Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.57 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC





NGUYỄN THỊ LAN ANH





VAI TRÒ CỦA GỐM SỨ NHẬT BẢN
TRONG VĂN HÓA ĐỜI SỐNG










LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC






HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC





NGUYỄN THỊ LAN ANH





VAI TRÒ CỦA GỐM SỨ NHẬT BẢN
TRONG VĂN HÓA ĐỜI SỐNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC



Chuyên ngành : Châu Á học
Mã số : 60.31.50



Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồ Hoàng Hoa



HÀ NỘI - 2009
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 1
MỤC LỤC
Phần mở đầu………………………………………………………………
3
Chƣơng 1: Sự hình thành và phát triển gốm sứ Nhật Bản……………
7
1.1 Thời Cổ đại……………………………………………………………………
11
1.2. Thời Trung đại…………………………………………………………………
15
1.3. Thời Cận đại……………………………………………………………………
19
Chƣơng 2: Gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống………
22
2.1. Văn hóa tinh thần……………………………………………………………
22
2.1.1. Nghi lễ Trà đạo………………………………………………
24
2.1.2. Nghệ thuật cắm hoa……………………………………………
35
2.2. Văn hóa vật chất………………………………………………………………
40
2.2.1. Văn hóa ẩm thực………………………………………………

40
2.2.1.1. Cảm nhận thẩm mĩ theo mùa qua đồ đựng thức ăn…
42
2.2.1.2. Cách sắp xếp đồ dựng thức ăn………………………
47
2.2.2. Các vật dụng khác……………………………………………
57
Chƣơng 3: Vài nét so sánh giữa những dòng gốm sứ điển hình của
Nhật Bản và Việt Nam……………………………………………………
66
3.1. Đặc điểm gốm sứ Nhật Bản và những loại điển hình……………………
66
3.2. Đặc điểm gốm sứ Việt Nam và những loại điển hình……………………
71
3.3. Đôi nét giống nhau và khác nhau giữa gốm sứ Nhật Bản và Việt Nam
82
3.3.1. Hình dáng, màu sắc……………………… …………………
84
3.3.2. Chức năng trong đời sống……………………………………
85
Kết luận……………………………………………………………………
88
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………
96
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 2
Phụ lục………………………………………………………………………
101





















Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại mang tính hội nhập và giao
lưu Quốc tế vì vậy mỗi quốc gia muốn phát triển và khẳng định vị trí của mình
đều phụ thuộc vào khả năng mở cửa hội nhập với nền văn hóa thế giới.
Chúng tôi chọn đề tài “Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời
sống” bởi để hòa nhập được với thế giới, trước hết phải dựa trên cơ sở bản sắc
văn hóa dân tộc mình. Trong quá trình hội nhập, tiếp nhận văn hóa nước ngoài là

điều thiết yếu. Tuy nhiên, trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại,
nhiều nước đã đánh mất đi bản sắc văn hóa riêng của nước mình. Nhưng cũng có
nhiều quốc gia đã, đang hội nhập với nền văn hóa thế giới nhưng vẫn giữ được
bản sắc truyền thống của dân tộc mình, trong đó Nhật Bản là một nước điển hình
trong công cuộc tiếp thu tinh hoa của nhân loại, phát huy những tinh hoa ấy trên
cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc. Cùng với các loại hình văn hóa truyền thống của
Nhật Bản như kịch Kabuki, kịch No, Trà đạo, Vườn cảnh nghề thủ công truyền
thống như sơn mài, giấy Nhật, đặc biệt là gốm sứ được xem là tải sản quý báu
trong kho tàng văn hóa dân tộc. Sau khi tiếp nhận, học hỏi kĩ thuật mới, thiết kế
phù hợp của nước ngoài, Nhật Bản đã cố gắng để đưa ra những sản phẩm phù
hợp, phục vụ cho đời sống nhân dân trong nước. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng nỗ
lực phục hồi, gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống để tạo ra những sản phẩm
tinh xảo của tinh hoa nhân loại mà cũng đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay, khi
tiếp xúc với các sản phẩm thủ công truyền thống của Nhật, người nước ngoài
không khỏi khâm phục kĩ thuật tinh xảo, sự phong phú, tinh tế trong các sản
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 4
phẩm. Từ đó nghề thủ công truyền thống Nhật Bản đã đạt đến trình độ cao với
nét độc đáo của riêng mình và chính từ thủ công truyền thống đã đưa Nhật Bản
phát triển như ngày nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của bài luận văn này là các loại sản phẩm gốm sứ
Nhật Bản và Việt Nam. Sản phẩm gốm sứ có vai trò rất quan trọng của đời
sống người dân Nhật Bản.
 Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong lĩnh vực văn hóa đời sống của
người Nhật, bao gồm văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất. Từ đó đưa ra
vài nét so sánh sự giống nhau và khác nhau của gốm sứ Nhật Bản và Việt
Nam.
3. Mục tiêu và Nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của chúng tôi khi chọn đề tài nghiên cứu “Vai trò của gốm sứ
Nhật Bản trong văn hóa đời sống” là: Thứ nhất, khái quát sự hình thành và quá
trình phát triển của gốm sứ Nhật Bản, đồng thời nêu lên được vai trò của gốm sứ
trong văn hóa đời sống. Thứ hai, đưa ra vài nét so sánh sự giống nhau và khác
nhau giữa những dòng gốm sứ điển hình của Nhật Bản và Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu trên, chúng tôi sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu, trong đó có thể kể ra một số phương pháp chính như sau:
 Phương pháp diễn dịch, quy nạp là các phương pháp cơ bản trong quá
trình nhận thức và xử lí thông tin, tư liệu cho các nhận định, kết luận của
mình. Ví dụ, trong các nguồn thông tin và tư liệu khác nhau, chúng tôi
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 5
tổng hợp và xử lí các vấn đề quan trọng trong các quan điểm và thành tựu
nghiên cứu có trước, lí giải, phân tích chúng trong hệ thống tiếp cận riêng,
từ đó tiếp tục phát triển vấn đề đưa ra các nhận định cũng như diễn giải
theo cách riêng của mình.
 Phương pháp so sánh: Chúng tôi so sánh giữa dòng gốm sứ điển hình của
Nhật Bản và Việt Nam để đưa ra vài nét giống nhau và khác nhau trong
vai trò của sản phẩm cũng như cách cảm nhận nghệ thuật của hai nước.
5. Nguồn tƣ liệu
Trong bài luận văn này, chúng tôi kết hợp thông tin từ nhiều nguồn tư liệu
khác nhau, gồm những nguồn chính sau:
 Những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước
 Nguồn tài liệu bằng tiếng Anh
 Nguồn tài liệu bằng tiếng Nhật
 Nguồn tài liệu bằng tiếng Việt
 Các thông tin liên quan trên mạng
6. Một số đóng góp mới

