Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình của Đài phát thanh - truyền hình Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 107 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****


NGUYỄN THỊ VÂN ANH





THÔNG TIN CHỈ DẪN TIÊU DÙNG TRÊN
TRUYỀN HÌNH CỦA ĐÀI PHÁT THANH-
TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI





LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01.01






Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS-TS §inh V¨n H-êng




HÀ NỘI - 2012


2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài 7
7. Kết cấu của luận văn 8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1/ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN, THÔNG TIN CHỈ DẪN,
TƢ VẤN TIÊU DÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH 9
1.1. Khái niệm thông tin và thông tin báo chí trên truyền hình 9
1. 2. Khái niệm thông tin chỉ dẫn tiêu dùng và thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền
hình 13
1.3. Vai trò, vị trí của thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình 15
1.4. Đặc trƣng của thông tin chỉ dẫn, tiêu dùng 20
Tiểu kết chương 1 30
CHƢƠNG 2/ THỰC TRẠNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH CÓ
NỘI DUNG THÔNG TIN CHỈ DẪN, TƢ VẤN TIÊU DÙNG TRÊN
TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI 31

2.1. Khái quát về các chƣơng trình có tính thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu dùng trên truyền
hình Hà Nội 31
2.2. Các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình Hà Nội35
2.3. Hình thức thể hiện của các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng
trên truyền hình Hà Nội 44
2.4. Cách thức tổ chức và xây dựng chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu
dùng trên truyền hình Hà Nội 46
2.5. Hiệu quả các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên
truyền hình Hà Nội 49
2.6. Những bất cập của các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng
trên truyền hình Hà Nội 62
Tiểu kết chương 2 80
CHƢƠNG 3/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÁC
CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH CÓ NỘI DUNG THÔNG TIN CHỈ DẪN
TIÊU DÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH 82


3
3.1. Xây dựng chiến lƣợc, mục tiêu và cơ chế chính sách hợp lý cho các chƣơng trình
truyền hình, trong đó có các chƣơng trình thông tin chỉ dẫn tiêu dùng 82
3.2. Xây dựng đội ngũ nhà báo, đổi mới qui trình sản xuất các chƣơng trình truyền hình88
3.3. Đề xuất giải pháp cụ thể đối với Đài PTTH Hà Nội. 96
Tiểu kết chương 3 97
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHẦN PHỤ LỤC


6
MỞ ĐẦU


1/Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài:
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu thông tin càng trở
nên không thể thiếu trong đời sống tinh thần của toàn xã hội. Mỗi ngƣời
đều muốn tìm cho mình những thông tin hữu ích phù hợp với nhu cầu, sở
thích, công việc của bản thân. Đáp ứng nhu cầu đó, các phƣơng tiện thông
tin đại chúng ngày càng nở rộ và phát triển nhằm hƣớng đến việc cung cấp
và chuyển tải thông tin đến với công chúng một cách nhanh nhậy, chính
xác, kịp thời nhất.
Trong xu thế phát triển của xã hội thông tin, truyền thông trở thành
một phƣơng tiện kết nối đại chúng hiện đại mang tính toàn cầu. Truyền
thông đáp ứng nhu cầu của mội đối tƣợng không phân biệt tuổi tác, giới
tính, khoảng cách. Nó càng ngày càng tiến gần đến công chúng của mình
bằng nhiều hình thức thể hiện và phƣơng thức chuyển tải khác nhau, làm
sao để công chúng tiếp nhận một cách hiệu quả nhất.
Bản thân các nhóm công chúng đòi hỏi và đặt ra nhu cầu ngƣời làm
truyền thông phải làm sao để thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. Theo đó,
truyền thông hiện đại hƣớng đến các đối tƣợng công chúng khác nhau với
những yêu cầu riêng về nội dung thông tin để có khả năng tƣơng thích cao
nhất hƣớng tới một đối tƣợng nhất định hay còn gọi là nhóm đối tƣợng
chuyên biệt. Thực tế cho thấy, truyền thông chuyên biệt với phƣơng thức
chuyển tải với những nội dung thông tin hƣớng tới đối tƣợng công chúng
nhóm nhỏ, công chúng chuyên biệt sẽ trở thành xu thế truyền thông hiện
đại nhằm tiếp cận gần hơn với nhu cầu của khán giả.
Những năm gần đây, thói quen hƣởng thụ truyền thông của công chúng
có xu hƣớng thay đổi theo nhu cầu và theo thời gian thích hợp. Sự bận rộn
trong đời sống hiện đại khiến thời gian bị phân tán, đôi khi thời gian dành
cho giải trí trở thành hiếm hoi và có thể bị cản trở nếu không phù hợp với
loại hình truyền thông nhất định nào đó hoặc nội dung chƣơng trình phát
sóng . Điều này không có gì hơn là sự lựa chọn truyền thông chuyên biệt hay

sự chuyên biệt về nội dung, đảm bảo sự linh hoạt của lựa chọn.


7
Trong sự phát triển của Truyền hình, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ
điều này. Chính sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt để tăng thời lƣợng phát
sóng và thu hút, hấp dẫn sự chú ý của khán giả mà nghiệp vụ truyền hình
cũng buộc phải không ngừng thay đổi cho phù hợp với nhu cầu không
ngừng thay đổi của những đối tƣợng công chúng. Chúng ta có thể dễ dàng
nhận thấy, truyền thông chuyên biệt mà trong đó truyền hình đang chiếm
ƣu thế có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian và đáp ứng nhu
cầu của từng đối tƣợng của khán giả và đang là xu thế phát triển của truyền
thông hiện đại.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trƣớc, khi quan hệ thị trƣờng đã
đƣợc khẳng định rõ ràng và trở thành yêu cầu bức thiết trong quản lý, phát
triển của các doanh nghiệp cũng nhƣ toàn bộ nền kinh tế, thì hầu nhƣ các cơ
quan báo chí còn quá lạ lẫm với vấn đề tự chủ tài chính. Về khía cạnh kinh
tế, có thể nói những chuyển động trong khu vực báo chí nói chung và truyền
hình nói riêng diễn ra chậm hơn nhiều so với các khu vực kinh doanh, sản
xuất của xã hội. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trƣờng, có thể thấy trong xã hội đang hình thành một
nền kinh tế báo chí nói chung và kinh tế truyền hình nói riêng. Hai chỗ dựa
quyết định cho nền kinh tế báo chí là sản phẩm hàng hóa báo chí truyền
thông và dịch vụ quảng cáo. Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin báo
chí càng tăng lên, do đó nhu cầu về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng tăng
lên. Nền kinh tế tăng trƣởng nhanh dẫn đến nhu cầu ngày càng lớn về quảng
cáo nhằm đƣa hàng hóa, dịch vụ đến ngƣời tiêu dùng.
Cũng chính vì vậy, những năm gần đây, dòng thông tin chỉ dẫn tiêu
dùng chiếm số lƣợng khá lớn trong “biển thông tin” mà các phƣơng tiện
truyền thông đƣa đến công chúng, đặc biệt đối với truyền hình, các chƣơng

trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng phát triển nở rộ, mang đến
một làn gió mới, linh hoạt và năng động trong hoạt động báo chí nói chung
và các đài truyền hình nói riêng và thật khéo là dòng thông tin này cũng thu
hút sự quan tâm, chú ý đặc biệt của công chúng, đƣợc công chúng và các
doanh nghiệp rất quan tâm, đón nhận.


