Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Báo chí nội chính với công cuộc cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn










Báo chí nội chính với công cuộc cải cách tư pháp

(Khảo sát các báo, tạp chí nội chính từ tháng 1/2002
đến tháng 6/2005)

Chuyên ngành: báo chí
mã số: 50430






Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thành Hưng
Người thực hiện: Vũ Hồng Thuý












Hà Nội, năm 2005


Lời cảm ơn
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn đã giảng dạy và hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Nội chính Trung ương, các báo, tạp
chí thuộc khối Nội chính bao gồm: báo Pháp luật Việt Nam, báo Bảo vệ
Pháp luật, báo Pháp luật và Đời sống, báo Công lý, báo Thanh tra, tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Pháp lý, tạp chí Toà án nhân dân, tạp chí
Thanh tra, tạp chí Kiểm sát, tạp chí Luật học đã cung cấp tài liệu và hỗ trợ
tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành đề tài "Báo chí nội chính với
công cuộc cải cách tư pháp".
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Thành Hưng,
người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi là sinh
viên khoa Báo chí cũng như thời gian tôi thực hiện đề tài này.
Tôi cũng trân trọng cảm ơn gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, khích lệ tôi hoàn thành khoá học.
Đề tài "Báo chí nội chính với công cuộc cải cách tư pháp" chắc
không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế do cải cách tư pháp là
một lĩnh vực mới, phức tạp và nhạy cảm. Mặt khác, Nghị quyết 08 của Bộ
Chính trị được ban hành từ tháng 1/2002, tất cả các công việc liên quan tới
lĩnh vực cải cách tư pháp mới chỉ là bước đầu, đặt nền móng cho một cuộc

cải cách toàn diện và một nền tư pháp minh bạch hơn trong tương lai. Do
đó, tôi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo và động viên, khích lệ của các
thầy giáo, cô giáo, các nhà chuyên môn và bạn bè, đồng nghiệp để có thể
tiếp tục phát triển đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Vũ Hồng Thuý



Danh sách viết tắt


BC
Báo chí
BCNC
Báo chí nội chính
CCTP
Cải cách tư pháp
NQ
Nghị quyết
TW
Trung ương
Nghị quyết 08
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới


Mục lục
Phần mở đầu 1

Chương 1: Vai trò của báo chí nội chính trong công cuộc cải cách tư pháp 9
1.1. Giới thuyết khái niệm và hạn định đối tượng khảo sát 9
1.1.1. Hoạt động tư pháp 9
1.1.2. Nguyên nhân và động lực của cải cách tư pháp 11
1.1.3. Khái niệm báo in 16
1.1.4. Các báo, tạp chí thuộc khối nội chính 18
1.2. Nhiệm vụ đặt ra đối với báo chí nội chính quá trình cải cách
tư pháp 24
1.2.1. Nhiệm vụ nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân 25
1.2.2. Nhiệm vụ tham gia phát hiện vi phạm, phạm tội, phê phán các
hành vi tiêu cực, tham nhũng, vô trách nhiệm 27
1.2.2.1. Ưu điểm của thông tin phòng chống tội phạm trên báo chí nội
chính 28
1.2.2.2. Hạn chế từ mặt trái của thông tin phòng, chống tội phạm trên
báo chí nội chính 30
1.2.2.3. Giải pháp nâng cao tính trung thực của thông tin
cải cách tư pháp 33
1.2.3. Nhiệm vụ biểu dương những điển hình tiên tiến, những gương
dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ công lý của cán bộ tư pháp
35
1.3. Vai trò của báo chí trong hoạt động cải cách tư pháp 36
Chương 2: Báo chí nội chính thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền và phản ánh
công cuộc cải cách tư pháp 41
2.1. Báo chí nội chính tuyên truyền về lĩnh vực tư pháp trước khi Nghị
quyết 08 ra đời 41
2.1.1. Sự xuất hiện của các vấn đề tư pháp cần cải cách trên các báo 41
2.1.2. Nội dung và phương thức phản ánh công tác tư pháp trên báo chí
nội chính trước năm 2002 44
2.2. Báo chí nội chính với công cuộc cải cách tư pháp 46
2.2.1. Báo chí nội chính tuyên truyền nâng cao chất lượng hoạt động và

đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp 48
2.2.2. Báo chí nội chính và nhiệm vụ giải quyết các vụ án trọng điểm và
đấu tranh chống tội phạm 57
2.2.2.1. Vụ án Năm Cam và đồng phạm- Vụ án điểm lớn nhất trong
lịch sử tố tụng Việt Nam được thông tin ở nhiều khía cạnh trên báo chí
nội chính 58
2.2.2.2. Vụ án Lã Thị Kim Oanh - Vụ án tham nhũng điển hình được
báo chí nội chính tập trung phản ánh 63
2.2.3. Thông tin phòng, chống tội phạm trên báo chí nội chính phục vụ
công tác cải cách tư pháp 66
2.2 4. Báo chí nội chính tuyên truyền về công tác kiểm tra bắt, giam, giữ khi
cải cách tư pháp 69
2.2.5. Báo chí nội chính và nội dung tổng kết, rà soát và giải quyết khiếu
kiện về tư pháp 74
2.2.6. Báo chí nội chính và vấn đề củng cố, kiện toàn tổ chức các cơ quan tư
pháp 81
2.3. Một số nhận xét và đề xuất 86
2.3.1. Những kết quả đã đạt được của báo chí nội chính trong việc thực
hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp 86
2.3.2. Những điểm cần bổ sung về mặt nội dung và cách thức thông tin
88
Chương 3: Những vấn đề về thể loại và hình thức thể hiện 94
3.1. Các thể loại chiếm ưu thế trên báo chí nội chính 94
3.1.1 Thể loại phản ánh 95
3.1.2. Thể loại bình luận 99
3.1.3. Thể loại điều tra 101
3.1.4. Thể loại phỏng vấn 105
3.1.5. Thể loại tin 110
3.1.6. Thể loại tường thuật và các thể loại khác 113
3.1.6.1. Thể loại tường thuật . 113

3. 1. 6. 2. Các thể loại khác . 117
3.1.7. Xu hướng kết hợp các thể loại báo chí trên báo chí nội chính . 117
3.2. ảnh hưởng của cách thức thể hiện đến hiệu quả thông tin 119
3.2.1. Đặc điểm chung về cách thức thể hiện tác phẩm trên báo chí
nội chính 119
3.2.2. Thông tin cải cách tư pháp dưới hình thức bài viết độc lập và các
chuyên trang, chuyên mục 120
3.3. Một vài nhận xét và đề xuất 122
Kết luận : 124
Danh mục tài liệu tham khảo 129












Phụ lục
( Đánh số trang riêng)
Phụ lục 1: Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới 2
Phụ lục 2: Nghị quyết về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra 10
Phụ lục 3: ý kiến của các nhà quản lý và những người nhận ảnh hưởng trực
tiếp từ công cuộc cải cách tư pháp .23
Phụ lục 4: Tổng hợp kết quả khảo sát liên quan đến đề tài "Báo chí nội chính

với công cuộc cải cách tư pháp" 29
Phụ lục 5: ảnh một số bài báo viết về cải cách tư pháp trên báo chí
nội chính……………… 31











1
Phần mở đầu
1. Lịch sử nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Báo chí nội chính là một mảng quan trọng trong hệ thống báo chí cách
mạng Việt Nam, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới mà nội dung
chủ yếu đề cập đến vấn đề phải cải cách tư pháp. Vì vậy, Nghị quyết này còn
được gọi tắt là Nghị quyết 08 về cải cách tư pháp. Có thể nói, Nghị quyết 08
ra đời đã tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động
của cả một hệ thống chính trị về các vấn đề tư pháp. Những điều mà trước kia
người dân và các cơ quan chức năng khó có thể thực hiện được như đòi bồi
thường oan sai, tranh tụng công khai tại phiên toà, bị cáo ra toà được mặc
thường phục, hàng trăm vụ án tham nhũng lớn nhỏ được đưa ra ánh sáng v.v
đều được Nghị quyết 08 cho phép thực hiện. Toàn xã hội như bước vào một sự
thay đổi lớn trong nhận thức và trong thực hiện một vấn đề liên quan đến pháp

luật.
Thực tế cho thấy, để có được cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư pháp,
có sự đóng góp không nhỏ của các báo nội chính. Mặc dù vậy, cho đến nay,
có rất ít đề tài nghiên cứu một cách hệ thống cách thức thông tin và xu hướng
phát triển của báo chí nội chính trong công cuộc cải cách tư pháp. Tháng
11/2003, Ban Nội chính Trung ương có tổ chức một hội thảo giữa các báo, tạp
chí nội chính bàn về cách thức thông tin nội dung cải cách tư pháp. Tuy
nhiên, nội dung cuộc hội thảo này mới chỉ dừng lại ở việc các báo, tạp chí nêu
thuận lợi, khó khăn của các cơ quan báo chí trong quá trình tuyên tuyền Nghị
quyết 08 của Bộ Chính trị, chưa đánh giá tổng thể về ảnh hưởng của báo chí
nội chính đối với công cuộc cải cách tư pháp. Đối với các nhà nghiên cứu báo
chí và sinh viên, học viên ngành báo chí, đề tài này hầu như còn bỏ trống.

