Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thông tin kinh tế trên đài tuyền hình kỹ thuật số VTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGÔ BÁ THÀNH




THÔNG TIN KINH TẾ
TRÊN ĐÀI TRUYỀN HÌNH KỸ THUẬT SỐ VTC









LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ















Hà Nội, 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGÔ BÁ THÀNH




THÔNG TIN KINH TẾ
TRÊN ĐÀI TRUYỀN HÌNH KỸ THUẬT SỐ VTC









Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Thành Hưng






Hà Nội, 2010

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5
6. Phương pháp luận nghiên cứu 6
7. Kết cấu của Luận văn 7
Chương I: Mối quan hệ giữa báo chí nói chung và truyền hình
nói riêng với kinh tế 10
1.1. Vai trò của báo chí nói chung trong phát triển kinh tế 10
1.2. Những đóng góp của Truyền hình Việt Nam trong phát triển kinh tế
Đất nước 16
1.2.1. Khái niệm truyền hình 16
1.2.2. Sơ lược lịch sử truyền hình thế giới và Việt Nam 18
1.2.3. Đặc trưng của truyền hình 26
1.2.4. Hiệu quả truyền hình 29
1.2.5. Những tác động của truyền hình Việt Nam trong việc phát triển
kinh tế Đất nước 31
Chương II: Thực trạng và khả năng xây dựng kênh thông tin
kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC hiện nay 37
2.1. Giới thiệu Đài truyền hình kỹ thuật số VTC 37
2.2. Thực trạng thông tin kinh tế trên Đài truyền hình kỹ thuật
số VTC 38
2.2.1. Thời sự tổng hợp (Khoảnh khắc vàng - VTC1) 39
2.2.2. Thời sự tổng hợp (Hành tinh số - VTC5) 40
2.2.3. Thị trường chứng khoán 41
2.2.4. Chứng khoán 7 ngày qua 43
2.2.5. Chuyện doanh nhân 45
2.2.6. Doanh nghiệp 24G 46
2.2.7. So sánh thực trạng thông tin kinh tế trên Đài truyền hình
kỹ thuật số VTC với thực trạng thông tin kinh tế trên Kênh InfoTV
- Truyền hình cáp Việt Nam 49
2.3. Nhu cầu của thực tiễn về Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt trên

truyền hình 51
2.4. Điều kiện và khả năng xây dựng Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt
trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC 54
Chương III: Đề xuất giải pháp xây dựng mô hình Kênh thông tin
kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC 58
3.1. Giải pháp chung để xây dựng mô hình Kênh thông tin kinh tế
hiệu quả trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC 58
3.2. Đề xuất Mô hình chi tiết Kênh thông tin kinh tế trên Đài Truyền
hình kỹ thuật số VTC 68
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC



1

MỞ ĐẦU

1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài
Cuộc sống hiện đại làm nảy sinh nhiều nhu cầu mới, trong đó, nhu cầu
thông tin là rất lớn. Đặc biệt trong thời đại kinh tế thị trường, hội nhập WTO
như hiện nay, việc phải nắm được các thông tin kinh tế một cách nhanh chóng
và cập nhật là một việc vô cùng cần thiết và nhu cầu này ngày càng tăng lên.
Hiện nay, gần như chưa có một kênh truyền hình riêng biệt, miễn phí
nào chuyên cung cấp thông tin kinh tế cho khán giả. Có một kênh là Info TV
(VCTV9) trên sóng của Truyền hình Cáp Việt Nam là kênh truyền hình
chuyên về kinh tế, tài chính và chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam, nhưng lại
là kênh truyền hình trả tiền, gây nên sự bất tiện cho công chúng. Và thực tế,
những thông tin ở kênh này cũng mới chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu của

thực tế (cả về số lượng và chất lượng).
Đời sống kinh tế nói chung và kinh tế doanh nghiệp nói riêng luôn luôn
thay đổi, nảy sinh những vấn đề mới và phức tạp. Thực tế ấy đang đòi hỏi một
kênh thông tin nhanh chóng, trung thực, chính xác và sinh động về lĩnh vực
này, nhằm đáp ứng nhu cầu về thông tin của công chúng cũng như góp phần
đưa ra những định hướng, giải pháp cho những vấn đề của đời sống kinh tế,
doanh nghiệp.
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC - thuộc Tổng Công ty truyền thông
đa phương tiện VTC - là một Đài Truyền hình trẻ. Lãnh đạo Tổng công ty và
lãnh đạo Đài xây dựng Đài theo định hướng thông tin giải trí, kinh tế, văn
hóa. Hiện nay Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC đã có khá nhiều kênh truyền
hình tự sản xuất, chuyên biệt theo các lĩnh vực, ví dụ như: VTC1 là Kênh
thông tin tổng hợp; VTC2 là kênh Phim truyện; Kênh VTC3 là kênh Thể
thao; VTC4 là kênh thông tin văn hóa, thời trang, VTC5 là kênh Công nghệ
2

