Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vai trò của báo chí đối với vấn đề cải cách giáo dục đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ƯNG SƠN CA






VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ
CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

(KHẢO SÁT TRÊN MỘT SỐ TỜ BÁO IN TỪ NĂM 2002 ĐẾN 2004)





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. DƯƠNG XUÂN SƠN





TP. HỒ CHÍ MINH 11. 2006
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Kết cấu của luận văn 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
1. Giới thiệu chung về giáo dục đào tạo và vai trò của giáo dục đào
tạo ở Việt Nam 7
1.1 Những thành tựu của giáo dục đào tạo 9
1.2 Hạn chế, yếu kém 12
1.3 Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010 17
2. Giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam . 22
3. Một số vấn đề liên quan đến Giáo dục đại học Việt Nam hiện
nay 26
3.1 Chất lượng giáo dục đại học 28
3.2 Xã hội hóa giáo dục đại học 33
3.3 Vấn đề thương mại hóa trong giáo dục 34

3.4 Vấn đề quyền tự chủ ở trường đại học 36
3.5 Đội ngũ nhà giáo, nhà nghiên cứu 37
3.6 Vấn đề ngân sách cho đào tạo và cơ sở vật chất 38
3.7Chương trình đào tạo còn bất cập 39
3.8 Phương pháp đào tạo, hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ
học tập 40
3.9 Vấn đề quản lý, tổ chức đào tạo 42
Tiểu kết chương I 43
CHƯƠNG II: THÔNG TIN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRÊN BÁO
CHÍ TRONG NHỮNG NĂM 2002 – 2004
1. Một số đặc điểm chung về nội dung thông tin giáo dục đại học
trên báo chí 45
2. Thông tin về tuyển sinh vào đại học 51
3. Thông tin các vấn nạn, tiêu cực trong giáo dục đại học 58
4. Thông tin những thành tựu, điển hình tích cực trong giáo dục
đại học 66
5. Những ý kiến, góp ý để cải cách giáo dục đại học 69
Tiểu kết chương II 71
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ CẢI
CÁCH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1. Tác động của báo chí đối với việc xây dựng các chính sách giáo
dục đại học 73
2. Tác động của báo chí đối với công cuộc cải cách nền giáo dục
đại học. 76
3. Tác động của báo chí đối với người dạy và người học 80
3.1 Đối với các nhà quản lý giáo dục đại học 80
3.2Đối với những người làm công tác giảng dạy 83
3.3 Đối với những người học 84
4. Kiến nghị những định hướng cho thông tin giáo dục đại học
trong thời gian tới 86

Tiểu kết chương III 94
KẾT LUẬN 97
PHẦN PHỤ LỤC
1. Mẫu phiếu điều tra xã hội học và tổng hợp kết quả sau khi điều tra
2. Ý kiến của một số nhà báo về vai trò của báo chí đối với các vấn
đề giáo dục
3. Một vài số liệu thống kê về giáo dục đại học Việt Nam từ 2000
đến 2005
4. Một số bài báo viết về giáo dục đại học


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


GD : Giáo dục
GD – ĐT : Giáo dục đào tạo
GDĐH : Giáo dục đại học
GD&TĐ : Giáo dục và Thời đại
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
CĐ : Cao đẳng
THCN : Trung học chuyên nghiệp
SV : sinh viên
HS : học sinh
TS : Thí sinh
TW : Trung ương
NQ : Nghị quyết
NXB : Nhà xuất bản
ĐKDT : đăng ký dự thi
Sđd : Sách đã dẫn

XH : Xã hội
SGGP : Sài gòn giải phóng
HSSV : Học sinh sinh viên
VN : Việt Nam

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục đào tạo là vấn đề mà nhiều quốc gia trên thế giới coi
trọng. Bởi vì bất cứ quốc gia nào muốn phát triển cũng phải dựa vào
nguồn lực chủ yếu là con người. Xã hội ngày càng phát triển, những đòi
hỏi về nguồn nhân lực ngày càng cao đặc biệt là những đòi hỏi về trình
độ và năng lực của nguồn nhân lực.
Ở Việt Nam, Luật giáo dục khẳng định: “giáo dục là quốc sách
hàng đầu”. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh từng nhấn mạnh: “Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa với việc đặt giáo dục là gốc cho đại kế trăm năm, coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu, đòi hỏi ở chúng ta nhiều cố gắng lớn lao hơn nữa.
Giáo dục phải không ngừng phát triển theo hứơng chuẩn hoá, hiện đại
hóa và xã hội hóa”. Vấn đề giáo dục đào tạo Việt Nam trong thời gian
gần đây nổi lên nhiều sự kiện và thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp
trong xã hội. Nhiều sự kiện trong lĩnh vực giáo dục đào tạo được các
phương tiện thông tin đại chúng đưa tin và được xã hội quan tâm, theo
dõi, bàn bạc cũng như đặt ra những yêu cầu giải quyết. Có thể khẳng
định chưa bao giờ giáo dục đào tạo nước ta có nhiều vấn đề được toàn xã
hội quan tâm như thời gian 5 năm trở lại đây.
Giáo dục đại học là một nội dung mà báo chí đặc biệt quan tâm
trong quá trình thông tin về giáo dục đào tạo nói chung. Ở thế kỷ XXI,
GDĐH đang đứng trước những thách thức và đòi hỏi to lớn trên các

bình diện: địa phương, quốc gia và quốc tế nhằm tiến tới xây dựng một
nền giáo dục thích ứng với thế kỷ XXI, thích nghi với nền kinh tế trí
thức và xã hội hiện đại.
Trong Văn kiện báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Đảng ta khẳng định “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những

