Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Nghiên cứu công chúng báo Đảng các tỉnh Miền Đông Nam bộ của báo Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương (2007 - 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 131 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN TÔN HOÀN




NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG
CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
của báo Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dƣơng
(2007 - 2010)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học






Hà Nội – 2011









2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN TÔN HOÀN








NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG
CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
của báo Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dƣơng
(2007 - 2010)





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60 32 01




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. NGUYỄN THỊ MINH THÁI




Hà Nội - 2011


3



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ẢNH, BIỂU ĐỒ

NỘI DUNG
TRANG
Bảng 2.1. Mức độ đọc báo
55
Bảng 2.2. Mức độ tham gia cộng tác tin, bài cho báo
56
Bảng 2.3. Mức độ góp ý, nhận xét về tờ báo
56
Bảng 2.4. Đọc báo từ các nguồn

57
Biểu đồ 2.5. Số lượng phát hành của các báo miền Đông Nam Bộ
57
Bảng 2.6. Đặc điểm công chúng báo Đảng các tỉnh Đông Nam Bộ
59
Bảng 2.7. Nhận xét của bạn đọc về nội dung thông tin
60
Bảng 2.8. Các lĩnh vực thông tin được bạn đọc quan tâm
61
Bảng 2.9. Nhận xét về hình thức tờ báo
62
Bảng 2.10. Mong muốn báo phát huy
65
Ảnh 2.11. Giao diện trang thông tin điện tử của báo Đồng Nai
67
Ảnh 2.12. Giao diện báo điện tử của báo Bà Rịa – Vũng Tàu
68
Ảnh 2.13. Giao diện trang thông tin điện tử của báo Bình Dương
69
Bảng 2.14. Mức độ xem báo điện tử
70






4
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 12
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 13
7. Kết cấu luận văn 13

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ 14
1. 1. Công chúng trong mối quan hệ với chủ thể báo chí truyền thông 14
1.1.1.Truyền thông, truyền thông đại chúng và chủ thể báo chí truyền thông . 14
1.1.2. Công chúng và đặc điểm công chúng báo chí truyền thông 15
1.1.3. Mối quan hệ giữa chủ thể báo chí- truyền thông với công chúng 18
1.1.4. Vị trí và các vấn đề của nghiên cứu công chúng 23
1.2. Báo Đảng và công chúng báo Đảng ở Việt Nam 28
1.2.1. Vài nét về báo Đảng ở Việt Nam 28
1.2.2. Công chúng báo Đảng ở Việt Nam 34
1.3. Nghiên cứu công chúng báo Đảng trong xu hƣớng phát triển của công
chúng báo chí tại Việt Nam 36
1.3.1. Công chúng có nhiều điều kiện để tiếp cận các kênh truyền thông đại
chúng đa dạng và phong phú hơn. 36
1.3.2. Công chúng báo chí không chỉ là người thụ hưởng thông tin mà còn
tham gia quá trình truyền thông. 39
1.3.3. Công chúng báo in trước sự phát triển của báo điện tử trên internet. 40
Tiểu kết chƣơng 1 42

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG CHÚNG BÁO ĐẢNG CÁC TỈNH
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 44

2.1. Tổng quan về báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ 44
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên- xã hội miền Đông Nam Bộ 44
2.1.2. Báo Đảng các tỉnh Đông Nam Bộ 47
2.1.3. Về hoạt động của các báo Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương…51

5
* Báo Đồng Nai 51
* Báo Bà Rịa - Vũng Tàu 53
* Báo Bình Dương 53
2.2. Đặc điểm công chúng báo Đảng các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu,
Bình Dƣơng 56
2.2.1. Mức độ, cách thức đọc các báo Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Bình Dương của công chúng. 57
2.2.2. Nhận định của công chúng về nội dung và hình thức 63
2.2.3. Những yếu tố tác động đến tâm lý tiếp nhận báo Đảng của công chúng 64
2.2.4. Công chúng báo điện tử của các báo Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Bình Dương 70
* Nhận xét và bàn luận: 73
2.3. Hoạt động của các tòa soạn nhằm tác động đến công chúng 75
2.3.1. Những mặt tích cực 75
2.3.2. Những mặt hạn chế 79
Tiểu kết chƣơng 2 80

Chƣơng 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁO ĐẢNG CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
VỚI CÔNG CHÚNG 82
3.1. Những vấn đề đặt ra đối với báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ 82
3.1.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ chính
trị và nhu cầu công chúng 82
3.1.2. Tổ chức, phương thức hoạt động hướng đến tính chuyên nghiệp của báo

chí hiện đại 84
3.1.3. Vấn đề đặc trưng địa phương của báo Đảng các tỉnh 85
3.1.4. Vấn đề công chúng báo chí 86
3.1.5. Chú trọng đến hiệu quả công tác quảng cáo, phát hành báo chí 88
3.2. Giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa báo Đảng với công chúng 89
3.2.1. Nhóm giải pháp liên quan đến chủ thể truyền thông 90
3.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến công chúng báo Đảng. 92
3.2.3. Nhóm giải pháp về kinh tế báo chí. 93
Tiều kết chƣơng 3 97

KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
PHỤ LỤC 106

6

MỞ ĐẦU

1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài
Nghiên cứu công chúng báo chí là hướng nghiên cứu truyền thông đại
chúng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Công chúng vừa là đối tượng
tác động của báo chí vừa là chủ thể tiếp nhận. Đây là lĩnh vực không chỉ thu
hút sự quan tâm của các nhà khoa học của nhiều ngành mà còn là công việc
có tính thường xuyên, cấp thiết của các cơ quan báo chí, các loại hình báo
chí. Bởi lẽ, hiệu quả của báo chí phụ thuộc rất lớn vào sự tác động của báo
chí đối với công chúng, cũng như thái độ, quan điểm tiếp nhận sản phẩm của
công chúng. Ở các nước có nền báo chí phát triển, công tác nghiên cứu công
chúng trở thành hoạt động mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp cao và là
cơ sở khoa học, là căn cứ để hoạch định chiến lược cũng như kế hoạch phát
triển báo chí.

