Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Đặc thù của thông tin về thị trường chứng khoán trên báo in hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 141 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THU TRANG








ĐẶC THÙ CỦA THÔNG TIN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TRÊN BÁO IN HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH BÁO CHÍ















HÀ NỘI – 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THU TRANG





ĐẶC THÙ CỦA THÔNG TIN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TRÊN BÁO IN HIỆN NAY






Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH BÁO CHÍ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Anh






HÀ NỘI - 2009




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5
6. Kết cấu luận văn 5 5

CHƢƠNG 1: THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA
THÔNG TIN BÁO CHÍ
1.1 Khái quát về chứng khoán và thị trƣờng chứng khoán 6
1.2. Thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam 7
1.2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của
thị trường chứng khoán Việt Nam 8
1.2.2. Đặc trưng của thị trường chứng khoán Việt Nam 10
1.3. Vai trò của thông tin báo chí 13
1.3.1. Vai trò của thông tin báo chí trong đời sống xã hội nói chung 13
1.3.2. Vai trò của thông tin báo chí đối với sự phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam. 15
1.3.2.1. Là kênh thông tin chính thống phản ánh quá trình
hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 16
1.3.2.2. Thông tin, phổ biến đường lối, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về phát triển TTCK 17
1.3.2.3. Cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác về
diễn biến của thị trường chứng khoán 18
1.3.2.4. Đưa tiếng nói của nhà đầu tư ra công luận 19
1.3.2.5. Cung cấp kịp thời thông tin về thị trường chứng khoán
thế giới cho các độc giả trong nước 20
1.3.3. Một số tờ báo tiêu biểu 21
Tiểu kết chƣơng 1 27

CHƢƠNG 2: NHỮNG NÉT ĐẶC THÙ CỦA THÔNG TIN VỀ THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN TRÊN BÁO IN HIỆN NAY

2.1. Một số khái niệm cơ bản 28
2.2. Đặc thù về nội dung và hình thức của thông tin về
thị trƣờng chứng khoán trên báo in hiện nay. 28
2.2.1. Nội dung của các tin bài viết về thị trường chứng khoán
trên báo in hiện nay 28
2.2.1.1. Báo in cung cấp nhiều thông tin phân tích, bình luận
chuyên sâu về thị trường chứng khoán 29
2.2.1.2. Thông tin TTCK trên báo in có mức độ chính xác
và tin cậy cao (ít sai sót) 33
2.2.1.3. Thông tin của báo in có tính tự chủ cao 34
2.2.1.4. Thông tin thường có độ trễ và bị giới hạn bởi khổ giấy 36
2.2.2. Hình thức thể hiện của các tin bài về thị trường
chứng khoán trên báo in hiện nay 38
2.2.2.1. Sự chuyên nghiệp và hiện đại trong việc trình bày
các chuyên trang, chuyên mục về chứng khoán 39
2.2.2.2. Dung lượng tin bài 44
2.2.2.3. Sử dụng linh hoạt nhiều thể loại báo chí: 46
2.2.2.4. Việc sử dụng ngôn ngữ trong các trong
các tin bài viết chứng khoán 71
Tiểu kết chƣơng 2 91

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
THÔNG TIN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TRÊN BÁO IN
3.1. Một số nhận xét về thông tin thị trƣờng chứng khoán trên báo in hiện nay 92
3.1.1. Thông tin về thị trường chứng khoán là mảng thông tin
quan trọng của các tờ báo in hiện nay 92
3.1.2. Độc giả báo in có yêu cầu ngày càng khắt khe hơn đối
với các tin bài viết về thị trường chứng khoán 93
3.1.3. Thông tin thị trường chứng khoán trên báo in vẫn được
độc giả ưa chuộng nhờ có ưu thế nổi trội 95

3.2. Đề xuất nâng cao chất lƣợng nội dung thông tin TTCK trên các báo in 96
3.2.1. Tăng cường tính thời sự cho phần tin tức chứng khoán 96
3.2.2. Nâng cao tính chính xác, trung thực, khách quan
của thông tin về thị trường chứng khoán 97
3.2.3. Thay đổi cách đưa tin về chứng khoán 99
3.2.4. Tăng cường số lượng và chất lượng các thông tin
phân tích, bình luận chuyên sâu về thị trường chứng khoán. 100
3.2.5. Xây dựng đội ngũ nhà báo chứng khoán chuyên nghiệp
và đội ngũ cộng tác viên có uy tín. 101
3.3. Đề xuất nâng cao hình thức thể hiện của thông tin
thị trƣờng chứng khoán trên các báo in 103
3.3.1. Tổ chức các tin bài theo hướng “nhiều cửa” và khai thác
hiệu quả kênh đồ hình 104
3.3.2. Trau dồi ngôn ngữ và lựa chọn thể tài báo chí
sao cho hấp dẫn, mang tính đại chúng 107
3.3.3. Rút ngắn dung lượng các bài viết về thị trường chứng khoán 109
Tiểu kết chƣơng 3 110
KẾT LUẬN 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 114



















DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


TTCK Thị trƣờng chứng khoán
TBKTVN Thời báo Kinh tế Việt Nam
TBKTSG Thời báo Kinh tế Sài Gòn
ĐTCK Đầu tƣ chứng khoán



















DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Chỉ tiêu thị trường chứng khoán: 9

Bảng 1.2: Tỷ lệ số người khẳng định sẵn lòng bỏ
tiền mua báo in để theo dõi thông tin về TTCK 22

Bảng 2.1: Dung lượng của bài viết về TTCK
trên TBKTVN, TBKTSG và ĐTCK năm 2008 45

Bảng 2.2: Các thể loại được sử dụng để thông tin
về TTCK trên TBKTVN, TBKTSG, ĐTCK năm 2008 48

Bảng 2.3: Các dạng bài Phản ánh trên
TBKTVN, TBKTSG và ĐTCK năm 2008 56

Bảng 2.4: Các dạng bài phỏng vấn trên TBKTVN, TBKTS
và ĐTCK năm 2008 59

Bảng 2.5: Tình hình sử dụng kênh đồ hình trên các chuyên trang,
chuyên mục về TTCK của TBKTVN, TBKTSG và ĐTCK. 86

Bảng 3.1: Đánh giá của độc giả về vai trò của các yếu tố
đồ hình trong các tin bài viết về TTCK trên báo in hiện nay. 104


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Được ví như “hàn thử biểu” đo lường “sức khỏe” cho nền kinh tế, thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam từ khi chính thức vận hành và thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên (tháng 7/2000) cho đến nay đã luôn nhận được
sự quan tâm đặc biệt của giới báo chí và các phương tiện truyền thông đại
chúng. Thông tin về TTCK hàng ngày, hàng giờ được cập nhật với những nội
dung và phương thức truyền tải phong phú, đa dạng có tác động không nhỏ
đến sự lên xuống của thị trường. Từ chỗ chỉ có một vài tờ báo kinh tế quan
tâm tới đề tài này, đến nay thông tin về chứng khoán và TTCK đã có mặt ở
hầu hết các tờ báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình và Internet ở
Việt Nam.
Đứng trước bối cảnh ấy, báo in - loại hình báo chí thuộc dòng “chính
thống” đã đóng góp một tiếng nói quan trọng vào việc định hướng dư luận xã
hội, ổn định tâm lý các nhà đầu tư và các cổ đông, góp phần xây dựng một
TTCK phát triển và hoạt động lành mạnh. Ngược lại, thị trường nhạy cảm và
nhiều biến động đã mang lại cho các báo những thông tin đắt giá, thu hút
đông đảo công chúng quan tâm, theo dõi.
Đã có thời, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng báo in sẽ bị “lép vế”
thậm chí bị “khai tử” trong cuộc cạnh tranh đầy bất lợi với các loại hình báo
chí khác (báo điện tử, truyền hình, phát thanh), song thực tế đã chứng minh
báo in vẫn tràn đầy sức sống và khả năng chinh phục công chúng. Độc giả
hiện nay khẳng định báo in có vị trí vững chắc trong sự phát triển của TTCK -
đó là một trong những thành tựu nổi bật của báo in hiện đại. Câu hỏi đặt ra là
thông tin TTCK trên báo in có những đặc thù, điểm khác biệt gì để duy trì
được lòng tin và sự ủng hộ của số đông độc giả? Có hạn chế nào trong nội
dung và hình thức thể hiện thông tin mà các tờ báo in cần phải xem xét khắc

2
phục để tăng cường hơn nữa hiệu quả truyền tải, thỏa mãn nhu cầu của độc
giả?

Đây là những câu hỏi đang đặt ra hết sức cấp thiết và cũng là lý do để
chúng tôi chọn đề tài “Đặc thù của thông tin về thị trường chứng khoán trên
báo in hiện nay” làm đối tượng nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Theo tìm hiểu của chúng tôi, tài liệu về TTCK hiện nay chủ yếu được
dịch từ các giáo trình của nước ngoài để nhà đầu tư tham khảo. Trong khi đó,
sách do các tác giả trong nước viết phần lớn không mang ý nghĩa nghiên cứu,
mà chỉ có đơn thuần nhằm mục đích “thương mại”, trang bị kiến thức đầu tư,
kỹ năng tìm hiểu thị trường.
Trong số này, có thể kể tới các cuốn:
- Nguyễn Minh Trí - Nguyễn Thị Anh Thư, Đầu tư chứng khoán -
những vấn đề cốt yếu, Nxb Lao động - Xã hội, 2007.
- Hải Lý, Nóng lạnh chứng khoán - Quan sát thị trường chứng khoán
của một nhà báo chuyên ngành, Nxb Trẻ, 2007.
- PGS. TS Lê Văn Tề - TS. Nguyễn Văn Hà, Cẩm nang đầu tư chứng
khoán, Nxb Trẻ, 2007.
- Võ Thanh Long - Nguyễn Quang Hải, Tìm hiểu về Luật Chứng khoán,
Nxb Thanh niên, 2007.
- Phạm Chí Dũng, Tự sự chứng khoán - Những gam màu ám ảnh, Nxb
Giao thông vận tải, 2007.
Ngoài ra, còn một số bài giảng, giáo trình do các giảng viên tại các
trường đại học kinh tế, tài chính, ngân hàng trực tiếp viết để làm tài liệu học
tập cho sinh viên.
Bên cạnh đó, do sức hấp dẫn của một lĩnh vực nóng bỏng bậc nhất
trong thị trường tài chính hiện nay, nên đã có một số sinh viên chọn việc phản