2
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Trong sự nghiệp đổi
mới giáo dục và đào tạo chung của cả nước, GDĐH đóng vai trò hết sức
quan trọng. Là “ngưỡng cao cấp” để đội ngũ trí thức là những sinh viên
tốt nghiệp – bắt đầu đóng góp sức mình có hiệu suất và hiệu quả cao
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nâng cao chất lượng
giáo dục đại học là nhiệm vụ không chỉ của ngành giáo dục mà đó còn là
công việc của nhiều người, nhiều ngành trong đó báo chí có một vai trò
quan trọng. Với nhiệm vụ thông tin kịp thời, chính xác những vấn đề liên
quan đến GDĐH, báo chí cần định hướng và đóng góp những ý kiến,
những giải pháp để công cuộc phát triển nền GDĐH Việt Nam xứng tầm
phát triển.
Báo chí có một nhiệm vụ quan trọng là phản ánh trung thực các
vấn đề trong xã hội đồng thời thông qua việc phản ánh, định hướng và
gợi ý cách giải quyết. Xét riêng trong lĩnh vực GDĐH, báo chí trong thời
gian qua đã tích cực hoàn thành nhiệm vụ này. Những thông tin liên
quan đến GDĐH được báo chí thông tin, phản ánh kịp thời. Báo chí còn
là diễn đàn của toàn Đảng, toàn dân cùng xây dựng một nền GDĐH hoàn
thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, quá trình
thông tin trong lĩnh vực GDĐH của báo chí vẫn còn những hạn chế cần
rút kinh nghiệm, cần khắc phục.
Đánh giá vai trò quan trọng của báo chí đối với vấn đề cải cách

GDĐH ở Việt Nam là một việc làm cần thiết nhằm phát huy hơn vai trò
của báo chí đồng thời rút được những kinh nghiệm, định hướng tốt hơn
cho báo chí trong những thông tin về giáo dục nói chung và GDĐH nói
riêng.


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số khóa luận tốt nghiệp, một số luận văn nghiên cứu về
giáo dục đào tạo Việt Nam, về những góc độ tác động của báo chí đến
lĩnh vực giáo dục nói chung nhưng nghiên cứu về vai trò của báo chí đối
với riêng vấn đề cải cách giáo dục đại học thì đây là công trình đầu tiên.
Thực hiện đề tài này chúng tôi có kế thừa, rút kinh nghiệm từ các
đề tài đã nghiên cứu và tìm hiểu về thông tin giáo dục trên báo chí để có
được những nhận xét tổng quát nhất. Luận văn cũng mong có những
đóng góp thiết thực và những kết quả nghiên cứu là mới mẻ tuy nhiên do
thời gian và khả năng của người nghiên cứu có hạn nên chắc chắn không
tránh những thiếu sót. Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những góp ý để
kết quả công trình hòan thiện hơn và cũng mong sẽ có những người quan
tâm đến thông tin giáo dục đại học trên báo chí tiếp tục nghiên cứu bổ
sung để vấn đề có được cái nhìn tòan diện hơn.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
GDĐH Việt Nam có một tầm quan trọng đối với công cuộc phát
triển đất nước. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo dễ nhận thấy GDĐH
có vai trò đi đầu, hướng dẫn vì đó là nơi tiếp cận tri thức ở mức cao nhất,
là nơi đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước, cũng là nơi
đào tạo nhà giáo cho các bậc học thấp hơn. GDĐH có tác động càng
mạnh mẽ hơn đối với sự phát triển xã hội loài người ở giai đọan hiện nay
khi khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc, kinh tế tri thức đang hình

thành và phát triển.
Trong thời gian vừa qua, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về
GDĐH, nhìn chung các đánh giá thống nhất GDĐH hiện nay còn lạc
hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao
so với yêu cầu phát triển của đất nước. Bên cạnh việc nhìn nhận thực tế
yếu kém của GDĐH Việt Nam, không ít những đề xuất, những gợi ý

4
nhằm cải tiến chất lượng cũng như xây dựng một nền giáo dục đáp ứng
nhu cầu phát triển đất nước, không tụt hậu so với thế giới. Báo chí là một
kênh thông tin quan trọng. Báo chí đã thực hiện tốt vai trò thông tin về
thực trạng GDĐH đồng thời là diễn đàn để tòan xã hội cùng bàn bạc và
tìm cách thay đổi, cải tiến GDĐH của chúng ta. Tuy nhiên, báo chí cũng
không tránh khỏi những hạn chế khi thông tin về GDĐH.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn đem lại cái
nhìn tổng quát về thực trạng GDĐH Việt Nam và nội dung những thông
tin liên quan đến GDĐH trên báo chí trong thời gian qua. Thông qua đó,
khắc họa rõ nét vai trò của báo chí trong công cuộc cải cách nền GDĐH
nước nhà. Đề tài cũng sẽ đề xuất những kiến nghị đối với các cơ quan
báo chí nhằm giúp báo chí định hướng tốt hơn thông tin liên quan đến
GDĐH trong tương lai.

4. Phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay, hầu hết các cơ quan báo chí đều dành những chuyên
mục nhất định cho vấn đề giáo dục. Trong đề tài này, chúng tôi tập trung
khảo sát chính thông tin giáo dục đại học trên một số tờ báo in từ 2002 –
2004. Những tờ báo chúng tôi chọn khảo sát gồm: Báo Sài gòn giải
phóng, Báo Thanh Niên, Báo Tuổi trẻ, Báo Giáo dục và Thời đại, Báo
Người lao động, Khuyến học và Dân trí và tạp chí Tia sáng.Chọn thời
điểm 2002 – 2004 để khảo sát

Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến những thông tin GDĐH
trên các báo trong thời gian từ 2004 đến 2006 để đảm bảo tính liên tục,
xuyên suốt cũng như tính thời sự của vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:

5
Luận văn dựa trên những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí để nghiên cứu
vai trò cải cách GDĐH của báo chí.
Bên cạnh đó, để hòan thành công trình nghiên cứu này chúng tôi
cũng sử dụng những phương pháp như: sưu tầm, thống kê, phân tích,
phân loại, so sánh, tổng hợp và điều tra xã hội học. Từ những phương
pháp trên, chúng tôi viết luận văn.
Để có những quyết sách quan trọng về tình hình GDĐH, các cơ
quan ban ngành phải nghiên cứu, tham khảo các nước phát triển, dựa vào
thực tế trong nước đồng thời tham khảo ý kiến của nhân dân. Trong
nhiều năm qua, GDĐH đã có những bước phát triển về quy mô, chất
lượng, đa dạng các loại hình đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và
nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên so GDĐH trong khu vực và trên thế
giới, GDĐH nước ta còn nhiều bất cập. Đã đến lúc chúng ta cần canh tân
nền GDĐH. Vai trò quan trọng nhất của báo chí là không chỉ thông tin
về tình hình GDĐH báo chí còn phải dự báo, định hướng và đề xuất
những giải pháp nhằm xây dựng một nền GDĐH tiến bộ, hiện đại, đáp
ứng được yêu cầu của đất nước trong quá trình hội nhập với thế giới.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 3 chương
nội dung và phần phụ lục.
Chƣơng I: Thực trạng Giáo dục đại học Việt Nam

Chương này đề cập đến các nội dung như tổng quan về Giáo dục
đào tạo Việt Nam và vai trò của giáo dục đào tạo; Giáo dục đại học trong
hệ thống giáo dục đào tạo và những vấn đề liên quan đến giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay. Phần này nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan
về giáo dục đại học làm cơ sở cho những phân tích, lý giải về thông tin
giáo dục đại học xuất hiện trên báo chí trong chương sau.

6
Chƣơng II: Thông tin giáo dục đại học trên báo chí trong những
năm 2002 – 2004
Chương này đi sâu vào những đặc điểm chung của thông tin giáo
dục đại học trên báo chí. Chúng tôi cũng đã có sự phân chia những thông
tin giáo dục đại học trên báo chí theo một số nội dung chính để dễ phân
tích như: các thông tin về tuyển sinh; các thông tin liên quan đến vấn
nạn, tiêu cực; thông tin về những thành tựu, những điển hình tích cực và
những ý kiến, đề xuất, góp ý nhằm cải cách giáo dục đại học Việt Nam.
Chƣơng III: Vai trò của báo chí đối với vấn đề cải cách giáo dục đại
học
Chương này chúng tôi chủ yếu dựa vào kết quả điều tra xã hội
học. Đồng thời chúng tôi căn cứ trên những cải tiến chủ trương, chính
sách giáo dục đại học do tác động của các phương tiện truyền thông đại
chúng để khẳng định những tác động cũng như vai trò của báo chí đối
với vấn đề cải cách giáo dục đại học trong những năm vừa qua. Một nội
dung quan trọng khác trong chương này là đề xuất, định hướng trong
thời gian sắp tới nhằm nâng cao hơn hiệu quả thông tin, tuyên truyền của
báo chí đối với các vấn đề liên quan đến giáo dục đại học nước nhà.

Phần phụ lục với những nội dung sau:
- Mẫu phiếu điều tra xã hội học và tổng hợp kết quả sau khi điều tra
- Ý kiến của một số nhà báo về vai trò của báo chí đối với các vấn

đề giáo dục
- Một vài số liệu thống kê về giáo dục đại học Việt Nam từ 2000
đến 2005
- Một số bài báo viết về giáo dục đại học



7
CHƢƠNG I:
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM

1. Giới thiệu chung về giáo dục đào tạo và vai trò của giáo dục đào
tạo ở Việt Nam
Luật giáo dục Việt Nam khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”. Giáo dục đào tạo có ý
nghĩa quan trọng không chỉ riêng với Việt Nam mà ở bất cứ quốc gia nào
cũng vậy, muốn đất nước phát triển thì phải dựa vào nguồn lực chủ yếu
là con người.
Các tư tưởng chỉ đạo, chủ trương và nhiệm vụ phát triển giáo dục
trong thời kỳ đầy mạnh CNH – HĐH đã được xác định trong các văn
kiện của Đảng như sau:
* Về mục tiêu:
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
*Về quan điểm chỉ đạo:
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp
của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng an ninh.
* Các nhiệm vụ trọng tâm:
Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát triển quy mô giáo
dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh
cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục và xây dựng xã hội học tập.