Tại Việt Nam, báo Đảng các tỉnh, thành phố nằm trong hệ thống của
nền báo chí cả nước. Cho đến nay, 63 tỉnh, thành phố đều có tờ báo Đảng
của địa phương mình, bên cạnh tờ báo Nhân dân- cơ quan của Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam. Báo Đảng các tỉnh là cơ quan trực thuộc Đảng bộ
địa phương (Tỉnh ủy, Thành ủy), có chức năng là cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước và nhân dân; đồng thời là cầu nối thông tin giữa Đảng,
chính quyền với nhân dân địa phương. Quy định 338 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng ngày 26/11/2010 cũng đã xác định rõ tổ chức, bộ máy, chức
năng và nhiệm vụ cụ thể của báo Đảng địa phương. Cũng theo quy định này,
bên cạnh báo in truyền thống, các tỉnh còn có tờ báo điện tử hoặc trang

7
thông tin điện tử trên mạng internet.
Nhìn lại lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam hơn 86 năm qua, có thể
thấy vai trò, vị trí của báo Đảng địa phương và những đóng góp quan trọng
của báo Đảng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng
như trong xây dựng và phát triển đất nước hôm nay. Đặc biệt trong hơn 25
năm đổi mới, cùng với những thành tựu chung của báo chí, báo Đảng các
tỉnh đã có những đóng góp tích cực. Báo Đảng làm nhiệm vụ thông tin, phổ
biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các nghị quyết, quyết định của Đảng bộ, chính quyền địa phương; là cầu nối
giữa Đảng với dân, phản ánh tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của nhân dân
với Đảng, Nhà nước. Không chỉ đáp ứng nhu cầu thông tin ở địa phương,
báo Đảng còn là kênh truyền thông góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đời
sống văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội
của đất nước…
Trong bối cảnh phát triển mới, nhất là sự ra đời và cạnh tranh gay gắt
các loại hình báo chí, báo in nói chung, trong đó có báo Đảng các tỉnh cũng
chịu không ít những tác động khó khăn. Tình hình mới lại càng đặt ra yêu
cầu báo Đảng phải tiếp cận với công chúng. Trong khi đó, thực tế, việc

nghiên cứu công chúng báo chí cũng còn là lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam so
với nhiều nước trên thế giới, nhất là với các cơ quan báo chí, trong đó có báo
Đảng các tỉnh. Đó phải chăng cũng là một trong những lý do làm cho tính
chuyên nghiệp của đội ngũ báo Đảng chưa cao, sản phẩm báo chí chưa đến
được nhiều với công chúng. Phần lớn báo Đảng các tỉnh vẫn còn hoạt động
dưới sự đầu tư, hỗ trợ từ ngân sách của Đảng, Nhà nước và số lượng công
chúng bạn đọc báo Đảng hãy còn khiêm tốn, nếu không nói là quá ít ỏi.
Theo sự phân vùng về địa giới hành chánh, miền Đông Nam Bộ gồm

8
TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh. Trừ TP. Hồ Chí Minh mang đặc điểm của một thành
phố trung tâm kinh tế- văn hóa chính trị của cả nước, báo Đảng các tỉnh
Đông Nam Bộ vừa mang những đặc điểm chung, vừa có những nét riêng từ
tác động khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa đời sống và thói
quen tiếp nhận thông tin báo chí Những năm gần đây, báo Đảng các tỉnh
có những chuyển biến đáng ghi nhận. Cụ thể, 2 tờ báo trở thành nhật báo
(Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương), các báo còn lại đều tăng kỳ xuất bản để
phục vụ nhu cầu công chúng. Bên cạnh tờ báo in, các báo còn có thêm báo
điện tử làm “cánh tay nối dài” hướng đến mở rộng công chúng độc giả. Tuy
nhiên, điều đáng quan tâm là số lượng bạn đọc của báo và công tác nghiên
cứu công chúng vẫn là mặt hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, tác dụng của việc nghiên cứu công chúng
báo chí và thực tiễn hoạt động, là người đang công tác trong một cơ quan
báo chí của Đảng, chúng tôi quan tâm và chọn đề tài “Nghiên cứu công
chúng báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ của báo Đồng Nai, Bà Rịa -
Vũng Tàu và Bình Dương (2007-2010)” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa học nghiên cứu truyền thông đại chúng trên thế giới đã có từ
trên 100 năm nay và đạt được những thành tựu quan trọng. Đối với Việt

Nam, đây là lĩnh vực mới mẻ, nhưng trong gần 20 năm qua cũng đã thu hút
sự quan tâm của các nhà khoa học ở các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, từ
bình diện lý thuyết xã hội học công chúng, nghiên cứu khảo sát thực nghiệm,
tâm lý học đến báo chí học…
Ở lĩnh vực xã hội học truyền thông, đáng chú ý là những công trình
nghiên cứu của tác giả Mai Quỳnh Nam và Trần Hữu Quang. Tác giả Mai