2
Trong khi đó, Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới khẳng định: "Trong
công cuộc cải cách tư pháp, các phương tiện thông tin đại chúng cần phải
tích cực tham gia vào việc phát hiện vi phạm, tội phạm, biểu dương những
cán bộ tư pháp dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ công lý, phê
phán hành vi tiêu cực, tham nhũng, vô trách nhiệm" [2]. Nghị quyết 08-
NQ/TW cũng nhấn mạnh trách nhiệm của các phương tiện thông tin đại
chúng khi đưa tin phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, đồng thời phải
chịu trách nhiệm về việc đưa tin và bình luận.
Cho đến nay, các cơ quan chức năng đều nhận thấy tầm quan trọng của
phương tiện thông tin đại chúng trong việc song hành cùng các cơ quan tư
pháp tiến hành cải cách những bất cập trong công tác tư pháp. Nhưng bản
thân các cơ quan báo chí cũng thừa nhận sự thiếu thống nhất, thiếu hệ thống
trong quá trình thông tin về lĩnh vực này. Vì vậy, việc đánh giá, tổng kết
những việc đã làm được, những khía cạnh còn yếu kém trong quá trình thông
tin về cải cách tư pháp của các cơ quan báo chí nói chung và báo chí nội

chính nói riêng đang là vấn đề thời sự cần phải quan tâm.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Để công tác tư pháp có những chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện tốt
nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần có sự thay
đổi căn bản trong nhận thức và trong hành động, cả từ phía nhà nước, cả từ
phía công dân. Báo chí là một kênh thông tin tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước đến nhân dân, đồng thời phản ánh hiện thực cuộc
sống sinh động và những chuyển biến sau khi chính sách được ban hành. Vì
vậy, báo chí cũng cần có phương thức thông tin cho phù hợp với sự vận động
của xã hội. Trong thời gian qua, mặc dù các báo đã có nhiều nỗ lực trong

3
công tác tuyên truyền nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phản ánh quá
trình hoàn thiện nền tư pháp trong công cuộc đổi mới.
Trong quá trình thông tin về cải cách tư pháp, báo chí nội chính xác
định ba vấn đề. Một là, cải cách tư pháp phải góp phần nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân cũng như của các cán bộ, công chức, nhất là cán bộ công
chức thuộc khối cơ quan bảo vệ pháp luật. Hai là, cải cách tư pháp phải góp
phần đề cao Hiến pháp và pháp luật, các quyền và lợi ích của con người phải
được đảm bảo bằng các cơ chế pháp lý hữu hiệu, ngăn chặn sự lạm quyền
hoặc tuỳ tiện của các cán bộ trong bộ máy công quyền. Ba là, cải cách tư pháp
phải góp phần đổi mới và làm cho hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng
hoàn thiện để không chỉ phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước mà
còn phù hợp với pháp luật quốc tế. Để đạt được những mục tiêu này, đứng về
góc độ báo chí, có những nội dung các báo nội chính đã làm tốt và có những
nội dung báo chí nội chính chưa theo kịp sự nhạy bén, năng động của các báo
ngoài hệ thống báo chí nội chính.
Do đó, đề tài này nghiên cứu vai trò của các báo nội chính đối với công
tác cải cách tư pháp, trong đó đề cập đến những mặt đã làm được, những mặt

chưa làm được, nhằm góp phần tìm ra một giải pháp khắc phục những hạn
chế của các báo, tạp chí trong lĩnh vực này.

3. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, các ngành trong khối nội chính Trung ương đều có cơ quan
báo chí với 2 ấn phẩm báo chí bao gồm một tạp chí chuyên ngành phục vụ
cho nhu cầu nghiên cứu và một tờ báo riêng của ngành để phát hành rộng rãi
phục vụ công chúng. Thanh tra Chính phủ có tạp chí Thanh tra và báo
Thanh tra. Toà án nhân dân tối cao có tạp chí Toà án nhân dân và báo Công
lý. Bộ Tư pháp có tạp chí Dân chủ và Pháp luật và báo Pháp luật (từ ngày

4
1/1/2005 đổi tên thành báo Pháp luật Việt Nam). Trường Đại học Luật Hà
Nội thuộc Bộ Tư pháp có tạp chí Luật học. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
có tạp chí Kiểm sát, bản tin Kiểm sát và báo Bảo vệ pháp luật. Hội Luật gia
Việt Nam có tạp chí Pháp lý và báo Đời sống và Pháp luật. Ban Nội chính
Trung ương có bản tin Nội chính. Căn cứ theo tôn chỉ, mục đích và đối
tượng phát hành của các báo, tạp chí, bản tin trong khối nội chính, luận văn
của chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa các tạp chí, các báo
trong khối nội chính với công cuộc cải cách tư pháp mà không đề cập đến nội
dung này ở các bản tin như bản tin Kiểm sát, bản tin Nội chính do bản tin chỉ
phát hành nội bộ. Mặt khác, hiện nay, trong các cơ quan nội chính địa phương
như các Sở Tư pháp, Viện Kiểm sát các tỉnh, thành phố cũng có nơi xuất bản
báo, tạp chí như báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan ngôn luận
của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh phát hành khá rộng rãi và được công
chúng đón nhận. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu về hệ thống báo, tạp chí
của các cơ quan nội chính trung ương đã rất rộng và phong phú nên luận văn
của chúng tôi chưa đề cập đến các báo, tạp chí nội chính địa phương mà sẽ
dành cho phạm vi nghiên cứu của một đề tài khác khi có điều kiện. Luận văn
cũng không nghiên cứu mối quan hệ giữa các báo, tạp chí thuộc Bộ Công an

