Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Ngôn ngữ của người dẫn chương trình Trò chơi truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 147 trang )




1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




VƯƠNG THỊ HUYỀN





NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH
TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ











Hà Nội, 2012




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VƯƠNG THỊ HUYỀN




NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH
TRÒ CHƠI TRUYỀN HÌNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí

Mã số: 60 32 01



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Anh


Hà Nội, 2012




5

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÔN NGỮ NGƢỜI DẪN
CHƢƠNG TRÌNH TRÕ CHƠI TRUYỀN HÌNH 8
1.1 Những khái niệm cơ bản 8
1.1.1 Ngôn ngữ 9
1.1.2 Ngôn ngữ truyền hình 10
1.1.3 Chương trình Trò chơi trên truyền hình 12
1.1.3.1 Khái niệm Chương trình truyền hình 12
1.1.3.2 Phân chia các dạng Chương trình truyền hình 13
1.1.3.3 Chương trình Trò chơi truyền hình ở Việt Nam 15
1.1.5 Người dẫn chương trình 20
1.1.5 Ngôn ngữ của Người dẫn chương trình 23
1.2 Những yêu cầu đối với ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng trình trò chơi
truyền hình 28

1.3 Những yếu tố tác động đến ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng trình
truyền hình 38
1.3.1 Năng lực cá nhân 39
1.3.2 Các yếu tố của bối cảnh giao tiếp 43
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA NGƢỜI DẪN
CHƢƠNG TRÌNH TRÕ CHƠI Ở ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM 47
2.1 Về ngữ âm 47
2.2 Về từ ngữ 53
2.3 Về ngữ pháp 57
2.4 Về phong cách 59
2.5 Về sự kết hợp việc sử dụng ngôn ngữ với các yếu tố phi ngôn ngữ 65




6
2.6 Kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống 71
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGÔN NGỮ
CỦA NGƢỜI DẪN CHƢƠNG TRÌNH TRÕ CHƠI TRÊN TRUYỀN
HÌNH 85
3.1 Cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của yếu tố ngôn ngữ
trong nghiệp vụ dẫn chƣơng trình trò chơi truyền hình ……………… 85
3.2 Nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ cho đội ngũ ngƣời dẫn chƣơng
trình trò chơi truyền hình………………………………………………….92
3.3 Cần có chính sách quan tâm cụ thể đối với vấn đề nâng cao chất
lƣợng chƣơng trình trò chơi truyền hình ……………………………… 94
3.4 Quan tâm và đáp ứng những điều kiện cần thiết để ngƣời dẫn chƣơng
trình đƣợc phát huy khả năng của họ………………………………… 98
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………… 102























7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT




BTV : Biên tập viên
DCT : Dẫn chƣơng trình
ĐTHVN : Đài Truyền hình Việt Nam
MC : Master of Ceremonies
Ngƣời dẫn chƣơng trình
PT - TH : Phát thanh - Truyền hình
PTV : Phát thanh viên



























8
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1.1: Mức độ theo dõi đối với chƣơng trình Trò chơi truyền hình.
Bảng 1.2: Những chƣơng trình Trò chơi truyền hình trên VTV3 đƣợc công
chúng yêu thích nhất hiện nay.
Bảng 1.3: Những yếu tố khiến một chƣơng trình Trò chơi truyền hình thu hút
đƣợc sự quan tâm của công chúng.
Bảng 1.4: Những kỹ năng về ngôn ngữ mà công chúng đánh giá cao ở một
ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi truyền hình.
Bảng 2.1: Tầm quan trọng của chất giọng trong kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
của ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi truyền hình.
Bảng 2.2: Ngữ điệu của ngƣời dẫn chƣơng trình
Bảng 2.3: Những yếu tố mà công chúng đánh giá cao ở một ngƣời dẫn
chƣơng trình Trò chơi truyền hình.
Bảng 2.4: Những ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi truyền hình đƣợc công
chúng yêu thích nhất trên VTV3.
Bảng 2.5: Hình ảnh của một ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi truyền hình
đƣợc cho là hoàn hảo.
Bảng 2.6: Cách xƣng hô
Bảng 2.7: Những yếu tố quan trọng của một ngƣời dẫn chƣơng trình trò chơi
truyền hình.
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong vài năm trở lại đây, con ngƣời chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ
của truyền thông. Truyền thông thế kỷ 21 thực sự bùng nổ, tạo ra những bƣớc

chuyển bất ngờ. Truyền hình cũng không nằm ngoài sự thay đổi đó. Chƣa bao
giờ truyền hình lại rơi vào trạng thái bị cạnh tranh gay gắt nhƣ hiện nay. Xuất