9
Quỳnh Nam từ năm 1996 đến nay đã công bố trên tạp chí Xã hội học và một
số tạp chí khoa học nhiều công trình liên quan đến công chúng truyền thông,
mối quan hệ giữa công chúng với truyền thông và sự hình thành của văn hóa
giao tiếp đại chúng Tác giả Trần Hữu Quang, với Xã hội học báo chí
(2006), có thể nói là công trình có hệ thống, khá đầy đủ về xã hội học báo
chí ở Việt Nam.
Tiếp cận công chúng truyền thông từ bình diện báo chí học, tập trung
chủ yếu là những công trình của các giảng viên, nhà nghiên cứu phục vụ
công tác giảng dạy, biên soạn giáo trình… tại các cơ sở đào tạo báo chí ở
Việt Nam như: Khoa Báo chí Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Khoa Báo
chí và Truyền thông Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học
Quốc gia Hà Nội); Khoa Báo chí Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Một số luận văn, luận án nghiên cứu chọn các nhóm công chúng đặc
trưng theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp hoặc giới tính, hoặc nghiên cứu nhóm
công chúng của một loại hình báo chí; nghiên cứu thính giả của đài, nghiên cứu
bạn đọc của một tờ báo Cho đến nay, cũng đã có một số nghiên cứu công
chúng báo Đảng tỉnh, thành thuộc các vùng miền trong cả nước, nhưng nghiên
cứu công chúng báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ thì đây là nghiên cứu
đầu tiên. Năm 2009, luận văn thạc sĩ của Hồ Thị Hiền (Học viện Báo chí và
Tuyên truyền) nghiên cứu đề tài “Báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ”, đề
cập nhiều mặt về thực trạng hoạt động của báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam

Bộ, trong đó có nội dung về công chúng, nhưng chỉ ở mức độ thông tin về số
lượng độc giả, phát hành của các tờ báo. Cũng trong năm 2009, Luận án tiến sĩ
của Đỗ Thị Thu Hằng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) “PR- công cụ phát
triển báo chí’, nghiên cứu công chúng của các tờ báo dành cho thanh niên ở

10
Việt Nam. Trong đó một số nội dung về lý luận và thực tiễn liên quan như nhận
thức của các tòa soạn về vai trò và ý nghĩa của lĩnh vực nghiên cứu công
chúng, hình thức nghiên cứu công chúng của các tòa soạn, thực hiện các
phương pháp nghiên cứu, tác động của nghiên cứu công chúng đến nội dung và
hình thức tờ báo… Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác có giá trị về
mặt lý luận và thực tiễn về vai trò và tác dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng
của công tác nghiên cứu công chúng, nhất là những thay đổi của báo chí dẫn
đến biến đổi về công chúng báo chí trong đời sống truyền thông hiện đại. Có
thể kể đến luận văn thạc sĩ (2007) của Nguyễn Thu Giang (Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội); luận án tiến sĩ (2008) của Trần Bá
Dung (Học viện Báo chí & Tuyên truyền), nghiên cứu về sự tiếp nhận thông tin
báo chí của công chúng Hà Nội. Trước đó (2006), Trần Hữu Quang có công
trình nghiên cứu “Chân dung công chúng báo chí” của thành phố Hồ Chí Minh.
Cho đến nay, đây là những công trình nghiên cứu công chúng báo chí ở hai
thành phố lớn có ý nghĩa, không chỉ đóng góp về mặt lý luận mà còn làm cơ sở
tham khảo cho việc nghiên cứu công chúng ở các vùng miền khác, cũng như
hoạch định kế hoạch, xây dựng chiến lược phát triển báo chí ở nước ta trong
giai đoạn mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là từ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến công chúng trong hoạt động báo chí truyền thông, tìm hiểu khảo
sát thực trạng công chúng và năng lực tác động công chúng của báo Đảng
các tỉnh miền Đông Nam Bộ nhằm phát hiện những ưu thế lẫn hạn chế, đồng
thời đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng theo hướng đáp ứng ngày càng

tốt hơn nhu cầu của công chúng và sự phát triển của báo Đảng trong thời
gian tới. Đặc biệt là xu hướng báo chí truyền thống trước sự tác động mạnh
mẽ của truyền thông internet đã ảnh hưởng không ít tới tương lai phát triển

11
của báo in, trong đó có báo Đảng các tỉnh, thành ở Việt Nam…
Từ những mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Nhận diện báo Đảng và công chúng báo Đảng các tỉnh Đông Nam
Bộ trong bối cảnh phát triển mới của báo chí với những đóng góp, ưu thế và
hạn chế.
- Điều tra, khảo sát, tìm hiểu để đo lường mức độ đọc báo Đảng, quan
điểm thái độ của công chúng báo chí các tỉnh Đông Nam Bộ qua báo Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương, cũng như năng lực tác động công
chúng của các tòa soạn báo.
- Nêu những hạn chế và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
báo Đảng trong thời gian tới để vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đặc trưng
loại hình vừa đáp ứng nhu cầu của công chúng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công chúng của báo Đảng các
tỉnh miền Đông Nam Bộ.
- Phạm vi nghiên cứu, khảo sát là các báo Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Bình Dương, từ năm 2007 đến 2010. Đây là ba tờ báo tỉnh nổi bật ở
miền Đông Nam Bộ, chúng vừa có những đặc điểm chung của báo Đảng các
tỉnh trong cả nước vừa có những nét riêng và vị thế trong hệ thống báo Đảng
địa phương ở Việt Nam. Chọn giai đoạn từ 2007 đến 2010 để tìm hiểu, khảo
sát nghiên cứu vì đây là những năm báo chí Việt Nam có bước phát triển
nhanh và những thay đổi đáng kể từ sự tác động của sự kiện có ý nghĩa đối
với sự phát triển của đất nước- Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO và hội nhập với thế giới. Trên lĩnh vực báo chí,