đối với công cuộc cải cách tư pháp vì các báo, tạp chí thuộc Bộ Công an
không nằm trong hệ thống quản lý ngành dọc của Ban Nội chính Trung ương mà
là cơ quan ngôn luận của một trong các lực lượng vũ trang mặc dù Bộ Công an
giữ vai trò rất quan trọng trong gia đoạn đầu của quá trình tố tụng. Sự phân chia
này căn cứ theo vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nội chính và các
báo, tạp chí nội chính đã được Ban Nội chính Trung ương xác định.
Các cơ quan báo chí trong khối Nội chính có tôn chỉ, mục đích khác
nhau do Bộ Văn hoá - Thông tin quy định trong giấy phép, song tất cả các

5
báo, tạp chí trong khối đều có một nhiệm vụ chung là tuyên truyền, phổ biến
và giáo dục pháp luật.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành ngày 02/01/2002. Ngay
sau khi Nghị quyết được ban hành, đã có nhiều báo nội chính đăng tải gần
như nguyên văn Nghị quyết và phỏng vấn các nhà lãnh đạo thuộc khối nội
chính về những nội dung quan trọng của Nghị quyết này. Thời gian sau đó,
việc thông tin của các báo có sự thay đổi căn bản so với trước khi Nghị quyết
08 ra đời. Thực tế cho thấy, nhiệm vụ tuyên truyền cho công cuộc cải cách tư
pháp là nhiệm vụ chung và đặc biệt quan trọng đối với các báo trong khối Nội
chính. Vì vậy, luận văn sẽ nghiên cứu các báo và tạp chí đã đề cập ở trên từ
thời điểm Nghị quyết 08 được ban hành đến hết tháng 6 năm 2005 để có sự
thống nhất và toàn diện trong cách nhìn nhận những ưu điểm và khuyết điểm
của các báo, tạp chí. Từ những phân tích này, đề tài sẽ kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí nội chính.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí để nghiên cứu hệ thống báo
chí nội chính trong công cuộc cải cách tư pháp. Luận văn cũng sử dụng

phương pháp nghiên cứu thông dụng như: sưu tầm, thống kê, phân loại, phân
tích, so sánh, tổng hợp các vấn đề báo chí nêu về công cuộc cải cách tư pháp.
Từ đó, đưa ra những nhận định khái quát về vai trò của các báo nội chính
trong công cuộc cải cách tư pháp.
Để ban hành một Nghị quyết về cải cách tư pháp, Bộ Chính trị phải
nghiên cứu kỹ lưỡng những bất cập của hệ thống tư pháp Việt Nam hiện nay
để đi đến quyết định phải cải cách. Việc cải cách những vấn đề gì và cải cách

6
như thế nào sẽ do các cơ quan chức năng thực hiện. Chức năng quan trọng
nhất của báo chí nội chính là phản ánh trung thực diễn biến của quá trình cải
cách tư pháp, đem đến cho người dân sự nhìn nhận khách quan về việc làm
của các cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sửa chữa
những bất cập đã tồn tại lâu ngày, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người
dân và sự phát triển của đất nước.
Không phải tờ báo, tạp chí nào thuộc khối nội chính cũng thông tin một
cách có hệ thống và đạt hiệu quả cao về công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy,
việc thống kê và dùng lý luận báo chí để phân tích, so sánh cách thức thông
tin của các báo là một phương pháp quan trọng của đề tài này.

5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương nội dung
và một phần phụ lục tổng hợp ý kiến của những người nhận ảnh hưởng trực
tiếp của công cuộc cải cách tư pháp.
Chương I: Vai trò của báo chí nội chính trong công cuộc cải cách tư pháp
Chương này đề cập đến các nội dung như yêu cầu đặt ra đối với nhiệm
vụ cải cách tư pháp, mục đích của cải cách tư pháp, các nội dung của cải cách
tư pháp, vai trò của báo chí trong công cuộc cải cách tư pháp, các nhiệm vụ
đặt ra với báo chí nội chính trong quá trình cải cách tư pháp v.v Do đây là
chương đầu tiên nên đề tài không phân tích cụ thể các mối quan hệ và cách

thức thông tin của các báo nội chính mà chỉ dừng lại ở việc khái quát những
vấn đề đặt ra đối với báo chí nội chính trong công cuộc cải cách tư pháp.
Chương II: Báo chí nội chính thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền và phản
ánh công cuộc cải cách tư pháp.
Chương này đề cập đến một số nội dung như diện mạo và cách thức
thông tin của các báo nội chính trước và sau khi Nghị quyết 08 ra đời, hoạt