2
phát là một kênh truyền thông có sức mạnh đặc biệt trong tạo dựng dƣ luận,
đến nay, truyền hình đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các kênh truyền
thông khác. Đây chính là nguyên nhân khiến truyền hình phải thay đổi, đột
phá. Dễ dàng nhận thấy, chƣa bao giờ các kênh truyền hình lại nở rộ nhƣ hiện
nay. Các chƣơng trình truyền hình mới xuất hiện liên tục, tạo ra những món
ăn tinh thần phong phú cho công chúng. Đồng thời với tình hình đó, là sự
bùng nổ có tính tự phát ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình. Ở Việt Nam, có
tới 1.700 ngƣời tham gia vào nghề dẫn chƣơng trình, nhƣng chỉ rất ít trong số
họ để lại dấu ấn trong lòng công chúng. Ở nƣớc ta, dẫn chƣơng trình vẫn chƣa
đƣợc xem là một nghề, thế nên, vẫn chƣa có một cơ sở đào tạo chính qui, bài
bản về lĩnh vực này. Hầu hết ngƣời dẫn chƣơng trình ở Việt Nam đều dựa vào
năng khiếu bẩm sinh, vào tài ăn nói, yếu tố ngoại hình mà vào nghề. Đội ngũ
ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình ở Việt Nam phần lớn làm nghề “tay trái”,
họ xuất thân từ nhiều cƣơng vị khác nhau nhƣ hoa hậu, ngƣời mẫu, ca sỹ,
nhạc sỹ, nhà thơ, biên tập viên…Và đội ngũ ngƣời dẫn chƣơng trình ở Việt
Nam rơi vào trạng thái “thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu”, ngƣời tham gia dẫn
chƣơng trình truyền hình thì nhiều nhƣng ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình
chuyên nghiệp và thành công lại rất ít. Có thể nói, chƣa bao giờ xã hội nói
chung và trên các kênh truyền hình nói riêng lại cần nguồn nhân lực này nhƣ
hiện nay.
Việc xây dựng các chƣơng trình truyền hình mang tính tƣơng tác cao
nhƣ Trò chơi truyền hình là một xu thế chung của truyền hình thế giới cũng

nhƣ ở Việt Nam, đã góp phần làm cho số lƣợng khán giả xem truyền hình
tăng lên rất nhiều so với trƣớc đây. Để xây dựng một chƣơng trình truyền
hình nhƣ vậy phải có một êkíp hàng chục, thậm chí hàng trăm ngƣời. Tuy
nhiên, khi lên sóng, công chúng chỉ thấy sự xuất hiện của ngƣời dẫn chƣơng
trình đó. Có thể nói, ngƣời dẫn chƣơng trình có vai trò đặc biệt quan trọng, vì



3
họ đại diện cho êkip sản xuất, cho nhà đài, là linh hồn cho mỗi chƣơng trình.
Trong việc xây dựng các chƣơng trình truyền hình, đặc biệt là chƣơng trình
Trò chơi trên truyền hình, ngƣời dẫn chƣơng trình càng thể hiện vai trò, vị trí
quan trọng của mình. Ngƣời dẫn chƣơng trình tạo ra ấn tƣợng, thu hút công
chúng với chƣơng trình, tạo ra bản sắc cho các chƣơng trình, quyết định đến
thành công của các chƣơng trình.
Thế nhƣng, hiện nay, nghiệp vụ của ngƣời dẫn chƣơng trình truyền
hình nói chung và ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi trên truyền hình nói riêng
còn có nhiều bất cập. Mặc dù cái thời mà ngƣời dẫn chƣơng trình còn chƣa
thuộc lời dẫn, ứng xử hay bị vấp đã không còn thì hiện nay, ngƣời dẫn
chƣơng trình truyền hình vẫn còn trong tình trạng ngƣời này học kinh nghiệm
của ngƣời kia, cách nói, cách dẫn còn khuôn mẫu, thiếu sáng tạo, thiếu kỹ
năng, thiếu sức hút. Và nếu không nhanh chóng khắc phục hạn chế này.
Trong tƣơng lai không xa, truyền hình sẽ đánh mất một lƣợng công chúng
đáng kể. Điều đó cho thấy cần có sự quan tâm nghiên cứu chuyên sâu về
năng lực, phẩm chất của ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình, đặc biệt là kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng trình Trò chơi truyền hình. Đó
là lý do chúng tôi chọn đề tài “Ngôn ngữ của người dẫn chương trình Trò
chơi truyền hình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về ngôn ngữ truyền hình là một mảng nghiên cứu tƣơng đối
mới so với các lĩnh vực nghiên cứu báo chí khác. Hầu hết các công trình
trƣớc đây đều mới chỉ đề cập đến ngôn ngữ truyền hình ở các góc độ liên
quan chứ chƣa trực tiếp đi vào nghiên cứu ngôn ngữ truyền hình với tƣ cách
là đối tƣợng cụ thể.



4
Công trình nghiên cứu về ngôn ngữ của truyền hình đầu tiên có thể kể
đến là cuốn Ngôn ngữ báo chí của Nguyễn Đức Dân. Cuốn sách này đã đề
cập đặc điểm của ngôn ngữ truyền hình trong sự đối sánh với ngôn ngữ báo
in. Thời gian gần đây nhất (2009), Giáo trình Báo chí truyền hình của tác giả
Dƣơng Xuân Sơn đã đƣa ra những vấn đề cơ bản của loại hình báo truyền
hình, từ khái niệm báo truyền hình, đặc trƣng báo truyền hình đến kỹ năng
thực hiện một số thể loại báo chí truyền hình. Ở thể loại là các bài báo khoa
học có lẽ phải kể đến các bài viết có liên quan đến ngôn ngữ truyền hình nhƣ
“Vài nét về sự đa dạng của phong cách ngôn ngữ trên truyền hình” và “Suy
nghĩ về hệ quả của ngôn ngữ trên vô tuyến truyền hình” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Bình (Tiếng Việt trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, Hội
ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Trƣờng ĐH KHXH &NV
TPHCM, 1999). Trong hai bài viết này, tác giả khẳng định ngôn ngữ âm
thanh trên truyền hình phải thể hiện dƣới ba hình thức là nói, đọc, viết. Bên
cạnh đó, Luận văn thạc sỹ báo chí (2010) của Phan Quốc Hải về “Ngôn ngữ
truyền hình Việt Nam - Vấn đề và thảo luận” có bàn về các vấn đề đặc trƣng
của ngôn ngữ truyền hình Việt Nam, đƣa ra một số vấn đề tồn tại trong thực
trạng sử dụng ngôn ngữ trên truyền hình ở Việt Nam.
Khi thực tiễn truyền hình Việt Nam tiếp cận với hoạt động sôi động của
ngành truyền hình trên thế giới, truyền hình Việt Nam đã tiếp thu công nghệ
và phƣơng pháp xây dựng chƣơng trình truyền hình một cách năng động.

