã thúc đẩy Bắc
Triều Tiên gây ra chiến tranh. Trải qua 3 năm chiến tranh, vấn đề bán đảo
Korea vấn đề thống nhất Triều Tiên vẫn không giải quyết, mà còn để lại một hậu
quả vô cùng nặng nề cho cả hai phía. Tổn thất không chỉ là sinh mệnh vật chất
mà còn là tinh thần. Sự thù địch giữa hai miền ngày càng sâu sắc. Kết quả của
cuộc chiến không phải là hoà bình thống nhất mà là cục diện đối đầu ngày càng
căng thẳng” [2, tr231].
1.2 Bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ 1953-1991
1.2.1 Chính sách của Mỹ và Nhật Bản
Như đã đề cập ở trên, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến thời điểm
cuộc nội chiến trên vùng bán đảo Triều Tiên kết thúc vào năm 1953, vấn đề giải
phóng của bán đảo Triều Tiên luôn phụ thuộc vào sự sắp đặt của các nước lớn,
đứng đầu là Liên Xô và Mỹ.
Trở lại lịch sử quan hệ quốc tế sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc,
có thể thấy, các nước tư bản đồng minh của Mỹ như Anh, Pháp tuy là những
nước thắng trận nhưng lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế khủng hoảng,
nợ nần chồng chất. Các nước trong khối phát xít gồm Đức, Nhật, Italia bị bại trận
hầu như sụp đổ hoàn toàn và bị quân đồng minh chiếm đóng. Trong khi đó, Mỹ
là nước không những không bị chiến tranh tàn phá mà chính cuộc chiến đã đem

lại những món lợi khổng lồ về kinh tế, đưa Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số
1 thế giới [3, tr78].
Mặc dù là nước siêu cường về kinh tế và đang chiếm giữ độc quyền về vũ
khí nguyên tử thời điểm đó, nhưng không phải vì thế mà sức mạnh của Mỹ trở
thành vô hạn. Cũng trong thời gian này, sự lớn mạnh của hệ phong trào giải

14
phóng dân tộc và hệ thống xã hội chủ nghĩa đã buộc Mỹ phải lựa chọn âm mưu
chiến lược toàn cầu bằng cách ngăn chặn sự phát triển của phong trào cách mạng
thế giới. Để thực hiện âm mưu chiến lược đó, Mỹ đã chi gần 10 tỷ đô la nhằm
phục hồi các nước tư bản ở châu Âu và 2,4 tỷ đô la cho việc phục hồi Nhật Bản.
Cũng từ đó, hàng loạt các khối liên minh quân sự được thành lập: Tổ chức Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương (NATO tháng 9.1949); Hiệp ước an ninh Thái Bình
Dương ( ANZUS 9.1951); ngoài ra, Mỹ còn ký các hiệp ước liên minh quân sự
khác như Hiệp ước An ninh Nhật- Mỹ; Hiệp ước Mỹ- Nam Triều Tiên; Mỹ - Đài
Loan; Mỹ- Thái Lan; Mỹ - Philippin…cùng với hệ thống quân sự được triển khai
với các nước đồng minh, Mỹ còn đặt 800 căn cứ quân sự trên 35 nước và khu
vực tạo thành thế chiến lược bao vây Liên Xô và các nước XHCN. Trước sự lớn
mạnh của Liên Xô và các XHCN, Mỹ buộc phải nhiều lần điều chỉnh chiến lược
toàn cầu. Chẳng hạn, từ 1946-1952 Mỹ thực hiện chiến lược ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản; từ 1953-1960 là chiến lược trả đũa ồ ạt; từ năm 1961-1968 là
chiến lược phản ứng linh hoạt; từ năm 1969-1980 là chiến lược răn đe thực tế và
từ 1981-1989 là chiến lược đối đầu trực tiếp… Sau cuộc khủng bố ngày
11.9.2001, Mỹ đã liệt CHDCND Triều Tiên vào trục Liên minh ma quỷ cần phải
đối phó. Đó cũng là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên[9, tr127].
Đối với bán đảo Triều Tiên, sau khi chiến tranh thứ hai kết thúc, Mỹ
nhanh chóng tiếp quản phía Nam bán đảo Triều Tiên. Sự xuất hiện của Mỹ trên
vùng bán đảo Triều Tiên cũng như mâu thuẫn Mỹ- Liên Xô trong việc giải quyết
vấn đề bán đảo Triều Tiên đã làm cho tình hình ngày càng phức tạp. Trong thời