7
động cụ thể của các báo nội chính với công cuộc cải cách tư pháp và những
hiệu quả khác nhau thu được từ quá trình này. Trên cơ sở phân tích hiệu quả
thông tin của các báo về công cuộc cải cách tư pháp, đề tài sẽ kiến nghị một
số giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả truyên truyền của các báo
trong lĩnh vực cải cách tư pháp.
Chương III: Những vấn đề về thể loại và hình thức thể hiện.
Chương này đề cập đến một số vấn đề như những thể loại báo chí mà
các báo nội chính thường dùng để thông tin về vấn đề tư pháp cũng như nội
dung cải cách tư pháp, ưu thế và hạn chế của các thể loại và xu hướng đa
dạng hoá thể loại trên các báo nội chính, ảnh hưởng của các thể loại đến hiệu
quả thông tin v.v Mục đích quan trọng của việc phân tích các thể loại báo
chí được dùng trên các báo nội chính là để phát huy những cách làm phù hợp
và tìm ra một phương thức thông tin hợp lý cho các báo trong thời gian tới.
Do vậy, ở chương này, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp mới cho cách sử
dụng các thể loại báo chí trên các báo nội chính khi thông tin về cải cách tư
pháp
Phụ lục: Một số văn bản và ý kiến của những người nhận ảnh hưởng
trực tiếp từ công cuộc cải cách tư pháp.
Đối tượng áp dụng của cuộc cải cách tư pháp rất rộng và việc thực hiện
những chủ trương mới của Nghị quyết này không phải ở đâu cũng thu được
kết quả như mong đợi. Phần này sẽ tổng hợp ý kiến của đại diện các cơ quan
chức năng và những người dân nhận ảnh hưởng trực tiếp của chương trình cải

cách tư pháp phát biểu trên các báo và qua trả lời phỏng vấn của người nghiên
cứu đề tài.
Với 3 chương và phần phụ lục này, những vấn đề cơ bản của mối quan
hệ giữa các báo nội chính và công cuộc cải cách tư pháp sẽ được phân tích và
đánh giá cụ thể.

8

6. Kết luận
Sau khi Nghị quyết 08/NQ- TW ra đời, nền tư pháp Việt Nam thực sự
chuyển mình theo hướng tích cực vì Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những
yếu kém cần khắc phục của tất cả các cơ quan nội chính trong suốt nhiều năm
qua. Báo chí nội chính là cơ quan ngôn luận của các cơ quan nội chính, vì
vậy, qua quá trình thông tin về việc triển khai Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị,
các báo, tạp chí đã trở thành kênh thông tin hai chiều phản ánh quá trình cải
cách tư pháp.
Trong phần kết luận, luận văn đưa ra một số nhận định như kết quả
đáng ghi nhận từ báo chí nội chính là đã góp phần quan trọng vào việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức của nhân dân, góp
phần hoàn thiện thể chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, và tham gia đấu
tranh chống các loại tội phạm, biểu dương người tốt, việc tốt, giữ gìn an ninh
trật tự xã hội. Bên cạnh đó, luận văn cũng kiến nghị một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hình thức trình bày của các báo, tạp chí nội chính như hạn
chế độ dài bài viết, tăng số lượng ảnh và số lượng thể loại bài báo trên cùng
một trang báo. Có thể nói, càng ngày báo chí càng có vai trò quan trọng trong
đời sống của nhân dân. Báo chí nội chính cũng phải không ngừng đổi mới và
cải tiến để khẳng định vị thế trong cuộc cách mạng có ý nghĩa này.









9
Chương I
Vai trò của báo chí nội chính
trong công cuộc cải cách tư pháp
Báo chí bao giờ cũng là kênh thông tin nhạy bén với những những thay
đổi quan trọng của xã hội. Báo chí nói chung và báo chí nội chính nói riêng là
một trong những đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết 08 về cải cách tư pháp.
Đối với các cơ quan thông tin đại chúng, Nghị quyết 08 yêu cầu phải đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình
thức, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán
quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và
nhân dân. Nghị quyết 08 cũng yêu cầu các phương tiện thông tin đại chúng
tích cực tham gia vào việc phát hiện vi phạm, tội phạm, bảo vệ công lý, phê
phán hành vi tiêu cực, tham nhũng, vô trách nhiệm. Bên cạnh đó, một yêu cầu
rất nghiêm khắc đặt ra với các báo trong quá trình thông tin là khi đưa tin,
bình luận về hoạt động của các cơ quan tư pháp phải đảm bảo tính khách
quan, trung thực và phải chịu trách nhiệm về việc đưa tin, bình luận của mình.