Hàng loạt các dạng chƣơng trình mới đã ra đời từ sự đón nhận này. Sôi động
nhất phải kể đến là dạng chƣơng trình Trò chơi truyền hình. Ngay sau đó đã
xuất hiện rất nhiều bài viết về dạng chƣơng trình này. Tác giả Tạ Bích Loan
trong bài viết “Sức hấp dẫn của thể loại Trò chơi truyền hình” đã đƣa ra
những định nghĩa ban đầu, những đặc điểm của dạng chƣơng trình mới này.
Luận văn “Sản xuất chương trình Trò chơi truyền hình” của Vũ Thị Thanh



5
Hƣờng cũng đã đƣa ra những nghiên cứu cơ bản nhất về dạng chƣơng trình
trò chơi truyền hình khi đƣa ra định nghĩa về chƣơng trình, đặc điểm của
chƣơng trình, quy trình sản xuất chƣơng trình trò chơi truyền hình. Luận văn
“Trò chơi truyền hình với khán giả Việt Nam” của Bạch Dƣơng cũng đƣa
dạng chƣơng trình trò chơi truyền hình nghiên cứu ở góc độ với khán giả của
chƣơng trình, luận văn đã phân tích những yếu tố của một chƣơng trình trò
chơi truyền hình có thể thu hút đƣợc khán giả xem truyền hình.
Sự xuất hiện của dạng chƣơng trình trò chơi truyền hình đã xuất hiện
một vấn đề khá mới mẻ của ngành truyền hình đó là bàn về vai trò của ngƣời
tham gia dẫn dắt các chƣơng trình này.
Thuật ngữ Ngƣời dẫn chƣơng trình (MC) mới xuất hiện ở Việt Nam
cách đây khoảng chục năm, nghề dẫn chƣơng trình mới trở thành nghề đƣợc
quan tâm vài năm trở lại đây. Thực tế hoạt động này rất sôi nổi nhƣng lĩnh
vực này vẫn còn chƣa đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Tính đến thời điểm hiện nay, chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình nói chung,
dẫn chƣơng trình trò chơi trên truyền hình nói riêng.
Những bài viết nghiên cứu đầu tiên về kỹ năng dẫn chƣơng trình truyền
hình ở Việt Nam phải kể đến nhƣ Bài “Ứng xử lịch sự trong phỏng vấn và
dẫn chương trình” năm 2002 của tác giả Đình Cao, bài “Dẫn chương trình -

qua cách nhìn của một nhà báo lão thành” năm 2003 của tác giả Nguyễn Kim
Trạch, bài “Dẫn chương trình một nghề mới trong làng báo” của tác giả Bạch
Mai …đều đề cập đến một phƣơng diện là bàn về vai trò của ngƣời dẫn
chƣơng trình.
Bài nghiên cứu đầu tiên về đề tài này phải kể đến bài “Ngôn ngữ của
người dẫn chương trình trò chơi truyền hình” năm 2003, của tác giả Hoàng
Anh, Luận án tiến sĩ ngữ văn “Dạng thức nói trên truyền hình” năm 2005 của



6
Nguyễn Thế Kỷ, tác giả đề cập đến phạm vi rộng hơn là dạng thức nói (bao
gồm cả ngƣời nói - PTV và ngƣời dẫn chƣơng trình (MC) trên truyền hình.
Tác giả chỉ nghiên cứu về dạng thức nói chứ không đi sâu vào tìm hiểu cách
sử dụng ngôn ngữ của PTV hay của ngƣời dẫn chƣơng trình. Luận văn của
Phan Quốc Hải “Ngôn ngữ truyền hình Việt Nam - Vấn đề và thảo luận” năm
2010 có đề cập đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng trình
truyền hình nhƣ giọng nói, giọng chuẩn, âm sắc lời nói, tốc độ nói… nhƣng
không đề cập đến kỹ năng sử dụng ngôn ngữ theo từng dạng chƣơng trình
khác nhau nhƣ thế nào.
Gần đây nhất, phải kể đến luận văn “Ngôn ngữ của người dẫn chương
trình truyền hình (Dựa trên một số tƣ liệu các chƣơng trình giao lƣu, gặp gỡ
trên truyền hình), năm 2006 của Lê Thị Phong Lan. Luận văn đã đề cập và
làm sáng tỏ nhiều khái niệm về thuật ngữ Ngƣời dẫn chƣơng trình, bƣớc đầu
đƣa ra những đánh giá về kỹ năng dẫn chƣơng trình truyền hình, nhƣng luận
văn mới chỉ tiến hành nghiên cứu, khảo sát ở mảng chƣơng trình trò chuyện,
giao lƣu (Talkshow).
Với đề tài này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
của ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình trong các chƣơng trình trò chơi. Đây
là đề tài hoàn toàn mới trong lĩnh vực nghiên cứu truyền hình.