8
Như vậy, có thể nhận thấy giáo dục đào tạo có vai trò vô cùng
quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước. GD – ĐT cùng với khoa
học công nghệ chính là nhân tố hàng đầu quyết định tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển.
Quan tâm đến giáo dục chính là quan tâm đến tương lai của đất nước.
Phát triển sự nghiệp giáo dục là góp phần tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước về giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài phục vụ cho công cuộc CNH – HĐH ở nước ta.
Giáo dục còn là con đường để mọi người lĩnh hội tri thức. Tri thức
là hành trang cần thiết đối với mỗi con người khi bước vào đời. Vì vậy,
GD - ĐT có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người.
Giáo dục còn giúp con người phát triển toàn diện, không chỉ có tri thức
mà còn sức khoẻ, đạo đức, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Thông qua giáo dục
con người dần hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do
giáo dục mà nên”. Môi trường giáo dục cũng là nơi phát hiện và bồi
dưỡng tài năng của mỗi con người. Chính trong môi trường giáo dục các
cá nhân có thể phát huy tư duy, tính sáng tạo, sự chủ động trong tiếp thu
kiến thức và trong nhiều lĩnh vực khác.
Giáo dục còn là thước đo trình độ dân trí, mức sống của người
dân. Tuy Việt Nam vẫn còn là nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu nhưng

người dân Việt Nam lại được đánh giá là có mức sống cao nhờ vào tỷ lệ
gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ. Nhờ vào những thành tựu
của giáo dục và các lĩnh vực khác của xã hội mà chỉ số phát triển con
người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) những năm gần đây có nhiều tiến bộ đáng kể: từ
0.456 – xếp 121 – tăng lên 0,682 – xếp 101/174 nước. So với chỉ số phát
triển kinh tế (GDP/người) HDI vượt lên 19 bậc.

9
Khi nói về vai trò của giáo dục đào tạo, chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Sự nghiệp trồng người là sự nghiệp hàng đầu, là quá trình lâu
dài và đòi hỏi phải có sự chung sức của toàn xã hội. CNH – HĐH là con
đường duy nhất đưa đất nước chúng ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Để
thực hiện tốt công cuộc này không có gì hữu hiệu hơn là đầu tư phát
triển con người. Cách đầu tư quan trọng nhất là đẩy mạnh phát triển GD
– ĐT.
Theo Luật Giáo dục hiện hành (Quốc hội thông qua tháng 6/2005)
hệ thống giáo dục quốc dân ở Việt Nam hiện nay gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
- Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại
học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ
tiến sĩ.
Trong quá trình hội nhập cùng thế giới, Việt Nam đang từng bước
chuyển mình, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn. Sự biến đổi
nào cũng bao hàm nhiều khó khăn và thử thách. Sự biến đổi trong lĩnh
vực GD - ĐT lại càng tạo ra nhiều thách thức lớn cho Đảng, Nhà nước

cũng như toàn xã hội. Với những nỗ lực, cố gắng của nhiều nơi, nhiều
cấp GD - ĐT nước ta có nhiều khởi sắc nhưng cũng không tránh khỏi
những hạn chế, yếu kém cần được giải quyết triệt để hơn.

1.1. Những thành tựu của GD - ĐT
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước
1975 đến nay, mặc dù nước ta còn nghèo, từng bước xây dựng và phục
hồi đất nước sau chiến tranh nhưng GD - ĐT đã đạt được những thành

10
tựu quan trọng. Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp trên cả nước.
Quy mô giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng được nhu cầu học tập
của toàn xã hội. Hầu hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo đều có trường tiểu học. Phần lớn
các xã ở vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở và hầu hết các huyện
đều có trường trung học phổ thông. Các tỉnh và nhiều huyện đồng bào
dân tộc còn có hệ thống các trường dân tộc nội trú. Cả nước hiện nay có
gần 250 trường nội trú và có hơn 100 trường bán trú. Đây là một trong
những tín hiệu cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục và thực hiện công
bằng xã hội trong GD – ĐT. Đồng thời, hệ thống trường học rộng khắp
cả nước đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mọi công
dân, tạo điều kiện giúp mọi người dân đều được hưởng lợi ích từ nền
giáo dục của nước ta.
Số lượng học sinh sinh viên cả nước tăng cao đảm bảo ngăn chặn
sự giảm sút quy mô và có bước tăng trưởng khá. Công cuộc xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học đã được triển khai trong toàn quốc. Số học
viên các lớp xóa mù chữ, sau xóa mù và bổ túc văn hóa nước ta hiện nay
trên 600.000 người. Chúng ta đang tiến hành từng bước việc phổ cập
trung học cơ sở. Hiện nay Việt Nam có gần 94% dân số biết đọc, biết

viết, số năm đi học trung bình của mỗi người là 7,3. Đây là một tỷ lệ cao
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này cho thấy trình
độ dân trí của nước ta ngày càng được nâng cao. Nếu so với hơn 80%
dân số mù chữ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thì đây là một kết
quả to lớn, thể hiện sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây cũng là
một thắng lợi quan trọng của nhân dân cả nước trong công cuộc đẩy lùi
giặc dốt.
Hệ thống giáo dục quốc dân nước ta hiện nay đã bao gồm đủ các
cấp học, bậc học, ngành học và phương thức giáo dục. Ngoài hệ thống