thông tin… Nhưng hoàn toàn chưa xây dựng một kênh chuyên biệt về Kinh
tế, mà mới chỉ thành lập một Ban nhỏ chuyên thông tin kinh tế doanh nghiệp,
tên là Doanh nghiệp 24G. Như vậy, thông tin kinh tế trên sóng Đài truyền
hình kỹ thuật số VTC vẫn còn hạn chế và cũng chưa đáp ứng được đầy đủ
nhu cầu của khán giả.
Khảo sát những chương trình kinh tế được phát trên sóng Đài Truyền
hình kỹ thuật số VTC, đồng thời tham khảo thông tin kinh tế trên các đài
truyền hình khác nữa, sẽ giúp chúng ta nhận ra những ưu, nhược điểm của
hoạt động thông tin kinh tế trên sóng của Đài, để từ đó rút kinh nghiệm để
thông tin kinh tế trên sóng được hiệu quả hơn đối với công chúng.
Với những lý do trên, người viết quyết định chọn vấn đề “Thông tin
kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC” làm Luận văn thạc sỹ Báo chí
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Theo khảo sát sơ bộ của người viết, do Đài Truyền hình Kỹ thuật số
VTC là một Đài trẻ, và hình thức Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt không
phải trả tiền trên sóng truyền hình cũng còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên chưa
có đề tài khoa học, khóa luận tốt nghiệp hay luận văn thạc sỹ nào, tài liệu nào
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề “Thông tin kinh tế trên sóng Đài Truyền
hình kỹ thuật số VTC”.
Tuy nhiên, có một số công trình nghiên cứu về những mảng nhỏ trong
vấn đề thông tin kinh tế trên báo chí nói chung, ví dụ như:
+ Khóa luận “Thị trường chứng khoán qua báo chí” của sinh viên Đoàn
Mai Anh – K40, Khoa Báo chí, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
do PGS-TS Đỗ Xuân Hà hướng dẫn.
3

+ Khóa luận “Thông tin chứng khoán trên báo chí Việt Nam” của sinh
viên Phạm Thị Hằng – K47 Hệ tại chức, Khoa Báo chí, trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, do Thạc sỹ Bùi Tiến Dũng hướng dẫn.
+ Luận văn “Thông tin tuyên truyền về chứng khoán và thị trường
chứng khoán” (khảo sát Tạp chí chứng khoán từ 1997-2003) của tác giả
Nguyễn Cao Cầm, Học viện báo chí và tuyên truyền, do TS Phạm Tất Thắng
hướng dẫn năm 2004.
Chính vì vậy, Luận văn này sẽ là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn
đề thông tin kinh tế trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC cũng như đặt vấn đề
dự thảo một Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt đầu tiên của Đài, nhằm giúp
công chúng của VTC có được một lượng thông tin phong phú trong lĩnh vực
kinh tế, đa chiều, đa diện, phục vụ tối đa nhu cầu thiết yếu, tức thì, hàng ngày,
hàng giờ của khán giả, bao gồm cả tầng lớp doanh nghiệp doanh nhân và
người dân trong xã hội. Đồng thời, đây cũng sẽ là một kênh thông tin, tuyên
truyền, giáo dục, chỉ dẫn, tư vấn về lĩnh vực kinh tế cực kỳ nhanh nhạy và
hiệu quả của Đảng và Nhà nước ta, là con đường ngắn nhất, nhanh nhất đưa
những chủ trương đường lối, chế độ, chính sách về kinh tế của Đảng và Chính

phủ đến với nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Mục đích của Luận văn này là thông qua việc nghiên cứu,
khảo sát thực tế, Luận văn sẽ khái quát một cách cơ bản về thực trạng cung
cấp thông tin kinh tế của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC tới Công chúng,
phân tích những điểm tích cực và hạn chế để từ đó đưa ra những luận cứ vững
chắc để xây dựng mô hình Kênh thông tin kinh tế trên Đài Truyền hình kỹ
thuật số VTC.
* Nhiệm vụ: Với mục đích đề ra như vậy, nhiệm vụ của Luận văn là
phải phân tích được mối quan hệ giữa báo chí và kinh tế; Những đóng góp
4

của báo chí nói chung và truyền hình nói riêng trong phát triển kinh tế đất
nước; Phân tích được thực trạng thông tin kinh tế trên sóng Truyền hình kỹ
thuật số VTC; Rút ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động thông tin kinh tế
trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC; Nghiên cứu, phân tích điều kiện, tiềm
lực và tính khả thi của việc xây dựng Kênh thông tin kinh tế trên Đài truyền
hình kỹ thuật số VTC; Từ đó đề xuất một mô hình Kênh thông tin kinh tế ưu
việt hơn so với thực tại, với những chuyên mục và nội dung chi tiết, nhằm tạo
ra một kênh thông tin kinh tế hiệu quả đến người xem, nâng cao hiệu quả
truyền tải thông tin kinh tế trên sóng của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với các mục đích và nhiệm vụ của Luận văn là như trên, bên cạnh phần
cơ sở lý luận về truyền thông và truyền hình trong mối liên kết với kinh tế,
Luận văn sẽ tập trung chủ yếu nghiên cứu về Thực trạng thông tin kinh tế trên
sóng Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, phân tích nhu cầu về thông tin kinh tế
của công chúng VTC, nghiên cứu điều kiện, tiềm lực và khả năng xây dựng
một Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt trên sóng Đài Truyền hình kỹ thuật số
VTC. Do đó, đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là các chương trình kinh
tế được phát trên tất cả các kênh của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC ở các

phương diện nội dung truyền tải và hình thức thể hiện, phương thức truyền
tải…
Cùng với đó, để chứng minh cho việc đề xuất xây dựng Kênh thông tin
kinh tế chuyên biệt trên sóng Đài truyền hình kỹ thuật số VTC là hoàn toàn
hợp lý, cần thiết và đáp ứng được nhu cầu của khán giả, người viết cũng sẽ
tiến hành khảo sát và so sánh nhu cầu thực tế với nguồn cung thực tế, xem
thực sự các thông tin kinh tế được truyền tải trên các phương tiện truyền
thông đại chúng nói chung cũng như trên sóng Đài truyền hình kỹ thuật số
VTC nói riêng đã đáp ứng đủ nhu cầu hay chưa.
5