3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát toàn diện và có hệ thống việc sử dụng ngôn ngữ
của ngƣời dẫn chƣơng trình trò chơi trên truyền hình, luận văn đề xuất một số
kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động quan
trọng này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu



7
4.1 Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của Ngƣời dẫn
chƣơng trình Trò chơi trên truyền hình.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát hiện trạng vấn đề nghiên cứu trong các
chƣơng trình Trò chơi trên Kênh VTV3 - Đài Truyền hình Việt Nam trong 2
năm (2011- 2012).
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để có kết quả theo mục đích nghiên cứu đề ra, chúng tôi đã sử dụng
các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Thu thập tài liệu văn bản, băng tƣ liệu về các chƣơng trình trò chơi
giải trí truyền hình.
- Khảo sát, thống kê, phân tích các chƣơng trình trò chơi tại Đài
THVN.
- Điều tra xã hội học
- Phỏng vấn sâu: Ngƣời dẫn chƣơng trình thành công của Đài truyền
hình Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận

về ngôn ngữ truyền hình nói chung, ngôn ngữ ngƣời dẫn chƣơng trình trò
chơi truyền hình nói riêng; đồng thời luận văn cũng có ý nghĩa nhất định về
mặt phƣơng pháp luận đối với khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ của ngƣời dẫn
một loại chƣơng trình cụ thể trên truyền hình.
Về thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho nhiều đối tƣợng
liên quan, nhất là những ngƣời dẫn chƣơng trình trò chơi truyền hình, các nhà
nghiên cứu và giảng dạy, các sinh viên thuộc chuyên ngành truyền hình.
6. Nội dung luận văn



8
Ngoài phần Mở đầu và Phần Kết luận, Nội dung Luận văn gồm có 3
chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận chung về ngôn ngữ ngƣời dẫn chƣơng
trình trò chơi truyền hình.
Chƣơng 2: Thực trạng sử dụng ngôn ngữ của ngƣời dẫn chƣơng
trình trò chơi truyền hình ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Những giải pháp sử dụng hiệu quả ngôn ngữ của ngƣời
dẫn chƣơng trình truyền hình ở Việt Nam.
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC










Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÔN NGỮ NGƢỜI DẪN
CHƢƠNG TRÌNH TRÕ CHƠI TRUYỀN HÌNH

1.1 Những khái niệm cơ bản



9
1.1.1 Ngôn ngữ
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì: “Ngôn ngữ là hệ
thống những âm, những từ và những qui tắc kết hợp chung mà những người
trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau” [26,
tr.666].
Còn cuốn Dẫn luận ngôn ngữ định nghĩa:
“Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp
cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người.
Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền
thống văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác” [13, tr.5].
Ngôn ngữ là một hiện tƣợng xã hội, nhƣng là một hiện tƣợng xã hội
đặc biệt. Nó thực hiện hai chức năng: là phƣơng tiện để giao tiếp và là công
cụ của tƣ duy.
Ngôn ngữ hình thành và phát triển trong xã hội loài ngƣời là do nhu cầu
giao tiếp của con ngƣời với nhau. Trong quá trình trao đổi tƣ tƣởng, tình
cảm, trí tuệ, sự hiểu biết lẫn nhau, con ngƣời đã sử dụng ngôn ngữ nhƣ một
phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất, hiệu quả nhất và đây cũng là chức năng
quan trọng hàng đầu của ngôn ngữ. Trong tất cả các phƣơng tiện mà con
ngƣời sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phƣơng tiện duy nhất thỏa mãn
đƣợc tất cả các nhu cầu của con ngƣời.

Bên cạnh chức năng giao tiếp, ngôn ngữ còn có một chức năng quan
trọng nữa là công cụ của tƣ duy. Tƣ duy của con ngƣời - sự phản ánh của thế
giới khách quan xung quanh, chủ yếu đƣợc tiến hành, đƣợc con ngƣời thực
hiện dƣới hình thức của ngôn ngữ. C.Mác từng nói: “Ngôn ngữ là hiện thực
trực tiếp của tƣ duy”. Và ngôn ngữ không chỉ là hình thức tồn tại, là phƣơng
tiện vật chất để thể hiện tƣ duy mà còn là công cụ của hoạt động tƣ duy, nó
trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển tƣ duy của con ngƣời.



10
“Nếu ngôn ngữ không có tƣ tƣởng thì không thể tồn tại, còn tƣ tƣởng thì phải
thể hiện trong cái chất tự nhiên của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói (âm thanh) và dạng viết. Ở dạng nói, âm
thanh là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ. Con ngƣời dùng bộ máy phát âm làm
công cụ cho ngôn ngữ hoạt động. Để giao tiếp, con ngƣời phát ra chuỗi âm
thanh khác nhau tạo thành lời nói. Chính nó là chất liệu tất yếu của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói đƣợc sử dụng trong giao tiếp tự nhiên hằng ngày;
ngƣời nói, ngƣời nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, thay phiên nhau bằng lƣợt
lời. Ngôn ngữ tồn tại ở dạng nói đa dạng về từ ngữ và hình thức thể hiện.
Ở dạng viết, ngôn ngữ tồn tại dƣới dạng chữ viết trong văn bản, đƣợc
tiếp nhận bằng thị giác. Từ ngữ đƣợc sử dụng có sự chính xác cao.
Ngôn ngữ do 4 phƣơng tiện cấu thành: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
phong cách. Đây là những nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ đều thực hiện
chức năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho mọi ngƣời giao
tiếp có thể hiểu đƣợc nhau.
1.1.2 Ngôn ngữ truyền hình
Một ƣu thế của truyền hình là truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng
một lúc. Khác với báo in, ngƣời đọc chỉ tiếp nhận bằng con đƣờng thị giác,
phát thanh bằng con đƣờng thính giác, ngƣời xem truyền hình tiếp cận sự kiện

bằng cả thị giác và thính giác. Khảo sát cho thấy 70% lƣợng thông tin con
ngƣời thu đƣợc là qua thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền hình trở
thành một phƣơng tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả
năng làm thay đổi nhận thức của con ngƣời trƣớc sự kiện [32, tr.5].
Đặc điểm quan trọng nhất của ngôn ngữ truyền hình là sự kết hợp của
hình ảnh và âm thanh. Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ tổng hợp của hình
ảnh và âm thanh.