3
ánh các vấn đề về TTCK qua báo chí làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp.
Đáng chú ý trong số này là các đề tài:
- Khoá luận tốt nghiệp: “Thị trường chứng khoán qua báo chí” - Đoàn

Mai Anh, ĐH KHXH & NV Hà Nội, 1999.
- Khoá luận tốt nghiệp: “Thông tin chứng khoán trên báo chí Việt Nam”
- Phạm Thị Hằng, ĐH KHXH & NV Hà Nội, 2007.
- Luận văn Cao học: “Thông tin tuyên truyền về chứng khoán và thị
trường chứng khoán” - Nguyễn Cao Cầm, Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2004.
Các đề tài đã bước đầu tìm hiểu về cách thức khai thác thông tin về thị
trường chứng khoán trên báo chí, khẳng định vai trò của thông tin báo chí đối
với sự hình thành và phát triển của TTCK. Tuy nhiên chưa đề tài nào tập
trung làm rõ đặc thù, nét riêng biệt của thông tin TTCK trên báo chí, đặc biệt
trên báo in - loại hình báo chí đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ của các
loại hình báo chí và phương tiện truyền thông đại chúng khác. TTCK luôn sôi
động và nóng bỏng, còn thông tin của báo in thường bị “gắn mác” là thiếu
tính thời sự. “Định kiến” đó có cản trở báo in tham gia đưa tin về TTCK hay
ngược lại sẽ tạo ra sức hút riêng cho loại hình báo chí có lịch sử phát triển lâu
đời nhất? Luận văn của chúng tôi sẽ hướng tới việc trả lời cho câu hỏi này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm ra đặc thù của thông tin chứng
khoán và TTCK trên báo in. Để đạt được mục đích bao trùm này, luận văn sẽ
lần lượt thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Đánh giá vai trò của thông tin báo chí đối với sự phát triển của TTCK
Việt Nam kể từ khi thị trường chính thức được thành lập cho đến nay.
- Nhận diện được đặc thù về nội dung và đặc biệt là đặc thù về hình thức
thể hiện của thông tin TTCK trên báo in hiện nay.

4
- Rút ra một số kết luận khẳng định ưu thế nổi trội của thông tin trên báo
in, đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phần tăng hiệu quả truyền thông
cho các chuyên trang, chuyên mục về chứng khoán trên báo in.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đặc thù của thông tin về TTCK trên báo in hiện nay xét trên hai
phương diện nội dung và hình thức thể hiện chính là đối tượng nghiên cứu
của luận văn này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm báo chí viết về lĩnh vực
chứng khoán trong khoảng thời gian từ tháng 1 - 12/2008 trên 3 tờ báo: Thời
báo Kinh tế Việt Nam (TBKTVN), Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG),
Đầu tư chứng khoán (ĐTCK). Đây là khoảng thời gian TTCK Việt Nam trải
qua thời kỳ vô cùng khó khăn khi chứng khoán liên tục xuống dốc. Do đó,
thông tin chứng khoán trên báo chí đóng một vai trò quan trọng, có tác động
nhất định tới diễn biến của thị trường. Các tờ báo được chúng tôi lựa chọn
khảo sát đều là những tờ báo kinh tế tiêu biểu, có đóng góp đáng kể trong việc
đưa kiến thức về chứng khoán và TTCK đến với công chúng trên diện rộng.
Luận văn cũng tiến hành cuộc điều tra trong tháng 8/2009 về việc đọc
thông tin chứng khoán của độc giả. Đối tượng điều tra là các nhà đầu tư
chứng khoán, chủ các doanh nghiệp, nhà báo, những người quan tâm và hiểu
biết về TTCK… Đã có gần 300 người tham gia cuộc điều tra của chúng tôi.
Luận văn có tham khảo bổ sung một số chuyên mục và chương trình về
TTCK trên báo điện tử, phát thanh và truyền hình làm căn cứ để rút ra những
nhận xét về đặc thù của riêng báo in.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:

5
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý luận báo chí cùng với những
công trình nghiên cứu, các tài liệu tham khảo về chứng khoán và TTCK để
làm nổi bật đề tài cần nghiên cứu.
Nghiên cứu cũng dựa trên quan điểm, đường lối phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương, chính sách có liên quan tới