1.1. giới thuyết Khái niệm và hạn định đối tượng khảo sát
Trước khi phân tích những vấn đề cụ thể đặt ra đối với báo chí nội
chính trong công cuộc cải cách tư pháp, chúng tôi xin nêu một số khái niệm
và cách hiểu về các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực báo chí có
liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.
1.1.1. Hoạt động tư pháp
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tư pháp được giải thích

theo nhiều nghĩa khác nhau và việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư pháp
cũng chưa có được sự thống nhất. Tuy nhiên, qua thực tiễn, những cơ quan
được sự nhất trí phổ biến xác định là cơ quan tư pháp bao gồm Cơ quan điều

10
tra ( thuộc Bộ Công an), Viện Kiểm sát nhân dân (thuộc Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao), Toà án nhân dân (thuộc Toà án nhân dân tối cao) và Cơ quan thi
hành án (Thuộc Bộ Tư pháp). Tuy nhiên, để hình thành khối các cơ quan nội
chính thì còn có các cơ quan chức năng khác như Thanh tra Chính phủ, Ban
Nội chính Trung ương.
Theo Từ điển Tiếng Việt:
"Tư pháp là công việc trông nom, xét xử các hành vi coi là phạm pháp"
[17,tr. 825]
"Bộ Tư pháp là cơ quan chính quyền Trung ương, chuyên trông nom
công việc tư pháp trong một nước. Quyền tư pháp là một trong 3 quyền của
hiến pháp tư sản nói là biệt lập với quyền lập pháp và quyền hành pháp".
[17,tr.825].
"Nội chính là việc chính trị trong nội bộ một nước, khác với ngoại
giao". [17,tr. 592]
Hoạt động tư pháp có thể được hiểu "Là một phương thức quan trọng
thực hiện quyền lực nhà nước. Các cơ quan thực hiện chức năng tư pháp là
những cơ quan bảo vệ và giữ gìn pháp luật bằng cách áp dụng các biện
pháp cần thiết do pháp luật quy định, nhằm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, đấu tranh phòng
và chống tội phạm, giải quyết các tranh chấp xẩy ra trong đời sống xã hội,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó,
có thể coi cơ quan thực hiện chức năng tư pháp cũng như các cơ quan thực
hiện chức năng hành pháp là những bộ phận bảo đảm việc thực hiện quyền
lực nhà nước trong đời sống xã hội". [3]
Bất kỳ một nhà nước nào cũng sử dụng các cơ quan tư pháp để thiết lập

các thiết chế chính trị và duy trì sự ổn định xã hội. Hoạt động tư pháp càng minh
bạch thì pháp luật càng có vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân.

11
ở nước ta, mối quan hệ giữa các sự việc diễn ra trong đời sống và các
cơ quan tư pháp là một vòng tròn của các mối quan hệ hai chiều của thiết chế
giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Do nhiều
nguyên nhân khác nhau như bối cảnh lịch sử, năng lực, trình độ của các cán
bộ nhà nước mà ở Việt Nam, hệ thống tư pháp còn có rất nhiều bất cập. Điều
này được Đảng và Nhà nước thừa nhận và đang nỗ lực cải thiện và thể hiện rõ
nhất qua việc ban hành và thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về cải
cách tư pháp năm 2002.

1.1.2. Nguyên nhân và động lực của cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là yêu cầu khách quan nảy sinh trong thực tế đời sống
xã hội của bất kỳ một thể chế nào, một thời đại nào. Xuất phát từ nhu cầu,
quyền lợi của giai cấp thống trị, các nhà nước phong kiến, tư sản cũng thường
xuyên đổi mới hoạt động tư pháp để củng cố địa vị và phát triển lợi ích giai
cấp, dân tộc. Trên con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm nắm bắt các yêu cầu của thực tiễn
xã hội, từ đó xác định hoạt động cải cách tư pháp như một nhiệm vụ cấp bách
và lâu dài, vì lợi ích của nhân dân.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo môi
trường ổn định cho phát triển kinh tế, xã hội càng được đề cao hơn bao giờ
hết. Do đó, bên cạnh những nhiệm vụ kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa
học, công nghệ… Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là giữ vững ổn định chính trị và trật tự
an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an


12
ninh quốc gia. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, cần phải đổi
mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động tư pháp.
Công tác tư pháp là một lĩnh vực quan trọng được Đảng và Nhà nước
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đặc biệt trong những năm gần đây, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã có một số Nghị quyết, Chỉ thị về xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, trong đó có nhiều nội dung liên quan
đến đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Nguyên nhân của việc cải cách tư pháp một phần xuất phát từ việc chất
lượng công tác tư pháp trong thời gian qua chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi
hỏi của nhân dân. Còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Những thiếu sót,
tồn tại trên thể hiện ở tất cả các khâu trong hoạt động tố tụng như điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án. Các hoạt động bổ trợ tư pháp như bào chữa,
tư vấn pháp luật, công chứng, giám định v.v… cũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Theo tinh thần Nghị quyết 08, yêu cầu đặt ra đối với nhiệm vụ cải
cách tư pháp là phải xây dựng được nền tư pháp phục vụ nhân dân. Cải cách
tư pháp phải tiến hành đồng bộ với cải cách nền hành chính quốc gia, với đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Mục đích của cải cách tư pháp là để quyền tư pháp được thực thi
đúng, bảo vệ được kỷ cương, phép nước, duy trì xã hội ổn định, công bằng, dân
chủ và phát triển, không để xảy ra những oan sai đáng tiếc đối với người dân.
Cải cách tư pháp là một công việc hệ trọng, phức tạp và nhạy cảm vì nó
liên quan đến toàn bộ hệ thống chính trị và quyền lợi của mọi người dân.
Trước khi Nghị quyết 08 được ban hành, trong nhiều văn kiện khác nhau của
Đảng, cải cách tư pháp đã được đặt ra như một trong những nhiệm vụ quan
trọng của quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật phục vụ sự


