Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TỔNG QUAN về THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, tìm HIỂU và ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.87 KB, 24 trang )

Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm về phát hành chứng khoán
Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng
khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán
của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần
đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ
sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị
trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên,
không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ
những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
2. Phương thức phát hành chứng khoán
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó
là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
2.1. Phát hành riêng lẻ (Private Placement)
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán
của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là
cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một
cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… với những điều
kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân
hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư
cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát
hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
1
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
phát hành cổ phiếu thường – cổ phiếu phổ thông ít khi được thực
hiện dưới hình thức này.
2.2. Phát hành chứng khoán ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó
chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công


chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải
dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành
phải đạt một mức nhất định.
2.3. Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ
vàphát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để
xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là
những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt,
nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà
đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây
dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều
chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này
không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường
chứng khoán sơ cấp.
3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
3.1. Khái niệm
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
2
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc
phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư
thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán
chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân
phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.
3.2. Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các

phương thức sau:
· Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh
mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng
khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay
không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo “cam kết chắc chắn”,
một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua
chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá
chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra
công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán
của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi
là hoa hồng chiết khấu.
· Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức
thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
3
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường
hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện
hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các
cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên,
sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty.
Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng
mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành
những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo
lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết
sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ
chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát
triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn
thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức
bảo lãnh thông dụng nhất.

· Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý
cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn
bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng
khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho
tổ chức phát hành phần còn lại.
· Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong
phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán
một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được
hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
4
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
· Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương
thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất
và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương
thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu
một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ
chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa
quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ
thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
NIÊM YẾT CHỨNG KHOÁN
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ
tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập
trung (Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng
khoán). Hay nói cách khác, để có thể được niêm yết tại một Sở giao
dịch chứng khoán nào đó thì công ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Mỗi Sở giao dịch chứng khoán có
những điều kiện đặt ra khác nhau để đảm bảo cho sự hoạt động an
toàn đồng thời phù hợp với mục đích hoạt động của Sở giao dịch đó

Thị trường chứng khoán (TTCK) làm trung gian giữa công
chúng (vòng 4) với công ty (vòng 1) . Hai vòng này lúc lắc trái
chiều nhau ; vì công chúng có ít tiền, muốn kiếm lãi cao, lại còn
muốn rút vốn ra bất cứ lúc nào ; trong khi ấy công ty muốn vốn vào
nhiều mà ở lại lâu. ở bài đầu chúng ta đã nói đây là hai đòi hỏi cực
đoan. Vai trò của TTCK là hoá giải hai cái cực đoan ấy ; nghĩa là nó
làm cho hai vòng kia vẫn gắn với nhau dù lúc lắc trái chiều nhau.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
5
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Xin quý vị tưởng tượng ra một cái bạc đạn (vòng bi). Nó có hai
vòng lớn nhỏ phải không ? Nhưng các viên bi ở giữa được thay
bằng một lớp keo dày, dẻo giống như kẹo cao su (chewing gum) đã
nhai lâu. Lớp keo đó là TTCK.
Chúng ta sẽ nói về chất keo kia, tức TTCK vận hành thế nào,
trong phần hai của loạt bài này. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh
rằng, chất keo không thể làm hai vòng kia dính mãi nếu bản thân hai
cái vòng không có một cái gì chung làm điểm nối kết. Điểm chung
đó là tiền lời hay lãi mà người đầu tư đòi hỏi thì công ty phải đáp
ứng cho được qua việc kinh doanh của mình. Tiền cũng giống như
nước, nó chảy vào chỗ trũng. Công ty phải là chỗ trũng thì nước
mới chảy vào. Đó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của một
TTCK.
Về mặt vĩ mô, TTCK không có vốn để cung cấp cho công ty. Nó chỉ
hỗ trợ công ty theo tinh thần “anh hãy tự giúp trước, rồi trời sẽ giúp
sau”. Sau khi người đầu tiên (là công ty bảo lãnh phát hành chứng
khoán) đã trả hết tiền mua chứng khoán mà công ty bán ra thì
TTCK làm xong việc giao vốn dài hạn cho công ty. Nó không làm
gì khác cho công ty nữa. Công ty cũng không phải trả lãi, trả vốn
cho TTCK, như phải làm với ngân hàng. Việc đăng ký và niêm yết