TTCK để nắm bắt một cách tổng quan về thị trường, đồng thời là cơ sở để
đánh giá nội dung phản ánh và phương thức chuyển tải của các báo.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học
Cơ sở thực tế của luận văn là việc khảo sát trực tiếp 314 số báo
TBKTVN, 156 số báo ĐTCK và 52 số báo TBKTSG, cùng với việc điều tra
bằng bảng hỏi với gần 300 người có trình độ từ bậc phổ thông trung học trở
lên sinh sống ở hai thành phố là Hà Nội và TP.HCM (tỷ lệ số người tham gia
trả lời ở hai địa bàn này là tương đương nhau). Trên cơ sở những kết quả định
lượng thu được từ cuộc điều tra này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu một
số đại diện doanh nghiệp, nhà báo, nhà đầu tư chứng khoán.
6. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Thị trường chứng khoán Việt Nam và vai trò của thông tin
báo chí.
- Chương 2: Những nét đặc thù của thông tin về thị trường chứng
khoán trên báo in hiện nay.
- Chương 3: Một số nhận xét và đề xuất nâng cao chất lượng thông tin
thị trường chứng khoán trên báo in.


6
CHƢƠNG 1: THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ
VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN BÁO CHÍ
1.1. Khái quát về chứng khoán và thị trƣờng chứng khoán
“Chứng khoán là chứng chỉ dưới dạng giấy tờ hoặc bản ghi, có giá và
có khả năng chuyển nhượng, xác định khoản đầu tư dài hạn và xác nhận các
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc
vốn của tổ chức phát hành”

(1)
. Người ta phân chia chứng khoán thành 5
nhóm chính gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán có
thể chuyển đổi và chứng khoán phái sinh.
Còn thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế
hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các
loại chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị
trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người
phát hành và ở thị trường trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng
khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Xét về mặt hình thứ, thị trường
chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển
nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng
khoán. Xét về bản chất có thể thấy:
- TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Theo
đó, TTCK tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn
sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và
theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử
dụng

(1)
Hồ Ngọc Cẩn (2007), Cuốn 144 câu hỏi đáp về thị trường chứng khoán
Việt Nam, Nxb Thống kê.

7
- TTCK là công cụ huy động vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh ,
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ các nhu cầu chi
tiêu của chính phủ.
- TTCK huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp cổ phần,
doanh nghiệp nhà nước. Một lĩnh vực mà hệ thống ngân hàng thương mại
chưa thể đáp ứng được.

- TTCK góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế quốc
dân, do đó thúc đẩy sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Một động lực cạnh
tranh để thúc đẩy sự phát triển.
- Thông qua TTCK, các chủ thể kinh tế có thể trở thành người đầu tư
trực tiếp và trở thành những người sở hữu một phần giá trị tài sản của doanh
nghiệp, góp phần thúc đẩy cổ phần hóa, tư nhân hóa thành công.
- Nhờ vào trào lưu quốc tế hóa TTCK quốc gia, cho nên TTCK có vai
trò là kênh huy động vốn đầu tư của nước ngoài vào trong nước, đồng thời
dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước ngoài nhằm tận dụng những nước có cơ
hội và môi trường đầu tư có lợi.
- TTCK có vai trò như “hàn thử biểu” của nền kinh tế quốc dân. Kinh
tế phát triển thì lợi nhuận được chia cho các nhà đầu tư tăng lên. Lợi nhuận
tăng sẽ làm cho giá cả chứng khoán tăng lên. Do đó làm cho dung lượng của
TTCK cũng tăng theo. Ngược lại, kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến hoạt động kém
sút của thị trường.
Các nhà hoạt định chính sách và quản lý thường quan sát chiếc “hàn
thử biểu” này để phân tích và dự đoán thực trạng của nền kinh tế đất nước, từ
đó đề ra những chính sách điều tiết kinh tế, phương pháp quản lý thích hợp và
thông qua TTCK để tác động đến hoạt động của nền kinh tế quốc dân hoặc
ngược lại.
1.2. Thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam

8
1.2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
Việt Nam
Nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công
nghiệp phát triển, Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối đa mọi
nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư. Do đó, TTCK tất yếu sẽ ra đời vì
nó giữ vai trò quan trọng đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt

động kinh tế.
Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận
hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Trước đó, Ủy ban
chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã được thành lập ngày 28/11/1996. Từ
tháng 3/2004, UBCKNN là một bộ phận của Bộ Tài Chính.
Mốc đánh dấu sự phát triển vượt bậc của TTCK là sự kiện ngày
24/6/2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức ra mắt và khai
trương thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết
(UPCoM). Tại sự kiện quan trọng này, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn
Sinh Hùng đã khẳng định: Việt Nam đã có chiến lược phát triển TTCK, thị
trường vốn một cách đầy đủ với tầm nhìn đến năm 2020 và xa hơn, đã có các
văn bản pháp luật cần thiết cho sự ra đời và phát triển của TTCK, cũng như đã
xây dựng và tổ chức bộ máy, các định chế cần thiết để thúc đẩy TTCK phát
triển, đảm bảo cho sự hoạt động an toàn và tăng tính thanh khoản của thị
trường.
Cũng giống như các nước trên thế giới, TTCK Việt Nam hoạt động dựa
trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và
nguyên tắc công khai. Các nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho giá cả chứng
khoán được hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên

9
giao dịch. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối
của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về
chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng
phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám
sát theo quy định của pháp luật chứng khoán.
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại
trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo các quy định tại Nghị định
48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK.