12
những năm vừa qua có sự tác động mạnh từ truyền thông xã hội và internet
đối với báo chí ở Việt Nam. Báo Đảng các tỉnh miền Đông cũng đã có nhiều
thay đổi đáng kể trong hoạt động của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm học thuyết Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về vai trò, tính chất và nhiệm vụ của báo chí và nhà báo cách
mạng. Luận văn còn sử dụng một số lý thuyết về báo chí học và xã hội học
truyền thông đại chúng của các tác giả trong và ngoài nước làm cơ sở nghiên
cứu.
- Các phương pháp nghiên cứu của luận văn gồm:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được sử dụng với mục đích khái
quát, bổ sung hệ thống lý thuyết về nghiên cứu công chúng báo chí trong hoạt
động truyền thông. Đây chính là những lý thuyết cơ sở cho việc đánh giá các kết
quả khảo sát thực tế và tìm kiếm những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên
cứu.
+ Phương pháp phân tích nội dung: Được sử dụng đối với 3 tờ báo
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương trong thời gian từ năm 2007
đến 2010.
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (an-két): Nhằm thu thập những
ý kiến của độc giả ở ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương về
một số nội dung phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Số lượng mẫu là 300,
lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu điển hình ở 3 thành phố tỉnh lỵ trung
tâm, dân cư đông, báo chí phát triển, công chúng có trình độ học vấn không
chênh lệch nhiều là Biên Hòa, Vũng Tàu và Thủ Dầu Một. Đối tượng chủ
yếu là cán bộ đảng viên, công chức, nhân viên văn phòng, doanh nghiệp,

13

giáo viên, công nhân lao động và một số đối tượng khác
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Được tiến hành với các nhóm đối
tượng: cán bộ, phóng viên, biên tập viên, trưởng ban, thư ký tòa soạn, ban
biên tập, các cơ quan chủ quản và quản lý nhà nước về báo chí
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần bổ sung và phát triển hệ thống
lý thuyết về nghiên cứu công chúng các loại hình báo chí ở Việt Nam nói
chung, báo Đảng các tỉnh, thành nói riêng .
- Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và
thực tiễn của luận văn sẽ có tác động đối với các cơ quan báo chí, các nhà
báo trong việc nhận thức về vai trò của công chúng báo chí truyền thông và
công tác nghiên cứu công chúng… góp phần vào việc nâng cao chất lượng
báo Đảng các tỉnh, trong đó có báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Luận
văn còn là tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về công chúng
báo chí ở Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương như sau:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu công
chúng báo chí
- Chƣơng 2: Thực trạng công chúng báo Đảng các tỉnh miền Đông
Nam Bộ
- Chƣơng 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm nâng cao
mối quan hệ giữa báo Đảng các tỉnh miền Đông Nam Bộ với công chúng

14
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ


1. 1. Công chúng trong mối quan hệ với chủ thể báo chí truyền thông
1.1.1. Khái niệm truyền thông, truyền thông đại chúng và chủ thể báo
chí truyền thông
“Truyền thông (communication) là quá trình liên tục trao đổi hoặc
chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo ra sự liên kết lẫn nhau để dẫn
tới sự thay đổi hành vi và nhận thức” [26, tr.13]
Lý thuyết truyền thông chỉ ra thuộc tính của quá trình của truyền
thông và đưa ra mô hình để khái quát quá trình ấy: người phát tin – kênh
truyền thông - người nhận tin. Đây được xem là mô hình truyền thông căn
bản mà Harol D. Lasswell đưa ra được mọi người chấp nhận vì nó đơn giản,
dễ hiểu và thông dụng: Ai nói cái gì, bằng kênh nào, cho ai, và hiệu quả ra
sao?. Tuy nhiên, giới hạn của mô hình này là quá trình truyền thông một
chiều, không có sự phản hồi và tính tương tác. Lý thuyết thông tin của
Claude Shannon và nhiều nghiên cứu khác đã bổ sung thêm hai yếu tố vào
quá trình truyền thông là hiện tượng nhiễu (noise) và phản hồi (feedback).
Nhờ vậy, có thể xem xét tác động và hiệu quả xã hội (effect) của thông tin.
Ở góc độ xã hội học, truyền thông được phân thành 3 loại chính:
truyền thông liên cá nhân, truyền thông tập thể và truyền thông đại chúng.
Truyền thông đại chúng (mass communication) là quá trình truyền đạt
thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng (mass media). Truyền thông đại chúng
là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm 3 thành tố: các nhà truyền thông-

15
hoạt động truyền thông - công chúng truyền thông.
“Để đảm bảo hiệu quả của truyền thông đại chúng, việc nghiên cứu
công chúng có vai trò rất quan trọng. Nó chỉ ra cho nhà truyền thông cách
thức, phương pháp, nội dung cần thiết để lập và chuyển các thông điệp tới
công chúng một cách hiệu quả. Những phản ứng sau khi nhận được thông
điệp sẽ trở thành yếu tố tham gia việc quyết định những hành vi truyền

thông tiếp theo của nguồn phát” [18, tr.29]
Truyền thông đại chúng tác động vào xã hội bằng thông tin qua cơ
chế: THÔNG TIN → Ý THỨC XÃ HỘI → HÀNH VI XÃ HỘI.
Thông tin trong các thông điệp tác động vào ý thức xã hội, làm thay
đổi nhận thức của cộng đồng, nhận thức mới sẽ dẫn đến những hành vi xã
hội mới. Hành vi xã hội chính là hiệu quả cuối cùng của truyền thông, nhờ
nó mà xã hội vận động và phát triển phù hợp với ý đồ của chủ thể truyền
thông (nhà truyền thông, nguồn phát).
Theo cơ chế tác động của truyền thông đại chúng, thì chủ thể truyền
thông được hiểu là nhà truyền thông, nguồn phát, bao gồm: cơ quan chủ
quản, quản lý; đội ngũ những người làm báo; sản phẩm chứa đựng nội dung
thông tin hướng đến và tác động và công chúng đại chúng.
1.1.2. Công chúng và đặc điểm công chúng báo chí truyền thông
Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ), “Công chúng là đông đảo
những người đọc, người xem, người nghe trong quan hệ với tác giả, diễn
viên…”. Đây là định nghĩa có tính chất chung về công chúng liên quan đến
nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tùy từng lĩnh vực, có thể hiểu
“công chúng” theo những nội dung, đặc trưng phù hợp với mục đích để xem
xét hiệu quả hoạt động. Ví dụ: Trong lĩnh vực quan hệ công chúng (public