chứng khoán công ty làm với cơ quan chính quyền quản lý sự giao
dịch chứng khoán và với Sở Giao dịch chứng khoán là nơi quản lý
cái chợ, chứ không phải với TTCK. Vì vậy, công ty phải tự làm ăn
mà trả lời, trả lãi cho những người đã hay sẽ mua chứng khoán của
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
6
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
họ. Trong số công việc của mình, TTCK phục vụ công ty khoảng 10
%, còn phục vụ những người mua chứng khoán đến 90 %. Việc
phục vụ sau gồm hai công tác chính : (1) làm sao cho họ có thể
kiếm lời từ việc mua bán chứng khoán trên thị trường ; và (2) cho
họ rút tiền ra lúc nào cũng được. Cách duy nhất mà TTCK làm để
thực hiện tốt hai công tác kia, là làm sao cho có thật nhiều người
tham gia vào nó, càng đông càng tốt. Đông người mua ắt sẽ bán dễ,
vậy là có sự mua bán để kiếm lời. Nhiều người mới sẵn sàng vào thì
người cũ bán chứng khoán cho họ, như vậy là rút ra lúc nào cũng
được. TTCK cũng không bảo đảm cho người đầu tư là cứ mua bán
chứng khoán sẽ có lời, hay cho vay ở TTCK là có lãi cao. Những
thứ này tuỳ thuộc vào các công ty đã bán chứng khoán và hoạt động
của họ, và tuỳ cách người đầu tư đã đặt mua bán như thế nào.
Cách làm của TTCK là sử dụng một số công nghệ để :
Giá mua bán sẽ là một giá công bằng (fair), một bên không thể bắt
chẹt bên kia vì nắm nhiều thông tin hơn ;
Có sẵn thanh khoản, tức là lúc nào cũng có tiền mặt để thanh toán
hay là người bán hay mua chứng khoán dù nhiều hay ít thì cũng
không bị dìm giá hay tăng giá vì không có sẵn tiền mặt ;
Chi phí cho việc mua bán thấp ;
Việc thanh toán tiền nong giữa một số rất đông người diễn ra nhanh
chóng và thuận tiện và
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH

7
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Mọi giao dịch diễn ra trong sự thanh liêm và trong sáng. Bốn yếu tố
đầu có tính thương mại hay vật chất, còn yếu tố cuối là tinh thần ;
và tất cả đều nhằm phục vụ người đầu tư.
Tư cách của người mua bán chứng khoán
Khi phát hành chứng khoán, công ty sẽ ấn định một giá bán
ban đầu được ghi trên chứng khoán, gọi là mệnh giá. Mệnh giá sẽ
lên hay xuống để thành giá thực tế lúc mua hay bán gọi là thực giá.
Thực giá thay đổi tuỳ theo người muốn mua hay bán chứng khoán
thấy công ty trả cổ tức hay tiền lãi ra sao (năm trước trả bao nhiêu,
năm nay có thể sẽ trả bao nhiêu) và tuỳ vào sự đánh giá của họ về
triển vọng kinh doanh của công ty (sản phẩm sẽ bán chạy không).
Hai yếu tố này tỷ lệ thuận với nhau nhưng lại tạo ra hai loại người
mua bán khác nhau. Người nào mua hay bán chứng khoán mà dựa
trên triển vọng kinh doanh tương lai của công ty thì người đó mong
kiếm lời từ chính việc mua bán ; và họ là người đầu cơ (speculator)
hay người kinh doanh chứng khoán. Người đầu cơ ở TTCK khác
hẳn người đầu cơ ở thị trường hàng hoá, họ cần thiết cho TTCK,
chúng ta sẽ xem về họ ở bài 18. Còn người nào chỉ mua chứng
khoán để mong hưởng cổ tức hay tiền lãi đều đặn, thì người đó là
người đầu tư bảo thủ hay người nuôi chứng khoán.
Dù là người đầu cơ hay người bảo thủ thì cả hai đều là người đầu tư.
Nếu người bảo thủ không bán chứng khoán đi thì họ ngồi ở vòng 1,
còn người đầu cơ thì luôn luôn ở vòng 4. Vị trí của họ có thể thay
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
8
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
đổi từ vòng nọ sang vòng kia, tuỳ theo cách họ ra lệnh cho công ty
môi giới mua bán chứng khoán của một công ty như thế nào.

Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia
thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung1, Thị
trường chứng khoán tập trung: là thị trường hoạt động theo đúng các
quy định của pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã
được đăng biểu hay đặc biệt được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là chứng khoán đã được cơ quan có thẩm
quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các
kinh kỷ và công ty kinh kỷ, tứ là đã hội đủ tiêu chuẩn quy định.
Chứng khoán biệt lệ là chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan
công quyền phát hành và bảo đảm. Loại chứngkhoánnày được miễn
giấp phép của cơ quan có thẩm quyền.
2, Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): Là thị trường mua
bán chứng khoán nằm ngoài sở giao dịch, không có địa điểm tập
trung những nhà môi giới, những người kinh doanh chứng khoán
như tại sở giao dịch. các giao dịch ở đây chủ yếu là dựa vào sự thoả
thuận giữa người mua và người bán, không có sự kiểm soát từ Hội
đồng Chứng khoán.
các loại chứng khoán mua bán ở đây thường những chứng khoán
không được đăng biểu, ít người biết đến hoặc ít được mua bán.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
9
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán thì thị trường
chứng khoán được chia làm thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp.
1, Thị trường sơ cấp: Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường
phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng
khoán mới phát hành lần đầu. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo
vốn cho đơn vị phát hành.
2, Thị trường thứ cấp: còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường

lưu thông,là nói đến nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán
sau khi đã phát hành lần đầu. Nói cách khác thị trường thứ cấp là thị
trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã phát hành qua thị
trường sơ cấp.
Nếu xét về phương thức giao dịch thì thị trường chứng
khoán được chia là thị trường giao ngay và thị trường giao sau
1, Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo
giá tại thời điểm giao dịch nhưng việc thực hiện thanh toán và giao
hàng có thể diễn ra sau dó một vài ngày theo thoả thuận.
2, Thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo
một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao
dịch , nhưng việc thanh toán và giao hàng xảy ra trong một thời hạn
ở tương lai.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
10
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Ngoài ra, nếu căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành thì thị trường
chứng khoán còn chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường các công cụ phái sinh.
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện
đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua
bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến
hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán
lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ
cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát
hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị
trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua
bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể
nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những chức năng
cơ bản sau:

- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính
sách vĩ mô
1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
11
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể
được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ
chức có liên quan đến chứng khoán.
a) Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng
khoán – hàng hoá của thị trường chứng khoán.
• - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát
hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài
chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho
hoạt động của họ.
b) Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán
trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2
loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
• - Các nhà đầu tư cá nhân
• - Các nhà đầu tư có tổ chức

c) Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
• - Công ty chứng khoán- Quỹ đầu tư chứng khoán
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
12
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
- Các trung gian tài chính
d) Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm…
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai
- Nguyên tắc trung gian
- Nguyên tắc đấu giá
4 Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán
những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
13
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
hàng… có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại
TTCK cơ bản:
a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp.T

· Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang
nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới
phát hành.
· Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành.
b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở
giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
c) Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
14
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị
trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các
công cụ chứng khoán phái sinh.
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao
dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ
phiếu ưu đãi
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường
giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái
phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái
phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành
và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ
phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 ở tại thành phố trung tâm buôn bán
của phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại một số khu như
quán cà phê để trao đổi mua bán các loại hàng hoá như nông sản,
khoáng sản, tiền tệ và các chứng từ có giá. Ðiểm đặc biệt ở đây là
các thương gia chỉ giao dịch với nhau bằng lời nói, không có hàng
hoá thật. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau
các hợp đồng trao đổi mua bán ngay hoặc cho tương lai.Những cuộc
trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó đông dần cho
đến khi nó thực sự thành một khu chợ riêng. Thời gian họp chợ lúc
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
15
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày.
Trong các phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau
các quy ước cho việc thương lượng và sau này trở thành những quy
tắc có giá trị bắt buộc đối với những ai muốn tham gia thị trường và
thị trường chứng khoán hình thành từ đó.
Như vậy, thị trường chứng khoán xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự
hình thành thị trường chứng khoán cũng đồng thời với thị trường
hối đoán và một số thị trường khác.
Quá trình hình thành và phát triển của thị tường chứng khoán
thế giới đã trải qua những giai đoạn thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng
nhất là vào những năm 1875 đến 1913, thị trường chứng khoán
trong thời kỳ này phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Nhưng đến “ngày thứ sáu đen tối” vào ngày 29-10-1929 là
ngày mở đầu cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán New
York, từ đó cuộc khủng hoảng kéo sang các thị trường chứng khoán
Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản. Sau thế chiến thứ hai, thị trường
chứng khoán phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa đã làm cho thị trường chứng

khoán thế giới suy sụp nặng nề. Cuộc khủng hoảng hoảng này để lại
hậu quả nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Nhưng chỉ
sau hai năm, thị trường chứng khoán thế giới tiếp tục đi vào hoạt
động ổn định, phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu
trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển
theo định hướng thị trường.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
16
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Một cái chợ có tổ chức
Thị trường là một “cái chợ”. ở mức phát triển thấp, chợ là một
nơi tập trung hàng hoá các loại, và kẻ bán người mua gặp nhau. ở
mức phát triển cao hơn, như các siêu thị “mart”, chợ không có
người bán. ở mức cao hơn nữa chợ là nơi diễn ra sự trao đổi. ở đó
người mua hay bán không xuất hiện mà giao dịch với nhau qua
những người môi giới. Chợ bán chứng khoán thuộc loại này. Nơi
đây, hàng là các chứng khoán được trao đổi ; nhưng chúng thực sự
lại chỉ là những con số đi kèm với tên công ty. Điều này giúp người
mua kẻ bán, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể thay đổi vị trí, khi mua
chứng khoán, khi bán nó đi. Và người này là những nhà đầu tư hay
công chúng như ta đã biết. Người đầu tư mua và bán hàng, nhưng
hàng của họ là hàng mua lại. Người bán thực sự là các công ty cổ
phần. Nhưng những công ty này chẳng còn dính dáng gì vào việc
buôn bán. Chợ bán chứng khoán có rất đông người mua, kẻ bán, bởi
thế, nó được tổ chức rất quy củ và được gọi là “một cái chợ có tổ
chức cao” (highly organized market).
Các loại chợ
Bình thường, ở chợ hàng hoá, ta có chợ đầu mối và chợ bán lẻ là
những chợ phân loại theo số lượng hàng bán (bán buôn, bán lẻ) ; có
chợ trong nhà lồng, chợ bên ngoài nhà lồng là những chợ phân chia

