Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Khảo sát các tác gia Hán Nôm Hưng Yên giai đoạn 1884-1919

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN VĂN CHIẾN


KHẢO SÁT CÁC TÁC GIA HÁN NÔM HƯNG YÊN
GIAI ĐOẠN 1884-1919


LUẬN VĂN THẠC SĨ




Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Khoái





HÀ NỘI - 2008





1



MỤC LỤC
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
II – LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 5
III – ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 7
IV – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
1- Phương pháp Duy vật biện chứng 8
2 – Phương pháp duy vật lịch sử 8
3 – Phương pháp thống kê 8
3.1 Thống kê mô tả 8
3.2 Thống kê so sánh 9
4 – Phương pháp thu thập xử lý dữ liệu 9
5 – Phân tích ngữ văn 9
V – NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 9
VI – KẾT CẤU LUẬN VĂN 10
CÁC TÁC GIA HÁN NÔM HƯNG YÊN 12
GIAI ĐOẠN 1884 – 1919 VÀ NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG 12
1.1 Địa bàn Hưng Yên xưa và địa bàn Hưng Yên nay 12
1.2 Khảo sát các tác gia và tác phẩm Hán Nôm Hưng Yên 16
1.2.1 Tác gia Hán Nôm Hưng Yên theo lịch đại 16
1.2.2 Tác phẩm Hán Nôm Hưng Yên theo lịch đại 19
1.3 Hán Nôm Hưng Yên giai đoạn 1884 -1919 21





2
1.3.1 Các dữ liệu liên quan đến Hán Nôm giai đoạn 1884 - 1919 21
1.3.2 Các nhân vật Hán Nôm giai đoạn 1884 – 1919 25

1.4 Phân loại các tác gia Hán Nôm và văn bản 35
CHƯƠNG 2 46
CÁC TÁC GIA HÁN NÔM HƯNG YÊN GIAI ĐOẠN 1884 – 1919 46
THÔNG QUA NGHIÊN CỨU ĐẠI DIỆN 46
2.1 Tác gia Hán Nôm tiểu biểu ( nhóm tác gia sử địa) 46
2.1.1 Tác gia sử học Phạm Văn Thụ 46
2.1.2 Tác gia địa lý Nguyễn Tuỵ Trân. 69
2.2 Nhóm tác phẩm tiêu biểu ( nhóm tác phẩm có khuynh hướng yêu
nước cách mạng) 74
2.2.1 Ca ngợi nghĩa sĩ cách mạng và anh hùng dân tộc đã xả thân vì tổ quốc
79
2.2.2 Thơ trào phúng mang khuynh hướng yêu nước cách mạng. 91
PHỤ LỤC 113













1

KHẢO SÁT CÁC TÁC GIA HÁN NÔM HƢNG YÊN
GIAI ĐOẠN 1884 – 1919

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hƣng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Sông Hồng, với diện
tích tự nhiên là 92.454,8 ha, từ xƣa đã nổi danh là đất văn hiến “ Thứ nhất
Kinh kỳ, thừ nhì Phố Hiến”. Mảnh đất này đã sản sinh ra những văn nhân nổi
tiếng và cũng là nơi xuất hiện nhà khoa bảng đầu tiên khai khoa cho toàn xứ.
Di sản Hán Nôm ở Phố Hiến rất phong phú và nó trở thành một thực
thể văn hoá tinh thần có giá trị. Với hơn một trăm tác gia Hán Nôm, Hƣng
Yên xứng đáng đƣợc xếp là mảnh đất của văn học. Với số lƣợng tác gia
phong phú nhƣ vậy nên những tác phẩm Hán Nôm còn truyền lại ở đây cũng
rất đa dạng và mang nhiều phong cách.
Tuy nhiên, các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên từ trƣớc đến nay thƣờng
đƣợc nghiên cứu chung với các tác gia Hán Nôm cả nƣớc. Nếu không cũng
chỉ đƣợc nghiên cứu chung với các tác gia Hán Nôm Hải Dƣơng. Giả nhƣ có
tác phẩm nghiên cứu độc lập thì cũng rất sơ sài, thậm chí lẻ tẻ. Nói chung là ít
đƣợc nghiên cứu độc lập.
Vì vậy, cho đến giai đoạn 1884 – 1919 các tác gia Hán Nôm vẫn có
chung số phận nhƣ thế, thậm chí càng bị sao nhãng hơn. Có lẽ, tình trạng này
cũng do điều kiện lịch sử và tƣ tƣởng chung “hiếu cổ bạc kim”. Nhƣng với
thời gian đã ngót hai thế kỉ, chúng tôi thiết nghĩ những tác gia Hán Nôm giai