11
Hình ảnh trong truyền hình vừa là phƣơng tiện vừa là nội dung thể hiện
ý đồ tƣ tƣởng của tác phẩm. Hình ảnh trong truyền hình phản ánh không gian
ba chiều lên mặt phẳng hai chiều của truyền hình. Khác với hình ảnh tĩnh tại
của các nghệ thuật tạo hình nhƣ hội họa, nhiếp ảnh. Hình ảnh trong truyền
hình là hình ảnh động có thực đã qua xử lý kỹ thuật [32, tr.8].
Trong tác phẩm truyền hình, hình ảnh không chỉ mô tả sự họat động
của con ngƣời mà còn giúp khán giả “tham gia” sự kiện. Chỉ cần ngồi tại chỗ
với chiếc máy thu hình, ngƣời xem có thể biết đƣợc sự việc xảy ra xung
quanh mình hoặc cách xa mình hàng vạn cây số. Truyền hình đã kế thừa kinh
nghiệm của điện ảnh về cỡ cảnh, góc độ máy, động tác máy và nghệ thuật
Montage.
Ý nghĩa của hình ảnh trong tác phẩm truyền hình thể hiện ở chỗ cảnh
quay cho xem cái gì, góc quay và động tác máy có ý nghĩa nhƣ thế nào, tác
giả muốn biểu lộ ý đồ qua góc quay này. Khả năng biểu hiện của hình ảnh
trong tác phẩm truyền hình còn thể hiện ở mối liên hệ trong các hình ảnh. Qua
phƣơng pháp Montage, nội dung tự thân của mỗi hình ảnh phối hợp với nhau,
tạo ra nội dung thông tin mới mang tính tổng thể. Sự sắp xếp hình ảnh trong
quá trình truyền đạt thông tin giúp con ngƣời cảm nhận đƣợc tính đa chiều,
lập thể trong mỗi sự kiện, vấn đề, số phận con ngƣời. Tƣ duy làm khán giả

phát hiện đƣợc tính ẩn dụ của hình ảnh, của các hiện tƣợng lắp ráp và qua đó
biểu hiện đƣợc mối quan hệ của sự kiện, sự vật. Cũng nhƣ các loại hình “nghệ
thuật ống kính” khác (nhiếp ảnh, điện ảnh) truyền hình phải lựa chọn những
hình ảnh truyền thông đắt nhất để phản ánh nét bản chất của vấn đề [32,
tr.10].
Âm thanh là những yếu tố tồn tại khách quan trong đời sống xã hội.
Nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình thông tin, truyền hình đã kế thừa
kinh nghiệm xử lí, thể hiện âm thanh của phát thanh. Ba yếu tố của âm thanh



12
(lời bình, tiếng động, âm nhạc) đƣợc sử dụng trong truyền hình nhằm thông
tin phản ánh cuộc sống. Nhờ sự trợ giúp của âm thanh, tác phẩm truyền hình
trở nên sống động nhƣ bản thân cuộc sống [32, tr.10].
1.1.3 Chương trình Trò chơi trên truyền hình
1.1.3.1 Khái niệm Chương trình truyền hình
Thuật ngữ Chương trình là thuật ngữ xuất hiện sớm, gần nhƣ đồng
thời với sự xuất hiện của báo chí phát thanh và báo chí truyền hình.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Anh: programme, program đều
mang nghĩa nội hàm là Chƣơng trình.
Chƣơng trình truyền hình đƣợc hiểu là sản phẩm cuối cùng của truyền
hình, là những nội dung đƣợc phát sóng theo kế hoạch định kỳ của một ngày,
một tuần hay một tháng. Nhƣ vậy, chƣơng trình truyền hình gần nhƣ bao hàm
cả quá trình sáng tạo ra một sản phẩm chung. Những tác phẩm riêng lẻ sẽ
đƣợc tổ chức thành các chuyên mục hoặc đƣợc sắp xếp theo một mẫu nào đó
của đài để tạo nên các chƣơng trình.
Trong cuốn Sản xuất chương trình truyền hình, tác giả Trần Bảo
Khánh cho rằng, chƣơng trình là “kết quả cuối cùng của quá trình giao tiếp
với công chúng” Nhƣ vậy, ở đây, chƣơng trình truyền hình còn có thể hiểu là

một tác phẩm truyền hình hoàn chỉnh.
Các chƣơng trình khi tồn tại đều có một sự định hình nhƣ: tên gọi, thời
lƣợng, thời gian phát sóng… Tên gọi của chƣơng trình thể hiện chủ đề, mục
đích chính của chƣơng trình nhƣ: chƣơng trình thời sự, chƣơng trình ca nhạc,
chƣơng trình thể thao, chƣơng trình giao lƣu trò chuyện, chƣơng trình trò
chơi…
Mỗi một chƣơng trình đều đƣợc xây dựng dựa trên các tiêu chí sau:
Cái gì? (Chủ đề chương trình)
Nhƣ thế nào? (Thể loại, hình thức thể hiện)