8
Những năm gần đây, khán giả truyền hình dần quen thuộc với các
kênh truyền hình nhƣ TV Shooping, Style TV, SJC life on, và đây cũng
chính là những kênh thông tin chỉ dẫn tiêu dùng tiêu biểu của truyền hình
tại Việt Nam. Trên sóng truyền hình các đài VTC, các đài truyền hình địa
phƣơng, số lƣợng các chƣơng trình truyền hình có nội dung thông tin chỉ
dẫn tiêu dùng cũng chiếm thời lƣợng không nhỏ.
Sự ra đời của các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng
cho thấy một xu hƣớng mới rất nhạy bén, năng động trong kinh tế truyền
hình và phù hợp với xu thế phát triển truyền hình hiện đại, nó vừa đáp ứng
nhu cầu của khán giả, vừa đáp ứng nhu cầu quảng bá, giới thiệu sản phẩm
của doanh nghiệp đồng thời mang lại nguồn tài chính cho việc đầu tƣ kinh
phí sản xuất, nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình truyền hình nói chung.
Cùng với hệ thống phát thanh truyền hình trong cả nƣớc, Đài PTTH
Hà Nội với 2 kênh truyền hình phát sóng cả trên Analog và trên mạng cáp,
kênh 1 với tiêu chí Thời sự tổng hợp, kênh 2 với tiêu chí Khoa giáo giải trí
với mỗi kênh sóng 18,5h phát sóng mỗi ngày, và chuẩn bị ra đời kênh thứ 3
với tiêu chí Giải trí, thương mại, đã kịp thời đáp ứng nhu cầu thông tin của
khán giả và ngày càng tiếp cận gần hơn với nhu cầu của công chúng bằng
những thông tin gần gũi, cập nhật với cuộc sống hàng ngày. Trong số đó,
những chƣơng tình có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng chiếm ƣu thế
mạnh và tạo đƣợc hiệu ứng tốt với công chúng trên địa bàn thủ đô Hà Nội
nói riêng và khu vực phía Bắc nói chung.

Trƣớc thực tế của việc phát triển mạnh mẽ các chƣơng trình có nội
dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên truyền hình và nhu cầu của
công chúng với dòng thông tin này, cho thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu
dòng thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình là rất cần thiết và có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ
tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát, đánh giá từ góc độ quản lý báo chí về các


9
chƣơng trình truyền hình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng
trên 2 kênh truyền hình Hà Nội trong năm 2011, 2012, bƣớc đầu đƣa ra
đánh giá về những hiệu quả cũng nhƣ những gì còn bất cập đồng thời nêu
và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chƣơng trình
truyền hình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên truyền hình
Hà Nội nói riêng và trên các đài truyền hình nói chung.
2/ Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Truyền thông chuyên biệt với những nội dung thông tin chuyên biệt
hƣớng tới những đối tƣợng công chúng riêng là xu hƣớng phát triển của
truyền thông hiện đại. Tuy nhiên xu hƣớng truyền thông này cũng chỉ mới
phát triển trong những năm gần đây. Chính vì vậy những công trình nghiên
cứu về chuyên thông chuyên biệt nói chung và nghiên cứu về các chƣơng
trình có nội dung thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu dùng nói riêng còn ít
Ở Việt Nam, mới chỉ có một số cuốn giáo trình đề cập đến các khái
niệm về thông tin nói chung nhƣ Cơ sở lý luận của báo chí của
E.P.Prokhôrôp, NXB Thông tấn, Hà Nội, năm 2001; Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông của các tác giả Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần
Quang, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004 hoặc nghiên cứu chung
về truyền thông chuyên biệt hay thông tin chỉ dẫn nói chung mà chƣa có
nghiên cứu chính thức nào về nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng.
Đáng chú ý có luận văn thạc sỹ khoa học xã hội và nhân văn về Xây dựng

kênh thông tin chỉ dẫn trên sóng phát thanh của Dƣơng Thị Bảo Ngọc năm
2003 song là đề tài nghiên cứu về thông tin chỉ dẫn xã hội nói chung trên
sóng phát thanh. Luận văn này phân tích thông tin chỉ dẫn gắn với đặc
trƣng, loại hình báo chí Phát thanh, tìm hiểu về chức năng kênh phát thanh
thông tin chỉ dẫn, đặc điểm kênh phát thanh thông tin chỉ dẫn, đề xuất xây
dựng mô hình kênh thông tin chỉ dẫn bao gồm từ nhạc hiệu, nội dung, hình
thức thể hiện, bố cục chƣơng trình… hay công trình nghiên cứu khoa học


10
của sinh viên báo chí Triệu Thị Hoa năm 2003 về “Tìm một lối thông tin
tra cứu chí dẫn cho báo Internet ở Việt nam” là nghiên cứu riêng về thông
tin tra cứu, chỉ dẫn trên báo điện tử. Bên cạnh đó, có 2 luận văn đề cập đến
những nội dung có điểm tƣơng đồng với cách đặt vấn đề của đề tài luận văn
này đó là luận văn thạc sỹ báo chí Thông tin sức khoẻ trên báo chí Việt
Nam hiện nay của tác giả Bùi Thị Thu Thuỷ năm 2010 có khảo sát nội
dung thông tin về sức khoẻ trên báo sức khoẻ và đời sống và kênh O2TV
và luận văn thạc sỹ báo chí: Dòng tạp chí chỉ dẫn- giải trí ở Việt Nam-
Hiệu quả và bất cập của tác giả Đinh Thu Hiền năm 2010 đề cập đến khái
niệm dòng tạp chí chỉ dẫn - giải trí, cách tổ chức hoạt động, nội dung thông
tin, những hiệu quả, bất cập của dòng tạp chí chỉ dẫn…song đi sâu về thể
loại tạp chí và dòng tạp chí chỉ dẫn giải trí nhƣ cách tổ chức chuyên trang,
đƣa tin, design, layout, với những đặc trƣng của báo in và tạp chí…Hai
luận văn nói trên cũng chỉ là những luận văn giúp tác giả có thể tham khảo
về phƣơng pháp nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề tƣơng đồng với đề tài
luận văn này. Cho nên có thể nói đến nay, việc nghiên cứu, khảo sát về
những chương trình truyền hình có tính thông tin chỉ dẫn, tư vấn tiêu dùng
trên truyền hình là một đề tài tƣơng đối mới và đối với Đài Phát thanh -
Truyền hình Hà Nội thì đây là khảo sát đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ
về vấn đề này.