gian thực hiện chế độ thác quản ở Nam bán đảo Triều Tiên, Mỹ đã ủng hộ chế độ
của I Seung Man, đàn áp phong trào cánh tả. Sau khi chính phủ Đại Hàn Dân
Quốc do I Seung Man làm tổng thống, Mỹ là nước đầu tiên công nhận chính phủ
này và cũng trong thời gian này, Mỹ cũng ráo riết thúc đẩy cuộc tiến công để
thống nhất bán đảo nhằm kìm chế, ngăn chặn sự ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản.
Trong những năm xảy ra cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên 1950-
1953, Mỹ đã nhanh chóng nhảy vào tham chiến núp dưới danh nghĩa quân đội

15
Liên Hợp Quốc. Trước những cuộc tấn công ào ạt của quân đội CHDCND Triều
Tiên chiếm Seoul và sau đó là chiếm 90% lãnh thổ Hàn Quốc. Trước tình hình đó,
tháng 9.1950, Mỹ đã huy động một lực lượng lớn gồm 83.000 quân kết hợp với
57.000 quân Hàn Quốc và quân Anh đối mặt với quân đội CHDCND Triều Tiên.
Do chênh lệch về lực lượng, vũ khí cũng như phương tiện chiến tranh, nhờ đó
liên quân Liên Hợp Quốc - Hàn Quốc đã chặn được sức mạnh tấn công của quân
đội CHDCND Triều Tiên và chiếm lại Seoul. Thừa thắng, liên quân Liên Hợp
Quốc – Hàn Quốc, đã vượt qua vĩ tuyến 38 tiến lên phía Bắc. Thời điểm đó, Mỹ
cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản trên vùng bán đảo
này. Nghị quyết 81 của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đã cho phép quân Mỹ lật
đổ chính quyền CHDCND Triều Tiên. Việc liên quân Liên Hợp Quốc – Hàn
Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 tiến lên phía Bắc xâm chiếm lãnh thổ CHDCND
Triều Tiên không chỉ liên quan đến nguy cơ bị tiêu diệt của nhà nước CHDCND
Triều Tiên, mà còn là mối đe doạ nguy hiểm đối với Trung Quốc thời điểm đó.
Trước tình hình đó, ngày 22.10.1950, chí nguyện quân Trung Quốc đã tiến vào
lãnh thổ CHDCND Triều Tiên. Từ tháng 11.1950, quân đội Trung - Triều bắt đầu
phản công và sau đó chiếm lại Pyeongyang, cuối năm 1950 thì tái chiếm Seoul.
Đến mùa hè năm 1951, tuy chiến tranh vẫn xẩy ra ác liệt nhưng đã báo trước một
nhu cầu dẫn tới đàm phán kết thúc chiến tranh. Cuối cùng, ngày 27.7.1953, liên
quân Liên Hợp Quốc do Mỹ đứng đầu cùng với CHDCND Triều Tiên và Trung
Quốc đã ký Hiệp định đình chiến, Hàn Quốc không ký vào văn kiện trên. Vĩ

tuyến 38 tiếp tục trở thành khu phi quân sự giữa hai miền, và văn kiện mới chỉ
dừng lại ở Hiệp định đình chiến nên trên thực tế, hai miền bán đảo Triều Tiên
ngày nay vẫn trong tình trạng chiến tranh.
Tóm lại, trong nhiều thập kỷ qua, sự tồn tại của hai nhà nước với hai chế
độ chính trị và hai hệ tư tưởng đối lập nhau trên cùng một vùng bán đảo đã gây ra
nhiều biến động phức tạp, thăng trầm trong lịch sử. Có thể thấy, từ sau Đại chiến
thế giới lần thứ hai, nhất là từ sau chiến tranh giữa hai miền trên vùng bán đảo
Triều Tiên 1950-1953 đến nay, Mỹ luôn luôn theo đuổi chính sách thù địch, bao
vây, cấm vận với CHDCND Triều Tiên.

