Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiên cứu về câu sai trên báo in tiếng Việt năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ LAN

NGHIÊN CỨU VỀ CÂU SAI TRÊN BÁO IN
TIẾNG VIỆT NĂM 2005
(Khảo sát các báo Thanh Niên, Tiền Phong, Hoa Học Trò, năm 2005)


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ

CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. HOÀNG TRỌNG PHIẾN




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Hoa Học Trò
HHT
Thanh Niên
TN
Tiền Phong


TP


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Báo chí là hình thức truyền thông đến công chúng đông đảo (xã hội)
bằng ngôn từ. Hay nói một cách khác ngôn ngữ là phương tiện chủ yếu và
quan trọng nhất để báo chí thực hiện nhiệm vụ truyền thông của mình. Người
viết báo nếu không sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn xác thì sẽ gây ra hiện
tượng “nhiễu” trong quá trình truyền thông. Tức là việc sử dụng ngôn ngữ
chuẩn xác sẽ chuyển tải được thông tin về các vấn đề, sự việc, sự kiện cũng
như tư tưởng, tình cảm của người viết báo đến với công chúng một cách toàn
diện và hiệu quả. Ngược lại, sử dụng ngôn ngữ thiếu chuẩn xác khiến công
chúng có thể không hiểu hoặc hiểu sai, hiểu lệch đi những gì mà người viết
muốn đề cập tới. Trong cuốn Ký giả chuyên nghiệp, GS Jonh Hohenberg (Đại
học Báo chí Colombia) đã nhấn mạnh: “Không thể cẩu thả trong việc sử dụng
ngôn ngữ ở các ngành truyền thông được. Ngôn ngữ ở đây phải chuyển được
tin tức, ý kiến và tư tưởng tới quần chúng càng hữu hiệu càng tốt… Sự chuẩn
xác của ngôn ngữ làm sắc bén thêm ý nghĩa của sự kiện. Vì thế sự kiện và
chuẩn xác phải luôn đi đôi với nhau” [42, tr.73]. Vì vậy, có thể khẳng định
rằng việc sử dụng ngôn ngữ chuẩn xác là yếu tố tác động trực tiếp và quyết
định nhất tới hiệu quả thông tin báo chí. Ngôn ngữ báo chí trước hết phải
chính xác, trong sáng để người đọc có thể nắm bắt đúng bản chất của thông
tin, sự kiện. Hơn thế nữa, báo chí muốn trở thành “món ăn tinh thần” thực sự
của đông đảo bạn đọc thì ngôn ngữ của nó phải được chọn lọc, mang vẻ đẹp
của ngôn từ. Muốn vậy người viết phải biết lựa chọn từ ngữ, tìm tòi những
kiểu kết hợp từ và tổ chức câu, cách diễn đạt sao cho vừa sáng tạo, vừa sáng
rõ về nghĩa và tuân thủ chuẩn mực ngôn ngữ.
Trái với yêu cầu quan trọng về ngôn ngữ báo chí như vậy, trên thực tế,

theo một số công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí trong những năm gần
đây, việc sử dụng tiếng Việt thiếu chuẩn xác trên báo chí là khá phổ biến. Đề

2
tài Khảo sát lỗi sử dụng tiếng Việt hiện nay trên một số báo chí từ năm 2000 –
2004 của PGS.TS. Đào Thanh Lan, Khoa Ngôn ngữ học Trường ĐHKHXH
&NV đã chỉ ra rằng: Việc mắc lỗi dùng tiếng Việt trên báo chí hiện nay là khá
phổ biến. Tuyệt đại đa số các lỗi đều là lỗi thuộc phạm vi câu. Trong quá trình
tiếp cận với các ấn phẩm báo in, bản thân người viết luận văn này cũng nhận
thấy việc mắc lỗi dùng tiếng Việt nói chung, viết câu sai nói riêng là hiện
tượng xuất hiện thường xuyên trên báo in Việt Nam trong những năm gần
đây. Đó là một thực trạng đáng báo động không chỉ cho những người viết
báo, mà đó còn là một thực tế rất đáng quan tâm đối với bộ phận biên tập tại
các tòa soạn báo, nơi được coi là “bộ lọc” mọi bài viết trước khi được “lên
trang” và xuất bản, nhằm đảm bảo chất lượng thông tin của mỗi tờ báo.
Chính bởi sự mâu thuẫn giữa yêu cầu sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực
trên báo chí và thực trạng mắc lỗi dùng tiếng Việt trên báo chí hiện nay nên
việc nghiên cứu câu sai trên báo in là một việc làm cần thiết, góp phần nâng
cao chất lượng của công tác biên tập, cũng như nâng cao chất lượng của sản
phẩm báo in.
Trong xã hội hiện đại, báo chí là một phần quan trọng trong cuộc sống
của đông đảo người dân. Nhu cầu tiếp nhận thông tin từ báo chí trở thành một
nhu cầu thiết yếu, hàng ngày, đều đặn và liên tục. Đông đảo các tầng lớp nhân
dân ở mọi lứa tuổi, giới tính, vùng miền khác nhau đều là công chúng của báo
chí. Họ tiếp xúc với báo chí một cách thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi nhằm
cập nhật thông tin phục vụ cho đời sống tinh thần, nhu cầu học tập, nâng cao
dân trí Nói một cách khác, báo chí nói chung, báo in nói riêng có ảnh
hưởng rất mạnh mẽ và thường xuyên đến đông đảo công chúng. Do vậy, báo
chí nói chung, báo in nói riêng là một kênh, một phương tiện giáo dục ngôn
ngữ rất quan trọng và có vai trò rất lớn trong việc giữ gìn và bảo vệ sự trong

sáng của tiếng Việt, đưa tiếng Việt phát triển theo hướng hiện đại và hoàn
thiện. Thông qua cách sử dụng tiếng Việt chuẩn xác, viết câu đúng và rõ