theo phẩm chất hàng bán ; rồi có chợ bán lương thực, chợ bán cây
cảnh là những chợ phân theo mặt hàng. TTCK cũng có những loại
chợ giống như thế chỉ khác là nó có tổ chức cao.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
17
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Chợ bán theo số lượng hàng bán
Chứng khoán thoạt đầu do công ty đưa ra ; khi đã đăng ký với
uỷ ban giao dịch chứng khoán thì họ được phép bán. Công ty sẽ bán
cho một nơi mua sỉ để cho tiện khi đưa bán cũng như lúc lấy tiền về.
Công ty “mua sỉ” là công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán. Sự
mua bán giữa hai nơi này tạo nên thị trường sơ cấp, giống như chợ
đầu mối.
Khi công ty “mua sỉ” đem bán lẻ chứng khoán cho công chúng, thì
hai người này tạo ra một thị trường thứ hai, gọi là thị trường thứ
cấp, giống như chợ bán lẻ.
Hai thị trường này ăn thông với nhau mới tạo nên TTCK. Nếu chỉ
có chợ sơ cấp không thôi, như ở ta hiện nay, thì chưa có TTCK.
Chợ bán theo phẩm chất hàng hoá
Công ty bán chứng khoán có cái to, cái nhỏ ; cho nên chứng
khoán của họ cũng được phân loại theo sức mạnh của công ty.
Chứng khoán của các công ty lớn, hội đủ một số điều kiện nào đó,
sẽ được bán ở một khu vực rộng rãi, phố xá đông người, gọi là các
sàn giao dịch, như mô tả ở bài 8. Dự thảo Pháp lệnh chứng khoán
của ta gọi là “thị trường giao dịch tập trung” ; cho ngắn gọn và tuỳ
mạch văn, chúng ta sẽ dịch là chợ bán trên sàn hay sàn giao dịch.
Các từ này đều chỉ chung một chỗ là “trading floor”.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
18
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH

Chứng khoán của các công ty không hội đủ những điều kiện đòi hỏi
kia sẽ được bán ở một nơi khác gọi là bán “qua các quầy” (over-the-
counter trading – OTC) ; có thể tên chính thức của nó ở ta sẽ là “thị
trường giao dịch không tập trung”, ở đây chúng ta dịch là “chợ bán
trên bàn” hay “bàn giao dịch” ta không gọi là quầy để không bị lẫn
với quầy ở chợ trên sàn. Chợ trên bàn, không có người qua kẻ lại,
mà chỉ là các văn phòng của các người môi giới đặt tại nhiều nơi
trong nước. Họ cũng như khách hàng giao dịch với nhau qua điện
thoại.
phân loại theo tính chất món hàng
Huy động vốn thì không chỉ công ty mới làm, mà cả chính
quyền các cấp cũng làm nữa. So với công ty, khả năng trả nợ của
chính quyền chắc chắn hơn, do đó các ràng buộc về trả nợ dành cho
công ty không được áp dụng cho chính quyền. Vì thế, công trái của
chính quyền được bán ở một chợ khác, thường là các ngân hàng
thương mại. Sự việc này tạo ra một chợ riêng bán công trái do chính
quyền phát hành.
Sự phân loại các chợ như ở trên cốt cho dễ hiểu. Trên thực tế, các
loại chợ kia hoạt động đan xen với nhau tạo nên một TTCK. Vì cốt
tuỷ của một cái chợ là sự trao đổi, nên ở đâu có trao đổi là có chợ
mà không nhất thiết phải có một địa điểm chung cho kẻ mua người
bán ; bởi thế “cái bàn” cũng là một “cái chợ”.
Nguyên tắc hoạt động của chợ
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
19
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
Thị trường sơ cấp phải giải quyết tất cả các vấn đề của việc
vay nợ và hùn vốn ; là những thứ luôn luôn có rủi ro. Muốn tránh
rủi ro, người ta phải thu thập tin tức, ký hợp đồng với các con nợ, và
kiểm soát sự thực hiện hợp đồng đó. Việc này sẽ do một công ty hay