16
Bên cạnh những quốc gia nêu trên, Nhật Bản cũng là nước láng giềng
quan trọng trong quan hệ với vùng bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ chiến tranh
lạnh. Về mặt lịch sử, trước năm 1945, Nhật đã từng đô hộ bán đảo Korea hơn 35
năm với những chính sách thống trị rất hà khắc, nhất là trong thời kỳ chiến tranh
thế giới thứ hai. Đối với người Triều Tiên, mặc dù đã hơn nửa thế kỷ qua kể từ
ngày thoát khỏi ách thống trị của Nhật, họ cũng không dễ gì có thể gạt bỏ hận thù
quá khứ với Nhật, nhất là khi người Nhật chưa bao giờ thú nhận tội lỗi ở mức độ
làm người Triều Tiên hài lòng. Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, nhất là trong
thời gian chiến tranh lạnh thế giới, ảnh hưởng của Nhật Bản trên thế giới nói
chung và bán đảo Triều Tiên là khá mờ nhạt. Mặc dù vậy, trong chính sách đối
ngoại của mình, Nhật Bản không thể không giữa vai trò trong khu vực và nhất là
không thể không có quan hệ với bán đảo Triều Tiên. Vì thế, Nhật Bản đã được
Mỹ làm trung gian hoà giải nên năm 1965, Nhật Bản và Hàn Quốc đã thoả thuận
khép lại thù hận quá khứ tiến tới bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Sau đó,
Nhật Bản đã viện trợ cả gói cho Hàn Quốc 800 triệu USD trong thời gian 10 năm,
gồm 300 triệu viện trợ cho không, 200 triệu viện trợ cho vay của chính phủ, và
300 triệu tiền cho vay thương mại. Trong quan hệ kinh tế với Hàn Quốc, Nhật
Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại. Mậu dịch của Nhật Bản với Hàn
Quốc nhanh chóng được khôi phục từ sau thế chiến và tăng lên nhanh chóng sau

khi hai nước bình thường hoá. Chẳng hạn, năm 1950 thương mại hai chiều đạt 34
triệu USD, năm 1960 tăng lên 119 triệu USD, đến năm 1970 là 1.047 triệu USD,
năm 1990 tăng lên 29. 184 triệu USD [7, tr160].
Trong lĩnh vực đầu tư, trước khi hai nước chưa bình thường hoá quan hệ,
Nhật Bản không có sự đầu tư nào vào Hàn Quốc. Từ thập niên 1970 đến nay,
Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào Hàn Quốc nhưng giá trị đầu tư không lớn. Năm
1987 là năm đầu tư cao nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh là 647 triệu USD.
Đối với CHDCND Triều Tiên, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nhìn chung
quan hệ giữa Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên là căng thẳng về chính trị,
nhưng về kinh tế, Nhật Bản vẫn tìm cơ hội tiếp xúc với CHDCND Triều Tiên.
Năm 1956, nhân cơ hội quan hệ giữa Nhật Bản và Liên Xô được khôi phục, Nhật

17
Bản đã bắt đầu xúc tiến quan hệ mậu dịch song phương với CHDCND Triều
Tiên thông qua cảng biển Trung Quốc. Bước sang thập niên 1970, khi quan hệ về
chính trị giữa Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên bớt căng thẳng, Nhật Bản đã
xúc tiến ký kết một số hiệp định kinh tế với CHDCND Triều Tiên nhằm tạo điều
kiện cho quan hệ thương mại hai chiều của hai nước phát triển và giúp cho
CHDCND Triều Tiên có được tín dụng tại các ngân hàng của Nhật để phục vụ
cho mục tiêu xuất khẩu dài hạn. Theo đó, thương mại hai chiều giữa hai nước đã
tăng nhanh chóng, từ 59 triệu USD năm 1971, lên 361 triệu USD vào năm 1974.
Bước vào thập kỷ 1980, do chiến tranh lạnh căng thẳng trở lại, quan hệ Nhật-
Triều bị ảnh hưởng, nhất là việc CHDCND Triều Tiên không trả được nợ các
công ty Nhật, hoặc do các công dân Nhật bị bắt cóc ở CHDCND Triều Tiên. Tuy
vậy, quan hệ kinh tế Nhật - Triều vẫn tiếp tục được duy trì, thương mại hai chiều
tuy có giảm, nhưng so với giai đoạn trước vẫn đạt được những thành tựu quan
trọng, chẳng hạn: năm 1980 là 554 triệu USD, năm 1985 là 425 triệuUSD, năm
1990 là 476 triệu USD[15, tr10].
Đối với bán đảo Triều Tiên, Nhật xem vùng bán đảo này như một lá chắn
chiến lược trước sức ép quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc. Sự có mặt của Mỹ ở