Luận văn này sẽ đem lại một số đóng góp cụ thể như sau:
 Góp phần bổ sung thêm tài liệu nghiên cứu về nghề thủ công truyền thống
Nhật Bản.
 Giúp người đọc hiểu thêm về thẩm mĩ của người Nhật Bản trong văn hóa
đời sống.
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 6
 Góp phần giới thiệu mối tương quan giữa gốm sứ Nhật Bản và Việt Nam
nhằm đưa ra những giống nhau và khác nhau trong kĩ thuật sản xuất của
hai nước.
 Góp phần thúc đẩy mối quan hệ hiểu biết sâu sắc lẫn nhau giữa hai nền
văn hóa Việt – Nhật.
7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được triển
khai thành ba chương:
 Chương 1: Sự hình thành và phát triển của gốm sứ Nhật Bản
 Chương 2: Gốm sứ trong văn hóa đời sống
 Chương 3: Đôi nét giống nhau và khác nhau giữa gốm sứ Nhật Bản và
Việt Nam
Ngoài ra, luận văn cũng thêm phần Phụ lục và Tài liệu tham khảo.








Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh


Trang 7
CHƢƠNG 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GỐM SỨ NHẬT BẢN
Con người xuất hiện từ bao giờ? Đó là một câu hỏi lớn được đặt ra từ
trước cho đến nay. Sự quan tâm của con người về nguồn gốc xuất thân của mình
được thể hiện qua nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo của thế giới
mà bất cứ dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả cho rằng thoạt đầu
con người có hình dáng nửa người, nửa động vật. Dần dần qua quá trình tiến hóa,
con người đã biết lao động sản xuất và cải tạo thiên nhiên. Như vậy, lao động đã
sáng tạo ra loài người. Ở thời kì tiền sử, con người đã biết chế tạo công cụ lao
động. Từ chỗ chỉ biết dùng cành cây, hòn đá nhặt được bên đường con người đã
biết chế tạo ra các dụng cụ bằng đất, đá để phục vụ cho đời sống của mình. Vì
vậy, từ khi con người biết làm ra các đồ vật để sử dụng cũng là lúc nghề thủ
công truyền thống ra đời.
Ở Nhật Bản, từ thời cổ đại phụ nữ đã đảm đương công việc dệt vải, cung
cấp quần áo trong khi đàn ông làm những đồ vật bằng gỗ, áo mưa bằng rơm, rổ
rá và những công cụ cấy cày. Mong muốn làm ra những thứ cho bản thân mình
là thiên hướng bẩm sinh của con người. Thậm chí đến ngày nay, hầu hết các cụ
già ở các làng quê dù là đồng bằng hay miền núi đều có thể đan rổ rá, bện áo
mưa vì xưa kia họ đã từng làm ra những đồ vật như vậy để phục vụ nhu cầu
cuộc sống. Nhu cầu trong đời sống của con người phát triển khác nhau tại các
thời điểm khác nhau nên các dụng cụ phục vụ cho đời sống cũng biến đổi không
ngừng. Trong thời kì kĩ thuật thô sơ, con người chỉ có thể sản xuất ra những sản
phẩm thô sơ, và hiện đại lên dần cũng với thời gian.
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 8
Giống như mỗi người đều có dòng họ, mỗi nghề cũng có quá trình sáng
tạo và phát triển riêng. Nghề gốm sứ Nhật Bản cũng không nằm ngoài quy luật