13
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đảng và Nhà nước cũng đã
có những giải pháp chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Đặc biệt, Nghị quyết 08 là một văn kiện đề cập tương đối toàn diện và có hệ
thống những vấn đề liên quan đến cải cách tư pháp, xác định rõ bốn quan
điểm chỉ đạo và tám nhiệm vụ cơ bản nhằm xây dựng nền tư pháp đạt tới mục
tiêu công bằng, dân chủ, nghiêm minh, một nền tư pháp phục vụ nhân dân.
Trước và sau khi Nghị quyết 08 được ban hành, các nhà lập pháp, các luật gia
đã triển khai các hướng nghiên cứu nhằm góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc thực hiện những quan điểm và nhiệm vụ cải cách tư
pháp, tiến tới xây dựng các chiến lược cải cách tư pháp của đất nước. Khi
Nghị quyết 08 được ban hành, báo chí nội chính đã có những đóng góp tích
cực vào việc truyền bá rộng rãi những chủ trương và quá trình thực hiện Nghị
quyết này.
Để đạt được các yêu cầu và mục đích cải cách tư pháp, Nghị quyết 08
đã xác định 8 nội dung của cải cách tư pháp. Các nội dung này bao gồm:
Một là: Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các
cơ quan và cán bộ tư pháp. Một trong các nhiệm vụ của nội dung này là nâng
cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin
báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp giữa cơ quan chuyên trách điều tra
với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
để phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can
trong một số loại tội. Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công
tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố
tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

14

người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến
hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.
Hai là: Tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện những chủ trương cải cách, tổ
chức và đổi mới hoạt động các cơ quan tư pháp đã được đề ra trong Nghị
quyết Trung ương 8 ( Khoá VII ) Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung
ương 7 (Khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Trong
đó có nội dung đổi mới công tác đào tạo cán bộ có chức danh tư pháp theo
hướng cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào
tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh. Nâng cao tiêu chuẩn về
chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp. Nghiên
cứu tiến tới thực hiện việc thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và quy định thời
hạn bổ nhiệm các cán bộ có chức danh tư pháp; cải tiến thủ tục bổ nhiệm theo
hướng gọn, kịp thời, bảo đảm dân chủ công khai. Rà soát lại đội ngũ cán bộ tư
pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; xác định lại
biên chế cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tuỳ từng nơi, từng đơn vị nếu do
nhiệm vụ đòi hỏi thì cần tăng cường biên chế hợp lý để đủ sức hoàn thành
nhiệm vụ
Bốn là: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư
pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối
với cán bộ tư pháp.
Năm là: Huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của nhân dân vào
công tác tư pháp, nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân, các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp.
Trong đó có nội dung thu hút đông đảo nhân dân tham gia phong trào bảo vệ
an ninh Tổ quốc, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, tội phạm ngay tại

15
thôn, làng, bản, ấp, khu dân cư. Có biện pháp bảo vệ và khen thưởng những người
có công phát hiện, tố giác tội phạm, giúp đỡ cơ quan tư pháp bắt giữ kẻ phạm tội.

Các phương tiện thông tin đại chúng cần tích cực tham gia vào việc
phát hiện vi phạm, tội phạm, biểu dương những cán bộ tư pháp dũng cảm đấu
tranh chống tội phạm, bảo vệ công lý, phê phán hành vi tiêu cực, tham nhũng,
vô trách nhiệm; khi đưa tin, bình luận về hoạt động của các cơ quan tư pháp
phải bảo đảm tính khách quan, trung thực và phải chịu trách nhiệm về việc
đưa tin và bình luận.
Xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các hình thức giải quyết
tranh chấp khác như hoà giải, trọng tài nhằm góp phần xử lý đúng và nhanh
chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ công
việc cho toà án và cơ quan nhà nước khác. Nghiên cứu việc xã hội hoá một số
hoạt động bổ trợ tư pháp.
Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ
chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của
Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào
việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét
xử, thi hành án và giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
lĩnh vực tư pháp.
Sáu là: Đẩy mạnh xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và nghiên cứu khoa học về công tác tư
pháp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tư pháp. Khẩn trương ban
hành Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật Thi hành
án, Pháp lệnh giám định tư pháp và một số luật, pháp lệnh khác làm cơ sở
pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Kịp thời ban hành những văn
bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh
Luật sư để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng,

16
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư pháp. Đối với những nội dung
của các luật, pháp lệnh cần giải thích thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giải
thích theo quy định của Hiến pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là
thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công
minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Bảy là: Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác tư pháp. Trong đó có
nội dung nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, về giải quyết các loại tranh chấp trên cơ sở bảo đảm
độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Tám là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Nội dung này xác định Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính
trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục tình trạng cấp uỷ
buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp uỷ viên can thiệp không đúng vào hoạt động tư
pháp.
( Nội dung chi tiết các nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp: xem Phụ lục 1)