Về mặt thời gian, người viết tìm hiểu, nghiên cứu các chương trình
kinh tế trên sóng của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC trong khoảng thời gian
từ tháng 1/2007 đến tháng 1/2009. Người viết chọn quãng thời gian này vì
đây là khoảng thời gian Đài truyền hình kỹ thuật số VTC có những bước
chuyển mình mạnh mẽ cả về nội dung kênh sóng, các chương trình truyền
hình, đặc biệt là các chương trình thông tin kinh tế với sự ra đời của các Bản
tin Thời sự tổng hợp, Doanh nghiệp 24G, Bản tin chứng khoán.v.v… đồng
thời có những đổi mới mạnh mẽ về công nghệ truyền hình kỹ thuật số.
Những đổi mới trong công nghệ truyền phát và sản xuất chương trình
truyền hình của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC đã tạo tiền đề cho những đổi
mới về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin của Đài, là một trong
những điều kiện, bàn đạp vững chắc để xây dựng nên những chương trình
truyền hình hay về nội dung và hấp dẫn về hình thức, phong cách thể hiện,
chiếm được tình cảm của khán giả màn ảnh nhỏ.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Về ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp cho quá trình nghiên cứu vai
trò của báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng trong việc phản ánh
các thông tin kinh tế, định hướng giải pháp cho những vấn đề của kinh tế nói
chung và doanh nghiệp nói riêng, khẳng định mối quan hệ khăng khít và qua

lại giữa báo chí và kinh tế. Những luận cứ, luận điểm được nêu trong Luận
văn sẽ tiếp tục góp phần xây dựng lý thuyết về Nhóm thông tin kinh tế trên
truyền hình với mong muốn các lý thuyết này sẽ được hoàn thiện dần và trở
thành hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, có thể áp dụng vào xây dựng những
Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt, nhằm truyền tải các thông tin kinh tế đến
người dân một cách hiệu quả nhất.
* Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đề xuất một mô hình Kênh thông tin
kinh tế chuyên biệt trong điều kiện khảo sát là Đài Truyền hình kỹ thuật số
6

VTC - thuộc Tổng công ty truyền thông đa phương tiện VTC, nhưng được
khái quát lên trong điều kiện lý tưởng. Đồng thời đưa ra những giải pháp để
Mô hình kênh thông tin kinh tế này phát huy tốt nhất hiệu quả truyền tải thông
tin của nó. Mô hình này bao gồm những nội dung hết sức chi tiết, từ tên
chuyên mục, nội dung của mỗi chuyên mục, thời lượng, thời gian phát sóng
trong một ngày. Có thể nói đây là đóng góp rất lớn để biến mô hình Kênh
thông tin kinh tế chuyên biệt trở thành hiện thực trên sóng của Đài truyền
hình kỹ thuật số VTC nói riêng và các Đài truyền hình nói chung, góp phần
nâng cao hiệu quả của việc truyền tải các thông tin kinh tế đến với công
chúng.
6. Phương pháp luận nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về kinh tế và
báo chí hiện nay để quy chiếu theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã nêu ở
trên.
Tập hợp và nghiên cứu, tham khảo các tài liệu lý luận, bao gồm các
sách, tài liệu lý luận nghiệp vụ, công trình, đề tài khoa học có nghiên cứu các
vấn đề liên quan, thông tin từ chính các báo, đài, các phương tiện truyền
thông khác.
Khảo sát, thống kê các chương trình truyền hình phản ánh thông tin

kinh tế trên tất cả các kênh của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, từ tháng
1/2007 đến tháng 1/2009.
Nghiên cứu, tham khảo mô hình Kênh thông tin kinh tế Info TV của
Truyền hình cáp Việt Nam, đồng thời dựa trên những khảo sát bước đầu, các
kết quả phỏng vấn và điều tra của người viết về vấn đề, tiến hành tổng hợp số
liệu, phân tích và so sánh để từ đó đưa ra một số giải pháp tối ưu nhất cho mô
7

hình Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt trên sóng Đài truyền hình kỹ thuật số
VTC.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Phụ lục và Danh mục Tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm có các chương sau:
Chương I: Mối quan hệ giữa báo chí nói chung và truyền hình nói riêng
với kinh tế.
1.1. Vai trò của báo chí nói chung trong phát triển kinh tế.
1.2. Những đóng góp của Truyền hình Việt Nam trong phát triển kinh
tế Đất nước.
1.2.1. Khái niệm truyền hình
1.2.2. Sơ lược lịch sử truyền hình thế giới và Việt Nam
1.2.3. Đặc trưng của truyền hình
1.2.4. Hiệu quả truyền hình
1.2.5. Những tác động của truyền hình Việt Nam trong việc phát
triển kinh tế Đất nước
Chương II: Thực trạng và khả năng xây dựng kênh thông tin kinh tế trên
Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC hiện nay.
2.1. Giới thiệu Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
2.2. Thực trạng thông tin kinh tế trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
2.2.1. Thời sự tổng hợp (Khoảnh khắc vàng - VTC1)
2.2.2. Thời sự tổng hợp (Hành tinh số - VTC5)