đó, cũng có lịch sử phát triển gắn liền với những thăng trầm trong lịch sử của
dân tộc Nhật Bản. Ra đời bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống, gắn bó với đời sống
tiêu dùng hàng ngày cũng như đời sống văn hóa tinh thần của mọi tầng lớp nhân
dân, nghề gốm sứ đã thực sự góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi thời
kì khác nhau, các sản phẩm gốm sứ có tính vượt trội hơn so với các sản phẩm
thời trước. Từ đất nung, một sản phẩm sơ khai đã phát triển lên thành gốm, sành
và sứ - những sản phẩm có thẩm mĩ và tinh xảo hơn đáp ứng được nhu cầu của
thời đại.
Ở Nhật, thời đồ đất nung được làm ra đầu tiên vào khoảng 13.000 năm về
trước. Những cái vại lớn và sâu dùng để đựng nước là loại phổ biến nhất. Đất sét
được trang trí bằng cách lăn hoặc ép những sợi dây được nặn bằng đất sét tết lên
trên bề mặt của nó. Do đó đồ đất nung thời kì đầu tiên này được gọi là Jomon
doki (jo = sợi dây, mon = hoa văn, doki = đồ đất nung). Vào thời Jomon, một số
mẫu thiết kế đặc biệt sinh động đã ra đời, bao gồm những mẫu trang trí bằng
sóng cuộn ở vành chậu và những hoa văn kì lạ trên khắp mặt ngoài của sản phẩm.
Đến thời Yayoi, kĩ thuật canh tác lúa và những loại đồ gốm mới góp phần quan
trọng trong cuộc sống, được dùng để đựng đồ, nấu nướng và ăn uống [7].
Theo ghi chép trong lịch sử, vào thời đại Yayoi, các dòng văn hóa từ lục
địa vào Châu Á và đặc biệt là bán đảo Triều Tiên đã tác động mạnh mẽ đến Nhật
Bản. Năm 1974, tại thành phố Fukuoka, các nhà khảo cổ học đã tiến hành thám
sát tại 18 di chỉ có niên đại đầu thời Yayoi. Kết quả cho thấy, những hiện vật
gốm mang phong cách Triều Tiên chiếm tỉ lệ trội vượt hơn so với số hiện vật
gốm mang thuần chất Nhật Bản. Trải qua thời gian, đồ gốm mang phong cách
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 9
Triều Tiên ngày càng giảm trong khi đó loại hình gốm đặc trưng của Nhật Bản
ngày càng tăng lên. Nguyên nhân có thể là do gốm sứ Triều Tiên đem tới đã
không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở Nhật Bản. Ngay cả những người Triều
Tiên di cư đến Nhật Bản, bên cạnh việc tiếp tục dùng gốm truyền thống, họ cũng

đồng thời phải chế tạo ra những vật dụng mới từ nguyên liệu bản địa. Do vẫn
tiếp tục áp dụng cùng một kĩ thuật chế tác nên sự khác biệt giữa hai loại gốm này
không rõ ràng. Vào giữa thời Yayoi, nhiều sản phẩm gốm của Nhật Bản được
đưa tới Pusan, Kinhae và Kyongsang-namdo, vùng cực Nam của bán đảo Triều
Tiên thông qua con đường giao lưu giữa các đảo. Hiện vật được tìm chủ yếu là
các vò dùng trong nghi lễ mai táng. Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ học còn tìm
thấy một số chế tác tại Nhật Bản được làm và nung ở Triều Tiên mang phong
cách Nhật Bản. Ngoài những hiện vật được khẳng định là đưa từ Nhật Bản đến,
số gốm sứ còn lại là do dân Yayoi di cư từ Nhật Bản sang chế tác tại địa phương.
Sau này, Risambei, một nghệ nhân thời Edo đã đem cách thức chế tạo sứ từ Hàn
Quốc về Nhật. Ông đã cố gắng và làm thành công loại sứ này tại tỉnh Arita. Sản
phẩm này được đánh giá tốt hơn sứ Trung Quốc. Thế kỉ 17, số lượng lớn gốm sứ
của tỉnh Imari, đảo Nabe - Nhật Bản - được chuyển sang Châu Âu. Mặc dù vẫn
áp dụng phương thức sản xuất phương Đông nhưng sau cải cách sản xuất, áp
dụng khoa học kĩ thuật kết hợp men kim loại và men tro phương Đông, đã phát
triển mạnh ở Châu Âu. Từ đó, kĩ thuật chế tạo gốm sứ một cách khoa học đã trở
thành phương thức chế tạo tại các nước phát triển ở phương Đông [8].
Đầu thời Minh Trị, kĩ thuật sản xuất gốm sứ hiện đại đã được Wagner
(người Đức) mang đến Nhật, và kĩ thuật hiện đại này đã phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay, Nhật Bản kết hợp khéo léo kĩ thuật sản xuất của phương Đông với
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 10
phương Tây và có thể nói Nhật Bản ở vị trí dẫn đầu các nước. Tuy vậy, phải có
được sự đánh giá cả chất lượng và số lượng của gốm sứ tại Nhật Bản.
Cuối thế kỉ 19, Nhật Bản tiếp thu kĩ thuật hiện đại của phương Tây, kết
hợp với sáng tạo riêng của mình để phát triển gốm sứ và ngày nay là một nước
có nghề gốm sứ phát triển trên thế giới. Gốm sứ được phân làm 4 loại theo quá
trình phát triển của kĩ thuật sản xuất: đất nung, gốm, sành và sứ. Mặc dù có sự
phân loại như vậy nhưng tùy thuộc vào nguyên liệu chính, cách kết hợp và điều

kiện sản xuất mà cho ra đời các loại sản phẩm khác nhau. Theo truyền thống
người ta chia nguyên liệu để sản xuất gốm sứ làm 3 loại chính: Nguyên liệu dẻo,
nguyên liệu không dẻo. Dù được làm với nguyên liệu nào đi chăng nữa, các sản
phẩm đều có một điểm chung là dụng cụ phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng
ngày của người dân như gạch ngói, dụng cụ chứa đựng như bình hoa, bình trà,
chén bát những dụng cụ rất đỗi quen thuộc và tiện ích. Trong xã hội cổ đại, con
người chỉ biết tận dụng thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống, không biết đến
khoa học kĩ thuật thì việc tạo ra được các sản phẩm cao cấp là điều khó khăn.
Dần theo thời gian, con người đã sáng tạo và làm được những sản phẩm cao cấp
và hiện đại hơn, giống như đất nung, đã được nâng cấp thành gốm, sứ khi con
người tìm ra cách chế tạo men.
Cho đến tận bây giờ, người ta cho rằng đồ đất nung của Nhật Bản biểu lộ
được sự đa dạng tuyệt vời nhất thế giới về mặt kĩ thuật và kiểu dáng. Đồ đất
nung có thể được phân thành ba loại: Thứ nhất, đồ gốm đá, loại có kết cấu độc
đáo giống như đất và được thể hiện xuất sắc nhất qua đồ gốm Bizen, Shigaraki,
Echizen và Tokoname; Thứ hai, đồ gốm, có nhiều loại màu men và tạo cho ta
cảm giác ấm áp của đất, nổi tiếng qua các sản phẩm gốm Oribe và Mino dùng
trong Trà đạo. Đồ gốm mộc mạc của Mashiko và đồ gốm Karatsu và Hagi gợi
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 11
nhớ đến nghệ thuật làm gốm sứ của bán đảo Triều Tiên; Thứ ba, đồ sứ, như sứ
Imari, nổi tiếng vì cách sử dụng hiệu quả nền màu trắng, và đồ sứ Kutani, với bề
mặt được phủ bằng những sắc sáng chói. Dù được làm từ kĩ thuật nào, lò nung ở
đâu thì đồ đất nung Nhật Bản luôn đi tìm cái đẹp từ bao thế kỉ qua [44].
1.1. Thời Cổ đại
Hàng vạn năm trước, những người Nhật đầu tiên sống
trên đảo với cuộc sống dựa vào ân huệ của thiên nhiên bằng
săn bắt, hái lượm, dần dần họ biết phát nương, làm rẫy, sống
tập trung, xây dựng làng xóm tạo nên xã hội lấy quan hệ