bán đảo Triều Tiên sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn ngừa chiến tranh
xảy ra trên bán đảo này và hầu như gắn chiếc ô hạt nhân của Mỹ với Hàn Quốc
để che chắn cho Nhật. Về mặt chiến lược, Nhật Bản cũng không muốn bán đảo
Triều Tiên thống nhất, bởi lẽ nếu thống nhất thì Nhật sẽ mất đi một đồng minh
thân cận là Hàn Quốc và Nhật cũng sẽ mất đi cả sự che chở của Mỹ. Và, nếu một
Triều Tiên thống nhất sẽ trở thành nước hùng mạnh và tự phòng vệ bằng vũ khí
hạt nhân nên đó là điều mà Nhật Bản không muốn xảy ra.
1.2.2 Vai trò của Liên Xô và Trung Quốc
Trước hết có thể thấy, Liên Xô là cường quốc lớn đã cùng với Mỹ tham
gia giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên thông qua các Hội nghị Yalta, Hội nghị
Potsdam và sau đó là Hội nghị Ngoại trưởng 5 nước tại Matxcơva. Trong cuộc
nội chiến Nam- Bắc bán đảo Korea 1950-1953, Liên Xô không chỉ đóng vai trò
hậu thuẫn quan trọng giúp CHDCND Triều Tiên về vật chất, vũ khí, phương tiện

18
chiến tranh mà còn đưa quân đội đến giúp CHDCND Triều Tiên chống Mỹ. Theo
tài liệu lưu trữ của nước này thì có khoảng 1.963 người lính Xô Viết bị chết và bị
thương trong các trận chiến để giải phóng Triều Tiên [19, tr116].
Là nước có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề hoà bình quốc
tế trên vùng bán đảo Triều Tiên, Liên Xô thật sự tôn trọng nguyện vọng của nhân
dân Triều Tiên được sống trong hoà bình, thống nhất, độc lập và tự chủ, mà còn
tôn trọng bản sắc văn hoá dân tộc của người dân Triều Tiên.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô thực hiện chính sách hoà bình
hữu nghị, hợp tác toàn diện với CHDCND Triều Tiên và chính sách thù địch xa
lánh với Hàn Quốc. Cụ thể, sau năm 1953, Liên Xô đã giúp đỡ vật chất và kỹ
thuật cho CHDCNDTriều Tiên để nước này thực hiện nền kinh tế công nghiệp
hoá XHCN. Dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, từ đống đổ nát sau chiến tranh,
CHDCND Triều Tiên đã xây dựng được hơn 50 xí nghiệp công nghiệp lớn, 30
công trình có ý nghĩa kinh tế quốc dân quan trọng chiếm 40 % số hàng hoá do
Liên Xô trang bị. Cho đến cuối thập kỷ 1980 (trước khi Liên Xô tan rã) kim

ngạch ngoại thương Xô - Triều liên tục tăng một cách ổn định: năm 1970 là 329
triệu rúp, năm 1982 là 542 triệu rúp, năm 1998 là 1.499 triệu rúp[8, tr140]. Giáo
sư Hàn Quốc Lee Che En trong tạp chí Những vấn đề Kinh Viễn Đông đã nhận
xét: “Không nghi ngờ gì nữa, là cho đến tận năm 1991, sự giúp đỡ và ủng hộ của
Liên Xô trước đây là nhân tố quan trọng nhất thậm chí có thể nói là cơ sở quyết
định những tiến bộ kinh tế của Bắc Triều Tiên. Nga không những là nước cung
cấp tín dụng chủ yếu mà còn là nước cung cấp các nguồn tài chính và kỹ thuật
thiết yếu cho việc xây dựng những công trình, những ngành công nghiệp quan
trọng nhất của Bắc Triều Tiên. Những tổ hợp công nghiệp do Liên Xô giúp xây
dựng ở Bắc Triều Tiên năm 1990 đã sản xuất và khai thác gần 60 % toàn bộ
năng lượng điện , 30 % gang thép, 50% sản phẩm hàng hoá dầu, 13% phân hoá
học, 19% vải sợi và 40% quặng sắt”[8, tr140].
Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế, tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, tiếng
nói của Liên Xô góp phần quan trọng tạo điều kiện cho CHDCND Triều Tiên -
một nước XHCN nhỏ với những mất mát quá lớn bởi nhiều thập niên bị đế quốc