Trong điều kiện hiện nay, báo chí chƣa có bộ chuẩn mực về thông tin
chỉ dẫn, tư vấn tiêu dùng từ góc độ thực tiễn cũng nhƣ các công trình
nghiên cứu. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những nền tảng lý luận chung về báo
chí truyền thông đã có và từ thực tiễn trong hoạt động báo chí của bản thân,
chúng tôi xin chọn đề tài này với mong muốn có sự nghiên cứu, tìm hiểu
một cách nghiêm túc về lý luận và sẽ tiến hành tiến khảo sát trong thực tiễn
về những chƣơng trình truyền hình có tính thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu
dùng để nâng cao hiệu quả nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên
truyền hình nói chung và truyền hình Hà Nội nói riêng.


11
3/ Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn bƣớc đầu khảo sát và đánh giá
những mặt ƣu điểm của các chƣơng trình có nội dung thông tin chí dẫn, tƣ
vấn tiêu dùng trên truyền hình, cũng nhƣ những bất cập, tồn tại, đồng thời
đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lƣợng của các
chƣơng trình truyền hình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng
trên truyền hình Hà Nội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên phƣơng diện và góc độ về quản lý báo chí noi chung, truyền hình nói
riêng, luận văn sẽ:
+ Làm rõ khái niệm về thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên truyền hình
+ Nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên truyền hình Hà Nội
+ Các hình thức thể hiện của thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên
truyền hình Hà Nội.
+ Hiệu quả và những mặt còn tồn tại của các chƣơng trình truyền
hình thuộc dòng thông tin giải trí tiêu dùng trên truyền hình Hà Nội
+ Giải pháp để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của những chƣơng
trình có tính thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình.

4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những chƣơng trình có nội
dung thông tin chỉ dẫn, tƣ vấn tiêu dùng trên sóng truyền hình Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các chƣơng trình có nội dung thông
tin chỉ dẫn tiêu dùng trên cả kênh 1 và kênh 2 Đài PTTH Hà Nội trong năm
2011 và 6 tháng đầu năm 2012 dƣới góc độ quản lý báo chí nói chung và
báo truyền hình nói riêng.
5/ Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn đƣợc xây dựng dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Cơ sở lý luận báo chí và lý
thuyết về truyền thông đại chúng; lý thuyết về xã hội học truyền thông.
Luận văn còn dựa vào các tài liệu, sách giáo khoa về lý luận, nghiệp vụ báo
chí ở nƣớc ta và trên thế giới để nghiên cứu.


12
Luận văn sẽ sử dụng các phƣơng pháp truyền thống để khai thác các
tƣ liệu, suy luận, diễn giải, phân tích và sử dụng trực quan để đánh giá thực
tiễn thông qua khảo sát. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp
phỏng vấn sâu đối với các biên tập viên, các công ty truyền thông tham gia
trực tiếp sản xuất các chƣơng trình truyền hình có nội dung thông tin chỉ
dẫn tiêu dùng, các khán giả, ngƣời tiêu dùng…
Ngoài ra ngƣời thực hiện luận văn cũng sẽ sử dụng tổng hợp các phƣơng
pháp nghiên cứu chung nhƣ phân tích, tổng hợp, khảo sát, so sánh, thống kê,
để thu thập và phân tích các nguồn tƣ liệu phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6/ Đóng góp mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài.
Luận văn đƣợc hình thành trên cơ sở vừa tổng hợp, kế thừa từ những
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của luận văn đồng thời cũng
là những tổng hợp từ thực tế kinh nghiệm và kỹ năng làm báo, làm công tác
quản lý của tác giả luận văn nhằm bƣớc đầu đƣa ra những quan điểm về

mặt lý luận đi kèm với những khảo sát tình hình thực tiễn đƣợc cập nhật
gần nhất, mới nhất từ các chƣơng trình có nội dung thông tin chỉ dẫn, tƣ
vấn tiêu dùng trên kênh 1và kênh 2 truyền hình Hà Nội.
Do vậy luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn dối
với đối với các nhà quản lý, lãnh đạo các cơ quan báo chí, đối với đội ngũ
những ngƣời làm công tác đạo diễn, biên tập, tổ chức sản xuất các chƣơng
trình truyền hình cũng nhƣ có thể dùng làm tài liệu tham khảo bổ ích đối
với học viên chuyên ngành báo chí nói chung cũng nhƣ có ý nghĩa thiết thực
đối với việc xây dựng tài liệu, giáo trình báo chí truyền thông về xây dựng
các kênh truyền thông chuyên biệt và các chƣơng trình truyền hình có nội
dung thông tin chuyên biệt. Các nhà quản lý, các cơ quan báo chí, các BTV,
các nhà sản xuất cũng có thể tham khảo các kết quả khảo sát và những tổng
kết thực tiễn của luận văn đề từ đó có những điều chỉnh trong công tác quản
lý cũng nhƣ xây dựng kế hoạch, chiến lƣợc tổ chức sản xuất các chƣơng
trình truyền hình theo hƣớng khoa học, hiện đại, hiệu quả và thiết thực.


13
7/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1/ Một số vấn đề lý luận chung về thông tin, thông tin chỉ
dẫn tiêu dùng trên truyền hình.
Chương 2/ Thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình Hà Nội; hiệu
quả và bất cập.
Chương 3/ Giải pháp nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của các chƣơng
trình có thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình Hà Nội.
Phần phụ lục: Bao gồm các tƣ liệu, văn bản, nhằm minh họa cho
những vấn đề nêu trong luận văn.