huyết thống làm nền tảng cho sinh hoạt. Trong sinh hoạt,
người Jomon đã biết làm đồ gốm bằng đất nung để phục vụ
cho mình. Đây là sự kiện quan trọng trong đời sống văn hóa của người Nhật. Đồ
gốm bắt đầu từ thời tiền sử, các bằng chứng sớm nhất về gốm sứ Nhật Bản được
đánh dấu từ giai đoạn Jomon. Những đồ đựng bằng gốm nhỏ đã được khai quật
với số lượng đáng kể ở phía Đông nước Nhật. Hầu hết các sản phẩm này đều có
màu xám thẫm, hoa văn là những đường cong được bố trí rất nghệ thuật trông
giống với mặt chiếu. Sản phẩm này được tạo ra bằng cách cuộn những vòng đất
sét chồng lên nhau để tạo hình, rồi vuốt phẳng bằng tay. Sau cùng mới trang trí
hoa văn quấn thừng. Hình dáng phổ biến là dạng góc cạnh, đáy nhọn, có tay cầm
hình đầu thú.
Với nhu cầu của cuộc sống, người nguyên thủy
đã chế tạo ra những dụng cụ để sử dụng hàng ngày.
Thời này, chưa có khoa học kĩ thuật nên gốm Jomon
được làm ra bằng tay, và đưa qua lửa với nhiệt độ thấp.
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 12
Giai đoạn đầu thời Jomon, đa phần gốm có hình tam giác. Phương pháp
làm sản phẩm này là dùng đất sét cuộn những vòng đất sét chồng lên nhau, vì thế
bề mặt của sản phẩm không mịn mà khá ghồ ghề. Sản phẩm được làm ra không
chỉ là dụng cụ phục vụ đời sống của còn người mà nó đã chứng tỏ
con người có thể chinh phục thiên nhiên.
Đến giữa thời Jomon, hình dáng của gốm Jomon đã có sự
thay đổi. Gốm thời này tinh xảo hơn so với thời kì đầu. Con
người đã chú ý đến những vặn thừng trên sản phẩm. Họ đã làm
những vặn thừng nhỏ và miết mạnh tay hơn để tạo ra sản phẩm có
độ mịn và đỡ thô hơn. Trong giai đoạn này, họ còn làm ra các sản phẩm có hình
người, nhiều nhất là hình dáng của phụ nữ. Người nguyên thủy chưa biết dùng
quần áo bằng vải vóc, họ chỉ biết mặc đồ bằng lá cây hay da thú.

Cuối thời Jomon, đồ dùng mỏng, hình dạng nhỏ và đa
dạng hơn về chủng loại, nhưng vẫn sử dụng vặn thừng để
trang trí. Có nhiều sản phẩm có vặn thừng được khắc nổi trên
bề mặt khá đẹp và độc đáo.
Đồ gốm Jomon đại diện cho nền văn hóa thời đại đồ đá
mới do chính người Nhật làm ra, không chỉ là sản phẩm có
nghệ thuật tạo hình với các hoa văn phong phú, mà nó còn thể hiện tín ngưỡng
và sức sống mãnh liệt của người Jomon trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
Chính vì thế, văn hóa gốm Jomon đã trở thành mẫu mực cho văn hóa các địa
phương khác và càng về cuối thì tính thời đại và tính địa phương rất mạnh. Tiến
sĩ khoa học M.G Munro có nhận xét về đồ gốm Nhật thời xưa như sau: “Nó len
lỏi vào những quan niệm vô cùng phong phú về hình dáng và trang trí mà có lẽ
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 13
chưa ở đâu và chưa bao giờ có gì vượt được nó”. Ông còn cho rằng: “Tài năng
nghệ thuật của người Nhật sau này bắt nguồn từ trong quá khứ tiền sử.” Trải qua
một thời gian dài, khi bước vào thời Yayoi, đồ gốm Jomon vẫn tồn tại nhưng có
những kĩ thuật cao hơn và nó còn tiếp tục ảnh hưởng cho đến khi văn hóa Yayoi
lan rộng [7].
Văn hóa Yayoi là nền văn hóa đồ gốm tiếp sau văn hóa
Jomon, tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng đã có
những phát triển đáng chú ý. Gốm thời kì này cũng được nung
ở nhiệt độ thấp, không tráng men. Màu chủ đạo là màu đỏ
sẫm, bên cạnh đó còn có màu đỏ nhạt. Thời kì này, sản xuất
nông nghiệp lúa nước ra đời. Đồ đồng, đồ sắt xuất hiện. Đồ gốm lúc này vẫn là
đồ gốm Jomon của thời kì trước. Loại gốm này về cơ bản vẫn
dựa trên kĩ thuật xoắn các vòng đất, nhưng tiến bộ hơn một
bước là bắt đầu có sự pha màu và hình dáng cũng được trau
chuốt với kĩ thuật cao hơn mặc dù hoa văn không phong phú