1.1.3. Khái niệm Báo in
Các báo nội chính được nghiên cứu trong đề tài này đều thuộc loại hình
báo in. Vì vậy, để hiểu rõ mối quan hệ giữa báo chí và hoạt động cải cách tư
pháp, chúng tôi xin trích nêu một số khái niệm và cách hiểu liên quan đến báo
in:

17
Theo từ điển tiếng Việt, "Báo là giấy in hoặc viết tay, xuất bản có định
kỳ, để đăng tin tức, tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng hoặc nghiên
cứu, lý luận về vấn đề gì". "Báo chí là báo và tạp chí nói chung". [17,tr.50]
Báo in là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in
như báo, tạp chí, bản tin, ấn phẩm thông tấn v.v Báo in là những sản phẩm
định kỳ, chuyển tải nội dung thông tin thời sự được nhân bản bằng máy in và

phát hành rộng rãi trong xã hội. [17,tr. 50]
Báo in là loại hình báo chí ra đời sớm nhất, có lịch sử lâu đời nhất và có
thể coi là loại hình báo chí gốc đang ngày càng phát triển, giữ vai trò quan
trọng. Trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, càng
ngày càng có thêm nhiều loại hình báo chí mới, từ phát thanh, truyền hình,
đến báo điện tử. Tuy nhiên, không vì thế mà báo in bị triệt tiêu hay mất đi vị
trí của mình. Báo in có đặc điểm, ưu thế, hạn chế riêng, tồn tại một cách độc
lập, bình đẳng trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.
Báo in ra đời từ cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17. Tại Việt Nam, báo in ra đời
muộn hơn do có những nguyên nhân khách quan về tình hình kinh tế, xã hội
của đất nước và điều kiện giao lưu quốc tế còn hạn chế. Những tờ báo đầu
tiên xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 19 được in bằng tiếng Pháp nhằm phục
vụ mục đích thống trị của thực dân Pháp. Đến cuối thế kỷ 19, tờ báo in bằng
chữ quốc ngữ đầu tiên ra đời tại Sài Gòn. Trước năm 1975, có thể nói, báo in
Việt Nam chủ yếu là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, đoàn thể, phục
vụ mục đích cách mạng và công cuộc kháng chiến. Sau khi đất nước hoàn
toàn giải phóng, nền kinh tế bao cấp làm cho báo chí không có điều kiện phát
triển. Phần lớn nội dung và hình thức của báo in lúc này rất đơn điệu. Báo in
Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc từ sau năm 1990 trở lại đây. Hiện nay, các ấn
phẩm báo in rất đa dạng. Hầu hết các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến
địa phương đều có báo, tạp chí làm cơ quan ngôn luận. Mặt khác, do báo chí

18
cũng là một hình thức kinh doanh đem lại nhiều lợi nhuận nên không ít tổ
chức đã mạnh dạn phát triển cơ quan ngôn luận vốn có thành những tờ báo
hấp dẫn công chúng và vượt lên hẳn mục đích tuyên truyền nội bộ ban đầu.
Trên phạm vi cả nước, đến năm 2005, Việt Nam đã có gần 14.000 nhà báo
chuyên nghiệp cùng hàng chục ngàn cán bộ kỹ thuật làm việc trong các loại
hình báo chí như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, thông tấn
xã. Báo chí ngày càng giữ vai trò to lớn, không thể thiếu trong đời sống kinh

tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Báo chí không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước, tuyên truyền, giải thích, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách, mà còn nâng cao dân trí, mở mang quan hệ quốc tế, định hướng chính
trị, tư tưởng cho nhân dân trước các sự kiện, vấn đề mới mẻ trong nước cũng
như quốc tế. Trên mặt trận chống tiêu cực, báo chí góp phần không nhỏ trong
việc phát hiện và ngăn chặn thiệt hại cho nhà nước, nhân dân, đồng thời góp
phần cảnh báo, giáo dục đối với xã hội. Tuy nhiên, báo chí hiện nay vẫn còn
bộc lộ không ít hạn chế như xu hướng thương mại hoá báo chí, không thực
hiện nghiêm túc tôn chỉ, mục đích, đưa tin thiếu chính xác Việc khắc phục
những khuyết điểm, hạn chế của báo chí hiện nay là một yêu cầu khách quan,
một điều kiện để tiếp tục xây dựng, phát triển nền báo chí ngang tầm với
những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Báo chí
nội chính là một bộ phận của báo chí cách mạng Việt Nam nên nó mang đầy
đủ những chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm này.

1.1.4. Các báo, tạp chí thuộc khối nội chính
Nói về lịch sử ra đời của các báo thì báo chí nội chính ra đời muộn hơn
nhiều so với các báo, tạp chí khác. Có thể nhận thấy sự ra đời của các báo,
tạp chí này qua mốc thời gian sau:

×