3
nghĩa, báo chí không chỉ tạo nên hiệu quả truyền thông tốt mà còn góp phần
giáo dục ngôn ngữ cho đông đảo nhân dân, thực hiện một trong những nhiệm
vụ quan trọng của báo chí là góp phần phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ.
Ngược lại, những sai sót về ngôn ngữ trên báo chí nói chung, trên các sản
phẩm báo in nói riêng không chỉ phá vỡ tính mạch lạc, chính xác của thông
tin báo chí mà còn tác động tiêu cực đến cách dùng tiếng Việt của đông đảo
nhân dân (công chúng báo chí).
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của việc sử dụng tiếng Việt
chuẩn mực trên báo chí (đứng từ góc độ hiệu quả truyền thông và mục đích
phát triển tiếng Việt theo hướng hiện đại, hoàn thiện), chúng tôi chọn đề tài:
“Nghiên cứu về câu sai trên báo in tiếng Việt năm 2005” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải chủ yếu và quan trọng nhất của
báo chí. Vì vậy, ngôn ngữ báo chí là một lĩnh vực được nhiều nhà ngôn ngữ,
nhiều giảng viên báo chí, nhà báo, nhiều sinh viên báo chí quan tâm nghiên
cứu dưới dạng sách chuyên đề, đề tài nghiên cứu, bài viết, khóa luận tốt
nghiệp vv Tuy nhiên, trong số đó, lượng đề tài, bài viết, khóa luận nghiên
cứu về lỗi sử dụng tiếng Việt nói chung, lỗi viết câu sai trên báo chí nói riêng
chưa nhiều. Trong giáo trình Ngôn ngữ báo chí của PGS.TS Vũ Quang Hào
[16] đề cập khá kỹ về một số lỗi sử dụng tiếng Việt trên báo chí như lỗi trong
việc sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài, lỗi đặt tít báo… Trong cuốn Một số
vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí của tác giả Hoàng Anh có đề cập đến
“những câu văn không phù hợp với lôgíc của tư duy trên báo chí” [1, tr.157 –
168]. Tác giả tập trung phân tích, chỉ ra lỗi sai của “những câu hoặc phản ánh
không đúng thực tế khách quan, hoặc thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các

bộ phận cấu thành câu” [1, tr.157].

4
Đầu năm 2005, PGS.TS. Đào Thanh Lan và các cộng sự thuộc Khoa
Ngôn ngữ học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội công
bố đề tài NCKH cấp ĐHQG Khảo sát lỗi sử dụng tiếng Việt hiện nay trên một
số báo chí từ năm 2000 – 2004. Toàn bộ chương III – chương quan trọng nhất
của đề tài, đã chỉ ra, phân tích và sửa nhiều loại câu sai trên báo chí. Đây thực
sự là một công trình công phu về câu sai trên báo chí. Công trình này nhìn và
lý giải câu sai dưới góc độ ngôn ngữ học thuần túy chứ chưa nhìn nhận hiện
tượng câu sai trên báo in với những đặc trưng loại hình của nó.
Trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Khoa Báo chí,
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có một số đề tài
nghiên cứu về lỗi sử dụng tiếng Việt nói chung, lỗi viết câu sai nói riêng như:
- “Về những khiếm khuyết của một số tít báo tiếng Việt theo cách nhìn
của ngôn ngữ” (Khóa luận tốt nghiệp, thực hiện: sinh viên Nguyễn Thu
Hà, hướng dẫn: PGS.TS Vũ Quang Hào).
- “Sơ bộ khảo sát hiện tượng mơ hồ của tít và của câu trên báo chí tiếng
Việt” (Khóa luận tốt nghiệp, thực hiện: sinh viên Bùi Thị Thu Hằng,
K40; hướng dẫn: PGS.TS Vũ Quang Hào).
Các khóa luận này chỉ tập trung khảo sát hiện tượng mơ hồ ở tít chứ
chưa đi sâu vào hiện tượng câu sai trong chính văn.
Với mong muốn tìm hiểu về lỗi viết câu sai trên báo in tiếng Việt hiện
nay nhằm góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tiếng Việt trên báo in cũng như nhằm
nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ của bản thân, chúng tôi chọn “Nghiên
cứu về câu sai trên báo in tiếng Việt năm 2005” làm đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nhận diện, phân tích, phân loại câu sai trên báo in.

- Tìm ra cách sửa chữa câu sai.

5
Luận văn khái quát về tình hình câu sai trên báo in tiếng Việt hiện nay.
Từ đó, chúng tôi đưa ra những đề xuất nhằm khắc phục hiện tượng câu sai,
nâng cao chất lượng của công tác biên tập tại các tòa soạn; góp phần nâng cao
hiệu quả truyền tải thông tin và giáo dục ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt của báo in.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra các loại lỗi viết câu sai thường gặp trên báo in tiếng Việt hiện
thời.
- Vận dụng lý thuyết ngôn ngữ về câu để tìm ra cách sửa câu sai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu sai trên báo in tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là câu sai trên các báo Thanh Niên,
Hoa Học Trò và Tiền Phong trong năm 2005. Luận văn tập trung nghiên cứu
về câu mơ hồ và câu sai ngữ pháp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi dùng các phương pháp sau đây:
- Thống kê, phân loại, lập bảng biểu có tính tỷ lệ.
- So sánh giữa 3 tờ báo được nghiên cứu để tìm sự giống nhau và khác
nhau về lỗi viết câu sai ngữ pháp, câu mơ hồ.
- Phân tích quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa trong nội bộ một câu và
trong ngữ cảnh mà câu đó xuất hiện.
Các thao tác trên đây xuất phát từ góc nhìn của người tiếp nhận thông
tin báo chí.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Mục lục và Phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng I: Một số khái niệm có liên quan đến đề tài

Chƣơng II: Nhận diện và phân tích câu sai ngữ pháp trên báo in.

6
Chƣơng III: Hiện tượng câu mơ hồ trên báo in và cách khắc phục.

7
CHƢƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Chương I của luận văn sẽ tập trung trình bày một vài khái niệm cần yếu
có liên quan đến lỗi sử dụng tiếng Việt. Đó là vấn đề giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt và chuẩn mực tiếng Việt.
Đồng thời, chương này cũng sẽ trình bày đặc điểm của loại hình báo in,
đặc trưng của ngôn ngữ báo chí cũng như các xu hướng truyền thông mới –
những yếu tố có tác động quan trọng đến việc sử dụng ngôn ngữ trên các loại
hình báo chí nói chung, các sản phẩm báo in nói riêng.
Một trong những mục đích của luận văn là góp phần vào việc nâng cao
chất lượng của công tác biên tập tại tòa soạn báo in. Do vậy, phần cuối của
chương này sẽ làm rõ vai trò, nhiệm vụ của công tác biên tập đối với hoạt
động của tòa soạn báo in nói chung, với chất lượng sử dụng ngôn ngữ trên
báo in nói riêng.
1.1. Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
1.1.1. Về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nguyên Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nêu rõ 4 điểm cốt lõi, tạo thành nội dung cơ bản
của việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc:
1. “Xây dựng ý thức và thái độ quý trọng tiếng ta, giữ gìn vốn từ ngữ và
ngữ pháp tiếng ta.
2. “Xây dựng thói quen nói, viết đúng, sáng sủa, rõ ràng ý định diễn đạt,
làm người nghe, người đọc dễ hiểu và hiểu đúng ý định đó”.
3. “Phát triển, làm giàu tiếng ta về từ ngữ và ngữ pháp”.

4. “Giữ gìn những đặc điểm của từng phong cách ngôn ngữ hoặc là “giữ
gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta”.
Dẫn theo [32, tr.339 – 340].