như gốm Jomon. Ảnh hưởng của văn hóa lục địa tràn đến đã
làm cho văn hóa của thời đại Yayoi phát triển thêm một bước
mới. Nó đã đóng góp cho xã hội kĩ thuật chế tạo ra các công cụ
vô cùng phong phú như chế tạo đồ gốm với kĩ thuật cao. Vì thế,
khi nhìn vào đồ gốm thời này, có thể nhận thấy sự thay đổi lớn
trong tinh thần người dân, đồng thời gốm đã phản ảnh được thực trạng xã hội.
Theo các nguồn tư liệu và di chỉ khảo cổ học, người ta biết được sau thời
đại Yayoi, một chính quyền thống nhất của các tiểu vương quốc được thành lập
ở vùng Yamato, hay còn gọi là nước Yamato. Khi nhà nước Yamato và triều
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 14
đình Yamato có sự thống nhất cũng là lúc họ bắt đầu tích cực tiếp thu kĩ thuật
mới của lục địa.
Thế kỉ thứ 5, kĩ thuật gốm từ Triều Tiên du nhập vào Nhật, và loại gốm
này hoàn toàn khác với đất nung. Từ đó, người Nhật biết đến sự tồn tại của bàn
xoay. Chiếc bàn xoay thô sơ đầu tiên ra đời, gốm liền mảng (gốm Sueki) đã từng
bước thay thế cho việc cuộn vòng đất sét. Gốm Hajibe, hay còn gọi là đồ sành
được tìm thấy chủ yếu trong các gò mộ lớn, đó là những tượng đất nung không
tráng men.
Gốm Sueki là sản phẩm được dùng đất sét có khả năng chịu nhiệt cao và
được đưa vào bàn xoay để tạo hình, sau đó được nung trong lò với nhiệt độ cao
(hơn 1000
0
C). Thời kì đầu, gốm sueki không phải là sản phẩm dùng trong các
dụng cụ ăn uống, mà chỉ là dụng cụ dùng cho người chết. Thói quen này đã ăn
sâu vào trong suy nghĩ của người Nhật. Đến thế kỉ thứ 7, người Nhật đã làm bát
đĩa theo kĩ thuật của sueki. Và đến thế kỉ thứ 8, số lượng lớn sản phẩm này được
đưa vào sử dụng như dụng cụ sinh hoạt hàng ngày như bình, chén, bát các sản
phẩm này được chế tạo rộng rãi từ vùng Kyushu đến vùng Kanto. Sản phẩm này

tiếp tục được sản xuất rộng rãi trong các giai đoạn tiếp theo, và trong thời Minh
Trị, Đại Chính nó còn được mệnh danh là “lời chúc tụng” [7].
Đồ gốm Nhật Bản bắt đầu chịu ảnh hưởng của gốm sứ Trung Hoa vào thời
Heian. Nhiều loại gốm men xanh nổi tiếng được du nhập vào thời này, song đồ
gốm thời này không có nhiều tiến bộ mà chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất đồ gia
dụng.

Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 15
1.2. Thời Trung đại
Trong thời cổ đại, các sản phẩm chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất đồ gia
dụng để cung cấp cho sinh hoạt hàng ngày. Đến thời Trung đại đánh dấu một
bước chuyển biến rất quan trọng của gốm sứ Nhật Bản, khi Kato Shirozaemon
Kagesama – còn được gọi là Toshiro theo đoàn tùy tùng của Thiền sư Dogen
(1200 – 1253) sang học nghề gốm ở Trung Hoa. Khi về Nhật Bản, ông đã dựng
lò gốm ở làng Seto gần Nagoya – một trung tâm gốm cổ. Đây là vùng có loại đất
sét phù hợp để làm gốm và từ đây bắt đầu thời kì phát triển thịnh đạt của gốm sứ
Nhật Bản với nhiều dòng gốm nổi tiếng. Vì vậy, Setomono trong tiếng Nhật có
nghĩa là gốm sứ, giống như từ China được người phương Tây dùng để gọi cho
đồ sứ, do sự nổi danh của sứ Trung Hoa. Các dòng gốm nổi tiếng ở Seto là Ko-
seto (Seto cổ) với vẻ đẹp tinh tế khuôn mẫu và kĩ thuật hoàn thiện, Ki-seto (Seto
vàng) có lớp men vàng bong [7].
Giữa thế kỉ thứ 7, những người làm đồ gốm Nhật Bản bắt đầu học hỏi
những kĩ thuật của Trung Quốc và Triều Tiên. Họ học cách tráng men, nung đất
sét ở nhiệt độ tương đối thấp. Một số lớp men tráng bằng kĩ thuật này có màu
xanh lục đậm, trong khi các vật dụng Nara sansai lại nổi trội với ba màu đỏ, vàng
và xanh lục. Tuy nhiên, chỉ có triều đình, giới thượng lưu và đền chùa mới được
sử dụng các loại gốm này, nhưng đến thế kỉ 11 chúng không còn được sản xuất
nữa. Trong quá trình áp dụng và cải tiến kĩ thuật làm đồ gốm, những người làm