14
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN, THÔNG TIN CHỈ
DẪN, TƢ VẤN TIÊU DÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH

1.1. Khái niệm thông tin và thông tin báo chí trên truyền hình
1.1.1. Những vấn đề chung về thông tin.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con ngƣời thƣờng xuyên
cần đến thông tin. Ngày nay, với sự bùng nổ thông tin, thông tin càng trở
thành một trong những nhu cầu sống còn của con ngƣời và khái niệm
"thông tin" đang trở thành khái niệm cơ bản, chung của nhiều khoa học.
Khái niệm thông tin (information) đƣợc sử dụng thƣờng ngày. Con
ngƣời có nhu cầu đọc báo, nghe đài, xem TV, đi tham quan, du lịch, tham
khảo ý kiến ngƣời khác, để nhận đƣợc thêm thông tin mới. Thông tin
mang lại cho con ngƣời sự hiểu biết, nhận thức tốt hơn về những đối tƣợng
trong đời sống xã hội, trong thiên nhiên, giúp cho họ thực hiện hợp lý
công việc cần làm để đạt tới mục đích một cách tốt nhất.
"Thông tin là một khái niệm trừu tượng, tồn tại khách quan, có thể
nhớ trong đối tượng, biến đổi trong đối tượng và áp dụng để điều khiển đối
tượng. Thông tin làm tăng thêm hiểu biết của con người, là nguồn gốc của
nhận thức. Thông tin về một đối tượng chính là một dữ kiện về đối tượng
đó, chúng giúp ta nhận biết và hiểu được đối tượng".[33]
Thông tin là một hiện tƣợng vốn có của thế giới vật chất. Nhƣng
không phải ngay từ đầu thông tin đã đƣợc con ngƣời nhận thức ở cấp độ
khái niệm. Lần đầu tiên thông tin đƣợc con ngƣời chú ý nghiên cứu về mặt
ý nghĩa xã hội của nó và đƣợc đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những
năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Theo cách hiểu kinh điển thì thông tin chính là
những cái mới khác với những điều đã biết. Kế thừa tƣ tƣởng trên, khái
niệm thông tin đi vào khoa học hiện đại, trƣớc hết là lý thuyết thông tin của
C.Sênôn (Shannon) [1]. Và thông tin đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu chủ

yếu, trực tiếp của điều khiển học, của lý thuyết thông tin và tin học. Từ đó
có rất nhiều định nghĩa về thông tin. Nhìn chung, những định nghĩa đó đều
cố gắng tiếp cận với bản chất của thông tin nhƣng chỉ từ những góc độ,
phƣơng diện nhất định nào đó của nó.


15
Có thể xem xét thông tin từ góc độ phân biệt các loại thông tin nhƣ
thông tin kinh tế, thông tin khoa học - kỹ thuật, thông tin văn hoá - xã
hội… Chẳng hạn, "thông tin kinh tế là các tín hiệu mới được thu nhận,
được thụ cảm (hiểu) và được đánh giá là có ích cho việc ra quyết định
quản lý"[16]. Cũng có thể xem xét thông tin từ góc độ đánh giá vai trò của
thông tin, nhƣ nhà khoa học Đức E.Pietch đã chỉ ra "Thông tin là một sản
phẩm mà với ý nghĩa, công dụng của nó có thể xem ngang hàng với trữ
lượng nguyên liệu của nước đó”[16]…Ngoài những cách tiếp cận theo
từng góc độ trên, một số cách tiếp cận đã có tầm khái quát hơn, chẳng hạn
"thông tin là dữ liệu mà có thể nhận thấy, hiểu được và sắp xếp lại với
nhau để hình thành kiến thức", hay "thông tin là sự truyền đưa độ đa dạng"
(R.Esbi) [16] hoặc "Thông tin là nội dung thế giới bên ngoài được thể hiện
trong sự nhận thức của con người" (N.Viener)[16]
Nhƣng để tiếp cận với bản chất chung nhất của thông tin - hiện tƣợng
vốn có của thế giới vật chất, đó là sự khái quát của triết học! Nhờ lý thuyết
phản ánh của Lênin cùng với sự phát triển của khoa học hiện đại, đặc biệt
là lý thuyết thông tin, điều khiển học và tin học, chúng ta đã tiếp cận đƣợc
với bản chất của thông tin, đó là: "Cái đa dạng đƣợc phản ánh". Nhƣ vậy,
thông tin gắn liền với phản ánh, thông tin không phải là phản ánh nhƣng
cũng không nằm ngoài phản ánh. "Tiếp cận với khái niệm thông tin, vì vậy,
không thể không bắt đầu từ phạm trù "phản ánh " của triết học. Có nghĩa
là con người sẽ không nhận thức được bản chất của thông tin nếu thông tin
là một mặt của phản ánh và phản ảnh của vật chất chính là phản ánh thông

tin. Thuật ngữ do R.Esbi nêu lên "truyền cái đa dạng" được giải thích cụ
thể hơn trên cơ sở phạm trù phản ánh. Đồng thời chính khái niệm thông tin
đã làm sâu sắc thêm phạm trù "phản ánh" trong triết học"[16].
Tóm lại, trong thời đại thông tin hiện nay, để có thể làm chủ đƣợc
thông tin, khai thác và sử dụng nó một cách có hiệu quả, chúng ta phải chú
ý không chỉ nội dung, tính chất, đặc điểm của mỗi thông tin cụ thể mà còn
phải thấy đƣợc đằng sau cái cụ thể là cái bản chất chung nhất của thông tin,


16
đó là: "Cái đa dạng được phản ánh". Nắm vững mặt bản thể luận và mặt
nhận thức luận của khái niệm thông tin sẽ cho chúng ta phƣơng pháp luận
chung nhất để tiếp cận và xử lý thông tin. Khi tiếp nhận đƣợc thông tin, con
ngƣời thƣờng phải xử lý nó để tạo ra những thông tin mới, có ích hơn, từ
đó có những phản ứng nhất định.
1.1.2. Thông tin báo chí.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí
ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con ngƣời.
Thông tin là một hiện tƣợng vốn có của thế giới vật chất. Lần đầu tiên
thông tin đƣợc con ngƣời chú ý nghiên cứu về mặt ý nghĩa xã hội của nó và
đƣợc đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30 của thế kỷ
XX. Theo cách hiểu kinh điển thì “Thông tin chính là những cái mới khác
với những điều đã biết”(16). Theo tác giả E.P.Prôkhôrốp viết trong cuốn
“Cơ sở lý luận của báo chí” ấn hành năm 2001: “ Từ “Thông tin” trong
ngành báo chí cũng được sử dụng theo nhiều nghĩa, từ lâu nó đã được
dùng trong ba nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau: đó là các thông báo
ngắn không bình chú về các tin tức nóng hổi của đời sống trong nước và
quốc tế; là danh mục nhóm thể loại tin tức (các loại hình thông tin: tin
ngắn, báo cáo, tường thuật, phỏng vấn); cuối cùng “Thông tin” đôi khi
được hiểu là thể loại tin ngắn”[11].

Trong hoạt động báo chí, thông tin là yếu tố thứ nhất, tạo nên sức
mạnh, uy tín của nhà báo, cơ quan báo chí. Báo chí không sử dụng các
phƣơng tiện nào khác để thực hiện vai trò xã hội của mình, ngoài thông tin.
Khi trở thành cầu nối trung gian giữa báo chí và độc giả, thông tin cũng là
một công cụ mà nhờ sự trợ giúp của nó sẽ giải quyết đƣợc những nhiệm vụ
đa dạng đang đặt ra trƣớc toàn bộ hệ thống báo chí nhƣ một thiết chế xã hội
đặc thù. Là một thuật ngữ nền tảng của báo chí, “thông tin” liên quan trực
tiếp đến tính hiệu quả của các phƣơng tiện thông tin đại chúng, đến những
đòi hỏi về phƣơng pháp, hình thức sáng tạo của nhà báo, đến nguyên tắc về
sự tác động qua lại giữa báo chí và công chúng. Tất cả các vấn đề lý luận
trong lĩnh vực báo chí đều liên quan đến thuật ngữ này.