13
Cho ai? (Đối tượng công chúng của chương trình)
Khi nào? (Thời gian phát sóng định kỳ)
Mục đích? (Chương trình mang đến điều gì cho công chúng).
Nhƣ vậy, thuật ngữ Chƣơng trình (programme, program) là sự bao
hàm nhiều vấn đề: về nội dung, hình thức thể hiện, đối tƣợng hƣớng đến, mục
đích… Chính vì vậy, chƣơng trình là một thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến
trong lĩnh vực truyền hình hiện nay.
1.1.3.2 Phân chia các dạng Chương trình truyền hình
Vấn đề phân chia các thể loại của truyền hình hiện nay còn nhiều điểm
chƣa thống nhất, thậm chí còn có sự tranh cãi. Nhiều vấn đề mang tính lý luận
còn chƣa theo kịp để phản ánh đúng với thực tiễn của truyền hình.
Theo tác giả Trần Bảo Khánh, trong cuốn Sản xuất chương trình
truyền hình, ở một số nƣớc phát triển, ngƣời ta thƣờng chia các tác phẩm
truyền hình thành 5 loại tác phẩm cơ bản:
- Loại thuyết trình (Lecture): Đây là loại sử dụng phát thanh viên hoặc
biên tập viên để trình bày các vấn đề.
- Loại phỏng vấn (interview): Sử dụng các dạng câu hỏi để phỏng vấn

tìm kiếm thông tin.
- Loại thảo luận (Panel Discusion): Là loại tác phẩm sử dụng phƣơng
thức thảo luận giữa nhà báo và các chuyên gia. Mục tiêu của cuộc thảo luận là
đƣa ra các thông tin về quan điểm, tƣ tƣởng, ý kiến về một vấn đề, nhƣng đƣa
bằng hình thức tranh luận, trao đổi các ý kiến về vấn đề đó.
- Loại kịch bản (Dramatization): Đây là loại tác phẩm truyền hình có
qui trình sản xuất luôn đòi hỏi đƣợc thực hiện một cách chuyên nghiệp.
- Loại sản xuất trực tiếp: Là loại tác phẩm truyền hình giúp cho khán
giả chứng kiến trực tiếp các sự kiện, sự việc đang diễn ra đồng thời với thời
gian phát hành (3 cùng: cùng diễn ra, cùng phản ánh, cùng tiếp nhận).



14
Theo tác giả Trần Đăng Tuấn trong Hội thảo về ngành truyền hình
năm 2003 [9] đã chia các dạng chƣơng trình truyền hình dựa trên tiêu chí
phƣơng thức sản xuất nhƣ sau:
- Loại sản xuất theo phƣơng thức trƣờng quay (sẽ thực hiện ghi hình
trong trƣờng quay). Hình thức này có thể thực hiện cho các dạng tác phẩm
nhƣ: Phỏng vấn, Đàm luận, Phát biểu
- Loại sản xuất theo phƣơng thức điện ảnh (ghi hình ở ngoài trời là chủ
yếu): Hình thức này có thể sản xuất các thể loại tác phẩm nhƣ tin tức, phóng
sự, phim tài liệu…
Nhƣ vậy là cách phân chia này rõ ràng chỉ đáp ứng theo tiêu chí là theo
phƣơng thức sản xuất chƣơng trình, chính vì vậy mà nó chƣa làm thỏa mãn
ngƣời làm truyền hình để giúp họ có thể tác nghiệp hiệu quả hơn.
Nhƣ vậy, phân chia thể loại truyền hình nhƣ thế nào, căn cứ vào tiêu
chí nào để phân chia vẫn đang cần có sự thống nhất.
Ở đây, qua tìm hiểu từ các tài liệu nghiên cứu trƣớc đây về vấn đề này
cũng nhƣ từ sự quan sát từ thực tế, chúng tôi đồng ý rằng nên phân chia thể

loại truyền hình theo các nhóm sau đây:
- Nhóm giao lưu - gặp gỡ (Talkshow): Là hội thoại hoặc giao lƣu.
Thuật ngữ này đƣợc sử dụng theo cách làm của truyền hình trên thế giới, đó là
hình thức talk show của truyền hình thế giới.
Đặc điểm chung của nhóm này là sử dụng hình thức truyền tải thông
tin qua một cuộc trò chuyện, sử dụng lời nói của nhân vật khách mời làm hình
thức thông tin chủ yếu.
Nhóm này còn sử dụng nhiều dạng tác phẩm để hỗ trợ nhƣ: phỏng vấn,
bình luận, đàm luận, tọa đàm, phát biểu trên truyền hình.
Cách gọi tên này đã đƣợc Đài Truyền hình Việt Nam sử dụng chính
thức trong văn bản giấy tờ, trong tổ chức sản xuất chƣơng trình.



15
Đặc điểm nổi bật nhất của nhóm này là tính tƣơng tác cao, hấp dẫn,
khách quan. Ngƣời xem có thể gần nhƣ đƣợc tham gia vào các cuộc trò
chuyện, đƣợc bày tỏ suy nghĩ, đặt câu hỏi, gặp gỡ nhân vật yêu thích …nên
sức hút với chƣơng trình là rất lớn.
- Nhóm tạo hình (nhóm Điện ảnh): Bao gồm các thể loại nhƣ tin,
phóng sự, phim tài liệu, tƣờng thuật, ghi nhanh…
Thông tin đƣợc chuyển tải là những hình ảnh đƣợc ghi lại tại hiện
trƣờng. Đây là những tác phẩm mà tính tin tức đƣợc thể hiện hết sức rõ rệt.
- Nhóm tạp kỹ và trò chơi truyền hình (live show, game show): Đây
là những chƣơng trình mà nội dung giải trí đƣợc coi nhƣ mục tiêu hàng đầu,
yếu tố tranh đua, yếu tố hợp tác, yếu tố bất ngờ luôn đƣợc chú trọng để tạo
nên sự kích thích theo dõi đối với các dạng chƣơng trình này.
Tuy có sự phân chia nhƣ vậy, nhƣng trên thực tế vẫn có sự đan xen
với nhau. Và đây cũng là xu thế trội trong tƣơng lai, khi mà các ranh giới về
thể loại bị mờ đi, nhƣờng chỗ cho cách thể hiện nhiều chiều tạo nên hiệu quả