đồ gốm phát hiện ra rằng tro từ củi trong lò nung nóng phản ứng với đất sét sẽ
tạo ra một loại men tự nhiên, vì thế họ thường rắc tro từ cây cỏ đã cháy lên đất
sét trước khi nung. Kĩ thuật tráng men tro tự nhiên này đã được phát triển.
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 16
Thời Muromachi, cùng với sự thịnh hành của Trà đạo, đồ gốm được sản
xuất để phục vụ cho các nghi lễ trà cũng rất phát triển, đạt đến trình độ nghệ
thuật cao. Đồ gốm Shino được chế tạo theo đơn đặt hàng của Trà nhân Shino
Shoshin đã trở thành sản phẩm nổi tiếng cho vẻ đẹp giản dị với lớp men tráng
dày, có vân rạn, hoa văn mộc mạc. Thời Muromachi cũng đánh dấu sự phát triển
vượt bậc của gốm Bizen, còn gọi là Imbe yaki. Gốm được làm từ đất sét chất
lượng tốt của Imbe, khi nung xong, xương gốm đặc biệt cứng chắc, sản phẩm
thường là dụng cụ trà như chai, bình nhỏ.
Vào thời Momoyama, nhiều loại gốm sứ mới ra đời như dòng gốm Raku,
mang đậm ảnh hưởng của Trà đạo. Đây là loại gốm được nung trong lò ôxi hóa
nhỏ, ở nhiệt độ tương đối thấp, sau đó được chuyển ra khỏi lò một cách đột ngột,
rồi dìm trong nước lạnh, hoặc vùi trong rơm. Nghệ thuật của sự thay đổi đột ngột
đã đem đến cho gốm một vẻ đẹp đặc biệt. Trong trào lưu sản xuất gốm trà, nổi
tiếng còn có các lọai gốm sản xuất ở tỉnh Mino như Setomono, Shino, Oribe,
Tokoname Tokoname yaki là sản phẩm ra đời từ cuối thời Heian, được coi là
một trong sáu loại gốm cổ Nhật Bản. Vào thời Muromachi và Momoyama đồ
gốm này được dùng chủ yếu trong Trà đạo và Hoa đạo. Nhờ có nguyên liệu là
chất đất phong phú, chất lượng cao nên mặt hàng gốm này vẫn tiếp tục giữ
thương hiệu nổi tiếng ở Nhật Bản.
Thời kì Edo được gọi là kỉ nguyên vàng của nghề thủ công truyền thống
với các loại hàng hóa sản xuất khắp đất nước Nhật Bản. Nếu như ở các thời đại
trước, nghệ thuật bị độc chiếm trong tay tầng lớp quý tộc thì đến giai đoạn này
nghệ thuật đã được mở rộng tới tầng lớp bình dân. Một nguyên nhân là do trong
thời kì yên bình nhất của lịch sử này, người dân đã dần dần tích lũy được của cải

trong khi tấng lớp quý tộc và quân nhân bị sa sút, và cuối cùng thì những người
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 17
này đã làm hình thành ở Nhật Bản một tầng lớp mới đông đảo mà thị hiếu tiêu
dùng của họ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghệ thuật: tầng lớp thị dân.
Mặt khác, do chính sách bế quan tỏa cảng của chính phủ trong hơn hai thế kỉ,
nghệ thuật bản địa, mà chủ yếu nghệ thuật thủ công truyền thống đã khởi sắc.
Lúc này, Edo trở thành trung tâm chính trị xã hội quan trọng nhất Nhật Bản. Các
lãnh chúa đều phải có mặt ở Edo trong những khoảng thời gian hạn định nên
việc xây dựng dinh thất của họ kéo theo các thương gia và thợ thủ công tới đây,
biến nơi này thành một trung tâm lớn của nghề thủ công truyền thống [45].
Thời đại này, gốm sứ cũng đã đạt đến sự hưng thịnh tột bậc. Các sản phẩm
gốm sứ được chế tác vô cùng đa dạng, từ đất nung không men, đất nung có men,
sành, sứ. Đặc biệt, các nghệ nhân được đưa tới Nhật Bản trong các cuộc chinh
phạt Triều Tiên đã có công thúc đẩy nghệ thuật làm gốm sứ phát triển. Bên cạnh
đó, sự phổ biến của Trà đạo trong tầng lớp bình dân cũng là nhân tố thúc đẩy sự
phát triển của nghề này. Bước tiến bộ vượt bậc của gốm sứ là đã chế tạo được
sản phẩm nhiều màu sắc và nước men mới đạt đến độ tinh xảo rực rỡ tới mức
người ta nói rằng những tiêu bản đẹp nhất về màu sắc của gốm chỉ có thể tìm
thấy ở gốm sứ thời Edo của Nhật Bản. Các sản phẩm nổi tiếng thời kì này là gốm
Ninsei, sứ Kakiemon, Ironabeshima, Satsuma, Kotakuni, sứ Setosometsuki
Setosometsuki ra đời vào năm 1807, sau khi đã học nghề gốm sứ tại
Kyushu, Kato Tamikichi trở về quê hương và truyền dạy kĩ thuật cao cho dân
vùng này đã đánh dấu sự ra đời của đồ sứ có nhuộm màu. Từ đó, nghề sứ dần
dần thay thế chỗ đứng của nghề gốm. Trung tâm của sứ Seto là vẽ màu với
đường nét và hoa văn tinh tế của hội họa Nhật Bản. Nền sứ trắng đến trong suốt,
đất được nghiền kĩ cho khả năng hiện màu tốt, các nét vẽ chịu ảnh hưởng của
trường phái Nam họa nổi tiếng là những đặc trưng để sản phẩm này trở thành có
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh


Trang 18
một không hai trên thế giới. Đầu thời Minh Trị, sản phẩm này được các nước Âu
Mĩ đánh giá cao trong Hội chợ Quốc tế về hàng mĩ nghệ và tên tuổi của nó được
nổi tiếng trên toàn thế giới. Hiện nay áp dụng kĩ thuật truyền thống, các sản
phẩm như bát đĩa, lọ hoa vẫn được sản xuất với số lượng lớn. Vùng sản xuất
chính là tỉnh Aichi.
Thời điểm đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển
đồ gốm, sứ Nhật Bản là “cuộc chiến tranh đồ sứ” giữa Nhật Bản và Triều Tiên
vào thế kỉ 16. Lúc này, các vị tướng lĩnh Nhật Bản đua nhau cướp bóc, mang về
nước những đồ sứ đẹp nhất của Triều Tiên với mục đích phát triển nó thành nghệ
thuật đồ sứ Nhật Bản. Và đồ sứ đầu tiên của Nhật Bản đã ra đời ở tỉnh Arita,
phía bắc đảo Kyushu sau này trở thành một trong những trung tâm sản xuất đồ
sứ nổi tiếng nhất Nhật Bản, gắn liền với tên tuổi của Risambei – người thợ gốm
Triều Tiên đã phát hiện ra ở đây một loại đất cao lanh mịn có khả năng chịu
nhiệt, nung ở độ lửa cao (trên dưới 1300
0
C) cho ra chất sứ. Từ đây, cũng bắt đầu
mở ra thời kì phát triển nở rộ của các sứ đa sắc cao cấp của Nhật Bản. Với những
hoa văn minh họa màu lam trên nền trắng và những kiểu dáng rất ấn tượng, đồ
sứ đã nhanh chóng trở thành cơn sốt trên toàn nước Nhật. Lúc đầu, có thể nhận
thấy rõ sự ảnh hưởng của sứ Triều Tiên, nhưng sau đó người Nhật đã tìm hiểu kĩ
thuật của Trung Quốc, họ đã áp dụng và cải tiến để nâng cao chất lượng sản
phẩm nội địa một cách rõ rệt. Một nghệ nhân tên là Sakaida Kakiemon đã phát
mính ra một cách để thêm vào tông màu đỏ cam nhạt, điều này dẫn đến những
hoa văn minh họa đầy màu sắc tuyệt vời được tôn thêm bởi màu trắng sữa.
Trong suốt thế kỉ 17, cuộc buôn bán đồ sứ quan trọng đã phát triển, cung
cấp cho người Châu Âu giàu có những sản phẩm màu sắc và kì lạ để trang trí cho
các lâu đài và cung điện của họ. Đồ sứ Nhật Bản lúc đầu được người Châu Âu
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh


Trang 19
tìm kiếm với mục đích để bù vào sự giảm sút về sản lượng đồ sứ Trung Quốc.
Giữa thế kỉ 17 và đầu thế kỉ 18, đồ gốm sứ Trung Quốc lại lấn át, song nó đã để
lại một di sản về kiểu dáng có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử thiết kế mẫu gốm sứ
của người Châu Âu, thậm chí đã xuất hiện mốt trang trí nội thất kiểu Nhật Bản.
Đồ sứ Nhật Bản đã hấp dẫn người Châu Âu bởi màu sắc, kĩ thuật gia công tỉ mỉ
và công phu mà họ chưa từng thấy trước đây khi ngắm nhìn nó, đã để lại cho
phương Tây một cảm nhận sâu sắc về nghệ thuật thủ công truyền thống Nhật
Bản [8].
1.3. Thời Cận đại
Sau hơn 300 năm “bế quan tỏa cảng”, Nhật Bản đã có những cải cách
chính trị sâu sắc. Chính quyền mới đã bắt đầu thực hiện trao đổi buôn bán với
các nước và công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản bắt đầu từ đây. Từ nửa cuối thế kỉ
19, công nghiệp hóa đã rất phổ biến ở Châu Âu và các cuộc triển lãm quốc tế
được tổ chức tại Luân Đôn hay Pari thu hút sự tham gia của nhiều nước trên toàn
thế giới. Song, nếu đương thời các quốc gia phát triển cố gắng dành cho mình cơ
hội kinh doanh bằng cách trưng bày những thành tựu mới của khoa học và công
nghệ hiện đại thì trái lại, Nhật Bản đã bước ra thế giới bên ngoài với các sản
phẩm thủ công truyền thống giàu tính nghệ thuật của nền văn hóa tinh túy được
tích lũy trong thời gian dài đóng cửa. Thế giới thực sự sửng sốt trước những sản
phẩm thủ công truyền thống của Nhật Bản được trưng bày tại hội chợ. Như vậy,
một làn sóng “Nhật hóa” đã xuất hiện tại Châu Âu mà tâm điểm là thủ đô Pari.
Nhận thức được nguồn lợi mà các ngành nghề thủ công có thể đem lại,
chính phủ Minh Trị đã chú trọng vào việc xuất khẩu các mặt hàng truyền thống
để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Để chuẩn bị cho cuộc triển lãm tại Pari
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 20
năm 1979, chính phủ đã tiến hành điều tra trên toàn quốc về các kĩ thuật thủ