2.2.3. Thị trường chứng khoán
2.2.4. Chứng khoán 7 ngày qua
2.2.5. Chuyện doanh nhân
2.2.6. Doanh nghiệp 24G
8

2.2.7. So sánh thực trạng thông tin kinh tế trên Đài truyền hình
kỹ thuật số VTC với thực trạng thông tin kinh tế trên Kênh Info TV -
Truyền hình cáp Việt Nam.
2.3. Nhu cầu của thực tiễn về Kênh thông tin kinh tế chuyên biệt trên
truyền hình
2.4. Điều kiện và khả năng xây dựng Kênh thông tin kinh tế chuyên
biệt trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
Chương III: Đề xuất giải pháp xây dựng mô hình Kênh thông tin kinh tế
trên Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC.
3.1. Giải pháp chung để xây dựng mô hình Kênh thông tin kinh tế hiệu
quả trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
3.2. Đề xuất Mô hình chi tiết Kênh thông tin kinh tế trên Đài Truyền
hình kỹ thuật số VTC
3.2.1 Bản tin Thời sự Kinh tế
3.2.2. Bản tin Thị trường chứng khoán
3.2.3. Bản tin Xúc tiến thương mại
3.2.4. Chuyên mục Sàn giao dịch ý tưởng
3.2.5. Chuyên mục Con đường khởi nghiệp
3.2.6. Chuyên mục Doanh nghiệp trò chuyện
3.2.7. Chuyên mục Thế giới xe
3.2.8. Bản tin Siêu thị 24G
3.2.9. Chuyên mục Tư vấn tiêu dùng
3.2.10. Chuyên mục Cùng nông dân làm giàu
3.2.11. Bản tin 360 độ Nhà đất

3.2.12. Chuyên mục Điểm sách kinh tế
3.2.13. Bản tin Sinh viên Kinh tế
3.2.14. Chuyên mục Phong cách doanh nhân
9

3.2.15. Trò chơi giải trí cho Doanh nghiệp
3.2.16. Thông tin phản hồi
Luận văn sẽ được trình bày theo các nội dung như trên.

























10

CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁO CHÍ NÓI CHUNG
VÀ TRUYỀN HÌNH NÓI RIÊNG VỚI KINH TẾ
1.1. Vai trò của báo chí nói chung trong phát triển kinh tế.
Ngay từ khi ra đời báo chí đã phát huy vai trò và sức mạnh của nó trong
cuộc đấu tranh giành và giữ quyền lực chính trị của các thế lực, các giai cấp,
trong tiến trình phát triển kinh tế văn hoá xã hội, trong việc nâng cao dân trí,
giáo dục nhân cách con người.
Có quan điểm cho rằng, lịch sử báo chí buổi sơ khai bắt nguồn từ nhu
cầu thông tin kinh tế mà các nhà buôn thông qua một mạng lưới rất nhiều
những người trong giới thương nhân, các nhà thám hiểm hay các tăng lữ cung
cấp qua thư tín rồi tổng hợp lại thành những bản tin tức để cung cấp phục vụ
việc buôn bán, tìm kiếm sản phẩm, thị trường và giao thương.
Lịch sử còn ghi lại thời mà Xê Da Đại đế của Đế chế La Mã đã sử dụng
các tù binh biết chữ chép tay để nhân bản các bản tin khi chưa có phương tiện
ấn loát. Như thế, thoạt tiên báo chí ra đời gắn với nhu cầu kinh tế. Và phát
triển kinh tế - đương nhiên cũng là mối quan tâm của mọi nhà nước ngay từ
thời cổ đại.
Rồi về sau, nhu cầu ban bố những thông tin của nhà nước mới sinh ra
các tờ công báo. Cùng với nhu cầu thông tin, sự ra đời của nghề in và các cải
tiến không ngừng của kỹ nghệ ấn loát đã thúc đẩy sự ra đời của báo chí thực
thụ và phát triển một cách vô cùng mạnh mẽ, rồi sau đó nhanh chóng ứng
dụng các công nghệ mới trong đó đặc biệt là công nghệ nghe-nhìn và viễn
thông.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, báo chí đã trở thành một nền công
nghiệp, hình thành những tập đoàn kinh tế trên lĩnh vực báo chí-truyền thông
hoặc trở thành diễn đàn bảo vệ lợi ích của các thế lực kinh tế mà các thế lực