11
các trường công lập còn có hệ thống các trường ngoài công lập bao gồm:
bán công, tư thực và dân lập từ mầm non tới đại học. Phương thức giáo
dục bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy. Bên cạnh
hệ thống các trường lớp chính quy, ở tất cả các địa phương đều phát triển
hệ thống các trung tâm, các cơ sở giáo dục không chính quy thực hiện
nhiệm vụ giáo dục thường xuyên cho mọi người, đáp ứng nhu cầu được
học, được đào tạo đa dạng của người học từ xoá mù chữ, nâng cao trình
độ kiến thức cho đến học nghề, học ngoại ngữ và tin học.
Về quy mô của GDĐH nói riêng số lượng sinh viên tăng lên đáng
kể. Đã có những cố gắng điều chỉnh cơ cấu trình độ đào tạo nhằm khắc
phục tình trạng mất cân đối giữa các bậc đào tạo. Số lượng các cơ sở
giáo dục CĐ – ĐH tăng lên ở các vùng Tây Bắc, đồng bằng Sông Cửu
Long. Những nỗ lực đa dạng hóa về loại hình đã khắc phục một bước sự
bất hợp lý về mạng lưới. Tuy nhiên quy mô phát triển giáo dục đại học
hiện nay vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu học đại học quá lớn trong
cả nước. Yêu cầu phát triển quy mô đại học, cao đẳng theo vùng miền,
theo cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực chưa được thực hiện một cách chủ
động và có tầm chiến lược. Chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực trình
độ cao của thị trường lao động.


1.2 Hạn chế, những yếu kém
Bên cạnh những thành tựu, nền GD - ĐT của chúng ta vẫn còn tồn
đọng khá nhiều hạn chế, những bất cập cả về quy mô, cơ cấu đặc biệt là
về chất lượng và hiệu quả.
Vấn đề của giáo dục VN hiện nay là chưa có những tiêu chí vừa
khái quát vừa cụ thể và mang tính hệ thống. Chúng ta thiếu thông tin từ
thế giới. Đôi khi chúng ta chỉ cần thu thập thông tin một cách hình thức
mà không đi sâu tìm hiểu nội bộ của một nước để xem ở đó nền giáo dục
hiệu quả đến đâu. Đảng đề ra chủ trương GDĐT là quốc sách hàng đầu

12
điều này rất đúng nhưng việc cụ thể hóa đừong lốn này thì chúng ta còn
nhiều thiếu sót.
Mặc dù chúng ta có chiến lược phát triển giáo dục nhưng cái thiếu
sót cơ bản trong nền giáo dục hiện nay là thiếu lý luận, thiếu cơ sở khoa
học để tiến hành đổi mới giáo dục. Không phải GDĐT chỉ có một chiến
lược chung là đủ mà chiến lược đó cũng phải dựa trên cơ sở khoa học.
Mỗi bậc học phải có mục tiêu riêng với những tiêu chí cụ thể về trí, đức,
thể, mỹ. Mục tiêu chung là đào tạo con người đáp ứng yêu cầu CNH –
HĐH và hội nhập kinh tế. Có thể chúng ta làm rồi nhưng chưa hoàn
chỉnh, thống nhất và khoa học nên thỉnh thoảng lại đổi cái này, đổi cái
kia khiến cho nền GDĐT thiếu ổn định. Chính vì chúng ta chưa có cơ sở
lý luận nên việc tiến hành đổi mới vẫn chắp vá và không toàn diện.
1

Thực trạng đáng buồn của GD - ĐT Việt Nam là trong những
năm qua chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân
lực trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, thực hiện sự
nghiệp CNH – HĐH theo định hướng XHCN.

Hiện nay cả nước vẫn còn khoảng 6% dân số mù chữ. Hiện tượng
tái mù chữ, nhất là đối với người dân vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân
tộc thiểu số đang ngày càng phổ biến. Trong số những người biết chữ thì
còn khá đông những người chỉ mới dừng lại ở trình độ biết đọc, biết viết
chứ chưa có trình độ cấp học nào, chưa qua trường lớp đào tạo bài bản
mà chỉ là thông qua các lớp học xóa mù chữ ngắn hạn, lớp học tình
thương… Đây là một hiện tượng đáng báo động và không có lợi trong
việc nâng cao trình độ dân trí nước ta. Việc phổ cập tiểu học vẫn chưa
thực sự đều khắp trên cả nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt tới
20% cũng không phải là một kết quả có thể hài lòng được. Nền kinh tế
quốc dân vẫn còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề, trình độ
nghiệp vụ cao.

1
Phỏng vấn GS.Viện sĩ. Vũ Tuyên Hoàng, báo GD&TĐ số 88, ngày 22/07/2004

13
Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng
của đội ngũ học sinh, sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp
chưa hợp lí. Thực tế cho thấy nhiều ngành nghề cần thiết cho sự phát
triển của đất nước lại có quá ít học sinh, sinh viên theo học như: quan hệ
quốc tế, giáo dục học, sư phạm… Đa phần học sinh, sinh viên chọn
những ngành nghề dễ tìm được việc làm và có thu nhập cao như: công
nghệ thông tin, kinh tế, bưu chính viễn thông… Việc công tác trái ngành
nghề được đào tạo cũng ngày một phổ biến. Báo Sài gòn giải phóng
ngày 29/02/2003 đã đưa ra một con số khiến không ít người phải nhìn
lại: chỉ có 30% sinh viên tốt nghiệp làm việc đúng ngành nghề.
2