8
Trong bài viết Mấy vấn đề về chuẩn hóa tiếng Việt đăng trên Tạp chí
Ngôn ngữ số 1 năm 1975, GS. Nguyễn Hàm Dương nhấn mạnh: “Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt không chỉ là chải chuốt câu văn, cân nhắc khi dùng
từ hay thận trọng trong cách nói, cách viết. Những việc đó là cần thiết nhưng
chưa đủ. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là đấu tranh cho sự chính xác,
sắc bén, phong phú, mẫu mực, có sức biểu cảm mạnh của tiếng Việt, nâng cao
hiệu quả sử dụng tiếng Việt trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, phát huy
hết tiềm năng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt thực sự là một vũ khí quan
trọng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, một phương tiện giao tế và tư duy
của hàng chục triệu người Việt Nam” [9, tr.26, 27].
Từ đó, GS. Nguyễn Hàm Dương chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa vấn
đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn mực ngôn ngữ tiếng Việt:
“Muốn đánh giá sự trong sáng hay vẩn đục của ngôn ngữ, phải căn cứ vào
những mẫu mực ngôn ngữ đã hình thành một cách khách quan và đã được sử
dụng trong xã hội, tức là những chuẩn của ngôn ngữ. Nói, viết trong sáng là
nói, viết đúng chuẩn ngôn ngữ. Khái niệm trong sáng gắn liền với khái niệm
chuẩn là như vậy” [9, tr.27].
Trong bài viết Một số vấn đề về chuẩn hóa ngôn ngữ [36, tr. 137], GS.
Hoàng Tuệ viết: “Đối với sự nghiệp bảo vệ bản ngữ và tăng sức phát triển của
nó qua sự mở rộng phạm vi hành chức của nó, trong một quá trình tiếp xúc
ngôn ngữ, thì vai trò và sự cống hiến của ý thức bản ngữ ở trong những cá
nhân là nhân tố rất tích cực. Ý thức đó có thể phát triển thành cái bản lĩnh
ngôn ngữ ở những cá nhân có hiểu biết sâu sắc về bản ngữ Bản lĩnh ấy, về
thực chất là bản lĩnh văn hóa, mà cũng là bản lĩnh tư tưởng và tình cảm dân
tộc” [36, tr. 138].

Như vậy, theo GS. Hoàng Tuệ, giữ gìn, bảo vệ và phát triển tiếng Việt
thực sự là một sự nghiệp lớn, có ý nghĩa văn hóa cao cả. Thực hiện sự nghiệp
đó là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam. Từ đó, có thể hiểu rộng ra

9
rằng: Trước hết với tư cách là người dân Việt Nam, hơn thế nữa là người cầm
bút tạo nên các tác phẩm báo in, những tác phẩm có ảnh hưởng thường xuyên
và mạnh mẽ đến cách sử dụng ngôn ngữ của toàn dân, những người viết báo
càng cần xác định rõ ý thức, cũng như xây dựng bản lĩnh vững vàng để góp
phần xứng đáng trong sự nghiệp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Và thực
tế, báo chí chữ quốc ngữ của chúng ta đã làm giàu và phổ biến, thống nhất
tiếng Việt. Đó là đóng góp to lớn của báo chí Việt Nam hơn một thế kỷ qua.
Những quan niệm trên đây làm cơ sở nhận thức cho đề tài này.
1.1.2. Vai trò của báo chí và nhà báo trong việc giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt.
Báo chí là một phương tiện thông tin đại chúng, một “kênh giáo dục”
ngôn ngữ thường xuyên, liên tục nhất đối với nhiều đối tượng đa dạng trong
xã hội, nên báo chí cần phải đảm bảo tính chuẩn mực về ngôn ngữ. Những sai
sót về diễn đạt ngôn từ không chỉ khiến hiệu quả thông tin kém, có khi sai
lệch mà còn làm vẩn đục ngôn ngữ toàn dân.
Trên báo chí hiện nay, hiện tượng sử dụng ngôn ngữ không hoặc thiếu
trong sáng là khá phổ biến. Các hiện tượng đặt câu sai ngữ pháp, dùng từ sai
nghĩa, …thường thấy trên báo viết, ngay cả các báo lớn. Khảo sát các hiện
tượng trong mục “Dọn vườn” của tạp chí Nghề báo cho thấy các lỗi ngữ pháp
rất phổ biến trên báo trung ương và địa phương. Nhận định về nguyên nhân
của thực trạng này, tác giả Trần Dĩ Hạ trong bài Cần sử dụng đúng tiếng mẹ
đẻ trên các phương tiện thông tin đại chúng viết: “Lớp nhà báo trước đây có
nhiều người rất giỏi sử dụng ngôn ngữ, vừa biết lý thuyết, vừa biết thực hành
(thể hiện trong cách hành văn) tuy họ không phải là nhà ngôn ngữ học. Lớp nhà
báo ngày nay, nhiều người rất dầy công rèn luyện vi tính, ngoại ngữ… nhưng

rất ít rèn luyện hành văn đúng ngữ pháp, nhiều người không phân biệt được các
thành phần của câu, dẫn đến tình trạng nhầm lẫn, viết sai” [16, tr.42].

10
Từ những thực tế nêu trên, một vấn đề quan trọng được đặt ra. Đó là
vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc nói, viết đúng chuẩn mực nhằm
góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhấn mạnh về trách nhiệm này
của các nhà báo, tác giả Trần Dĩ Hạ viết: “Có lẽ hơn ai hết, các nhà báo là
những người thợ hay người thầy ngôn ngữ, phải gương mẫu trong việc sử
dụng đúng tiếng mẹ đẻ để làm gương cho quần chúng, cũng đồng thời giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt” [16, tr.42]. Và để thực hiện được trách nhiệm
này, mỗi nhà báo cần nắm chắc các tri thức có liên quan đến việc sử dụng
tiếng Việt trên các phương diện ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng và phong cách.
Đồng thời, họ cần luôn chú ý rèn luyện để ứng dụng được những tri thức đó
một cách có hiệu quả trong mỗi bài viết. Tóm lại, sử dụng tiếng Việt đúng với
chuẩn mực không chỉ là phương tiện mà còn là mục đích, là biện pháp quan
trọng và thiết thực nhất để mỗi nhà báo thực hiện được trách nhiệm của mình
trong sự nghiệp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
1.2. Khái niệm chuẩn mực ngôn ngữ
Chuẩn hóa tiếng Việt là nhiệm vụ cốt lõi nhất, mấu chốt nhất để đảm
bảo cho việc sử dụng tiếng Việt đúng, chuẩn xác trong các lĩnh vực, cũng như
để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Hay nói một cách cụ thể thì chuẩn mực ngôn ngữ là cơ sở nền
tảng của việc sử dụng tiếng Việt trong sáng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực báo chí. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuẩn hóa tiếng Việt,
vấn đề quan trọng đầu tiên cần xác định là quan niệm về chuẩn ngôn ngữ.
Hiện tại trong ngành ngôn ngữ học còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
chuẩn ngôn ngữ. Trong cuốn Ngôn ngữ báo chí, tác giả Vũ Quang Hào nhận
xét khái quát như sau: “Cho đến nay, xung quanh khái niệm chuẩn ngôn ngữ
còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất không chỉ ở các nhà ngữ văn học nước

ngoài mà cả ở Việt Nam” [17, tr.22]. Cho đến nay, chúng ta cũng chưa có
quan điểm chung về những nội dung cốt lõi hay những tiêu chí để xác định