chính trị chỉ là đại diện.
11

Nhìn lại lịch sử báo chí Việt Nam cũng vậy. Những người cố tìm kiếm
căn cước ra đời của báo chí nước ta có đưa ra ý kiến cho rằng, các quán nước
đầu làng và người mõ làng là những yếu tố của hoạt động truyền thông sớm
nhất và phổ biến nhất của một quốc gia vốn lấy cơ cấu làng xã khép kín làm
tế bào sống. Cho đến nay, chưa hề thấy một bằng chứng nào về mối liên hệ
thông tin giữa các địa phương trong nước với chính quyền trung ương ngoài
các tuyến giao thông do các phu trạm đảm trách trên con đường cái quan, chủ
yếu để truyền đạt các giấy tờ và mệnh lệnh của triều đình đến các thần dân
của mình.
Vì thế, có thể thấy rằng báo chí xuất hiện ở nước ta trước tiên là sản
phẩm của chế độ thực dân trong quá trình xác lập lợi ích song hành cùng cuộc
chinh phục thuộc địa.
Tờ báo đầu tiên hoạt động ở nước ta đúng như tên gọi của nó : “Kỷ yếu
công báo của Đạo quân Viễn chinh xứ Nam Kỳ “ (Bulletin officiel de l’
Expédition de la Conchinchine) mà toà soạn cũng như máy in đều biên chế
trong đạo quân xâm lược từ các chiến thuyền đánh vào Nam Bộ và được sử
dụng song hành với cuộc bình định về quân sự.
Tiếp đó, người ta thấy trên vùng đất mà quân viễn chinh Pháp đã chinh
phục được ở cả Nam kỳ và Bắc kỳ bắt đầu xuất hiện những tờ báo và hoạt
động báo chí buổi đầu gắn liền với nhu cầu của tầng lớp người Âu ngày càng
đông đảo và sự hình thành những đô thị và những thị dân bản địa. “Tờ báo là
kinh nhật tụng của đám thị dân” là một cách nói của người xưa cho thấy
không gian phát triển của báo chí trước tiên là ở các đô thị.
Ngoài những tờ báo viết bằng tiếng Pháp, dành cho nguời Pháp, thì tờ
báo dành cho người Việt đầu tiên như tên gọi của nó gắn với đô thị phát triển
đầu tiên và quan trọng nhất là Sài Gòn với cái tên “Gia Định Báo” ra đời vào
năm 1895 - được coi là cái mốc đầu tiên của báo chí tiếng Việt. Đương nhiên

12

nó là một tờ công báo và phục vụ chủ yếu cho nhu cầu cai trị những người
dân bản xứ, nhưng khách quan mà nói, cũng đã du nhập những tập quán mới
của nền văn minh phương Tây vào cộng đồng người bản địa.
Bước vào đầu thế kỷ XX, một tầng lớp thị dân, trong đó có các thương
nhân người Việt ra đời và cùng với nó là những cây bút viết báo người Việt
cũng hình thành cùng với niềm đam mê những công dụng mà tờ báo mang lại
cho đời sống xã hội. Báo chí tư nhân xuất hiện và nhanh chóng xâm nhập vào
đời sống kinh tế của người Việt.
“Nông Cổ Mín Đàm” là tờ báo tiên phong và cũng ra đời ở Nam Kỳ.
Tên báo được diễn nôm là “ngồi uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn”,
đề cập tới 2 lĩnh vực kinh tế trọng yếu của người Việt. Cho dù theo luật định,
người chủ báo phải là một người Pháp, đó là ông Cannavaggio, là chủ một
vựa muối ở Nam Kỳ, nhưng linh hồn của tờ báo lại là những cây bút người
Việt, vừa thấm nhuần nền cổ học lại tiếp cận sâu sắc với tân học đã dùng tờ
báo để cổ xúy cho hoạt động kinh doanh của người Việt, coi đó là phương
cách chấn hưng dân tộc trong hoàn cảnh về chính trị đã trở thành thuộc địa
của nước Pháp.
Chủ bút của tờ báo này là Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, người còn được
biết tới trên một số lĩnh vực hoạt động văn hoá khác, đặc biệt là nghệ thuật cải
lương. Đúng như tên gọi của nó, lần đọc những trang báo cũ ta thấy rất nhiều
bài viết động viên người Việt dấn thân vào thương trường, truyền bá những
nghề mới và đáp ứng nhiều thông tin kinh tế như giá cả, lịch các tàu biển ra
vào thương cảng, các chính sách liên quan đến kinh tế của chính quyền và bắt
đầu phản ánh những suy nghĩ, tâm trạng của tầng lớp thị dân và thương nhân
thể hiện cả trong những nhu cầu về văn hoá.
Ngoài Bắc, tiên phong trên lĩnh vực này là tờ “Đăng Cổ Tùng Báo” -
một tên gọi mới của một tờ công báo do Nam triều lập ra ở Bắc kỳ lúc này là
13