Phải mất 10 năm thăm dò, thử nghiệm, TTCK Việt Nam mới thực sự bùng nổ
vào năm 2006. Nếu như mấy năm trước TTCK Việt Nam còn trong tình trạng
ảm đạm, kém phát triển thì tới thời điểm cuối năm 2006 đã có những bước
thay đổi ngoạn mục. Phong trào “nhà nhà chơi chứng khoán, người người
chơi chứng khoán” cho thấy sức hút mạnh mẽ của thị trường. Mặc dù từ cuối
năm 2007 đến nay do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, TTCK Việt
Nam đã có những suy giảm đáng kể, song nhìn vào các chỉ tiêu của thị trường
trong 8 tháng đầu năm 2009 chúng ta vẫn thấy được xu hướng tăng trưởng
của thị trường.
Bảng 1.1: Chỉ tiêu thị trường chứng khoán:
Các chỉ tiêu thị trƣờng
12/2008
8/2009
Giá trị vốn hóa (tỷ đồng)
225.934
596.000
Mức vốn hóa so với GDP 2008
18%
41%
Số lượng cổ phiếu niêm yết
338
385
Số lượng công ty chứng khoán
102
105
Số lượng công ty quản lý quỹ
43
47
Số lượng công ty đại chúng đã đăng ký
1.090

1.016

10
Số lượng tài khoản của nhà đầu tư
531.428
676.568
Hệ số P/E
9-10
15,8
Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước năm 2009
Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng rất nhiều nhà đầu tư tham gia vào
thị trường giai đoạn đầu còn thiếu những kiến thức cơ bản, những kỹ năng
phân tích thị trường… mà chủ yếu đầu tư theo phong trào, chơi theo cảm tính.
Đa số nhà đầu tư chưa có kiến thức về chứng khoán nên không tránh khỏi có
những quyết định, lựa chọn sai lầm gây tổn thất lớn về kinh tế đôi khi dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng.
Chính lúc này việc phổ cập kiến thức về chứng khoán và thông tin sâu,
nhiều chiều về doanh nghiệp là vô cùng cần thiết để giúp các nhà đầu tư có
thể phân tích thông tin trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Đây là nhiệm vụ
đặt ra cho các cơ quan chức năng, các công ty tư vấn chứng khoán và đặc biệt
là báo chí. Không chỉ cung cấp và phân tích thông tin một cách chính xác, kip
thời mà báo chí cần phải tìm ra hình thức thể hiện thông tin cho phù hợp và
hiệu quả nhất tới các nhà đầu tư.
1.2.2. Đặc trưng của thị trường chứng khoán Việt Nam
TTCK Việt Nam là TTCK của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, được chi phối bởi chính sách kinh tế nhà nước và tập thể. Trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhà nước vừa là người quản lý, giám
sát hoạt động của nền kinh tế vừa là người tổ chức thực hiện hoạt động kinh
tế. TTCK Việt Nam có những khác biệt căn bản so với các TTCK trên thế
giới.

Thứ nhất, mục đích của TTCK Việt Nam là tạo ra khả năng thanh
khoản của vốn đầu tư chứng khoán, qua đó kích thích công chúng đầu tư,
đồng thời là một kênh huy động và phân phối vốn đầu tư xã hội trực tiếp theo

11
nguyên tắc hiệu quả kinh tế, thông qua công cụ chứng khoán. TTCK Việt
Nam chấp nhận sự hình thành và phát triển nghề trung gian buôn bán chứng
khoán, có tác dụng duy trì tính liên tục về giao dịch của thị trường, nâng cao
tính thanh khoản của vốn đầu tư, nhưng đó không phải là mục tiêu của thị
trường.
Là một thị trường còn rất sơ khai, nhưng ngay từ đầu, TTCK Việt Nam
đã xuất hiện một tầng lớn người trung gian buôn bán chuyên nghiệp và bán
chuyên nghiệp, một nghề kinh doanh buôn bán chứng khoán đã và đang phát
triển. Đây là một nghề kinh doanh rất hấp dẫn, nó sẽ thu hút ngày càng nhiều
người tham gia, đặc biệt là lớp trẻ qua đào tạo tại các trường đại học kinh tế,
tài chính. Chính sự phát triển quá nhanh, quá mạnh nghề kinh doanh buôn bán
chứng khoán trong lúc quy mô thị trường còn quá nhỏ đã dẫn đến giá chứng
khoán tăng, giảm một cách phi lý.
Thứ hai, TTCK Việt Nam là một tổ chức tài chính đặc biệt thuộc sở
hữu nhà nước, do nhà nước thành lập, trực tiếp quản lý và điều hành; hoạt
động giao dịch thuộc về các công ty chứng khoán thành viên. Trên thế giới
đến nay có ba nhóm nước khác nhau về quyền sở hữu TTCK:
- TTCK thuộc sở hữu tập thể của các nhà môi giới chứng khoán: Các
nhà môi giới chứng khoán lập ra các sở giao dịch chứng khoán và nắm độc
quyền kinh doanh mua bán chứng khoán cho chính họ. Tiêu biểu như TTCK
của các nước Bỉ, Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Hy Lạp và một số TTCK ở Nam
Mỹ.
- TTCK thuộc sở hữu của các ngân hàng: Các ngân hàng cùng hợp tác
lập ra các sở giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng và các hãng môi giới độc
lập nắm độc quyền kinh doanh chứng khoán trong sở giao dịch. Tiêu biểu là

TTCK của Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ, Áo.