11
chuẩn mực trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Dưới đây chúng tôi nêu
một số quan niệm tiêu biểu:
1.2.1. Bàn về khái niệm chuẩn mực ngôn ngữ, Giáo sư Nguyễn Hàm
Dương cho rằng: Chuẩn của ngôn ngữ cần được quan niệm trên hai diện:
+ Chuẩn phải mang tính chất quy ước xã hội, tức là phải được xã hội
chấp nhận và sử dụng.
+ Mặt khác, chuẩn phải là một hiện tượng thuộc kết cấu ngôn ngữ, tức
là phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai
đoạn lịch sử.
Theo Giáo sư Nguyễn Hàm Dương, quan niệm về chuẩn như vậy sẽ
“cho phép kết hợp các yếu tố xã hội ngoài ngôn ngữ với các yếu tố kết cấu
trong ngôn ngữ khi xác định cái chuẩn để điều chỉnh sự hoạt động của ngôn
ngữ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội” [9, tr.28]. Từ quan
niệm như vậy về khái niệm chuẩn mực ngôn ngữ, Giáo sư đã chỉ là những
việc làm cụ thể để thực hiện nhiệm vụ chuẩn hóa tiếng Việt:
+ “Một mặt là phải dựa vào những cứ liệu thực tế ngôn ngữ để nắm
được quy luật biến đổi và phát triển của tiếng Việt trên tất cả các bậc ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp và ngữ nghĩa.
+ Mặt khác, phải xét đến những lý do phi ngôn ngữ ảnh hưởng đến sự
phát triển của tiếng Việt” [9, tr.28].
Những lý do phi ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển của tiếng
Việt có thể hiểu rộng là các đặc trưng của mỗi loại hình phong cách chức
năng: báo chí chính luận, văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật Mỗi loại
phong cách theo chức năng tải nghĩa của mình mà có đặc trưng ngôn ngữ và
các biện pháp ngôn từ khác nhau. Quan niệm này được chúng tôi tiếp thu
trong luận văn làm cơ sở khảo sát, bàn luận. Theo đó, các câu sai không chỉ

được xem xét đơn thuần về mặt ngôn ngữ mà còn được xem xét trên cơ sở sự

12
tác động của các đặc điểm về loại hình báo in, các xu hướng của báo in hiện
đại, đặc trưng trong cách tiếp nhận thông tin của công chúng báo in
1.2.2.Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (GS.
Nguyễn Như Ý chủ biên), khái niệm chuẩn được giải thích là một khái niệm
có 2 nội dung:
+ Thứ nhất, chuẩn là toàn bộ các phương tiện và các quy tắc thống nhất
và ổn định về cách sử dụng ngôn ngữ, được quy định và phát triển trong xã
hội và được thể hiện trong lời nói cá nhân.
+ Thứ hai, ý nghĩa của chuẩn bao hàm ngôn ngữ trong thế đối lập với lời
nói với tư cách là một hệ thống xác định mọi sự đa dạng của thực tiễn nói năng.
Đây là một quan niệm chung về chuẩn ngôn ngữ. Chuẩn được hiểu là
hệ thống các quy tắc chung, ổn định và các biến thể của ngôn ngữ trong hoạt
động. Như vậy, báo chí là một loại hình ngôn ngữ trong hệ thống chuẩn mực
ngôn ngữ toàn dân.
1.2.3. Trong bài viết Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đăng trên
Tạp chí Ngôn ngữ số 1 năm 1980, Giáo sư Hoàng Tuệ đưa ra khái niệm chuẩn
mực như sau: “Chuẩn mực, nói một cách khái quát, là cái đúng. Đó là cái
đúng có tính chất chung, tính chất bình thường được mọi người trong một
cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận, ở một giai đoạn nhất định trong một quá trình
phát triển lịch sử của ngôn ngữ. Cái đúng ấy được xác định theo một tập hợp
những quy tắc nhất định thuộc phạm vi phát âm, viết chữ, dùng từ và cấu tạo
từ mới”.
Theo đó, chuẩn là cái đúng được khái quát hóa từ thói quen dùng của
cộng đồng về mặt hệ thống ngôn ngữ thông qua sự hành chức của chúng.
1.2.4 Bên cạnh đó, một số quan điểm cho rằng: Chuẩn mực trong ngôn
ngữ học cần được hiểu theo cả hai nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
+ Theo nghĩa hẹp thì chuẩn mực ngôn ngữ được hiểu là hệ thống những

quy ước, chỉ dẫn về phát âm, viết chữ, dùng từ, đặt câu. Tóm lại, hiểu theo

13
nghĩa hẹp thì chuẩn ngôn ngữ là cơ sở cho cộng đồng ngôn ngữ xác định là
nên nói và viết như thế nào.
+ Theo nghĩa rộng, chuẩn mực ngôn ngữ là toàn bộ những cách phát âm,
viết chữ, dùng từ, đặt câu được mọi người trong xã hội chấp nhận và sử dụng.
Cũng bàn về chuẩn ngôn ngữ, Giáo sư Hoàng Phê cho rằng: “Chuẩn là
mẫu ngôn ngữ đã được xã hội đánh giá, lựa chọn, sử dụng trong trường hợp
lưỡng khả. Kết quả lựa chọn có thể là chọn một mẫu này, thu hẹp phạm vi sử
dụng, đi đến loại bỏ mẫu kia” [25, tr.12].
Trong đề tài Khảo sát lỗi sử dụng tiếng Việt hiện nay trên một số báo
chí từ năm 2000 – 2004, PGS.TS. Đào Thanh Lan cho rằng : Chuẩn mực
ngôn ngữ là việc sử dụng thống nhất các phương tiện của một thứ tiếng từ
một thói quen diễn đạt chung của cộng đồng ngôn ngữ. Thói quen diễn đạt
chung của cộng đồng ngôn ngữ thể hiện quy luật khách quan và đặc thù của
ngôn ngữ trong cách phản ánh tư duy được cộng đồng ngôn ngữ sử dụng. Sự
chuẩn mực này đã hình thành tự nhiên trong quá trình phát triển của ngôn
ngữ, trở thành quy tắc, cần được ghi nhận, không nên tùy ý thay đổi. Chuẩn
mực ngôn ngữ có thể biến đổi theo sự biến đổi tự nhiên của ngôn ngữ [22,
tr.5].
1.2.5. PGS. TS Vũ Quang Hào trong cuốn Ngôn ngữ báo chí đã khái
quát các quan niệm về chuẩn mực ngôn ngữ của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
Việt Nam như sau: “Phần lớn ý kiến được hệ thống hoá trong các tài liệu
ngôn Việt ngữ học Việt Nam đều cho rằng chuẩn ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ
đã được xã hội đánh giá, lựa chọn và sử dụng. Cố nhiên sự đánh giá lựa chọn
đó không thể đạt đến sự nhất trí hoàn toàn và do vậy tính chất bắt buộc cũng
như tính chất ổn định của chuẩn chỉ là tương đối. Mặt khác, chuẩn không phải
là quy định mà là quy ước, không phải là luật mà là chỉ dẫn” [17, tr.23].
Từ quá trình tìm hiểu về những quan điểm xung quanh vấn đề chuẩn