Giáo dục chuyên nghiệp nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc

suy giảm mạnh. Mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao
động ở nhiều ngành sản xuất. Quy mô đào tạo các nghề hiện nay vẫn quá
nhỏ bé và chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của nghề. Trình độ
và thiết bị đào tạo còn quá lạc hậu, thô sơ. Phần lớn đào tạo chỉ thông
qua lý thuyết, ít thực hành và ứng dụng nên học sinh, sinh viên không có
cơ hội thử thách tay nghề trước khi ra trường. Chính vì vậy, đội ngũ lao
động này khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc CNH
– HĐH.
Chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo cũng là vấn đề
đáng bàn và được cả xã hội quan tâm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nâng
cấp, củng cố nhưng chất lượng và hiệu quả giáo dục vẫn còn ở mức
thấp. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa
học, trình độ ngọai ngữ và thể lực của đa số học sinh, sinh viên ngày nay
còn yếu. Thông qua các cuộc thi, nhiểu học sinh, sinh viên tỏ ra lúng
túng trong những câu hỏi phổ thông, đời thường, những câu hỏi mang
kiến thức xã hội. Điều này phản ánh một thực tế yếu kém của nền giáo
dục nước ta là đào tạo xa rời thực tế, chưa gắn với sử dụng, thiên về lí

2
Lê Linh, Bao giờ hết cảnh người tìm việc, việc lại tìm người? Báo SGGP, ngày 28/02/2003

14
thuyết suông, sách vở kinh điển. Nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt
nghiệp đi làm, khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống
còn rất hạn chế. Nhiều cơ quan, xí nghiệp đã phải tái đào tạo nghiệp vụ
cho các đối tượng lao động vừa được tuyển dụng. Một thực tế khác là có
một số lượng sinh viên ra trường chưa có khả năng thích ứng với những
biến đổi nhanh chóng trong ngành nghề và công nghệ. Hậu quả là họ
không thể theo kịp, trở thành lạc hậu, mất dần ý chí tiến thủ hoặc phải
chuyển sang ngành nghề khác.

Việc suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, không có chí tiến thủ… đang trở thành
những hiện tượng đáng báo động trong học sinh, sinh viên. Những biểu
hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục đang có chiều hướng gia
tăng. Thời gian qua, các vấn nạn trong giáo dục trở nên công khai và
tăng nhanh mặc dù các cơ quan chức năng đã tìm mọi cách ngăn chặn.
Việc dạy thêm, học thêm tràn lan với những tiêu cực đằng sau là làm mất
thời gian và tiền bạc của học sinh, sinh viên, ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển tòan diện, nhất là tạo những suy nghĩ lệch lạc về giáo dục đối với
thế hệ trẻ. Đồng thời vấn nạn này cũng làm giảm đi sự tôn kính người
thầy, làm mờ nhạt dần quan hệ thầy, trò và truyền thống “tôn sư trọng
đạo” của dân tộc ta.
Việc mua bán điểm, mua bán bằng cấp cũng không phải khó bắt
gặp. Hiện tượng thi thuê gia tăng với nhiều biến tướng tinh vi. Nhiều
trường tăng quy mô tuyển sinh vượt quá quy mô đào tạo, mở nhiều lớp
tại chức ở các địa phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng
chương trình, không đảm bảo chất lượng đào tạo.
Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục Việt Nam vẫn còn thô sơ và
lạc hậu. Nhiều ngôi trường xây không đảm bảo chất lượng khiến thầy trò
vừa học vừa lo sợ. Trang thiết bị giảng dạy nghèo nàn,chỉ mang tính

15
tượng trưng, thậm chí có trường không hề có bất cứ một dụng cụ hỗ trợ
giảng dạy nào.
Một thực trạng đáng báo động khác là đội ngũ giáo viên chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển của GD – ĐT trong giai đoạn mới.Ở nhiều
nơi giáo viên có khi không hề được đào tạo qua ngành sư phạm, hoặc
giảng dạy vượt cấp đã được đào tạo Ở bậc đại học, tỉ lệ giảng viên có
trình độ sau đại học còn rất thấp. Năm học 2002 – 2003, bậc đại học cả
nước chỉ có 16 047 giảng viên có trình độ sau đại học (chiếm khoảng

41,6%). Tình trạng hụt hẫng thiếu người dạy thay thế cho thế hệ giáo
viên sắp cao tuổi cũng là một vấn đề nan giải. Chưa kể đến một bộ phận
không nhỏ cán bộ quản lý, giáo viên còn thiếu gương mẫu về đạo đức và
lối sống. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ không chỉ chất lượng giảng
dạy mà còn làm xấu hình ảnh người thầy trong mắt học trò và gây mất
lòng tin của nguời dân đối với nền giáo dục nước nhà.
Nguyên nhân của những yếu kém nói trên có thể kể đến trước hết
là do công tác quản lí GD - ĐT ở nước ta còn nhiều hạn chế và bất cập.
Những năm gần đây có nhiều chủ trương về đổi mới giáo dục nhưng
nhiều chủ trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp
dụng, việc tổ chức thực hiện lại có nhiều thiếu sót như chỉnh lí sách giáo
khoa, tăng học phí, tổ chức các kỳ thi…Việc quản lí chương trình, nội
dung và chất lượng giáo dục chưa được quan tâm đúng mức nhưng vẫn
cứ tiến hành mở rộng quy mô đào tạo và phát triển nhiều loại hình GD –
ĐT.
Công tác thanh tra giáo dục cũng có nhiều thiếu sót, thiếu những
biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo. Đối với
việc thanh tra, một vài nơi chỉ làm cho có và bị lấp liếm hoặc chậm phát
hiện, thiếu nghiêm túc trong xử lí và khắc phục các biểu hiện trong GD -
ĐT . Bên cạnh đó, cơ chế quản lí của ngành giáo dục còn nhiều điểm
chưa hợp lí. Vẫn còn tình trạng ôm đồm sự vụ, vừa buông lỏng, chưa