người bảo lãnh phát hành chứng khoán (underwriter) làm. Họ sẽ
thảo luận với các công ty muốn bán chứng khoán về các điều kiện
của hợp đồng. Khi hợp đồng được thực hiện thì các công ty được uỷ
nhiệm (trustee) kiểm soát việc con nợ thực hiện hợp đồng.
Chợ thứ cấp bán chứng khoán là nơi công ty bảo lãnh phát hành bán
lại chứng khoán cho công chúng. Chợ này – như đã biết – do các
người môi giới lập. (Về những người này chúng ta sẽ đề cập ở bài
XIII).
Chợ thứ cấp phải thực hiện ba chức năng. Một là, khai mở, hay xác
định một giá công bằng (fair) cho việc mua hay bán chứng khoán.
Hai là, giúp cho việc mua bán theo các giá kia được diễn ra nhanh
chóng dễ dàng ; tức là tạo ra thanh khoản. Ba là, giúp cho việc giao
dịch ít tốn kém.
Xác định một giá công bằng
Chứng khoán tiêu biểu cho lời hứa của công ty phát hành là họ
sẽ trả lại số tiền đã nhận cùng với lời lãi sau này. Giá trị của lời hứa
đó tuỳ thuộc vào sự mong đợi của người đã bỏ tiền ra và vào sự
đánh giá các rủi ro liên quan đến sự trả nợ. Hai cái này lại bị chi
phối bởi các thông tin có sẵn ở những chỗ nhất định (báo chí, cơ sở,
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
20
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
nơi mua bán) và bởi kết luận mà người bỏ tiền rút ra từ các thông tin
ấy. Cùng một thông tin, nhưng những người khác nhau sẽ có những
kết luận cho mình khác nhau.
Một giá cả công bằng cho chứng khoán là một phí tổn thấp nhất mà
những người hiểu biết thông tin sẵn sàng trả khi mua bán chứng
khoán. Một phí tổn thấp nhất cho người bán là số tiền cao nhất họ
đòi được. Còn phí tổn thấp nhất cho người mua lại là số tiền nhỏ
nhất mà họ sẽ phải trả.

Khai mở cái giá kia là một diễn trình làm giá hay tạo giá. ở mỗi loại
thị trường diễn trình đó khác nhau.
Tạo ra hay có sẵn thanh khoản
Từ “thanh khoản” nghe khó hiểu. ở đây, cho dễ nhớ, có thể nói một
thị trường có khả năng tạo thanh khoản là nơi mà ở đó bất cứ ai
cũng có thể mua bán nhanh chóng mà không bị thua thiệt. Thí dụ,
khi bạn muốn bán chứng khoán của một công ty, ở một nơi nào, vào
bất cứ lúc nào, theo cái giá công bằng, mà nơi đó có thể mua rồi trả
tiền cho bạn ngay thì đó là một thị trường có thanh khoản cao. Nếu
phải lâu bạn mới bán được hay phải “lót tay” mới bán được thì nơi
đó không có thanh khoản hay thanh khoản thấp.
Để có thanh khoản, TTCK sẽ áp dụng công nghệ bù qua sớt lại
(thanh toán bù trừ). Số tiền nhận từ người mua sẽ được lấy ra trả
cho người bán. Nếu số người bán cao hơn số người mua khiến có sự
mất thăng bằng về thanh khoản, thì TTCK cũng phải có khả năng
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
21
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
giống như ngân hàng để bù đắp sự chênh lệch kia. Các công nghệ
của ngân hàng, mà chúng ta đã biết qua bài V, cũng được dùng
trong TTCK.
Giảm chi phí giao dịch
Cốt lõi của TTCK là sự trao đổi. Muốn trao đổi phải có sự đồng ý
về điều kiện mua bán. Về sự thực hiện cái đã đồng ý (tức là sự thực
hiện) và rồi thanh toán. Khi làm hai việc sau thì cũng có tốn kém và
rủi ro (thí dụ, người bán nhận bán nhưng không giao hàng khiến
người mua phải đi tìm hàng thay thế ; người mua không trả tiền làm
người bán kẹt vốn…). Chi phí thực hiện phải thấp thì buôn bán mới
dễ dàng ; nhờ đó TTCK mới thực hiện được các chức năng của nó.
Muốn thế, thị trường phải có tổ chức nghĩa là có bốn đặc tính sau :