công, và các trường mĩ thuật được xây dựng, các nghệ nhân thủ công nổi tiếng
được mời đến giảng dạy cho học sinh.
Trong suốt quá trình lịch sử, nghề thủ công truyền thống bắt nguồn từ
những nhu cầu của nhân dân trong đời sống hàng ngày. Khi xã hội phân chia giai
cấp, nghề thủ công truyền thống cũng có sự phân chia theo thị hiếu tiêu dùng của
các giai cấp trong xã hội, hình thành hai loại nghề: nghề sản xuất ra sản phẩm
thủ công mĩ nghệ phục vụ thú chơi thưởng ngoạn của tầng lớp trên và nghề sản
xuất ra các sản phẩm phục vụ đời sống tiêu dùng của đông đảo quần chúng.
Hiện nay, gốm sứ Nhật Bản được xem là một
trong những sản phẩm quý hiếm được giới sưu tập
cổ vật ưa chuộng bởi dáng vẻ sang trọng và đường
nét hoa văn tinh tế của nó. Gốm sứ Nhật Bản chủ
yếu sản xuất đồ sứ gia dụng như: ấm, tách trà, đĩa,
lọ đựng nước, bình hoa thuộc các dòng gốm sứ
Bizen, Amari, Ashita, Noritake, Yamakoshi và sau
này thuộc dòng gốm sứ Nippon, DaNan (Đại Nam)
Trên thị trường hiện nay, phổ
biến nhất là đồ sứ Nippon, DaNan,
có độ tuổi khoảng từ 50 đến 80 năm.
Đặc trưng của các dòng gốm này là
màu sắc, họa tiết nổi bật với nét hoa
văn trang trí như: rồng, rắn, mây, hoa
lá đắp nổi hoặc in hình các cô thiếu
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 21
nữ Nhật Bản trong trang phục truyền thống. Ấn tượng nhất vẫn là những hình
ảnh trang trí với Shogun, Geisha và điển tích Phật giáo như: Thập bát La hán,
Như Lai thuyết giáo. Đặc biệt, có những bộ tách trà thuộc dòng Đại Nam
(thường mỗi bộ có từ 12 đến 15 món, bao gồm: tách, ấm và lọ đựng trà) được mạ

vàng xung quanh với những điển tích khắc nổi, hình ảnh phong phú và giàu chất
thẩm mĩ.
Những bộ tách trà gốm sứ mạ vàng của DaNan, Nippon hay những chiếc
bình gốm Satsuma khoảng đầu thế kỉ 20 với thân màu trắng ngà có phủ men rạn
tuy chúng không so được với những món xuất khẩu sang châu Âu và Mĩ với giá
thị trường đồ cổ lên tới 5 - 10 nghìn USD một chiếc bình hoa, nhưng đều là
những sản phẩm có giá trị thẩm mĩ cao, thể hiện tính khéo léo và giàu sáng tạo
của người Nhật Bản xưa. Chiếc bình gốm Nhật Bản cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20,
cao 1m67 trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh là một minh
chứng về vẻ hấp dẫn và tinh xảo của gốm sứ cổ Nhật Bản.
Quá trình phát triển của gốm sứ Nhật Bản cho thấy sự ảnh hưởng sâu sắc
của Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng qua đó cũng cho thấy cảm quan nghệ
thuật và lối sống của người Nhật đã giúp hình thành một nghệ thuật độc đáo và
một ngành công nghiệp phát triển.
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 22
CHƢƠNG 2
GỐM SỨ TRONG VĂN HÓA ĐỜI SỐNG
2.1. Văn hóa tinh thần
Từ thời cổ đại, con người đã chế tạo ra các sản phẩm gắn liền với đời sống
nhằm phục vụ nhu cầu của cuộc sống hàng ngày như chum, vại, bình đựng nước,
bát đĩa, cốc chén, dụng cụ đựng đũa với kĩ thuật cổ điển. Có thể hình dung đồ
gốm sứ mới đầu không tách khỏi cuộc sống hàng ngày, chúng được làm tại nhà
và kĩ thuật thủ công được phát triển trong gia đình từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khi xã hội phân chia giai cấp, thị hiếu tiêu dùng của các giai cấp cũng khác nhau.
Tầng lớp giàu có chú trọng vào các sản phẩm cao cấp trang trí, còn tầng lớp thị
dân chú trọng vào các sản phẩm dân dã gần gũi với nhu cầu hàng ngày của họ.
Khi cuộc sống đã ổn định, tầng lớp thị dân bắt đầu nâng cao chất lượng cuộc
sống của mình. Họ không chỉ sản xuất những dụng cụ cho sinh hoạt hàng ngày

nữa, mà bắt đầu học cách sản xuất cả những đồ vật mà họ chưa từng có bằng
cách cải biến nguyên liệu và kĩ thuật đưa ra các sản phẩm cao cấp và khác biệt
hơn. Lúc này, người dân học hỏi và áp dụng kĩ thuật hiện đại để sản xuất các sản
phẩm dụng cụ cao cấp và tinh túy hơn, ví dụ như các loại bát đĩa cao cấp với
kiểu dáng, họa tiết phong phú, các đồ làm quà tặng bằng gốm sứ cũng phát triển.
Khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản, đã nổ ra nhiều tranh cãi trong Hoàng
tộc về việc tiếp nhận Đạo Phật, song chỉ một thời gian sau Phật giáo đã khẳng
định được vị trí của mình trong đời sống tinh thần của nhân dân Nhật Bản. Từ đó,
nghệ thuật cổ đại Nhật Bản nói chung và nghề thủ công truyền thống nói riêng
phát triển không tách rời khỏi tín ngưỡng này. Phật giáo trở thành tôn giáo của
quốc gia và đã thúc đẩy việc xây dựng các chùa chiền, miếu mạo và nghề điêu
Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong văn hóa đời sống Nguyễn Thị Lan Anh

Trang 23
khắc phát triển. Cùng với sự phát triển của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo, nghề
nung gạch ngói cũng phát triển. Nhiều đền chùa đã được tráng trí bằng các sản
phẩm gốm sứ ví dụ như cổng chào torii ở đền Toran được làm bằng gốm sứ kể
cả các tượng hình thú koma – inu đứng gác, đèn lồng đặt trong vườn, và cả các
tấm bùa may mắn bán cho khách. Bên cạnh các sản phẩm đó, gốm sứ còn chiếm
một vai trò quan trọng trong Trà đạo và nghệ thuật cắm hoa Ikebana.






Koma – inu

Chân nến





Tượng phật
Cổng đền

×