16
thực hiện tốt sự quản lí thống nhất, tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi
ngược” không phải là hiếm trong lĩnh vực này. Việc giữ vững kỷ cương
trong công tác giáo dục chưa được thực hiện triệt để, đồng thời chưa phát
huy được quyền chủ động của địa phương và nhà trường.
Nội dung GD - ĐT vừa thừa lại vừa thiếu, nhiều phần không gắn
với thực tiễn hoặc quá sơ lược. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn khoa học xã hội và

nhân văn, giáo dục thể chất, thẩm mỹ bị xem nhẹ. Giáo dục chưa kết hợp
chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình và xã
hội. Hoạt động giáo dục chưa gắn bó mật thiết với các họat động sản
xuất và nghiên cứu khoa học. Gia đình cũng như các tổ chức xã hội chưa
phát huy vai trò mới trong giáo dục, nhất là về chính trị, đạo đức, đấu
tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực trong nhà
trường do cơ chế thị trường mang lại.
Hiện nay, nền GD - ĐT nước ta đang đứng trước thử thách lớn
với mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh quy mô cả về chất và
lượng, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn
chế. Đây là mâu thuẫn chung của quá trình phát triển. Những thiếu sót
chủ quan, những yếu kém về quản lí đã làm cho mâu thuẫn đó ngày càng
gay gắt. Những khó khăn trên đòi hỏi phải được giải quyết một cách triệt
để để tạo động lực cho nền GD - ĐT nước ta phát triển. Việc giải quyết
các vấn đề ấy không thể một sớm một chiều, cũng không phải là nhiệm
vụ của riêng một tổ chức, cá nhân nào. Đó là nhiệm vụ chung của cả dân
tộc, và cần một quá trình lâu dài, kiên trì, không ngừng phấn đấu. Giải
quyết những vấn đề trên không chỉ giúp nền GD - ĐT nước ta phát triển
mà còn khẳng định được năng lực của những người đứng đầu ngành
cũng như sức mạnh của dân tộc ta trong thời đại mới.


17
1.3 Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
của Đảng và thực hiện Luật giáo dục (1998), Chính phủ đã xây dựng và
chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển giai đoạn 2001 – 2010 với tư
tưởng chủ đạo là: “ khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp
tục đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ
rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục; phục vụ đắc lực sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát triển
nhanh chóng và bền vững, chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong
khu vực và trên thế giới”.
Mục tiêu chung:
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng
tiếp cận với trình độ tiên tiến của các nước trên thế giới, phù hợp với tình
hình thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, hướng tới
một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình
trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực só với các nước phát triển trong khu
vực.
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trong
nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh
giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập trung
học cơ sở.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục các cấp, bậc
học và trình độ đào tạo, phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa
tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp
dạy học, đổi mới quản lý giáo dục, tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực
để phát triển giáo dục.

18
Hội nghị lần 6 Ban chấp hành Trung ương khóa IX, tiếp tục thực
hiện nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục đã nhấn mạnh vào
các nhiệm vụ sau:
 Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, tạo chuyển biến
cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện,
đặc biệt là giáo dục tư tưởng – chính trị, nhân cách, đạo

đức, lối sống cho người học.
 Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên
cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo,
gắn đào tạo với yếu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đào
tạo với sử dụng.
 Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, có chính
sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo
và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển
giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.
Mục tiêu phát triển giáo dục đại học và sau đại học:
- Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ
cấu kinh tế xã hội của thời kỳ CNH – HĐH, nâng cao năng lực cạnh
tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục đại học qua việc đa dạng hóa
chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù
hợp với cơ cấu nguồn nhân lực cả về trình độ, ngành nghề cũng như
vùng miền. Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội,
năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác.
- Từng bước mở rộng quy mô giáo dục đại học để đáp ứng nhu
cầu nhân lực có trình độ cao của các ngành kinh tế – xã hội và nhu cầu
học tập, nâng cao trình độ học vấn của các tầng lớp nhân dân. Phát triển