mực ngôn ngữ, chúng tôi xác định lấy những quan điểm sau đây về chuẩn

14
ngôn ngữ của tác giả Vũ Quang Hào làm cơ sở lý thuyết cho đề tài nghiên cứu
của mình:
Theo ông, chuẩn ngôn ngữ bao gồm hai nội dung căn bản đó là cái
đúng và sự thích hợp [17, tr.23].
Cái đúng là yêu cầu bắt buộc, là điều kiện tiên quyết để xác định tính
chuẩn mực của ngôn ngữ và cũng là nhân tố quan trọng nhất đối với chuẩn
ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp. Trong quan niệm này, cái đúng được hiểu
dựa trên đánh giá của Viện sĩ V.Vi – nô - gra - đốp, người đã lấy tiêu chuẩn
nội tại của chính cấu trúc ngôn ngữ để đánh giá cái đúng. Cụ thể Viện sĩ cho
rằng: “Tất cả những cái gì mới, đang phát triển, được các quy luật nội tại của
quá trình phát triển ngôn ngữ thừa nhận, phù hợp với cấu trúc của nó, dựa vào
những xu thế sáng tạo của nhân dân, dựa vào quá trình mang tính tích cực
trong lĩnh vực ngữ pháp, ngữ nghĩa, sử dụng từ đều không thể bị cho là
không đúng, không thể bị phủ nhận căn cứ vào thị hiếu và thói quen cá nhân”
[17, tr.24]. Từ đó có thể hiểu rằng: Cái đúng với tư cách là một trong những
điều kiện để thừa nhận tính chuẩn mực của ngôn ngữ chính là các tiêu chuẩn
“đúng phép tắc” trong ngôn ngữ, được cộng đồng ngôn ngữ hiểu và chấp
nhận. Một hiện tượng ngôn ngữ được coi là đúng phải thỏa mãn được những
đòi hỏi của cấu trúc nội tại của một ngôn ngữ cũng như phải phù hợp với
truyền thống ngôn ngữ, được các thành viên trong cộng đồng ngôn ngữ đó
hiểu đúng như nhau. Trái lại, những cái mà người tiếp nhận không hiểu hoặc
không chấp nhận vì nó không phù hợp với chuẩn mực chung mà cộng đồng
ngôn ngữ đã lựa chọn, đã chấp nhận được gọi là cái sai.
Trong quá trình hành chức của ngôn ngữ trong mọi lĩnh vực hoạt động
của một cộng đồng ngôn ngữ, “cái đúng là yêu cầu bắt buộc trong việc sử
dụng ngôn ngữ ở tất cả các cấp độ và ở mỗi cấp độ ấy lại có những yêu cầu,
những tiêu chuẩn riêng”. [17, tr.24, 25]. Trong chuẩn ngôn ngữ, cái đúng là yếu

tố hạt nhân, quan trọng nhất đảm bảo cho quá trình giao tiếp đúng như nhà văn

15
Lép Tôn – xtôi đã từng nhấn mạnh: “ trước hết cần phải quan tâm sao cho
công cụ truyền đạt các khái niệm, tức là ngôn ngữ, phải đúng” [17, tr.23].
Tuy nhiên, vẫn theo quan điểm của PGS. TS Vũ Quang Hào thì cái
đúng mới chỉ là cơ sở tạo nên chuẩn chứ không phải là toàn bộ nội hàm của
khái niệm chuẩn. Cái đúng chỉ là một trong những yếu tố, nhưng là yếu tố
quan trọng tiên quyết để xác lập giá trị của chuẩn. Cái đúng phải đi kèm với
sự thích hợp mới làm nên chuẩn. “Cái đúng mới chỉ là một mặt của chuẩn
mực. Chuẩn mực còn cần phải thích hợp bởi vì thông tin đúng mà không thích
hợp thì hiệu quả thông tin kém” [17, tr.25].
Cái thích hợp trong chuẩn ngôn ngữ không chỉ có giá trị đảm bảo tính
trọn vẹn của thông tin mà còn có vai trò quan trọng trong việc làm tăng giá trị
thẩm mỹ của ngôn từ. Từ cách đây gần 2000 năm, một nhà sử học La Mã đã
từng khẳng định: “Giá trị quan trọng nhất và hoàn mỹ nhất của ngôn từ là sự
thích hợp”. Cái thích hợp có thể hiểu là sự phù hợp của việc sử dụng ngôn từ
trong từng lĩnh vực nhất định, trong từng bối cảnh giao tiếp, từng trường hợp
giao tiếp cụ thể, sao cho các thành viên trong cộng đồng ngôn ngữ có thể tiếp
nhận thông tin một cách chính xác nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn,
việc sử dụng các thuật ngữ khoa học trên các phương tiện thông tin đại chúng
hiện nay với tần xuất lớn, trong đó có nhiều thuật ngữ thuộc các chuyên
ngành hẹp, vượt quá tầm hiểu biết của đại bộ phận công chúng là một trường
hợp sử dụng ngôn ngữ đúng nhưng không thích hợp. Có thể nói đây là trường
hợp sử dụng ngôn ngữ đúng nhưng không thích hợp bởi vì: Sử dụng các thuật
ngữ khoa học khi chuyển tải thông tin thuộc các chủ đề mang tính khoa học
và công nghệ là đúng. Tuy nhiên, trong bối cảnh trình độ dân trí của phần lớn
công chúng báo chí Việt Nam hiện nay chưa thật cao, nhiều độc giả, khán giả,
thính giả không thể hiểu được các thuật ngữ này, gây nên hiện tượng “nhiễu”,
làm giảm đáng kể hiệu quả thông tin. Như vậy, việc sử dụng các thuật ngữ