16
relations, viết tắt là PR), công chúng theo nghĩa đối tượng liên quan đến tổ
chức tập thể, đơn vị, doanh nghiệp Họ là đối tác quan hệ, khách hàng hiện
tại và tiềm năng; là chính quyền, dân chúng, kể cả các đơn vị truyền thông
báo chí… Quan hệ công chúng thực hiện chức năng quản trị nhằm mục đích
thiết lập, duy trì sự truyền thông hai chiều, sự hiểu biết, chấp nhận và hợp
tác giữa một tổ chức tập thể, đơn vị và “công chúng” của họ. “Nhân viên
truyền thông và PR có vai trò tương tự như nhà báo, chỉ khác là không làm
việc bên trong tòa soạn của một cơ quan báo chí nào đó và chú trọng những
mảng thông tin liên quan đến lợi ích chủ thể PR mà thôi” [16, tr.13].

Với lĩnh vực xã hội học truyền thông đại chúng, công chúng là khái
niệm đa nghĩa, nhưng tựu trung: “Công chúng là một tập hợp xã hội được
cấu thành một cách phức tạp bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác
nhau, và mỗi người đều đang sống trong những mạng lưới xã hội và những
mối quan hệ xã hội nhất định” [25, tr.267].
Dưới góc nhìn của báo chí học, công chúng (audience) là một bộ phận
quan trọng của quá trình truyền thông; là đối tượng tiếp nhận thông điệp của
sản phẩm truyền thông. “Đối tượng tiếp nhận là các cá thể hay tập thể
người… Cũng có thể nói, các cá thể hay nhóm người tiếp nhận thông điệp là
đối tượng tác động đầu tiên của truyền thông. Hiệu quả của truyền thông
được xem xét trên cơ sở những biến đổi về tâm lý, nhận thức, thái độ và
hành vi của đối tượng tiếp nhận” [30, tr.9]
Như vậy, theo cách hiểu trên, công chúng vừa là chủ thể tiếp nhận,
vừa là đối tượng tác động của báo chí truyền thông.
Giáo trình “Báo phát thanh” của Phân viện Báo chí và tuyên truyền
định nghĩa: “Công chúng nói chung có thể được hiểu là những người tiếp
nhận và được các sản phẩm báo chí tác động hoặc hướng vào để tác động”.

17
Công chúng báo chí là những người đọc, người nghe, người xem các sản
phẩm của báo in, phát thanh, truyền hình và internet. Công chúng có thể là
đại chúng, một nhóm đối tượng hay một cá thể nhất định tiếp nhận thông tin
từ các loại hình báo chí.
Cách hiểu trên đã thể hiện mối quan hệ giữa nhà báo - tác phẩm -
công chúng, đó là sự tương tác xã hội trong hoạt động truyền thông đại
chúng với những đặc trưng: (i) Thông điệp từ báo chí luôn có mục đích,
nhắm đến đối tượng cụ thể, hướng đến làm thay đổi nhận thức, hành vi (ii)
Sự đa dạng, phong phú trong thông tin của báo chí ngoài vai trò của những
người làm báo chuyên nghiệp còn có sự tham gia của đông đảo công chúng.
Họ không chỉ là đối tượng tiếp nhận mà còn là những người cùng tham gia

hoạt động, góp phần tạo ra sản phẩm báo chí. (iii) Khi chưa được công
chúng tiếp nhận, thông tin báo chí mới chỉ là thông tin khả năng, sản phẩm
báo chí chưa đáp ứng được yêu cầu và mang lại hiệu quả về mặt truyền
thông. (iiii) Hiệu quả của hoạt động báo chí không phải ở số lượng tác phẩm
đã đăng tải, hay số lượng phát hành báo chí mà quan trọng hơn là công
chúng bạn đọc tiếp nhận như thế nào, nhất là có cùng cảm xúc và đồng thuận
với những thông điệp mà báo chí hướng đến tác động
Luật báo chí nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Báo
chí ở Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông
tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình (chương trình truyền hình,
chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ
thuật khác nhau); báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính)
bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.”[điều 3
Luật báo chí sửa đổi, bổ sung 1999]
Nghiên cứu công chúng báo chí trong luận văn này tập trung chủ yếu

18
ở các đặc trưng của loại loại hình báo in (cụ thể là báo Đảng các tỉnh miền
Đông Nam Bộ) và một số liên hệ với công chúng báo điện tử bên cạnh tờ
báo in.
Theo PGS.TS Mai Quỳnh Nam, công chúng của truyền thông đại
chúng có 4 đặc điểm cơ bản như sau:
- Thuộc mọi tầng lớp xã hội, bất kể địa vị, nghề nghiệp, tuổi tác, giới
tính, trình độ học vấn…Vì thế, công chúng có đặc trưng dị biệt với nhau.
- Nói đến công chúng của truyền thông đại chúng là nói đến cá nhân
nặc danh. Khi hướng đến đại chúng, báo chí không thể biết cụ thể ai là ai.
Nghĩa là truyền thông đại chúng có thể đến với bất cứ ai, không riêng một cá
nhân nào.
- Các thành viên thường cô lập nhau về mặt không gian. Điều đó
khiến họ ít tương tác, tức là giữa họ có thể không có mối quan hệ gì.