17
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng
phƣơng tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo.
Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả
các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm
hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lƣợng
thông tin, báo chí có cách riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục
đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích
và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một
hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một
hình thái ý thức xã hội nào có đƣợc.
Nhƣ vậy, khái quát lại thông tin báo chí cũng đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tƣ tƣởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện
thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng trong tự nhiên và
xã hội đƣợc báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá
của con ngƣời.
Thứ hai, đó là phƣơng tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới

công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là yếu tố chủ yếu để nhà báo thực
hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và
công chúng. Căn cứ việc phân loại theo phƣơng thức thể hiện, ngƣời ta chia
thông tin báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in);
thông tin bằng tiếng nói (phát thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền
hình); thông tin trên mạng internet (đa phƣơng tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “Thông tin” có nhiều cách sử dụng
khác nhau, có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự,
phỏng vấn, một chƣơng trình phát thanh, truyền hình, các tiêu đề, vị trí của
tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay
cách xếp chữ trên các tờ báo chúng đều có chứa đựng thông tin. Thuật
ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có cách hiểu rộng hơn, chúng
còn đƣợc hiểu nhƣ một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác
phẩm, hay hệ thống những tin tức là thông tin.


18
Thông tin báo chí là dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự,
phổ cập và rất quan trọng về phƣơng diện chính trị - xã hội. Để xã hội loài
ngƣời tồn tại và phát triển, con ngƣời cần nhiều loại hoạt động nhƣ sản xuất
của cải vật chất để duy trì sự sống, sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn tinh
thần. Một phần của sự hoạt động đó là hoạt động báo chí nhằm cung cấp
cho công chúng những thông tin, tức là thông báo cho công chúng biết mọi
sự kiện, hiện tƣợng diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội. “Nhưng thông
tin báo chí là những thông tin chính trị - xã hội. Nghĩa là thông tin báo chí
bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội hay chính trị. Thông tin là
đặc trưng của ngành truyền thông đại chúng so với các ngành khác”[28].
1.2. Khái niệm thông tin chỉ dẫn tiêu dùng và thông tin chỉ dẫn
tiêu dùng trên truyền hình.

Hiện nay, thuật ngữ thông tin cũng có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong báo chí, thông tin dùng để nói về chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu
tả, câu chuyện kể, bằng chứng…Thông tin là cách gọi truyền thống trong
nghề báo, theo nghĩa chính xác của từ này thì đó là thông tin sự kiện. Ngoài
ra trên báo in, trong chƣơng trình phát thanh hay truyền hình còn có thông
tin lý luận, thông tin giải thích, thông tin nghệ thuật, thông tin tư vấn….
Những năm gần đây, trong xu thế phát triển báo chí hiện đại, báo chí đang
tích hợp nhiều loại hình thông tin, trong đó thông tin dịch vụ đang đƣợc gia
tăng nhằm đáp ứng yêu cầu của thế hệ công chúng mới. Trong xu thế
chung đó, thông tin dịch vụ là nguồn thông tin rất phát triển trên truyền
hình. Thông tin dịch vụ có thể hiểu là thông tin về các loại hình dịch vụ đáp
ứng nhu cầu khác nhau của con ngƣời rất đa dạng, phong phú nhƣ thông tin
tiêu dùng, thƣơng mại, thông tin quảng cáo, thông tin sức khoẻ, thông tin
chỉ dẫn, thông tin tƣ vấn pháp luật, việc làm…


19
Báo chí là nguồn thông tin trung thực, cập nhật, chuẩn hoá, phổ quát
nhất. Các doanh nghiệp đã coi: Thông tin là một loại tài nguyên vô hình
mang lại lợi ích kinh tế, lợi thế kinh doanh vô cùng to lớn. Chính vì vậy, để
đáp ứng yêu cầu của công chúng, báo in ngày càng hƣớng tới việc cung
cấp nhiều dịch vụ thông tin, sao cho nguồn tin vừa đảm bảo nhanh, chính
xác, có độ tin cậy cao, song cũng đảm bảo tính phong phú, đa dạng. Một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đƣợc các phƣơng tiện truyền
thông lựa chọn, đó là nâng cao chất lƣợng nguồn thông tin và tích hợp
nhiều loại hình dịch vụ thông tin
Cuộc sống hiện đại ngày càng nhiều nhu cầu mới, đa dạng, trong đó
thông tin là nhu cầu nổi bật, ngày càng gia tăng, đặc biệt là nhu cầu về
thông tin tƣ vấn, chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực của đời sống. Hiện nay, hệ thống
phát thanh, truyền hình, internet hiện nay mới chỉ đáp ứng nhu cầu ở dạng

thông tin báo chí, còn những thông tin liên quan mật thiết, trực tiếp và có
tính tức thời của đời sống thƣờng nhật thì vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu
một cách hiệu quả. Công chúng báo chí ngày càng cần đến một lƣợng
thông tin chỉ dẫn thiết yếu, căn bản và tiện lợi cho họ. Đó là các thông tin
về hàng hóa, dịch vụ, giao thông, thời tiết, giá cả, việc làm, chế độ, chính
sách…Đáp ứng nhu cầu này, các phƣơng tiện truyền thông đã dần hình
thành, ra đời các sản phẩm báo chí có nội dung thông tin chỉ dẫn tiêu dùng
hoặc tích hợp nhiều nguồn thông tin phục vụ nhu cầu thiết yếu của công
chúng. Từ đó nguồn thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu dùng ra đời, và tƣơng đối
phát triển trên báo in, truyền hình, báo mạng điện tử.
Khái niệm thông tin chỉ dẫn, tư vấn tiêu dùng:
Thông tin là tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh.
Chỉ dẫn, tƣ vấn là sự gợi ý, hƣớng dẫn có tính định hƣớng hƣớng tới một
đối tƣợng nhất định nhằm hỗ trọ và giúp đỡ họ nhận biết hoặc giải quyết về
vấn đề nào đó.
Như vậy có thể nói thông tin chỉ dẫn, tư vấn tiêu dùng là những thông
tin chuyên biệt cung cấp tin tức, thông tin kèm theo những gợi ý, hướng
dẫn, tư vấn để hướng dẫn người ta sử dụng hoặc làm theo một một phương
pháp, cách thức nào đó ứng dụng trong đời sống xã hội.