19
Nhật cai trị được nâng cao uy thế trên thế giới. Bên cạnh đó, ngoài việc ủng hộ
tích cực lập trường chính trị của CHDCND Triều Tiên, Liên Xô còn đòi rút quân
đội của nước ngoài ra khỏi Hàn Quốc, để nhân dân Triều Tiên tự quyết vấn đề
thống nhất đất nước một cách hoà bình, dân chủ không có sự can thiệp của nước
ngoài. Về đối ngoại, Liên Xô đã ký nhiều hiệp định, hiệp ước, thông cáo chung,
tuyên bố chung với CHDCND Triều Tiên nhằm xác định rõ quan hệ giữa hai
nước trên nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, ngày 6.7.1961, Liên Xô và CHDCND
Triều Tiên ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa Liên Xô và
CHDCND Triều Tiên, Hiệp ước ghi rõ: Sự thống nhất Triều Tiên cần được tiến
hành trên cơ sở hoà bình và dân chủ và điều này đã đáp ứng lợi ích quốc gia của
nhân dân Triều Tiên cũng như nhằm duy trì hoà bình ở Viễn Đông. Đối với vấn
đề an ninh của hai nước, hiệp định nêu rõ: Trong trường hợp nếu như một trong
hai bên bị bất kỳ một nước hay một liên minh quân sự nào đó tấn công vũ trang

và rơi vào tình trạng chiến tranh thì bên kia sẽ ngay lập tức chi viện, giúp đỡ về
quân sự và các mặt khác bằng tất cả các phương tiện mà nó có. Sự thống nhất
Triều Tiên cần được tiến hành trên cơ sở hoà bình và dân chủ và điều này đã đáp
ứng lợi ích quốc gia của nhân dân cũng như nhằm duy trì hoà bình ở Viễn Đông.
Đối với vấn đề an ninh của hai nước, hiệp định quy định trong trường hợp
nếu như một trong hai bên bị bất kỳ một nước hay một liên minh quân sự nào đó
tấn công vũ trang và rơi vào tình trạng chiến tranh thì bên kia sẽ ngay lập tức chi
viện, giúp đỡ về quân sự và các mặt khác bằng tất cả các phương tiện mà nó có.
Tuy nhiên, bước vào thập kỷ 1970, nửa đầu thập kỷ 1980, quan hệ Liên
Xô- CHDCND Triều Tiên ngày càng xấu đi là do những mâu thuẫn Xô-Trung,
do có sự hiểu lầm về nhau nên các cuộc viếng thăm giữa lãnh đạo cấp cao hai
nước đã bị gián đoạn, Liên Xô cắt các khoản viện trợ nên kinh tế của CHDCND
Triều Tiên bị ảnh hưởng và không đạt được mục tiêu như dự định. Đến giữa thập
kỷ 1980, quan hệ giữa hai nước lại tiếp tục phát triển, ngoài việc gửi một số máy
bay Mig 24 hiện đại, Liên Xô còn dành nhiều sự giúp đỡ khác về kinh tế và quân
sự cho CHDCND Triều Tiên. Về phần mình, phía CHDCND Triều Tiên cũng
đồng ý cho Liên Xô sử dụng cảng Wonsan, máy bay của Liên Xô được phép bay

20
qua không phận CHDCND Triều Tiên trên đường đến Việt Nam. Có thể thấy, sự
giúp đỡ của Liên Xô, cũng như các nước XHCN khác đã giúp cho CHDCND
Triều Tiên dành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, xây
dựng một nền quốc phòng có khả năng tự đảm bảo an ninh quốc gia của mình.
Sau đó, khi M. Gioócbachốp lên cầm quyền, Liên Xô bắt đầu nới lỏng quan hệ
với CHDCND Triều Tiên và cải thiện quan hệ với Mỹ và Hàn Quốc, cũng từ đó
quan hệ giữa hai nước bước vào thời kỳ gián đoạn.
Như đã nêu, đối với Hàn Quốc, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, do khác
nhau về ý thức hệ nên quan hệ giữa Liên Xô và Hàn Quốc là quan hệ đối nghịch.
Tuy nhiên, trong thời gian quan hệ giữa Liên Xô và CHDCND Triều Tiên xấu đi,
quan hệ Trung - Triều thân thiện thì Liên Xô có dấu hiệu xích lại quan hệ với