19
các trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng mô hình đại học ngắn hạn
để tạo cơ hội cho nhiều người học đại học, cao đẳng. Tập trung đầu tư
xây dựng một số trường đại học, trường dạy nghề có chất lượng, một số
ngành mũi nhọn đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực. Tăng
quy mô tuyển sinh đại học với tỷ lệ 10%/năm trong các năm tới. Nâng tỷ
lệ sinh viên trên 1 vạn dân từ 125 trong năm học 2003 – 2004 lên 200

vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ hàng năm lên 38000, nghiên
cứu sinh lên 15.000 vào năm 2010.
Chất lượng giáo dục đại học
* Về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống:
Trong những năm gần đây tư tưởng, đạo đức của sinh viên có
chuyển biến tiến bộ. Niềm tin của sinh viên vào đảng và sự nghiệp đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ngày càng được củng cố. Số đông
sinh viên có lòng tự tôn dân tộc, giữ được truyền thống, phong cách dân
tộc, có ý chí, quyết tâm tham gia đẩy lùi đói nghèo, tụt hậu, thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Tỷ lệ sinh
viên được kết nạp Đảng ngày càng cao. Năm học 1998 – 1999 có 681
sinh viên được kết nạp Đảng thì năm học 2002 – 2003 số sinh viên được
kết nạp Đảng tăng lên đến 1047.
Đa số sinh viên nước ta có lối sống lành mạnh, hiện tượng sinh
viên vi phạm đạo đức, luập pháp ở nhiều trường so với trước đã giảm
hẳn. Tính tích cực xã hội của sinh viên ngày càng rõ nét. Có khoảng 70%
sinh viên tham gia các phong trào tình nguyện tại chỗ, từ 5 đến 10%
sinh viên tham gia các đội tình nguyện. Đặc biệt có trên 90% sinh viên
tham gia phong trào giáo dục an toàn giao thông, pháp luật, phòng chống
AIDS và ma túy. Các hoạt động tình nguyện tương thân tương ái, lá lành
đùm là rách được sinh viên tích cực tham gia và đạt được hiệu quả giáo
dục có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Sinh viên còn tích cực tham gia các hoạt

20
động thể dục thể thao, phong trào xây dựng đời sống văn hóa trong nhà
trường.
* Về kiến thức kỹ năng:
Do trong mấy năm gần đây, nhiều trường ĐH, CĐ thực hiện
những biện pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên,
cập nhật chương trình đào tạo cũng như tăng cường cơ sở vật chất, thiết

bị dạy học nên chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng đã có sự cải
thiện bước đầu. Sinh viên được tiếp cận với một số lĩnh vực kiến thức
hiện đại thuộc ngành nghề được đào tạo, có thêm điều kiện để từng bước
làm chủ công nghệ thông tin và ngoại ngữ, phục vụ cho học tập và làm
việc sau này. Trình độ kiến thức và kỹ năng một bộ phận sinh viên ở các
khoa, lớp kỹ sư đặc biệt là cử nhân tài năng của một số trường đại học
được nâng lên rõ rệt… Chất lượng đào tạo của một số trường Đại học
lớn, có truyền thống được giữ vững.
- Kết quả khảo sát của Hội đồng Quốc gia giáo dục thực hiện năm
2002 cho thấy:
Đối với cán bộ có trình độ tiến sĩ
+ Về chuyên môn: có 71% thuộc loại tốt, 25% thuộc loại khá, 4% thuộc
loại trung bình.
+ Về tinh thần trách nhiệm: có 75% thuộc loại tốt, 22% loại khá và 3%
thuộc loại trung bình
Đối với cán bộ có trình độ thạc sĩ
+ Về chuyên môn: có 83% thuộc loại tốt, 14% thuộc loại khá, 3% thuộc
loại trung bình.
+ Về tinh thần trách nhiệm: có 75% thuộc loại tốt, 22% loại khá và 3%
thuộc loại trung bình
Đối với cán bộ có trình độ đại học
+ Về chuyên môn: có 57% thuộc loại tốt, 29% thuộc loại khá, 11% thuộc
loại trung bình và 3% loại yếu

21
+ Về tinh thần trách nhiệm: có 64% thuộc loại tốt, 26% loại khá và 8%
thuộc loại trung bình và 2% loại yếu
Đối với cán bộ có trình độ cao đẳng
+ Về chuyên môn: có 49% thuộc loại tốt, 41% thuộc loại khá, 8% thuộc
loại trung bình và 2% loại kém

+ Về tinh thần trách nhiệm: có 76% thuộc loại tốt,18% loại khá và 6%
thuộc loại trung bình và yếu.
Như vậy nhìn chung về trình độ chuyên môn thì đa số người học
sau khi tốt nghiệp đại học và các trình độ sau đại học đã đáp ứng được
yêu cầu của nhiệm vụ được giao và có tinh thần trách nhiệm trong công
việc.

Những yếu kém khuyết điểm:
- Một bộ phận sinh viên còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ngại
tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể thờ ơ với chính trị, với tình hình
chung của đất nước, ý chí phấn đấu thấp. Nhiều sinh viên chưa tích cực
học tập và rèn luyện, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử,
vi phạm nội quy, quy chế, sống thực dụng đua đòi thậm chí vi phạm
pháp luật. Tệ nạn xã hội nhất là ma túy, cờ bạc rượu chè trong sinh viên
tuy có giảm song vẫn còn rất đáng lo lắng, tình hình mê tín dị đoan có
chiều hướng tăng lên.
- Chất lượng đào tạo đại học:
Có sự phân tầng rõ rệt giữa các hệ chính quy và không chính quy,
giữa các trường công lập trọng điểm so với một số trường công lập dịa
phương và các trường dân lập. Trong khi ở phổ thông đa số học sinh đặc
biệt là ở các đô thị phải học tập căng thẳng thì ở đại học nhiều sinh viên
lười học dẫn đến tình trạng phần lớn sinh viên học tập chỉ ở mức trung
bình. Việc thi cử, kiểm tra, đánh giá còn nhiều biểu hiện thiếu nghiêm
túc, không trung thực. Điểm thi các học phần và thi tốt nghiệp thường rất

×