20
Chỉ dẫn, tƣ vấn trên báo chí là hình thức chuyển tải thông tin đặc biệt
cảu báo chí, qua đó, ngƣời làm báo tìm hiểu, nghiên cứu, trao đổi thông tin
có tính định hƣớng với công chúng nhằm hỗ trợ họ giải quyết một vấn đề
nhất định. Tƣ vấn, chỉ dẫn tiêu dùng trên báo chí không phải là một thể loại
báo chí độc lập, không mang những đặc điểm thể loại báo chí mà chỉ là một
dạng chuyển tải thông tin đặc biệt của báo chí nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng về thông tin của công chúng.
1.3. Ýnghĩa và vị trí của thông tin chỉ dẫn tiêu dùng trên truyền hình

1.3.1. Đáp ứng nhu cầu của công chúng
Nhiều năm trƣớc đây, truyền thông hƣớng đến đối tƣợng là số
đông công chúng nói chung. Một bài báo hay một chƣơng trình truyền hình
là dành cho tất cả mọi ngƣời, mọi giới, mọi lứa tuổi cùng xem, cùng đọc…
Nhƣng ngày nay, truyền thông hiện đại mang xu hƣớng “phi đại chúng
hóa”. Có nghĩa là mỗi tác phẩm báo chí hay sản phẩm truyền thông không
đƣợc thiết kế ra để phục vụ tất cả các công chúng, nó hƣớng tới từng đối
tƣợng nhỏ. Mỗi loại hình truyền thông cũng hƣớng tới những đối tƣợng
công chúng khác nhau và ngày càng hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao và chuyên biệt của nhóm công chúng mà mình hƣớng tới.
Do tính ƣu việt về kỹ thuật, truyền thông đại chúng, tiện lợi trong thu
phát sóng, chƣơng trình phong phú, truyền hình là phƣơng tiện truyền
thông ngày càng chiếm ƣu thế và đã chiếm lĩnh phần lớn thời gian giải trí
của con ngƣời. Theo thống kê, trong một ngày, con ngƣời đã sử dụng quĩ
thời gian tƣơng ứng nhƣ sau: làm việc 7 giờ, ngủ 9 giờ, ăn uống, chăm sóc
gia đình 1,5 giờ, thời gian rỗi 4,5 giờ [3]. Thời gian rỗi, chúng ta thƣờng sử
dụng vào việc đọc sách, gặp gỡ bạn bè, ngƣời thân, đi du lịch. Mua sắm,
giải trí (xem phim, ca nhạc, xem TV…). Nhƣ vậy, có thể thấy, loại hình
giải trí xem truyền hình đã trở thành nhu câu hữu ích, và không thể thiếu
của con ngƣời trong thời gian rỗi. Nhu cầu xem truyền hình của mỗi cá
nhân cũng khác nhau nhƣ: tìm hiểu thông tin, học tập, mua sắm… và nhu
cầu về các chƣơng trình giải trí trở thành một phần quan trọng trong các
chƣơng trình truyền hình.


21
Các phƣơng tiện truyền thông nói chung và truyền hình nói riêng có
tác động rất lớn đến con ngƣời thông qua tín hiệu truyền tin và hình ảnh.
Đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông tin tức và kinh doanh dịch vụ, tƣ vấn
chỉ dẫn thì truyền hình đƣợc xem nhƣ một loại hình nhanh nhất, dễ tiếp cận

nhất và mang tính quần chúng rộng rãi nhất, vì thế đƣợc xem nhƣ một loại
hình quảng cáo đem lại hiệu quả nhanh chóng.
Truyền hình cũng tác động mạnh mẽ đến nhận thức, lối sống, hành vi
của một bộ phận công chúng. Nhiều năm qua, truyền hình đã trở thành
phƣơng tiện thông tin không thể thiếu trong mỗi gia đình. Ngày nay, xem
truyền hình đã trở thành một loại hình tƣơng tác hai chiều. Với ƣu điểm
vƣợt trội về hình ảnh và âm thanh sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn, cùng những
tiện ích nhƣ dễ dàng điều khiển chỉ với một thao tác đơn giản trong mọi tƣ
thế. Ngoài ra truyền hình có khả năng hội tụ công chúng một cách đông
đảo. Ngoài những thế mạnh nêu trên truyền hình cũng nhƣ các phƣơng tiện
khác vẫn có một số hạn chế nhƣ thời lƣợng thông tin ngắn (1 đến vài phút)
gây trở ngại trong việc tiếp nhận đối với số đông khán giả.Tốc độ cập nhật
thông tin chậm hơn báo mạng điện tử. Các chƣơng trình bị chi phối bởi thời
gian tuyến tính và khán giả luôn thụ động xem các chƣơng trình có sẵn , chỉ
có thể xem một lần và nếu có thể thu lại để nghe hoặc xem lại chƣơng trình
đã phát thì cũng bị hạn chế bởi dung lƣợng sử dụng. Với xu thế ngày càng
phát triển thì nhu cầu của công chúng hiện đại đòi hỏi truyền hình không
chỉ là phƣơng tiện cung cấp thông tin, giải trí mà còn phải tích cực hơn
trong xã hội hóa các loại hình chƣơng trình, phục vụ nhu cầu đa dạng của
nhiều tầng lớp công chúng trong xã hội. Ngoài ra, cần phải xây dựng nhiều
chƣơng trình truyền hình thực tế gắn liền với đời sống công chúng.
1.3.2. Phù hợp với xu hướng phát triển báo chí hiện đại
Nội dung thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu dùng xuất hiện trên truyền hình
là phù hợp với xu hƣớng phát triển của báo chí hiện đại, nhất là với truyền
hình. Đây là nguồn thông tin phong phú, đa dạng, đƣợc tích hợp và phát
triển trong các chƣơng trình truyền hình, nhằm đáp ứng số đông chu cầu