xứ bảo hộ - tờ “Đại Nam Đồng văn Nhật Báo” viết bằng chữ Hán, xuất bản từ
năm 1896. Công báo nhưng lại do một tư nhân đấu thầu là một nhân vật đáng
được vinh danh là “ông tổ nghề báo ở Việt Nam” tên là Henri Schneider -
người khuyến khích và làm chủ nhiệm rất nhiều tờ báo và các ấn phẩm ở Việt
Nam buổi ban đầu của xuất bản và ấn loát.
Điều đáng nói là linh hồn của “Đăng Cổ Tùng Báo” (Đăng Cổ có nghĩa
là “Khua trống”) gắn với tên tuổi của nhà báo tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh.
Ông đã sang dự Hội chợ Quốc tế ở Pháp và đam mê công nghệ báo chí khi trở
về Việt Nam và suốt cuộc đời lặn ngụp, phấn đấu cho một nền báo chí của
người Việt, cả trên diễn đàn Pháp ngữ lẫn Việt ngữ. “Đăng Cổ Tùng Báo” ra
đời cùng với Đông Kinh nghĩa thục và trở thành cơ quan ngôn luận của tổ
chức này, đây cũng là tờ báo đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ (báo in song ngữ
Hán-Việt), số đầu tiên vào tháng 3/1907 (chậm hơn Gia Định Báo 1865 và
Nông Cổ Mín Đàm 1901) và kết thúc cùng với việc nghĩa thục của ông và cụ
Cử Lương Văn Can bị thực dân bắt đóng cửa vào cuối năm ấy.
“Đăng Cổ Tùng Báo” cũng cổ xuý mạnh mẽ cho việc chấn hưng kinh tế
dân tộc theo tôn chỉ của cuộc Duy Tân ái quốc, nhưng cũng giống như số
phận của giới kinh doanh non trẻ Việt Nam, sự o ép về chính trị cũng như sự
chèn ép về kinh tế của chế độ thuộc địa khiến các tờ báo ấy chưa đủ sức
đương đầu để trở thành một thế lực kinh tế hay có ảnh hưởng về chính trị
trong đời sống xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên, những tờ báo kể trên đều để lại những dấu ấn của một nỗ
lực ban đầu của giới doanh nhân Việt Nam trên lĩnh vực báo chí kinh tế mà
ngày nay chúng ta đang quan tâm và có điều kiện để phát triển theo đúng quy
luật của nền báo chí hiện đại.
Trong lịch sử hơn 100 năm báo chí Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ
71 năm báo chí cách mạng, nhiệm vụ của dân tộc Việt Nam là đấu tranh giành
14


lấy độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, giành chính quyền vào tay nhân dân,
đồng thời phải tiến hành cuộc chiến tranh kéo dài mà chúng ta cũng không
muốn, cho nên trên thực tế, báo chí cách mạng Việt Nam chưa có điều kiện
làm gì nhiều cho phát triển kinh tế. Tuy vậy, ngay trong thời kỳ chiến tranh,
báo chí nước ta vẫn quan tâm tới hoạt động kinh tế, nhất là 35 năm sau khi đất
nước có hòa bình.
Nhìn vào gần 700 tờ báo, tạp chí, Đài phát thanh, truyền hình… hiện
nay sẽ thấy rõ, nhiều trang mục, chương trình phát thanh - truyền hình, diện
tích của phần lớn các báo, tạp chí… được dành cho thông tin, tuyên truyền về
kinh tế. Hàng chục tờ báo, tạp chí chuyên về kinh tế ra đời. Hầu hết các tờ
báo, các Đài phát thanh - truyền hình đều có trang kinh tế, chương trình kinh
tế. Có tờ báo kinh tế tăng nhanh số lượng phát hành, đứng vững trong làng
báo. Đội ngũ phóng viên, thông tin viên chuyên về kinh tế ngày càng đông
đảo. Sự phản ánh, thông tin về kinh tế cũng ngày càng đa dạng, phong phú,
phù hợp với phương hướng đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới về kinh tế.
Trong sự nghiệp đổi mới, trên mặt báo, chúng ta thấy có nhiều hình
thức cổ vũ cho các thành phần kinh tế mà trước đây chúng ta ít quan tâm như:
kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân; nhất là ở các báo chuyên về
kinh tế. Ngày nay, những khuôn mặt mới đã xuất hiện trên trang nhất của
nhiều tờ báo. Bên cạnh những người lao động xuất sắc, những nhà trí thức
giỏi, đã thấy những doanh nhân thành đạt, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp
trẻ. Như vậy có thể thấy rằng trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, báo chí có công
lớn. Ngay từ lúc này, báo chí đã dần khẳng định nó là cầu nối quan trọng giữa
doanh nghiệp với Đảng, Nhà nước và người tiêu dùng.
Những năm qua, báo chí kinh tế đã ngày càng nhanh nhạy hơn trong
tuyên truyền và cổ vũ các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cổ vũ các nhân tố mới, các
15