Hàn Quốc. Chẳng hạn, năm 1973, Liên Xô mời đội bóng chuyền nữ của Hàn
Quốc sang Matxcơva, hoặc ngày 6.9.1978, một cơ quan báo chí của Liên Xô lần
đầu tiên nhắc đến Nam Triều Tiên với cái tên Đại Hàn Dân Quốc. Tháng 9.1978,
Bộ trưởng Bộ Y tế Xã hội Hàn Quốc đã đến Liên Xô.
Bên cạnh Liên Xô, Trung Quốc là nước có đường biên giới tự nhiên với
CHDCND Triều Tiên, được ngăn cách bởi hai con sông là Amnok và Tuman,
trong cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Trung Quốc đã huy động một lực
lượng lớn quân chí nguyện sang giúp CHDCND Triều Tiên chống lại lực lượng
liên quân Liên Hợp Quốc và Hàn Quốc do Mỹ đứng đầu. Cũng như Liên Xô, sau
khi hiệp định đình chiến được ký kết, Trung Quốc vẫn tiếp tục giúp đỡ
CHDCND Triều Tiên về vật chất và tinh thần để nước này khắc phục hậu quả
chiến tranh và xây dựng đất nước. Về quan hệ quốc tế, trong thời kỳ chiến tranh
lạnh, các cuộc viếng thăm ngoại giao cấp cao giữa hai nước vẫn tiếp tục diễn ra,
chẳng hạn: năm 1975, Chủ Tịch Kim Il Sung thăm Trung Quốc. Tháng 10.1976,
Phó thủ tướng Trung Quốc Trần Tích Liên thăm CHDCND Triều Tiên và đã
khẳng định: Nhiệm vụ tối trọng của nhân dân Triều tiên hiện nay là buộc Hoa Kỳ
rút quân ra khỏi Nam Triều Tiên và tái thống nhất một nước Triều Tiên hoà bình
và độc lập [26, tr5,8].

21
Về quan điểm chính trị, đối với Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên luôn là
địa bàn chiến lược quan trọng của nước này. Đứng trên lập trường ngoại giao,
Trung Quốc luôn ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất bán đảo Triều Tiên của
CHDCND Triều Tiên, không muốn có sự can thiệp của bên ngoài vào bán đảo
Triều Tiên, không muốn có một cuộc chiến tranh xảy ra trên vùng bán đảo vì như
vậy sẽ lôi cuốn đồng minh vào cuộc chiến tranh hạt nhân nguy hiểm, nhưng về
thực chất, Trung Quốc không muốn thống nhất bán đảo Triều Tiên. Khi đề cập
đến vấn đề này, nhiều chuyên gia quân sự cho rằng, Trung Quốc muốn giữ
nguyên hiện trạng hai nước Triều Tiên như hiện nay, bởi lẽ, nếu một nước Triều
Tiên thống nhất sẽ làm mất đi ảnh hưởng của Trung Quốc như Việt Nam, hoặc

khi quân Mỹ tiếp tục ở lại Hàn Quốc sẽ là một đối trọng với Liên Xô chống lại sự
ảnh hưởng của nước này ở châu Á. Rõ ràng là, cũng như Mỹ và Nga, Trung
Quốc cũng muốn giữ vai trò ảnh hưởng của họ ở bán đảo Triều Tiên. Trên thực
tế, Trung Quốc đã biến bán đảo Triều Tiên thành bức tường an ninh lâu dài của
Trung Quốc.
1.3 Hai nhà nước Triều Tiên trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1953-1990
1.3.1 Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
Như đã nêu ở trên, sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, do sự bất đồng về
quan điểm giữa Mỹ và Liên Xô trong việc giải quyết vấn đề Triều Tiên nên tình
hình chính trị ở đây đã có nhiều biến động phức tạp, và kết quả cuối cùng đã dẫn
đến việc thành lập hai nhà nước trên vùng bán đảo với hai chế độ chính trị khác
nhau và hai hệ tư tưởng đối lập nhau.
Sau cuộc chiến tranh 1950-1953, tình hình chính trị và các quan hệ quốc
tế trên vùng bán đảo Triều Tiên tiếp tục diễn biến phức tạp và đó cũng chính là
hệ quả của cuộc đối đầu lịch sử giữa hai hệ thống thế giới.
Trở lại lịch sử của nhà nước CHDCND Triều Tiên trên vùng bán đảo
Triều Tiên sau cuộc chiến tranh 1950-1953 có thể thấy, sau khi kết thúc chiến
tranh, được sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên đã
khẩn trương bắt tay vào công cuộc phục hồi và phát triển đất nước.

×