22
của công chúng. Báo chí hiện đại với xu hƣớng phi đại chúng hóa tức là

hƣớng tới những đối tƣợng riêng biệt, công chúng nhóm nhỏ. Đây cũng
chính là xu hƣớng phân hóa và chuyên môn hóa của báo chí. Đó là một
phương thức trong đó một ấn phẩm báo chí chỉ tập trung vào một lĩnh vực
cụ thể của đời sống, nhằm vào một lượng đối tượng công chúng xác định.
cụ thể. Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, các phƣơng tiện thông tin
đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa và chuyên
môn hóa, tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm đƣợc vị trí xã hội của mình,
hƣớng đến một tầng lớp dân cƣ hoàn toàn xác định, tác động có hiệu quả
đến ngƣời đọc, ngƣời nghe và ngƣời xem.
Quá trình phân hóa và chuyên môn hóa cho phép nâng cao hiệu quả của
các bài vở của báo chí, đài phát thanh và truyền hình, sử dụng phƣơng tiện sẵn
có với hiệu quả cao nhất. Quá trình phân hóa giúp thiết lập ra đƣợc các ấn
phẩm chuyên sâu vào một lĩnh vực, giúp cho công chúng có thể lựa chọn dễ
dàng ấn phẩm phù hợp. Nhƣ vây, việc khu biệt đối tƣợng và lựa chọn cho
mình một lĩnh vực để kinh doanh truyền thông là một xu hƣớng tất yếu.
Thứ 2, nguồn thông tin chỉ dẫn tƣ vấn tiêu dùng xuất hiện trên truyền
hình cũng nằm trong xu thế phát triển kinh tế truyền hình. Nguồn thông tin
này vừa đáp ứng nhu cầu của công chúng nhƣng cũng chính là nhu cầu của
các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, nhƣ vậy đài truyền hình hoàn toàn có
thể coi đây là nguồn thu trong việc xã hội hóa các chƣơng trình truyền
hình, bù đắp một phần chi phí sản xuất chƣơng trình truyền hình. Theo đó,
việc hợp tác sản xuất và bắt tay phối hợp giữa các đài truyền hình và các
doanh nghiệp ra đời, tạo nên một xu hƣớng mới vừa giải quyết tiềm lực
kinh tế cho truyền hình vừa là động lực để đổi mới và nâng cao chất lƣợng
các chƣơng trình truyền hình.
Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy trong xã hội đang hình thành một
nền kinh tế báo chí nói chung và kinh tế truyền hình nói riêng. Hai chỗ dựa
quyết định cho nền kinh tế báo chí là sản phẩm hàng hóa báo chí truyền
thông và dịch vụ quảng cáo. Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin



23
báo chí càng tăng lên, do đó nhu cầu về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng
tăng lên. Nền kinh tế tăng trƣởng nhanh dẫn đến nhu cầu ngày càng lớn về
quảng cáo nhằm đƣa hàng hóa, dịch vụ đến ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, nền
kinh tế báo chí Việt Nam đang có cơ hội thuận lợi cho sự phát triển
Đối với nhiều quốc gia, truyền thông không chỉ dừng lại ở mức độ
phục vụ nhu cầu thông tin, giải trí của công chúng mà nó còn đƣợc coi là
một ngành kinh tế, thậm chí là ngành kinh tế mũi nhọn Sản phẩm của
truyền thông cũng đƣợc coi là hàng hóa mua đi bán lại giữa các tập đoàn và
của tập đoàn với độc giả. Một khi chúng đƣợc coi là hàng hóa thì cũng phải
chịu tác động bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế nhƣ cung, cầu, giá cả, thị
trƣờng và tính cạnh tranh. Để báo chí nói riêng và truyền thông nói chung
có thể phát triển một cách bền vững và chuyên nghiệp, kinh tế hóa truyền
thông là một tất yếu.
Sự phát triển kinh tế báo chí dẫn đến sự tác động có tính hai mặt vào
đời sống báo chí truyền thông. Mặt thứ nhất, nó mang lại nguồn lực tài
chính quan trọng, đảm bảo cho sự tiếp tục phát triển, tăng cƣờng cơ sở vật
chất, đổi mới thiết bị kỹ thuật công nghệ, mở mang thêm các nguồn thông
tin, tài liệu, cũng nhƣ công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ những ngƣời làm báo. Nói tóm lại, kinh tế báo chí
trở thành động lực phát triển cho báo chí.
Xét từ mặt thứ hai của vấn đề, sự phát triển kinh tế báo chí dẫn tới
hiện tƣợng thƣơng mại hóa báo chí, hay là sự xuất hiện những sản phẩm
báo chí thuần túy hàng hóa, chỉ quan tâm thu lợi nhuận, không quan tâm
đến chức năng thông tin tuyên truyền hoặc coi chức năng thông tin, tuyên
truyền nhƣ vỏ bọc cho hoạt động kinh tế. Thực tế này dẫn đến những ảnh
hƣởng không nhỏ trong chất lƣợng các tác phẩm báo chí nói chung và chất
lƣợng các chƣơng trình truyền hình nói riêng và hệ quả là ngƣời đọc, ngƣời
xem và công chúng là ngƣời chịu thiết thòi nhất, thụ hƣởng những tác

phẩm báo chí, chƣơng trình truyền hình kém chất lƣợng.


24
Vấn đề là làm sao chúng ta phát huy hiệu quả của mặt thứ nhất và hạn
chế tối đa những tác động không tích cực của mặt thứ 2 để xây dựng nên
kinh tế báo chí nói chung và kinh tế truyền hình nói riêng phát triển vững
mạnh mà vẫn không bị ảnh hƣởng bởi yếu tố thƣơng mại hóa.
1.3.3. Chiếm thời lượng lớn, xuất hiện ở vị trí giờ đẹp trong chương
trình truyền hình:
Xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của công chúng, lƣợng
thông tin chỉ dẫn tiêu dùng cũng nhƣ các chƣơng trình truyền hình có nội
dung thông tin chỉ dẫn vấn tiêu dùng trên truyền hình ngày càng phát triển và
chiếm thời lƣợng lớn trong các chƣơng trình truyền hình cũng nhƣ chiếm
phần lớn trong tổng thời lƣợng các chƣơng trình phát sóng. Bên cạnh đó, đối
với những nội dung thông tin này, thƣờng đƣợc chọn phƣơng thức thể hiện
sao cho phù hợp, hấp dẫn nhất, ở vị trí bắt mắt, dễ đón xem nhất mà theo
ngôn ngữ truyền hình thƣờng gọi là "giờ đẹp", vị trí tốt trong một chƣơng
trình truyền hình nhƣ các giờ buối tối, gần sát trƣớc và sau phim truyện
Những năm gần đây, trong xu thế phát triển nền kinh tế báo chí nói
chung và kinh tế truyền hình nói riêng, báo chí còn luôn sát cánh và đáp
ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, đặc biệt đối với mảng thông tin chỉ dẫn
tƣ vấn tiêu dùng, luôn đƣợc các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và là nhu
cầu thiết thân trong nên kinh tế thị trƣờng. Nắm bắt nhu cầu này, báo chí
trong đó có truyền hình luôn quan tâm, dành thời lƣợng lớn, vị trí , giờ phát
sóng đẹp để chuyển tải nguồn thông tin này, vừa là đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp, vừa mang lại nguồn thu cho cơ quan báo chí, tái đầu tƣ,
nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình phát sóng
1.4. Đặc trƣng của thông tin chỉ dẫn tiêu dùng
Trong hoạt động báo chí, nhận thức về chất lƣợng thông tin song song

với nhận thức về chức năng và đối tƣợng phản ánh của báo chí. Muốn có sự
nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định đƣợc mục đích hoạt động
của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hƣớng có tính nguyên tắc cho
những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hƣớng rõ ràng sẽ