khoa học như nêu trên trên báo chí hiện nay là đúng về mặt quy tắc sử dụng

16
ngôn ngữ, nhưng không phù hợp với đặc điểm tiếp nhận, trình độ tiếp nhận
của độc giả.
Trong chuẩn ngôn ngữ, cái thích hợp có ý nghĩa quan trọng không kém
cái đúng. Nếu cái đúng đảm bảo sự chính xác của ngôn ngữ thì cái thích hợp
tạo nên ý nghĩa thực tiễn, tính ích dụng của ngôn ngữ trong mỗi cộng đồng.
Nhà văn Lép Tôn – xtôi, một bậc thầy về ngôn ngữ nghệ thuật đã nhấn mạnh:
“Cần phải xóa bỏ không thương tiếc tất cả những chỗ không rõ ràng, dài
dòng, không đúng chỗ, tóm lại là tất cả những gì không thích hợp, mặc dù tự
thân chúng là đúng” [17, tr.26].
Nhìn nhận một cách khách quan và biện chứng, có thể nói rằng cái
đúng và cái thích hợp là hai “mặt”, hai phạm trù cùng song song tồn tại trong
nội hàm của khái niệm chuẩn mực ngôn ngữ. Cái đúng và cái thích hợp chính
là hai nội dung của chuẩn ngôn ngữ. Hai nội dung này có mối quan hệ hữu cơ,
bổ sung, hỗ trợ nhau một cách chặt chẽ, tạo nên giá trị của ngôn từ. Chính
mối quan hệ hữu cơ này làm cho giao tiếp bằng ngôn từ đạt được hiệu quả tốt
nhất. Giải quyết tốt mối tương quan giữa cái đúng và cái thích hợp chính là
vấn đề cốt lõi, căn bản nhất để xây dựng được chuẩn mực của mỗi ngôn ngữ.
Chuẩn ngôn ngữ cùng với cái đúng và cái thích hợp không phải là tuyệt
đối và bất biến. “Chuẩn ngôn ngữ có những quy luật và cách sử dụng tồn tại
khách quan trong một giai đoạn và mang tính chất bắt buộc tương đối với các
thành viên cộng đồng” [17, tr.27]. Cùng với sự vận động nội tại của mỗi ngôn
ngữ cũng như dưới sự tác động của nhiều yếu tố phi ngôn ngữ trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, chuẩn ngôn ngữ cũng luôn luôn vận động nên “cái
chuẩn chung không những không loại trừ mà còn cho phép những biến thể
khác nhau được sử dụng cùng với chuẩn” [17, tr.27]. Chính những điều trên
đây đã cho thấy tính tương đối, sự vận động không ngừng và xu hướng mở
của chuẩn mực ngôn ngữ.

1.3. Các nhân tố ngoài ngôn ngữ ảnh hƣởng đến ngôn ngữ của báo in

17
Trên cơ sở tiếp nhận những quan điểm về chuẩn ngôn ngữ của các nhà
nghiên cứu nêu trên, chúng tôi muốn chỉ ra các nhân tố ngoài ngôn ngữ ảnh
hưởng đến ngôn ngữ báo chí nói chung, báo in nói riêng. Các nhân tố này là
cơ sở để chúng tôi nhìn nhận câu sai dưới góc độ báo chí và lý giải nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng câu sai trên báo in hiện nay. Các nhân tố ngoài ngôn
ngữ có nhiều, nhưng tác dụng trực tiếp đến báo in là các nhân tố chức năng,
thể loại và xu hướng.
1.3.1. Vai trò, chức năng của báo chí và yêu cầu về tính đơn nghĩa
của ngôn ngữ báo chí
Báo chí có vai trò, chức năng riêng. Điều này chi phối rất rõ và tạo ra
những yêu cầu riêng đối với ngôn ngữ báo chí. Có thể thấy rõ điều này khi so
sánh giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí.
Báo chí và văn học đều dùng ngôn ngữ văn tự làm vật liệu xây dựng tác
phẩm. Tuy nhiên, ngôn ngữ báo chí và văn học không đồng nhất, bởi báo chí
và văn học có vai trò, chức năng khác nhau. Chức năng của văn học là tái hiện
hiện thực thông qua các hình tượng nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu thưởng thức
cái đẹp của người đọc còn báo chí có chức năng phản ánh người thật, việc
thật, những sự kiện có thật đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày nhằm đáp
ứng nhu cầu nắm bắt thông tin thời sự hàng ngày hàng giờ của công chúng.
Mục đích cuối cùng của nhà văn là bằng ngôn ngữ, làm sao để cống
hiến cho người đọc những hình tượng điển hình với sự kết hợp của vốn sống,
trí tưởng tượng và tài hư cấu. Mục đích cuối cùng của người viết báo là bằng
ngôn ngữ, làm sao để chuyển tải được một cách chính xác nhất, đầy đủ nhất,
nhanh nhất những tin tức về sự kiện thời sự tới công chúng. Đối tượng tiếp
nhận thông tin báo chí là mọi lớp người với cương vị xã hội, trình độ văn hóa
và lợi ích khác nhau.
Sự khác biệt về chức năng của văn học và báo chí đã dẫn đến những

điểm khác biệt mấu chốt về nội dung phản ánh và cách phản ánh. Chân thật là

18
nét trội của báo chí, hư cấu là nét trội của văn học. Những nội dung trong các
tác phẩm văn học được tạo nên từ khả năng hư cấu, tưởng tượng của tác giả.
Nội dung phản ánh trong các báo chí bao giờ cũng phải là những sự kiện, con
người có thật, không thể bịa đặt, hư cấu. Đặc trưng về nội dung phản ánh của
báo chí đã đưa đến một yêu cầu mang tính nguyên tắc của ngôn ngữ báo chí:
Ngôn ngữ báo chí luôn phải đảm bảo tính đơn nghĩa, tức là mỗi câu, mỗi đoạn
trong một tác phẩm báo chí cũng như toàn văn bất cứ một tác phẩm báo chí
nào cũng chỉ mang một ý nghĩa duy nhất, tuyệt đối không thể đa nghĩa, khiến
cho độc giả có thể hiểu theo nhiều cách. Yêu cầu về tính đơn nghĩa của ngôn
ngữ báo chí có thể coi là một trong những điểm quan trọng trong chuẩn mực
ngôn ngữ báo chí. Đó cũng có thể coi là một trong những điểm khác biệt căn bản
của chuẩn ngôn ngữ báo chí nếu đem so sánh với chuẩn ngôn ngữ trong lĩnh vực
văn học. Đây là một điểm tiếp cận quan trọng để chúng tôi giải quyết các vấn đề
trong Chương III, chương về câu mơ hồ trên báo in Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Đặc trưng của loại hình báo in
Cả 4 loại hình báo chí: báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử đều sử
dụng ngôn ngữ như một phương tiện quan trọng trong quá trình thực hiện
chức năng thông tin. Tuy nhiên, nếu báo nói kết hợp ngôn ngữ với giọng đọc;
báo hình kết hợp ngôn ngữ với hình ảnh; báo điện tử kết hợp cả ngôn ngữ với
hình ảnh và âm thanh thì báo in thực hiện chức năng của mình chủ yếu thông
qua ngôn ngữ viết trên giấy in (ngôn cạnh sự hỗ trợ của kênh ảnh, minh
họa ). Như vậy, trong 4 loại hình báo chí, báo in là loại hình mà ở đó ngôn
ngữ viết là kênh chuyển tải thông tin chủ yếu nhất, quan trọng nhất.
Nếu như công chúng tiếp nhận thông tin từ báo nói bằng thính giác và
rất ít khi có điều kiện để nghe lại nhiều lần các tác phẩm phát thanh, thì công
chúng báo in tiếp nhận thông tin từ báo in qua những ấn phẩm “giấy trắng
mực đen”. Đặc trưng này của báo in giúp cho độc giả có thể đọc kỹ, lưu trữ