12
- TTCK tổ chức như một công ty cổ phần: Các hãng môi giới, các ngân
hàng và các tổ chức tài chính cùng hợp tác lập ra các sở giao dịch. Các chủ sở
hữu không độc quyền giao dịch mua bán, quyền giao dịch mua bán thuộc về
các tổ chức môi giới thành viên. Những chủ sở hữu có thể là thành viên giao
dịch hoặc không phải là thành viên giao dịch như TTCK Nhật bản, Anh,
Australia, và các nước Bắc Mỹ.
Cả ba nhóm TTCK nói trên đều có một điểm chung là TTCK thuộc sở
hữu của tư nhân do các tổ chức tư nhân lập ra và độc quyền giao dịch. TTCK
Việt Nam không áp dụng theo bất cứ nhóm nào trong ba nhóm nói trên.
Thứ ba, TTCK tập trung của Việt Nam (Sở hoặc Trung tâm giao dịch)
vừa là thị trường giao dịch mua đi bán lại (thị trường thứ cấp) vừa là thị
trường giao dịch phát hành (thị trường sơ cấp), giao dịch phát hành chứng
khoán cũng được diễn ra tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch.
Ngày nay, trên thế giới người ta đồng nghĩa sở giao dịch chứng khoán
với thị trường thứ cấp. Các sở giao dịch chứng khoán trên thế giới hầu như
không có giao dịch phát hành, các giao dịch trong sở là giao dịch thứ cấp. Vì
hoạt động phát hành chứng khoán của các thị trường này được các công ty
chứng khoán bảo lãnh theo hình thức bảo lãnh chắc chắn (công ty bảo lãnh
mua toàn bộ số chứng khoán dự định phát hành theo giá thỏa thuận, sau đó
công ty bảo lãnh thông qua sở giao dịch bán lại cho nhà đầu tư theo giá thị
trường). Giao dịch mua bán giữa công ty phát hành với công ty bảo lãnh gọi
là giao dịch sơ cấp, diễn ra bên ngoài sở giao dịch. Chỉ khi công ty bảo lãnh
đưa số chứng khoán đó ra bán lại cho nhà đầu tư - là giao dịch thứ cấp, mới
diễn ra tại sở giao dịch.
Các công ty chứng khoán Việt Nam mới hình thành, chưa đủ năng lực
về vốn và kinh nghiệm kinh doanh để thực hiện bảo lãnh theo phương pháp
nói trên, chỉ có thể thực hiện bảo lãnh dưới dạng đại lý bán. Do đó, giao dịch


13
phát hành phải được diễn ra tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch. Ngoài
ra, sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch còn là nơi thực hiện phát hành trái
phiếu Chính phủ bằng biện pháp đấu thầu hoặc đấu giá tập trung.
Thứ tư, chứng khoán giao dịch tại sở giao dịch hoặc trung tâm giao
dịch chứng khoán Việt Nam là các loại chứng khoán vốn, chứng khoán nợ,
không có các loại chứng khoán phát sinh có nguồn gốc từ cổ phiếu như là bảo
chứng khoán, hợp đồng lựa chọn (option), hợp đồng tương lai (futures), bán
khống (short sales) và mua bảo chứng… Đó là những loại giao dịch nhằm thu
lợi nhuận tức thời, không trực tiếp tạo ra vốn đầu tư.
Những đặc trưng nói trên được nêu rõ trong các chủ trương, chính sách
và có cơ chế nghiệp vụ của thị trường, trong đó có những đặc trưng đã được
chỉ ra trong luật pháp và hệ thống quy chế của thị trường, nhưng cũng có
những đặc trưng chưa được thế hiện; có những đặc trưng sẽ tồn tại lâu dài
nhưng cũng có những đặc trưng sẽ thu hẹp khoảng sách so với các sở giao
dịch chứng khoán của thế giới trong quá trình phát triển.
1.3. Vai trò của thông tin báo chí
1.3.1. Vai trò của thông tin báo chí trong đời sống xã hội nói chung
Báo chí là một hình thái có tính xã hội cao, tính tư tưởng và khuynh
hướng rõ rệt. Cũng như tất cả các hình thái ý thức - xã hội khác, báo chí có
những đặc trưng riêng. Chính những đặc trưng ấy đã quy định tính chất, mức
độ và chức năng phản ánh hiện thực của nó. Đứng trước một hiện thực chứa
đầy thông tin, báo chí có những cách thức riêng với mục đích nhắm tới nhiều
tầng lớp xã hội, với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu không giống
nhau. Thông tin báo chí là một quá trình liên tục, xuyên suốt trong mối quan
hệ chặt chẽ giữa Nhà báo - Tác phẩm báo chí - Công chúng báo chí. Không
phải là thông tin nào trên báo chí cũng được số đông tiếp nhận dễ dàng vì
công chúng báo chí rất đa dạng và phức tạp. Bởi vậy, thông tin báo chí phải