điển hình tiên tiến trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm

nghèo; góp phần tích cực ổn định tình hình chính trị, xã hội, tăng cường kỷ
cương, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, thực hiện dân chủ hoá đời sống,
phát huy vai trò giám sát xã hội và công luận
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và thành tích, hoạt động báo chí
kinh tế cũng còn có những thiếu sót, khuyết điểm. Một số cơ quan báo chí còn
xem nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng, giáo dục của báo chí cách mạng, xa
rời tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ, sa đà vào phản ánh các mặt tiêu cực,
mặt trái của xã hội.
Có thể nói, báo chí có vai trò quan trọng đối với hoạt động và sự phát
triển của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa báo chí và doanh nghiệp, doanh
nghiệp và báo chí là mối quan hệ tương hỗ cùng phát triển vì mục tiêu chung
của đất nước. Thông tin từ báo chí luôn có tính hai mặt, nếu như đó là sự phản
ánh trung thực, tích cực thì nó sẽ có tác dụng hữu hiệu, thúc đẩy sự phát triển
của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu những thông tin thiếu căn cứ, phản ánh
không khách quan thì sẽ làm tổn hại đến hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp,
thậm chí kìm hãm sự phát triển doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần
có sự hỗ trợ thông tin từ báo chí với những bài viết khách quan, phản ánh
chính xác sự việc. Cũng như vậy, doanh nghiệp cần chủ động hợp tác cung
cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí tác nghiệp. Đây vừa là nghĩa
vụ vừa là quyền lợi của doanh nghiệp.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ càng thể hiện rõ hơn mối quan hệ gắn bó, tương hỗ giữa
báo chí và kinh tế. Bởi lẽ, trong một xã hội hiện đại, trong một kỷ nguyên
thông tin, ai nắm được thông tin người đó sẽ chiến thắng. Báo chí không chỉ
tác động đến cả giới kinh doanh trong và ngoài nước, mà còn đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành và cải thiện môi trường kinh doanh, đồng
16

thời là một nguồn thông tin chủ chốt của Nhà nước trong quản lý xã hội và
hoạch định chính sách về kinh tế.

Trong bối cảnh đất nước thực sự hoà bình, ổn định và phát triển nền
kinh tế trong nước để nhanh chóng hội nhập kinh tế thế giới, các lực lượng
báo chí cần phải đổi mới về tư duy và phương pháp làm việc, phấn đấu trở
thành nguồn thông tin chính xác, đầy đủ, mang tính trách nhiệm cao, nhanh
chóng và dễ tiếp cận. Đó cũng chính là một đóng góp vào công cuộc dân chủ
hoá đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. Những đóng góp của Truyền hình Việt Nam trong phát triển kinh tế
Đất nước.
1.2.1. Khái niệm truyền hình
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass
Communication hay Mass Media) gồm có báo in, báo phát thanh, báo truyền
hình, báo điện tử phát trên mạng Internet, sản phẩm thông tin của chúng có
tính định kỳ hết sức đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó còn có những sản
phẩm không định kỳ của truyền thông như các ấn phẩm của ngành xuất bản,
các phương pháp truyền thông trực tiếp như: tuyên truyền miệng, quảng
cáo,… Nội dung và tính chất thông tin đều mang tính phổ cập và có phạm vi
tác động rộng lớn trên toàn xã hội.
Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông
tin bằng hình ảnh động và âm thanh nhờ các phương tiện kỹ thuật. Sự xuất
hiện của truyền hình như một điều kỳ diệu trong sáng tạo của con người.
Truyền hình mang lại cho con người cảm giác về một cuộc sống rất thật đang
diễn ra trước mắt. Đó là cuộc sống thật nhưng đã được cô đọng lại làm giàu
thêm ý nghĩa, làm sáng rõ hơn về hình thức và làm phong phú hơn về những
khía cạnh, bình diện, đường nét sinh động.
17

Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và
tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “videre” là
''thấy được'', còn tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
“Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng

Pháp là “Television”, tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có phát
triển bất cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung một
nghĩa.
Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XX và phát triển với tốc độ
như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một
kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội.
Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là công
cụ giải trí, rồi thêm chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp
tham gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư
luận, giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hoá, quảng cáo và các
dịch vụ khác.
Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải có truyền hình sóng (wireless TV)
và truyền hình cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại có truyền hình công
cộng (public TV) và truyền hình thương mại (commercial TV). Xét theo tiêu
chí mục đích nội dung, người ta chia truyền hình thành truyền hình giáo dục,
truyền hình giải trí, Xét theo góc độ kỹ thuật có truyền hình tương tự
(Analog TV) và truyền hình số (Digital TV)
Ngày nay truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Truyền hình trở thành vũ khí, công cụ sắc bén trên mặt
trận tư tưởng văn hoá cũng như trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Sự ra đời của
truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm
hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng về chất lượng. Công
chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh. Với những ưu
18

thế về kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống như được cô
đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn
về nội dung.
1.2.2. Sơ lược lịch sử truyền hình thế giới và Việt Nam
Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ biến

nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các
nguyên thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay
xem một trận thi đấu thể thao… Với truyền hình, họ có được cơ hội làm
những việc đó.
Không chỉ là một phương tiện truyền thông, phương tiện giải trí thuần
tuý, ngày nay truyền hình còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của
cuộc sống hiện đại. Bộ phận an ninh sử dụng truyền hình như một công cụ
bảo vệ, giám sát. Ngành tàu điện ngầm dùng truyền hình để quản lý hệ thống
đường tàu hay để điều khiển con tàu từ xa. Các bác sĩ khám nội tạng bệnh
nhân bằng camera hiển vi thay vì mổ. Ngành giáo dục tiến hành đào tạo từ xa
cũng thông qua truyền hình.
Như ta đã biết, truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng
mới xuất hiện từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh
chóng, mạnh mẽ và được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập
niên trở lại đây.
Thế mạnh đặc trưng của truyền hình là cung cấp thông tin dưới dạng
hình ảnh (kết hợp âm thanh và ở mức độ nhất định cả với chữ viết) mang tính
hẫp dẫn sinh động, trực tiếp và tổng hợp. Từ đó, loại hình phương tiện truyền
thông độc đáo, đặc biệt này tạo nên được ở người tiếp nhận thông tin hiệu quả
tổng hợp tức thời về nhận thức và thẩm mỹ, trước hết là ở trình độ trực quan,
trực cảm.
19