các ấn phẩm và có thể đọc đi đọc lại nhiều lần. Khả năng lưu trữ được của

19
báo in cũng đồng nghĩa với khả năng tác động mạnh mẽ của ngôn ngữ trên
báo in đối với thói quen sử dụng ngôn ngữ của công chúng, đối với sự nghiệp
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Điều này đặt ra cho báo in một yêu cầu
rất khắt khe về mặt ngôn ngữ. Đó là ngôn ngữ trên báo in phải tuân thủ chuẩn
mực văn tự và cần luôn luôn được trau dồi, được làm giàu thêm một cách có ý
thức. Nói như vậy không có nghĩa rằng, ngôn ngữ trên các loại hình khác
không cần đáp ứng yêu cầu khắt khe nêu trên. Báo in có khả năng tác động
mạnh mẽ đến việc sử dụng tiếng Việt của đông đảo công chúng và sự nghiệp
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nên việc tuân thủ chuẩn mực ngôn ngữ
khi sử dụng tiếng Việt trên báo in có ý nghĩa rất lớn và rất cần được quan tâm.
Đối với nhà báo, việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ là sử dụng một phương
tiện chuyển tải thông tin mà việc đó còn đòi hỏi ở họ trách nhiệm, nghĩa vụ
của một người làm văn hóa ngôn từ.
1.3.3. Các xu hướng truyền thông mới
Ngôn ngữ là một thực thể sống động trong mọi lĩnh vực đời sống – xã
hội của một cộng đồng. Do vậy, cùng với những biến đổi nội tại của ngôn ngữ
thì những yếu tố ngoài ngôn ngữ, đặc biệt là những thay đổi về chính trị, xã
hội, nghề nghiệp trong xã hội hoặc trong một lĩnh vực nhất định (trong trường
hợp này là lĩnh vực báo chí) có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của
ngôn ngữ. Những yếu tố ngoài ngôn ngữ như vậy cũng có những tác động
nhất định tới chuẩn mực ngôn ngữ của cộng đồng nói chung, của mỗi phong
cách chức năng nói riêng. Trong lĩnh vực báo chí – truyền thông, một trong
những yếu tố ngoài ngôn ngữ có tác động mạnh chính là các xu hướng truyền
thông mới được hình thành trong bối cảnh xã hội thông tin mới. Sự chế định
của các xu hướng truyền thông này đã tạo nên nhiều thay đổi lớn về mặt ngôn
ngữ trên báo chí hiện đại. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày rõ về các xu
hướng truyền thông mới trong xã hội hiện đại và sự tác động của các xu


20
hướng này đến ngôn ngữ truyền thông nói chung, đến ngôn ngữ trên báo in
nói riêng.
Những bước phát triển vượt bậc của nhân loại trong những thập kỷ cuối
thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã tạo nên bối cảnh xã hội mới. Xã hội biến đổi
căn bản từ truyền thống sang hiện đại, điều kiện kinh tế toàn cầu được nâng
cao nhanh chóng, khoa học – công nghệ phát triển mạnh. Những thay đổi căn
bản đó của thế giới đã tạo nên những quan điểm mới về văn hóa, tạo nên bối
cảnh chính trị mới trong xu thế toàn cầu hóa, … Tất cả những yếu tố đó đều
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới lĩnh vực truyền thông, tạo nên các xu thế
truyền thông mới.
Hơn thế nữa, trong xã hội đó, công chúng báo chí – trung tâm của xã
hội, dưới sự tác động của các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học –
công nghệ… cũng có nhiều thay đổi về nhu cầu tiếp nhận thông tin, về tâm lý
tiếp nhận, về mục đích tiếp nhận và quan trọng nhất là công chúng có sự thay
đổi về trình độ tiếp nhận thông tin (do trình độ dân trí được nâng cao đáng
kể). Công chúng là người trực tiếp đón nhận và sử dụng các sản phẩm truyền
thông, do vậy, sự thay đổi của công chúng có ảnh hưởng trực tiếp tới hướng
phát triển của truyền thông. Sự thay đổi của công chúng báo chí trong xã hội
hiện đại cũng là một xuất phát điểm quan trọng của các xu thế truyền thông
hiện đại.
Với tư cách là một lĩnh vực có vai trò ngày càng lớn trong xã hội hiện
đại (còn được gọi là xã hội thông tin), truyền thông nói chung, báo chí nói
riêng ngày càng thể hiện rõ sức sống nội tại của nó bằng việc chủ động nắm
bắt yêu cầu của xã hội, của công chúng. Đồng thời, bản thân giới truyền thông
cũng không ngừng sáng tạo, khai thác triệt để những lợi thế của mình, từ đó,
tạo nên những hướng đi mới trong lĩnh vực truyền thông. “Sức sống” nội tại
này của truyền thông cùng với các yếu tố tác động khách quan trên đã làm