- Công chúng của truyền thông đại chúng hầu như không có tổ chức
hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo, vì thế họ rất khó tiến hành chung những
hành động xã hội.
Từ những đặc điểm trên cho thấy, công chúng báo chí truyền thông là
một thực thể rất phức tạp. Việc nghiên cứu công chúng đòi hỏi phải có cái
nhìn tổng hợp, toàn diện và đặt đối tượng nghiên cứu trong môi trường văn
hóa- xã hội cụ thể.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chủ thể báo chí- truyền thông với công chúng
Mối quan hệ giữa chủ thể báo chí - truyền thông với công chúng là
mối quan hệ giữa nguồn phát thông điệp và công chúng, đối tượng tiếp nhận,
thực chất đây là mối quan hệ giao tiếp mang tính đại chúng .

19
Theo PGS TS Mai Quỳnh Nam, giao tiếp đại chúng được hiểu như sự
truyền bá với số lượng lớn những nội dung giống nhau cho những cá nhân
và những nhóm đông người trong xã hội, dựa vào những kỹ thuật truyền bá
tập thể, gọi là media. Hoạt động giao tiếp đại chúng diễn ra như một quá
trình xã hội, được thực hiện bởi các thành phần tạo nên cơ cấu của nó. Có
thể tách hoạt động giao tiếp đại chúng ra thành những yếu tố sau:
- Nhà truyền thông: những người nói, nguồn cung cấp thông tin.
- Công chúng: người được cung cấp thông tin (người nhận)
- Thông điệp: là những điều người ta nói (nội dung thông tin)
- Kênh: các phương tiện kỹ thuật, nhờ đó việc truyền thông được thực
hiện. [9, tr.10]
“Trong xã hội mỗi người đều có sinh hoạt, sở thích, kinh nghiệm
riêng, trình độ văn hóa và sự hiểu biết cũng khác nhau. Những cái riêng đó,
cái khác nhau đó đều có ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận cùng một thông
tin. Vì thế, ý đồ đưa ra một thông tin với hiệu quả thực tế của nó đối với
người đọc thường là không nhất trí với nhau. Song muốn hoạt động báo chí
đạt hiệu quả cao, khoảng cách giữa ý đồ và hiệu quả giảm tới mức thấp nhất,

người làm báo cần biết đến đối tượng và mối quan tâm của họ về thông tin
do báo chí cung cấp” [25, tr.182-183].
Tác giả Trần Hữu Quang cho rằng: “Khi nói rằng công chúng của các
phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm những cá nhân phân tán, điều
này chỉ có một ý nghĩa tương đối về mặt không gian mà thôi; xét về mặt
quan hệ xã hội, điều này không có nghĩa là công chúng các phương tiện
truyền thông đại chúng hoàn toàn cô lập, rời rạc nhau.” [25, tr.27-28]. Theo
Silbermanm, quan niệm công chúng bao gồm những cá nhân rời rạc, phân

20
tán nhau, thì có thể đi đến sự tách biệt và đối lập giữa cá nhân và xã hội.
Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đối với công chúng luôn phụ thuộc
vào bối cảnh của điều kiện sống cũng như các mối quan hệ xã hội của họ.
Thực tiễn đời sống xã hội diễn ra hằng ngày là cơ sở cho hoạt động
báo chí, nhưng người làm báo phải biết xử lý thông tin, chuyển tải thông tin
đến cho nhóm người nào đọc, lợi ích kinh tế, văn hóa chi phối đời sống đối
với nhóm người đó. Từ vị trí xã hội, nhận thức, học vấn, nghề nghiệp, nơi cư
trú… của đối tượng công chúng, báo chí xác định thái độ và mối quan tâm
của họ đối với thông tin. Xác định được điều này thì báo chí sẽ thuyết phục
được công chúng và quá trình truyền thông báo chí sẽ đạt được mục đích
làm thay đổi nhận thức, hành vi và thái độ của công chúng đối với những
vấn đề diễn ra trong đời sống xã hội.
Cái mới, bổ ích và lý thú là đặc trưng của thông tin báo chí và đó cũng
là nhu cầu, sự mong đợi của công chúng báo chí. Tâm lý người đọc, nghe,
xem bao giờ cũng quan tâm đến cái gì mới. Công chúng không chỉ cần đáp
ứng nhu cầu về thông tin mà còn mong đợi từ thông tin báo chí những điều
tốt hơn với cuộc sống và công việc của họ. Mối quan hệ giữa báo chí và
công chúng là mối quan hệ cộng cảm, là động lực thúc đẩy cả hai cùng phát
triển đến mục tiêu chân - thiện - mỹ. Không một cơ quan báo chí nào lại
không mong muốn mình có công chúng bạn đọc đông đảo và ngược lại cũng

không có người đọc nào lại không muốn có trong tay một tờ báo hay, phong
phú về nội dung, đẹp về hình thức trình bày, nhiều thông tin bổ ích, thú vị.
“Báo chí có mục đích của mình và người đọc cũng có nhu cầu phong phú
của họ. Đáp ứng nhu cầu ấy là báo chí đã gặp được người đọc. Bạn đọc báo
là đối tượng sống còn của báo chí. Người làm báo phải luôn bám sát đối
tượng, bám sát thực tế để nắm được nhu cầu và những vấn đề mà công