25
trang bị cho nhà báo phƣơng pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin
có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí. Một hƣớng quan trọng
trong cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi chƣơng trình, mỗi tác phẩm
phải đƣợc xem xét kỹ lƣỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo
chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung gian trong mối quan hệ:
Nhà báo - Tác phẩm - Công chúng. Tác phẩm báo chí khi đƣợc đăng tải,
phát sóng, mới chỉ dừng lại ở thông tin tiềm năng, vì thông tin đó chƣa
chắc đã đƣợc công chúng tiếp nhận. Ngƣời làm báo phải tìm mọi cách biến
thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Tính chất thực tiễn của thông
tin là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của thông tin cao hay thấp, tức là có
mang đến cho công chúng những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ không
và có khả năng chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực không.
Lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra các tiêu chí đánh giá chất lƣợng
thông tin, đó là tính độc đáo, tính đại chúng và tính hợp thời (đúng lúc).
Tính độc đáo của thông tin, là cái mới mà công chúng chƣa biết.
Nhƣng cái mới không phải là cái duy nhất thể hiện tính độc đáo. Cùng với
sự đòi hỏi tất yếu của cái mới, có thể tái hiện thông tin cũ đã bị lãng quên,
giúp cho công chúng có thêm tƣ liệu để nhận thức tốt hơn sự kiện mới. Tuy
nhiên, những thông tin đƣợc nhắc lại sẽ vô bổ, thậm chí có hại khi cái mới,
cái độc đáo bị chìm đi trong một loạt cái cũ; khi cái cũ không đóng vai trò
bổ sung mà lại cản trở việc nhận thức cái mới.
Tính đại chúng (dễ hiểu): Để công chúng nhận thức nội dung tác
phẩm tƣơng ứng với ý đồ tác giả, đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí (cách viết,

cách thể hiện ) phải đƣợc công chúng nhận thức đầy đủ. Nếu không thực
hiện đƣợc nguyên tắc tính đại chúng của ngôn ngữ sẽ dẫn đến tình trạng là
công chúng không hiểu đƣợc tác phẩm.
Tính hợp thời (đúng lúc): Những tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc,
đáp ứng đƣợc nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong thời
điểm đó thì tác phẩm sẽ có giá trị hơn, tạo sự hứng thú, hấp dẫn công


26
chúng. Lƣợng thông tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Trong
thời đại ngày nay, lƣợng thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào tính
kịp thời, đúng lúc, nhanh nhạy. Báo chí làm đƣợc những điều trên sẽ làm
tăng giá trị của thông tin, nếu thông tin chậm, hiệu quả sẽ ngƣợc lại và
lƣợng của nó sẽ bằng không.
Tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lượng cao, được các cơ quan
quản lý nhà nước nghiên cứu quy định cụ thể, đó là: “Những tác phẩm
mang lại hiệu quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa
phương; có nhiều tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc
sống hàng ngày; có nội dung phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe,
người xem; phù hợp với quan điểm chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”[22].
Cơ sở lý luận báo chí truyền thông cũng chỉ ra rằng, tác phẩm báo chí
là một chỉnh thể, bao gồm hai yếu tố nội dung và hình thức. Hai yếu tố này
có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ, chi phối lẫn nhau tạo nên chất
lƣợng tác phẩm báo chí. Tác phẩm báo chí còn đƣợc hiểu rộng hơn, đó là
cả trang báo, số báo, tờ báo, chuyên mục, chƣơng trình phát thanh, truyền
hình Do đó tiêu chí đánh giá chất lƣợng thông tin báo chí phải coi trọng
cả hai yếu tố nội dung và hình thức thông tin.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con ngƣời,
bởi vậy yêu cầu về tính hiệu quả báo chí phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hiệu

quả báo chí là việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phƣơng
thức hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình nhằm đạt mục đích đặt ra. Để báo chí hoạt động hiệu quả, trƣớc hết nội
dung phải hay, phải súc tích và hình thức thể hiện phải hấp dẫn.
- Về nội dung, phải phong phú, mang lại cho công chúng một lƣợng
thông tin mới, phản ánh đúng, kịp thời, đi vào những vấn đề thiết thực nhất
mà công chúng đang quan tâm hoặc đang thiếu thông tin.


27
- Về hình thức, phải thỏa mãn nhu cầu mỹ cảm, tác động sâu sắc đến
tình cảm và suy nghĩ của đối tƣợng. Thông tin báo chí phải đƣợc chuyển tải
bằng các hình thức, phƣơng pháp thể hiện thuyết phục, dễ hiểu. Nó không
chỉ làm cho công chúng thích thú mà còn khơi gợi đƣợc sự suy nghĩ theo
hƣớng đúng và thúc đẩy hành động tích cực của họ.
Ngoài những yêu cầu chung của thông tin báo chí, thông tin chỉ dẫn
tiêu dùng còn cần có những đặc trƣng riêng nhƣ sau:
1.4.1. Tính cập nhật, nhanh nhạy, thời sự;
"Thông tin thời sự trong cách hiểu của lý luận báo chí được hiểu là
những sự kiện và vấn đề mới xảy ra và sắp xảy ra liên quan đền nhiều
người và có ý nghĩa thời cuộc" [4,tr164]
Đây là đặc trƣng tiêu biểu, rõ nét nhất của thông tin nói chung và
thông tin chỉ dẫn tiêu dùng nói chung. Thông tin báo chí không thể không
cập nhật, nhanh nhạy, đảm bảo tính thời sự, bởi nếu vậy không còn là
thông tin đƣợc dƣ luận và cộng đồng xã hội quan tâm. Thông tin chỉ dẫn
tiêu dùng cũng vậy, cần cập nhật, bám sát thông tin thời sự của đời sống và
cần sự nhạy bén đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập và làm theo của công
chúng. Có nhƣ vậy mới tăng hiệu quả ứng dụng, học tập các kiến thức tƣ
vấn tiêu dùng vào thực tế đời sống, tạo đƣợc hiệu ứng tốt trong đời sống xã
hội. Vì tính hiệu quả - đó là mức độ thực hiện các mục tiêu đáp ứng những

nhu cầu của công chúng về thông tin, có tính đến khả năng của nhà báo và
công chúng [4, tr227].
Chính vì vậy, nhà báo trong quá trình tác nghiệp, phải biết lựa chọn,
cân nhắc thông tin gì là cần thiết, là thiết thực, hữu ích để thông tin tƣ vấn,
chỉ dẫn, và thông tin chỉ dẫn vào thời điểm nào là phù hợp, kịp thời và hiệu
quả nhất đối với công chúng
Ví dụ: ngay khi báo chí đƣa tin về tình hình động đất tại Nhật Bản
năm 2011, lập tức các báo chí đƣa các thông tin tƣ vấn, chỉ dẫn về phƣơng

×