21
cho các xu hướng truyền thông hiện đại dần được hình thành và ngày càng trở
nên rõ nét. Có thể kể đến các xu hướng cơ bản sau:
1. Xu hướng biến đổi từ truyền thống sang hiện đại. Đây là xu hướng
mang tính toàn cầu, tác động toàn diện đến lĩnh vực truyền thông. Đây cũng
chính là xu hướng có tính bao quát, tạo nên nhiều xu hướng căn bản dưới đây
trong lĩnh vực báo chí nói chung, báo in nói riêng.
2. Xu hướng thay đổi khổ báo (đối với báo in). Theo đó, phần lớn các
tờ báo hiện đại đều có xu hướng “co” khổ báo. Cụ thể, những tờ báo vốn in
khổ lớn, nay chuyển sang khổ vừa. Các tờ báo in khổ vừa, nay chuyển sang
khổ nhỏ. Phần lớn các tờ báo mới ra đời đều chọn khổ vừa hoặc khổ nhỏ, cá
biệt, có một số trường hợp còn xuất bản ấn phẩm nhỏ hơn kích thước của khổ
báo nhỏ theo quan niệm truyền thống.
3. Xu hướng cân bằng giữa phần nội dung có tính thông tin và phần nội
dung mang tính giải trí trên báo in. Xu hướng này thể hiện rõ vào đầu thế kỷ
XXI. Theo đó, bên cạnh những bài viết đáp ứng nhu cầu về thông tin kinh tế,
chính trị, xã hội của công chúng còn có lượng bài viết đáp ứng các nhu cầu
giải trí của công chúng, như các trò chơi ô chữ, các phần trắc nghiệm, các bài
viết về văn hóa, nghệ thuật… dần trở nên cân bằng với nhau. Các chuyên mục
ra đời rất phong phú, đa dạng và thay đổi thường xuyên. Các mục xã luận khô
khan, dài dòng với bao triết lý “sáo mòn” được thay thế bằng các mục “Sự
kiện – bình luận”, “Chào buổi sáng”, “Câu chuyện thứ 4”, “Phóng sự”, “Góc
văn hóa - thể thao”, “Thị trường”, “Thời trang” Đó là các chuyên trang,
chuyên mục sát với nhu cầu của đời sống mới. Tất cả làm nên “dòng thác
thông tin”, làm nên “thời đại bùng nổ thông tin”.
4. Xu hướng truyền thông ngày càng gắn bó với hoạt động kinh tế.
Theo đó, trong xã hội hiện đại, giới doanh nhân ngày càng nhận thức được vai
trò quan trọng của truyền thông. Họ ngày càng chú trọng tới việc sử dụng

22

truyền thông như một công cụ quan trọng phục vụ lợi ích của họ, giúp họ đạt
tới mục đích về lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh.
5. Sự mâu thuẫn giữa lượng thông tin dồi dào và thời gian tiếp nhận
ngày càng eo hẹp của công chúng là xu thế chế định rất nhiều tới sự thay đổi
của ngôn ngữ truyền thông trong xã hội hiện đại. Đó là sự thay đổi về cấu trúc
ngôn ngữ, cách dùng từ ngữ đến cách tổ chức thông tin thành nhiều “cửa” (ví
dụ như tít bài, box dữ liệu, đồ thị, biểu bảng ), sử dụng ngày càng nhiều
ngôn ngữ phi văn tự Hệ quả của mâu thuẫn giữa sự bùng nổ thông tin và
thời gian tiếp nhận của công chúng là xu hướng tăng hàm lượng thông tin
trong mỗi tác phẩm báo chí, đồng thời giảm dần dung lượng của mỗi bài viết
bằng nhiều hình thức như thay đổi trong cách cấu trúc tin, bài
6. Truyền thông hiện đại ngày càng nhìn nhận một cách nghiêm túc và
nỗ lực hướng tới mục tiêu lấy công chúng làm trung tâm của hoạt động truyền
thông, lấy việc thỏa mãn tối đa nhu cầu hưởng thụ truyền thông của công
chúng làm mục đích. Theo đó, truyền thông ngày càng quan tâm thỏa mãn
nhu cầu riêng của từng nhóm công chúng.
7. Xu hướng mới, quan điểm mới về các thể loại báo chí. Theo đó, ranh
giới giữa các thể loại báo chí bị xóa nhòa. (Nguồn: [17]).
Trong 7 xu hướng mới của truyền thông như đã nêu trên, theo chúng
tôi, có 3 xu hướng tác động một cách trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến ngôn ngữ
báo chí hiện đại. Đó là xu hướng biến đổi từ truyền thống sang hiện đại, xu
hướng thu hẹp khổ báo dẫn tới việc giảm bớt dung lượng trang báo, tạo nên
sự thay đổi trong cách cấu trúc thông tin và thay đổi cấu trúc câu và cuối cùng
là xu hướng mâu thuẫn giữa thời gian tiếp nhận thông tin của công chúng và
lượng thông tin khổng lồ được cập nhật liên tục từng ngày, từng giờ trên toàn
thế giới.
Có thể nói rằng, câu ngắn, câu có cấu trúc rút gọn là “hệ quả” trực tiếp
và rõ nét nhất từ các xu hướng truyền thông hiện đại đối với ngôn ngữ truyền

23

thông ở nước ta hiện nay. Trước hết, đó là việc sử dụng những khổ báo nhỏ
gọn trong hệ thống báo in Việt Nam. Hiện nay, phần lớn báo in nước ta đều ra
khổ vừa (Thời báo Kinh tế Việt Nam, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh,
Thanh niên, Tiền Phong, Giáo dục thời đại, Nông thôn ngày nay …) hoặc khổ
nhỏ (Thể thao & văn hóa). Khổ báo vừa và nhỏ dẫn đến diện tích trang báo
hẹp, từ đó chế định dung lượng của bài viết. Trang báo khổ vừa và nhỏ không
phù hợp với những bài viết quá dài, chiếm trọn vẹn hoặc phần lớn diện tích
trang báo. Do vậy, để tạo nên sự hài hòa của trang báo, các tòa soạn chỉ sử
dụng những bài viết có dung lượng vừa và ngắn (500 – 1.200 từ). Vì thế, để
chuyển tải được thông tin một cách đầy đủ, để “tiết kiệm” tối đa diện tích
trang báo, ngôn ngữ của các bài viết phải thật ngắn gọn, số câu và từ càng hạn
chế càng tốt. Có thể mô hình hóa yêu cầu đó như sau: Ký hiệu ngôn ngữ ít –
lượng thông tin lớn – hiệu quả thông tin nhanh.
Sự hạn chế, thu gọn dung lượng bài viết được thể hiện rất rõ trong thực
tiễn báo chí Việt Nam hiện nay. Cụ thể, nếu như trên các tờ báo Tuổi trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản trong thập kỷ 80, số bài viết có dung lượng
trên 1500 từ xuất hiện khá thường xuyên ở 2/3 số trang của tờ báo thì hiện
nay, cũng trên chính báo này, số bài có dung lượng như vậy chỉ xuất hiện ở
trang Phóng sự & ký sự (trang 7) và đôi khi mới xuất hiện ở các chuyên trang
khác khi đề cập đến những vấn đề được công chúng đặc biệt quan tâm. Trên
các báo Lao Động và Người Lao động, các bài viết trên 1000 từ hầu như chỉ
xuất hiện ở các chuyên mục Phóng sự hay các trang Văn hóa - văn nghệ. Trên
các tạp chí mang tính giải trí rõ rệt như Văn hóa thông tin, Thế giới phụ nữ, số
bài viết có dung lượng trên 1000 từ rất hiếm khi xuất hiện mà phổ biến là
những bài viết từ 500 – 700 từ.
Hơn thế nữa, trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông tin với lượng thông
tin luôn phong phú, dồi dào nhưng công chúng báo chí lại bị hạn chế về thời
gian tiếp nhận thông tin (do bị cuốn hút vào hoạt động kinh tế sôi động của

×