21
chúng quan tâm, đề cập và giải quyết thiết thực những đòi hỏi và yêu cầu
đó” [26, tr.184].
Công chúng báo chí là một thực thể sinh động có những biến thiên
theo những quy luật nhất định. Thực thể sinh động biểu hiện ở không chỉ
những thống kê số học như số lượng phát hành, số trang, số chương trình, số
giờ phát sóng, không gian phủ sóng qua mạng, truyền hình số, truyền hình
cáp mà còn ở nội dung thông tin tuyên truyền, tác động đối với công
chúng, đối với xã hội.
“Hoạt động báo chí với tư duy bao cấp một thời hiện còn mang nặng
tính chủ quan duy ý chí. Hầu hết các báo cáo về thành tựu báo chí lâu nay
thường có kiểu đánh giá báo chí như: không có những khuyết điểm lớn như
xa rời tôn chỉ, mục đích; nặng thông tin về những hiện tượng tiêu cực, yếu
kém, mặt trái của xã hội, thổi phồng, khoét sâu vào các thiếu sót, khuyết
điểm; tập trung vào việc phát hiện, cổ vũ, biểu dương những tấm gương
người tốt, việc tốt, những nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cách đánh giá đó không sai nhưng
hời hợt và nó cho thấy, chúng ta còn coi thường việc nghiên cứu công chúng
báo chí truyền thông.” [45]. Đây đó có một số công trình nghiên cứu, khảo
sát công chúng…, song đó chỉ là những kết quả điều tra tĩnh, không nhìn
thấy báo chí và công chúng báo chí như một thực thể sinh động có những
biến thiên theo những quy luật nhất định.
Báo chí phát triển đa dạng và phong phú trong những năm qua, công

chúng báo chí cũng có những thay đổi về căn bản. Trong báo cáo sơ kết 2
năm thực hiện Thông báo kết luận 162-TB-TW của Bộ Chính trị về một số
biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí, Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) có nêu ra nhận định:

22
“Công chúng báo chí hiện nay có bước phát triển về số lượng, trình độ, tham
gia ngày càng tích cực vào quá trình truyền thông. Công chúng báo chí từ
chỗ tiếp nhận thụ động chuyển dần sang chủ động, bình đẳng trong thu nhập,
trao đổi thông tin. Chức năng diễn đàn của các tầng lớp nhân dân trên báo
chí ngày càng được thể hiện rõ nét và sinh động.” Đây là một nhận định
quan trọng, bởi nó cho thấy, chúng ta không thể không đổi mới công tác báo
chí cho phù hợp với xu thế của thời đại bùng nổ thông tin. Đã qua rồi cái
thời làm truyền thông bằng ý chí vì công chúng ngày nay có nhiều chọn lựa.
Điều này cũng đặt ra cho nhà truyền thông về phương thức hoạt động của
mình. Quy định về chức năng, quyền hạn của báo chí tại điểm 3, điều 6 của
Luật báo chí cũng ghi rõ: “Báo chí phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội;
làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam
đã nói về báo chí: “Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai
xem? Viết để làm gì ?” Viết cho ai bao hàm nhiều nội dung, quan điểm,
nhưng cốt lõi là đề cập đến đối tượng công chúng mà tờ báo hướng đến phục
vụ.
Trong thực tế, có những trang báo, bài báo không chỉ khô khan về nội
dung thông tin, kỹ thuật diễn đạt mà còn ít chú ý, quan tâm đến đối tượng
phục vụ của mình… Ví dụ báo chí thường mở những đợt tuyên truyền các sự
kiện thời sự chính trị, các ngày kỷ niệm trong năm bằng những chuyên
trang, chuyên mục. Tuy nhiên, không ít chuyên mục, chuyên trang đôi khi
chỉ triển khai về mặt hình thức, “báo chí hóa tư liệu, văn bản báo cáo” mà ít
quan tâm với cách làm như thế, nội dung như thế…, công chúng có thật sự

đón nhận hay không, có thuyết phục được công chúng hay không… Ngoài
ra, trong thực tế, công chúng luôn có nhu cầu trao đổi, tương tác với tòa soạn

23
về vấn đề diễn ra trong đời sống xã hội, tuy nhiên tòa soạn lại ít chú ý, tạo cơ
hội diễn đàn trên báo chí để các tập thể, cá nhân cùng tham gia…
Phác họa được chân dung công chúng truyền thông, đối tượng phục
vụ của báo chí nói chung, của từng cơ quan báo chí nói riêng là công việc
khoa học và yêu cầu chuyên nghiệp. Chỉ khi nào báo chí nhận diện chính
xác đối tượng phục vụ của mình, không chỉ bằng những chỉ số xã hội học,
mà bằng những kết quả đo lường chi tiết liên quan tới hoạt động nghiệp vụ
báo chí, thì mới có thể phục vụ tốt, phát triển tốt, định hướng tốt cho sự phát
triển vững chắc của báo chí.
1.1.4. Vị trí và các vấn đề của nghiên cứu công chúng
Trong hoạt động truyền thông đại chúng, việc nghiên cứu công chúng
có vai trò rất quan trọng, vì qua đó có thể chỉ ra cho nhà truyền thông cách
thức, phương pháp nội dung cần thiết để lập và chuyển các thông điệp đến
công chúng. “Hoạt động truyền thông, báo chí luôn lấy con người làm đối
tượng tác động, đối tượng phản ánh, đối tượng điều chỉnh, do đó phải nghiên
cứu, hiểu rõ nhóm công chúng - đối tượng . Nói chuyện với một người cũng
phải tìm hiểu người ấy. Nói và viết cho nhiều người, cho một nhóm công
chúng rộng lớn lại càng phải tìm hiểu họ một cách nghiêm túc. Nếu không
như thế, mọi nỗ lực của chúng ta sẽ không đạt tới hiệu quả như mong muốn,
thậm chí gây ra lãng phí cho xã hội” [11, tr.326].
Nghiên cứu công chúng là nội dung cơ bản, luôn giữ vị trí hàng đầu
trong báo chí học, xã hội học truyền thông đại chúng và một số ngành. Các
hướng nghiên cứu được tiến hành đều có điểm chung là nhằm làm rõ chân
dung công chúng, các nhóm công chúng với các dấu hiệu quan trọng nhất,
như: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, đặc điểm nghề nghiệp, khu vực cư
trú và thị hiếu…