1. Hạn chế gia nhập và có nội quy hoạt động
Người mua bán chứng khoán có thể lên đến hàng trăm hàng ngàn
mỗi ngày. Một số đông như thế giao dịch với nhau thì phải biết
nhau và phải tin rằng những người mà họ giao dịch là những người
đáng tin cậy. Nếu không, thì ai cũng sẽ bị “sưu tra lý lịch” trước khi
tham gia. Nếu việc đó xảy ra, ta sẽ thấy ngay là không có mua bán
nữa.
Một cách để tránh tình trạng này là chọn lọc để giới hạn sự gia
nhập. Trong TTCK, chỉ có những người được phép mới được vào
chợ trên sàn. Đó là những người môi giới. Tất cả những người khác
chỉ có thể mua bán với nhau qua những người này. Để trở thành
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
22
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
người môi giới, đương sự phải hội đủ một số điều kiện về vốn liếng,
tiêu chuẩn kế toán chuyên môn và đạo đức. Và để cho chặt chẽ hơn,
các hội viên phải đặt ra nội quy hành nghề ; để những ai vi phạm sẽ
bị phạt tiền hay bị sa thải.
Nhờ những biện pháp trên, nên khi người đầu tư ra lệnh mua bán,
họ mới dám tin tưởng người mình giao dịch và điều này làm cho chi
phí giảm nhiều. Niềm tin làm giảm bớt giấy tờ và tốn kém.
2. Tiêu chuẩn hoá
Việc giao dịch ở chợ phải được tiêu chuẩn hoá và đơn giản hoá. Thí
dụ, các chứng khoán được xếp theo từng lố 100 hay 1.000 cổ phần ;
rồi có những thủ tục thống nhất về chuyển giao hàng và thanh toán
tiền.
Sự tiêu chuẩn hoá làm cho việc mua bán được đơn giản. Người mua
và bán chỉ cần đồng ý với nhau về giá hàng và số lượng ; tất cả các
vấn đề khác của việc mua bán thì hai bên đã biết, không cần phải
bàn bạc nữa. Tiêu chuẩn hoá còn làm giảm các trường hợp hai bên

hiểu khác nhau về tính chất của sự giao dịch.
3. Giải quyết tranh chấp
Dù đã tạo ra những tập tục trên thì tranh chấp cũng vẫn xảy ra. Giải
quyết chuyện đó sẽ mất thời giờ và tiền bạc. Chợ có tổ chức sẽ giảm
chi phí kia bằng cách đề ra một khuôn khổ cho việc giải quyết tranh
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
23
Trường ĐHCN TP HỒ CHÍ MINH
chấp. Giải quyết riêng tư với nhau sẽ rẻ hơn nhiều so với việc đưa
nhau ra toà.
4. Bảo đảm thi hành
Giao dịch cách nào thì cũng có những rắc rối không lường trước
được ; đó là rủi ro, và chúng rất khác nhau. Mua bán thì bao giờ
cũng có hai người, nếu chỉ đưa ra các biện pháp để bảo vệ một
người thì việc mua bán trở nên tốn kém vì người kia cũng phải tìm
cách chống đỡ. Để giảm bớt chi phí đó, thị trường có tổ chức sẽ bảo
đảm rằng các sự giao dịch đã được đồng ý thì cũng sẽ được thực
hiện. Làm được như thế thì khi hai bên mua bán đã đồng ý về một
vụ việc rồi thì cả hai đều biết chắc việc ấy sẽ được thực hiện.
Đó là những nguyên tắc chung mà các thị trường có tổ chức áp
dụng. Thực hiện chúng cách nào thì mỗi thị trường sẽ làm khác
nhau.
Sinh Viên: Nguyễn Thị Lý LỚP NCKT4BTH
24

×