ƣu việt nhất trong cách thể hiện.
1.1.3.3 Chương trình Trò chơi truyền hình ở Việt Nam
Chương trình Trò chơi truyền hình (Game show) mới xuất hiện ở
Việt Nam chƣa lâu, khoảng 15 năm trở lại đây, đánh dấu bằng chƣơng trình
SV’96. Nhƣng trên thế giới, loại chƣơng trình này xuất hiện lần đầu tiên tại
Mỹ từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20.
Chƣơng trình Trò chơi truyền hình đầu tiên ra đời đƣợc gọi bằng thuật
ngữ “Quiz Show” là một cuộc thi hỏi đáp về kiến thức. Sau đó do những thay
đổi về tính chất của trò chơi, chƣơng trình đã đổi tên thành Game Show.
Nhà nghiên cứu về truyền hình Mỹ, John Fiske trong cuốn “Văn hóa
truyền hình” đã phân biệt giữa 2 dạng Quiz Show và Game Show: “Những
chương trình tường thuật sự tranh đua giữa các cá nhân hay các đội mà nội



16
dung là về sự hiểu biết thực tế (factual knowledge) sẽ được gọi là các Quiz
Show, những chương trình cũng là tranh đua nhưng thiên về hiểu biết về con
người nói chung hay của từng cá nhân hoặc tranh đua thuần túy mang tính
may rủi hoặc tranh đua thể lực được coi là Game Show”[8].
Trong cuốn “Từ điển Bách khoa về trò chơi truyền hình” (Checkmark
Book - NewYork 1999) các tác giả lại phân loại trò chơi truyền hình thành 4
loại nhƣ sau:
1.Chƣơng trình trong đó ngƣời chơi thi trả lời các câu hỏi khác nhau - đƣợc
gọi là Quiz Show.
2. Chƣơng trình trong đó ngƣời chơi cố gắng đoán biết một số bí mật của
khách mời - đƣợc gọi là Panel Show.
3. Chƣơng trình trò chơi có sự tham gia của khán giả truyền hình trong đó
ngƣời chơi trình diễn để giải trí cho khán giả ở trƣờng quay cũng nhƣ khán
giả ở nhà đƣợc gọi là Game Show.

4. Chƣơng trình trò chơi trong đó ngƣời tham gia cố gắng học đƣợc luật lệ của
một trò chơi đặc biệt và cố gắng làm tốt những kỹ năng đặc biệt này [8].
Đây là 2 cách phân chia khá rõ ràng. Ở cách thứ nhất, chúng ta thấy sự
phân chia các chƣơng trình trò chơi dựa vào nội dung, còn cách thứ hai là chia
theo hình thức chơi. Cả hai cách chia này đều còn đúng cho đến thời điểm
hiện nay.
Ở Việt Nam, chƣơng trình Trò chơi truyền hình xuất hiện vào năm
1996, khi lần đầu chƣơng trình SV’96 xuất hiện. Chƣơng trình đã ngay lập
tức gây sự chú ý cho công chúng, giới làm truyền hình chuyên nghiệp ở Việt
Nam lúc đó mới biết đến thuật ngữ “Game Show - Trò chơi truyền hình”.
Từ đó, tất cả những chƣơng trình xuất hiện trên truyền hình đƣợc thể hiện
dƣới dạng trò chơi đều đƣợc gọi là “Game Show”.



17
Tuy nhiên, chƣơng trình trò chơi truyền hình hiện nay cũng có nhiều sự
thay đổi, các chƣơng trình Trò chơi truyền hình vừa mang tính chất tranh đua,
thi đấu vừa mang tính chất giải trí. Thậm chí, theo xu thế chung ở một vài
năm trở lại đây, các chƣơng trình Game Show mang nhiều tính giải trí. Thuật
ngữ Trò chơi giải trí trên truyền hình đã xuất hiện trong thời gian gần đây đã
lý giải điều này.
Chƣơng trình Trò chơi trên truyền hình thực sự bùng nổ trong vài năm
trở lại đây trên Truyền hình Việt Nam và các đài truyền hình địa phƣơng.
Chƣơng trình này đƣợc xem là chƣơng trình trọng yếu của nhà Đài để thu hút
khán giả, tăng tỷ lệ ngƣời xem truyền hình. Cho đến thời điểm này, Chỉ tính
riêng Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) và Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh
(HTV), hiện nay có khoảng 40 gameshow truyền hình các loại phát sóng mỗi
tuần. Chƣa kể, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình kỹ
thuật số VTC và cả nhiều Đài PT-TH địa phƣơng đều có trình chiếu

gameshow mua bản quyền phát sóng và gameshow tự sản xuất. Đài Truyền
hình Việt Nam còn thành lập cả những êkip chuyên nghiệp chuyên làm các
chƣơng trình Trò chơi truyền hình, đó là Tiểu ban Trò chơi và Gặp gỡ trên
truyền hình - “TV Show and TV Game”, hiện tại là các phòng phụ trách
chƣơng trình Gameshow (Phòng Gameshow 1, Phòng Gameshow 2 )
Theo những cách phân chia nhƣ trên thì có các dạng chƣơng trình Trò
chơi truyền hình mang tính thi tìm hiểu kiến thức nhƣ: “Đường lên đỉnh
Olympia”, “Đấu trường 100”, “Ai là triệu phú”, “Ai thông minh hơn học sinh
lớp 5?”, “Trẻ em luôn đúng”, “Chiếc nón kỳ diệu”, “SV’2012”, “Đuổi hình
bắt chữ”…
Còn các chƣơng trình Trò chơi mang nhiều tính giải trí, trong đó khán
giả hoặc ngƣời tham gia có thể tham gia biểu diễn để làm giải trí cho khán giả
ở tại trƣờng quay hoặc qua màn ảnh nhỏ đang xuất hiện rất nhiều nhƣ: “Bước