Bằng sự kết hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải trí
với nhau, truyền hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị trí,
ảnh hưởng và tác động của truyền hình đối với công chúng nói chung, quá
trình hình thành và định hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang tăng lên
nhanh chóng.
1.2.2.1. Truyền hình thế giới
Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động

chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ XX, không lâu sau khi khái niệm
"truyền hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành
truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được
thành tựu đó.
Năm 1873, nhà khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên
đoán sự tồn tại của sóng điện từ, phương tiện truyền tải tín hiệu truyền hình.
Cùng năm này, nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý Joseph
May chứng minh rằng điện trở suất của nguyên tố Selen thay đổi khi được
chiếu sáng. Phát minh này đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn", nguyên lý
hoạt động của ống vidicon truyền ảnh.
Năm 1888, nhà vật lý người Đức Wihelm Hallwachs tìm ra khả năng
phóng thích điện tử của một số vật liệu. Hiện tượng này được gọi là "phóng
tia điện tử", nguyên lý của ống orthicon truyền ảnh.
Mặc dù nhiều phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử đã
được phát minh và hoàn thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn chưa
đủ điều kiện để ra đời. Vấn đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và chưa tìm
được một phương pháp khuyếch đại hiệu quả.
Mãi cho tới năm 1906, khi Lee De Forest, một kỹ sư người Mỹ đăng ký
sáng chế ống triode chân không thì vấn đề mới được giải quyết.

20

* Đĩa Nipkow
Năm 1884, kỹ sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm
truyền hình đầu tiên, đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo hình xoáy
ốc phía trước một bức tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ thủng đầu tiên
quét qua điểm cao nhất của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp hơn lỗ đầu tiên một
chút, lỗ thứ 3 lại thấp hơn chút nữa,… và cứ như vậy cho tới tâm bức tranh.
Để thu được hình ảnh, Nipkow quay chiếc đĩa, sau mỗi vòng quay, tất
cả các điểm của bức tranh lần lượt hiện lên. Những chiếc đĩa tương tự quay ở

điểm nhận. Khi tốc độ quay đạt 15 vòng/'giây, ánh sáng đi qua hệ thống đĩa
tái tạo được hình ảnh tĩnh của bức tranh.
Thiết bị của Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này.
Sau đó kỹ thuật truyền ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins
và Baird tiếp tục hoàn thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã
có thể nhận ra. Thiết bị thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một ngọn
đèn được điểu khiển độ sáng bằng tín hiệu từ bộ phận cảm quang phía sau đĩa
ở thiết bị phát.
Năm 1926 Baird công bố một hệ thống truyền ảnh tĩnh sử dụng đĩa
Nipkow 30 lỗ. Kỹ thuật này được gọi là phương pháp quét cơ học, hay
phương pháp phân tích cơ học.
* Truyền hình điện tử
Đồng thời với sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm
1908 nhà sáng chế người Anh Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân
hình điện tử. Ông sử dụng một màn ảnh để thu nhận một điện tích thay đổi
tương ứng với hình ảnh, và một súng điện tử trung hoà điện tích này, tạo ra
dòng biến tử biến thiên.
21

Nguyên lý này được Zworykin áp dụng trong ống ghi hình iconoscope,
bộ phận quan trọng nhất của camera. Về sau, chiếc đèn orthicon hiện đại hơn
cũng sử dụng một thiết bị tương tự như vậy.
Năm 1878, nhà vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát
minh ra tia âm cực.
Tới năm 1908, Campbell Swinton và Boris Rosing người Nga, độc lập
nghiên cứu nhưng kết quả thu được của hai ông lại tương đồng. Theo đó, hình
ảnh được tái tạo bằng cách dùng một ống phóng tia âm cực (cathode-rays,
tube-CRT) bắn phá màn hình phủ phóphor.
Trong những năm 30, công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ tên
là Allen DuMont tập trung nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của

DuMont về cơ bản giống phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay.
Ngày 13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc
máy thu hình áp dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới tại
Schenectady, New York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch) xấu và
không ổn định nhưng máy thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình. Nhiều máy
thu kiểu này đã được sản xuất và bán tại Schenectady.
Cũng tại đây, ngày 10/5/ 1928, đài WGY bắt đầu phát sóng đều đặn.
* Phát hình công cộng
Chương trình truyền hình công cộng đầu tiên xuất hiện ở London năm
1936. Những buổi phát hình này do 2 công ty cạnh tranh với nhau thực hiện.
Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét ngang với 25 màn hình/
giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát bằng hình ảnh 240 dòng
quét ngang cũng với 25 frame/s.
Đầu năm 1937, hệ Marconi với chất lượng hình ảnh tốt được chọn làm
chuẩn. Năm 1941, Mỹ chấp nhận chuẩn 525 dòng quét với 30 frame/s cho bộ
phận giải của mình.

×