24
Ở góc độ xã hội học truyền thông, nghiên cứu nhằm tìm ra những đặc
điểm chung và mối liên kết xã hội của công chúng và các nhóm công chúng.
Báo chí theo đó tổ chức các phương thức hoạt động để phục vụ đối tượng
của mình. Chẳng hạn, xu hướng kết nối báo chí với cơ cấu xã hội có thể thấy
trong thực tiễn hoạt động báo chí, như: theo giới tính có báo Phụ Nữ, Đàn
Ông…; độ tuổi có: Người Cao Tuổi, Nhi đồng, Mực tím, Hoa học trò, Thanh
Niên, Sinh viên…; theo nghề nghiệp: Giáo dục, Công an, Quân đội , Nghề
báo…; vùng miền: Dân tộc & miền núi, các kênh tiếng dân tộc thiểu số trên
sóng phát thanh và truyền hình của nhiều tỉnh, thành phố… Hệ thống báo
Đảng ở Việt Nam cũng có nhóm đối tượng công chúng mục tiêu và tiềm
năng, đó là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy Đảng,
chính quyền, các cơ quan đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân
dân trên địa bàn….
Nghiên cứu công chúng còn là để nắm bắt tâm lý tiếp nhận sản phẩm
báo chí: Báo chí đến với họ từ nguồn nào? Họ quan tâm nội dung gì ở báo
chí? Vì sao họ quan tâm? Ý kiến của công chúng về nội dung, chuyên trang,
chuyên mục… Tìm ra đặc điểm của tâm lý công chúng và các nhóm công
chúng khi họ tham gia vào hoạt động truyền thông với tư cách là những
người tiếp nhận thông tin, sẽ giúp cho các cơ quan báo chí có cơ sở để cải
tiến và nâng cao hiệu quả của sản phẩm báo chí và quá trình truyền thông.
Mặt khác, nghiên cứu công chúng còn nhằm tìm ra quy luật về tâm lý,
thói quen tiếp nhận thông tin của các nhóm đối tượng khác nhau. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng đọc lướt là một cách thức tiếp nhận phổ biến của
công chúng báo in trên khắp thế giới, chỉ khác nhau ở mức độ, tùy theo tờ
báo và tùy theo đặc điểm của người đọc. Theo Loic Hervouet, Tổng giám
đốc Trường đại học báo chí Lille (Pháp) thì “Người xem báo đọc ít, xem

25

lướt nhiều. Các cuộc thăm dò đều đặn và có phương pháp về thời gian đọc
của người Pháp đều đi đến thống nhất kết luận rằng thời gian dành cho việc
đọc không có xu hướng tăng lên. Các nghiên cứu về qũy thời gian cho thấy
rằng trong tổng số 6 giờ mỗi ngày dành cho việc tiếp nhận thông tin, trung
bình người Pháp chỉ dành 36 phút để đọc báo”; “Độc giả của tờ báo bình dân
Bild ở Đức chỉ đọc 1/8 nội dung tờ báo; độc giả của tờ Le Monde ở Pháp chỉ
đọc 20% nội dung”. “Một cuộc thăm dò thực hiện theo yêu cầu của tờ Ouest
France (miền Tây nước Pháp), tờ báo có số lượng bản in lớn nhất nước
Pháp, cho thấy: trong số 410 chi tiết thông tin có trên mặt báo, độc giả chỉ để
mắt đến 39 chi tiết, gồm 23 đầu đề và 16 bài báo, họ chỉ đọc 13 bài báo từ
đầu đến cuối, thông thường là các bài báo ngắn”. Với người Pháp, theo Loic
Hervouet, trong trường hợp khả quan nhất thì số lượng bài báo được đọc cũng chỉ
nhỉnh hơn 10% tổng số các bài báo. [35, tr.12-13].
Các nghiên cứu về cách thức đọc báo của công chúng ở nước ta
những năm gần đây cũng cho rằng, đọc lướt là đặc điểm của công chúng báo
chí. Khi đọc báo, tạp chí, người ta hoàn toàn có thể đọc lướt nhanh những
nội dung quen thuộc, đọc kỹ hay đọc lại những nội dung phức tạp mà đọc
lần đầu chưa rõ. Đặc điểm này tạo cho báo in khả năng thông tin những nội
dung sâu sắc, phức tạp… Tác giả Nguyễn Văn Hà trong giáo trình Cơ sở lý
luận báo chí cho rằng, công chúng tiếp nhận thông báo chí thường trải qua
hai bước: Lựa chọn thông tin tiềm năng và xử lý thông tin hiện thực. Công
chúng chọn trong báo chí những thông tin nào phù hợp với trình độ, khả
năng, sở thích, nhu cầu của họ. Thực tế công chúng hiếm khi tiếp nhận được
đầy đủ thông do báo chí cung cấp. Giả sử một đơn vị bài báo chứa 100 đơn
vị thông tin tiềm năng, nhưng người đọc chỉ tiếp nhận 20, 50,70, 90 đơn vị
mà thôi. Nghĩa là chỉ có khoảng 20%, 50%, 70%, 90% thông tin tiềm năng

×