18
nhảy hoàn vũ”, “Cặp đôi hoàn hảo”, “Việt Nam next top model”, “ Việt Nam
Got talent”, “ The Voice”, “Song ca cùng thần tượng”, “Hợp ca tranh tài”,
“Hát với ngôi sao”, Người đi xuyên tường (Hole in the Wall), Cuộc thi tìm
kiếm tài năng âm nhạc (X - Factor)…
Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy, các chƣơng trình Trò chơi truyền hình
đang phát triển vô cùng sôi động. Mặc dù các chƣơng trình này đều đƣợc
“nhập khẩu”, tức là mua bản quyền các chƣơng trình trò chơi nổi tiếng trên
thế giới về. So với các dạng chƣơng trình khác trên truyền hình, chƣơng trình
Trò chơi truyền hình đƣợc công chúng quan tâm khá cao.
63.5
36.5
Thường xuyên
Không thường xuyên



Bảng1.1: Mức độ theo dõi đối với chƣơng trình Trò chơi truyền hình

Về chƣơng trình Trò chơi truyền hình, tác giả Tạ Bích Loan trong bài
viết “Sức hấp dẫn của thể loại trò chơi truyền hình” đã định nghĩa: “Trò
chơi truyền hình tường thuật một cuộc trình diễn mà trong đó các thành viên
tham gia vào một cuộc thi đấu theo một luật lệ nhất định, được tổ chức ghi
hình và đưa lên truyền hình sao cho người xem dễ dàng theo dõi” [8].
Nhƣ vậy, trò chơi truyền hình là chƣơng trình tƣờng thuật lại “cuộc
trình diễn” nào đó mà những ngƣời tham gia phải “thi đấu theo luật lệ nhất
định”. Cuộc trình diễn lại mang tính chất tranh đua nên làm tăng độ hấp dẫn
của chƣơng trình, nhất là trong xu hƣớng hiện nay, khi ngƣời tham gia chơi



19
lại là những ngƣời nổi tiếng (phần lớn họ đều thuộc giới nghệ sỹ, là nhóm
ngƣời vốn luôn đƣợc công chúng quan tâm). Và những nghệ sỹ này cũng coi
việc tham gia các Game Show truyền hình nhƣ những hình thức quảng bá
hình ảnh vô cùng hiệu quả, nên họ đã tham gia một cách nhiệt tình, có sự đầu
tƣ không khác gì một chiến dịch quảng cáo hình ảnh bản thân. Và ngƣời đƣợc
lợi nhất là khán giả, họ đƣợc xem các chƣơng trình truyền hình hấp dẫn, mới
mẻ và đầy hào hứng.
Các chƣơng trình trò chơi đều có luật chơi, luật chơi tạo nên cao trào,
thắt nút, mở, kịch tính, sự hồi hộp, sự căng thẳng, sự may rủi thông qua
những quy định trong trò chơi và đƣợc bổ trợ bằng những yếu tố khác nhƣ sự
dẫn dắt khéo léo của ngƣời điều khiển chƣơng trình - ngƣời dẫn chƣơng trình
và hiệu quả từ các yếu tố khác nhƣ hình ảnh, âm thanh, ánh sáng.




20
Bảng 1.2: Những chƣơng trình Trò chơi truyền hình trên VTV3
đƣợc công chúng yêu thích nhất hiện nay
Stt
Tên chƣơng trình
Số phiếu
Tỷ lệ phần
trăm %
1
Ai là triệu phú
151/321
46
2
Chiếc nón kỳ diệu
28/321
8,7
3
Bƣớc nhảy hoàn vũ
62/321
19,3
4
Ai thông minh hơn học sinh lớp 5
31/321
9,6
5
Hãy chọn giá đúng
30/321
9,3

6
Đấu trƣờng 100
3/321
0,9
7
Trò chơi âm nhạc
5/321
1,5
8
Đƣờng lên đỉnh Olympia
3/321
0,9
9
Rung chuông vàng
1/321
0,3
10
Vietnam got talent
3/321
0,9
11
Đuổi hình bắt chữ
2/321
0,6
12
Trẻ em luôn đúng
1/321
0,3

1.1.5 Người dẫn chương trình

Ngƣời dẫn chƣơng trình, hay chúng ta quen gọi là MC, là thuật ngữ viết
tắt của cụm từ Master of Ceremonies.
Thuật ngữ Master of Ceremonies xuất phát đầu tiên từ nhà thờ công
giáo Lebanese. Ở một nhà thờ công giáo lớn hoặc một thánh đƣờng thì MC là
ngƣời tổ chức và sắp xếp quá trình diễn biến của buổi lễ. Đây cũng là ngƣời
chịu trách nhiệm điều phối an ninh trong khi buổi cầu nguyện diễn ra. Ở
những cuộc lễ lớn nhƣ lễ giáng sinh hay lễ phục sinh với thời gian diễn ra dài
và phức tạp, ngƣời MC này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mọi
thứ để các buổi lễ diễn ra suôn sẻ.

×