14
được chọn lọc, phân tích kỹ lưỡng cùng với một cách thức truyền tải phù hợp
cho từng đối tượng công chúng để mang lại hiệu quả thông tin cao nhất.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, vai trò thực tế của báo
chí ngày càng được nâng cao. Các phương tiện truyền thông trở thành một
yếu tố trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chất lượng
và hiệu quả của báo chí góp phần đắc lực vào giải quyết các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển đất nước trên các lĩnh vực khác nhau. Mặt khác, chúng
đảm bảo thông tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã
hội và thế giới xung quanh với một phạm vi rộng lớn, tham gia vào việc hình
thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học, thái độ sống
tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc.
Lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh rằng, báo chí cách mạng
luôn luôn gắn bó với những bước thăng trầm của lịch sử đất nước, và là người
hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Báo chí không chỉ là phương tiện để truyền
bá tư tưởng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn là công cụ đắc lực
nhằm giáo dục ý thức chính trị, hun đúc tinh thần yêu nước và phát huy sức
mạnh toàn dân để tập trung giải quyết các nhiệm vụ của cách mạng. Báo chí
nước ta đã thực sự trở thành một vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống kẻ thù
và các thế lực chống phá cách mạng.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, báo chí là lực lượng xung kích trên
mặt trận văn hóa - tư tưởng. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi phức
tạp cùng với những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước, báo chí có nhiệm
vụ thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trên mọi lĩnh vực. Động viên
toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn thử thách vững bước đi lên CNXH,
đồng thời cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố mới đi liền với việc phê phán các hành

15

vi tiêu cực, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
nhưng không quên tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, thực hiện đúng
vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức xã hội vừa là
diễn đàn của quần chúng nhân dân.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh
giá cao vai trò và tác dụng to lớn của báo chí. Phát biểu tại Hội nghị báo chí
xuất bản toàn quốc năm 2001, đồng chí Phan Diễn - nguyên ủy viên Bộ Chính
trị, Thường trực Ban bí thư đánh giá: “Báo chí, xuất bản giữ vai trò quan
trọng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng của Đảng. Trong quá trình giải phóng
đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhất là trong công cuộc đổi mới hơn
15 năm qua báo chí xuất bản luôn thể hiện vai trò là vũ khí sắc bén tuyên
truyền, giáo dục, tập hợp, tổ chức và vận động nhân dân tiến hành thắng lợi
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo”
(1)
.
Hiện nay, “giới báo chí cả nước đang đẩy mạnh phong trào thi đua Đổi
mới báo chí phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, không ngừng nâng cao
trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo, thực hiện tốt Quy ước
đạo đức nghề nghiệp báo chí, nâng cao chất lượng và hiệu quả của báo chí
theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm từng bước phát triển nền báo chí Việt
Nam ngang tầm với báo chí thế giới”.
(2)

1.3.2. Vai trò của thông tin báo chí đối với sự phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Trong thời đại tin học, nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng
cao, thông tin ngày càng có uy lực, quyền năng. Hàng ngày, công chúng có cơ

(1)
Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang (2001), Cơ sở lý luận báo chí

truyền thông, Nxb ĐHQG Hà Nội.
(2)
Đức Dũng, Viết báo như thế nào, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

16
hội tiếp cận với rất nhiều nguồn thông tin khác nhau trong đó thông tin báo
chí chỉ là một kênh: Thông tin từ thư rác điện tử, tin đồn, từ các diễn đàn
online, bản tin của các công ty chứng khoán, thông tin từ chuyên gia kinh tế,
từ cơ quan quản lý TTCK, từ dịch vụ tin nhắn điện thoại SMS. Song khác với
các kênh thông tin khác, thông tin báo chí đặc biệt là thông tin trên các tờ báo
in có địa chỉ xác thực của những người phải chịu trách nhiệm trước luật pháp
về nội dung đăng tải, do đó nhận được sự tin tưởng cao từ công chúng. Theo
khảo sát của chúng tôi, 100% số lượng người được hỏi trên các sàn giao dịch
chứng khoán khẳng định thông tin báo chí là quan trọng, 76% cập nhật thông
tin hàng ngày qua báo chí.
1.3.2.1. Là kênh thông tin chính thống phản ánh quá trình hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Báo chí luôn được đánh giá là một trong những kênh thông tin quan
trọng đối với sự hình thành và phát triển TTCK Việt Nam. Ngay từ khi TTCK
mới manh nha xuất hiện đến ngày nay, báo chí nước ta đã cung cấp một lượng
thông tin khổng lồ về chứng khoán và TTCK cho đông đảo công chúng gồm
các nghị định, nghị quyết, các văn bản pháp quy và các thông lệ, điều lệ của
Chính phủ. Đồng thời, báo chí đã có phân tích những mặt tích cực và sự tác
động mạnh mẽ của TTCK đối với quá trình phát triển của nền kinh tế hiện đại
bằng cách đưa ra những dẫn chứng cụ thể về các thị trường làm ăn có hiệu
quả trên thế giới, các tổ chức, cá nhân có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán. Cũng chính nhờ sự tác động của báo giới mà TTCK Việt Nam
đã sớm được hình thành và từng bước đi vào hoạt động ổn định và ngày càng
phát triển.
Với sự hợp lực của báo chí nhắm vào tiêu điểm là vấn đề cổ phần hóa

nên hình ảnh TTCK đang ngày càng gần gũi hơn với nhiều nhà đầu tư. Bất
chấp những khó khăn của thời kỳ kinh tế suy thoái, TTCK vẫn là nơi thu hút

17
nhiều công ty lớn tham gia niêm yết, tăng kích cỡ của thị trường vốn lên gấp
ba lần so với những năm trước.
Điều ấy đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với báo chí, phải đổi mới hơn
nữa cả về nội dung lẫn cách thức thể hiện nhằm đáp ứng được những đòi hỏi
về thông tin của những nhà đầu tư. Không ngừng tìm tòi, phát hiện những nét
mới trong khi đưa tin về TTCK, đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp
hữu hiệu giúp TTCK ngày càng vững mạnh hơn. Những vấn đề nóng hổi
mang tính thời sự cấp bách được báo chí phát hiện, đề xuất được các cấp, các
ngành quan tâm, nghiên cứu áp dụng vào ngành chứng khoán để giải quyết
những khó khăn bước đầu mà TTCK gặp phải. Các vấn đề như: cổ phần hóa
các doanh nghiệp kết hợp với niêm yết trên TTCK hay ưu đãi về thuế cho các
doanh nghiệp khi tham gia vào TTCK… đã được báo chí đề cập thường
xuyên đã góp phần không nhỏ giúp TTCK Việt Nam phát triển trở thành
phong vũ biểu của nền kinh tế.
1.3.2.2. Thông tin, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước
về phát triển TTCK
Báo chí đăng tải phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước và các cấp, các ngành cho các tổ chức và các thành viên trong xã
hội biết, hiểu, nhận thức và hành động đúng trong thực tiễn. Nhiều văn kiện
của Đảng ta đã chỉ rõ: Các phương tiện thông tin đại chúng có nhiệm vụ
truyền bá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đi sát thực tế, thông tin
kịp thời và phân tích sâu sắc những sự kiện mới; phát hiện và phản ánh trung
thực những điển hình tiên tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ những nhân tố mới;
dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng lạc hậu, trì trệ và mọi biểu hiện
tiêu cực khác; đề cập và chỉ ra phương hướng giải quyết những vấn đề thiết
thực của xã hội, đồng thời xây dựng xã hội lành mạnh và động viên quần

chúng tích cực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

18
Báo chí tham gia vào chức năng quản lý xã hội bằng cách đăng tải,
phân tích và giải thích các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về
phát triển TTCK đồng thời phản ánh, phân tích tình hình thực tế của các
doanh nghiệp và thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới góp phần
tạo ra một làn sóng những nhà đầu tư mới có tiềm năng tham gia vào TTCK,
giúp Chính phủ và các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn lớn cho đầu
tư phát triển, hình thành một diện mạo mới cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ
hội nhập.
1.3.2.3. Cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác về diễn biến của
thị trường chứng khoán.
Chứng khoán được xem là một trong những phát kiến có giá trị bậc
nhất của nền kinh tế thị trường. TTCK đại chúng hóa doanh nghiệp lớn giá trị
nhiều tỷ đô thành hàng triệu cổ phần nhỏ lẻ. Ngược lại, từng đô la bé nhỏ qua
các kênh trên TTCK đã biến thành công ty đại chúng có giá hàng triệu đô.
TTCK chia sẻ lợi ích và nhân sức mạnh của nguồn lực. Ngày nay công nghệ
và truyền thông phát triển đã tạo cơ hội cho nhà đầu tư khắp mọi nơi trên trái
đất đồng sở hữu một doanh nghiệp mà không bị điều kiện địa lý ngăn cản.
Tuy nhiên sức mạnh của TTCK lại hàm chứa những rủi ro tiềm ẩn mà
nguyên do xuất phát từ sự bất cân xứng và không đầy đủ thông tin giữa nhà
điều hành với các cổ đông; giữa các cổ đông với các trái chủ và các bên có lợi
ích liên quan. TTCK khó có thể phát triển bền vững khi vẫn còn tồn tại sự bất
xứng và thiếu hụt thông tin cần thiết.
Bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2000 nhưng TTCK Việt Nam hiện vẫn sơ
khai về hạ tầng thông tin công nghệ, nghèo nàn về hàng hóa và thiếu vắng các
nhà đầu tư tổ chức tiềm năng. Báo cáo tài chính định kỳ hàng quý được xem
là nguồn thông tin có tính pháp lý quý giá nhất để các cổ đông và các nhà đầu
tư giám sát và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

×