2
đoạn này cần đƣợc nghiên cứu. Bởi họ cũng đã trở thành nhân vật lịch sử đủ
để chứng minh cho văn hoá, văn học và sử học trên mảnh đất Hƣng Yên.
Với ngót hai thế kỉ nhiều biến động, các tác gia Hán Nôm thời này đã
tiếp nối các thế hệ Hán Nôm cổ xƣa của mảnh đất Phố Hiến văn hiến, từ đó

xuất hiện những quan hệ văn hoá cần đƣợc soi tỏ.
Hơn nữa, thời gian này nhiều công trình văn hoá đã đƣợc trùng tu, nó
để lại nhiều dấu ấn văn hoá Hán Nôm. Nhiều hội văn thơ đã xuất hiện. Những
công trình và tổ chức đó đã làm phong phú thêm di sản Hán Nôm của Hƣng
Yên. Giai đoạn 1884 - 1919 cũng là giai đoạn mà các lãnh tụ của những cuộc
khởi nghĩa lớn chống thực dân Pháp nhƣ khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Yên
Thế… phát triển trên diện rộng. Bởi vậy, số lƣợng tác gia có tƣ tƣởng mới
cũng bắt đầu xuất hiện và ngày càng nhiều.
Hơn nữa di sản văn hoá thành văn của dân tộc có một vai trò to lớn
trong việc giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách, đào tạo nhân tài cho các thế
hệ tƣơng lai của đất nƣớc. Chƣơng trình dạy học ngữ văn cải cách trong nhà
trƣờng phổ thông mà bộ giáo dục đang thực hiện đã dành một thời lƣợng cần
thiết cho chƣơng trình địa phƣơng. Nên đề tài “ Khảo sát các tác gia Hán
Nôm Hưng Yên giai đoạn 1884 – 1919” của chúng tôi sẽ có một đóng góp
nhất định trong việc giáo dục truyền thống văn hoá địa phƣơng, lịch sử địa
phƣơng và văn học địa phƣơng đối với các thế hệ trẻ.
Ngày nay, công tác nghiên cứu di sản Hán Nôm của dân tộc nói chung và
di sản Hán Nôm của Hƣng Yên nói riêng đang đƣợc quan tâm đặc biệt. Vì
vậy, những công trình nghiên cứu về các tác gia văn học Hƣng Yên trong một
vài năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều. Trong các công trình đã xuất bản
đó, các nhà nghiên cứu đã đề ra nhiều mục tiêu trong khảo sát các tác gia Hán





3
Nôm một cách có hệ thống và toàn vẹn nhất. Bởi thế, “ Khảo sát các tác gia
Hán Nôm Hưng Yên giai đoạn 1884 – 1919” mà chúng tôi thực hiện cũng
với mong muốn đóng góp cụ thể vào sự nghiệp ấy.

II – LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Bất kì một thực thể nào cũng có cuộc sống riêng của nó, không thể có
sự vật nằm ngoài quy luật này. Tính cá thể là bản chất của mọi sự vật, hiện
tƣợng nên để nhận thức đƣợc một đối tƣợng nào đó ta cần nắm đƣợc lịch sử
của đối tƣợng ấy. Nói một cách đơn giản là ta đi vào xem xét những biến
động trong thời gian mà sự vật ấy tồn tại. Công việc khảo cứu các tác gia
Hƣng Yên giai đoạn 1884 – 1919, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ
những vấn đề tiềm ẩn bên trong tác phẩm của các tác gia ấy. Khảo sát quá
trình lƣu truyền, biến dạng cũng nhƣ những dị bản của các tác phẩm chính là
cách tốt nhất giúp ta nắm bắt dƣợc những vấn đề xác thực và khám phá ra
những thông tin bổ ích.
Mỗi một tác giả, mỗi một tác phẩm trong giai đoạn mà ta nghiên cứu
đều là đối tƣợng của lịch sử. Vì thế, ngƣời nghiên cứu về vấn đề này từ xƣa
đến nay khá nhiều. Tuy nhiên, những tác gia có tầm ảnh hƣởng mang tính địa
phƣơng đang ít đƣợc chú ý. Mặc dù, những tác gia ấy có tác phẩm hàm chứa
nhiều tƣ tƣởng và phong cách mới, thậm chí có giá trị lịch sử và văn hoá rất
lớn. Ở Hƣng Yên giai đoạn 1884 – 1919 đã có nhiều tác gia và tác phẩm đang
chịu cảnh nhƣ thế. Có thể tác gia đó đƣợc ít ngƣời biết đến, hay ngƣời biết
đến thì lại không đủ khả năng nghiên cứu, nếu nghiên cứu thì lại rất sơ sài.
Nói nhƣ vậy không phải là chúng ta không có bài viết hay, có giá trị
nhất định. Nhƣ bộ Thƣ mục Hán Nôm của G.S Trần Nghĩa đã giới thiệu
đƣợc một vài tác gia Hán Nôm Hƣng Yên tiêu biểu. Bộ Từ điển danh nhân
của Nguyễn Quang Thắng khảo sát trên một khía cạnh nhất định các tác gia





4
này. Hay nhƣ các bộ từ điển về tác gia và tác phẩm Việt Nam của nhiều tác

giả khác Tất cả những tác phẩm ấy đều có tính khái quát trên diện rộng. Còn
về cấp độ cơ sở cũng đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về các tác
gia Hán Nôm Hải Hƣng, danh nhân Hƣng Yên. Nhƣ Tìm hiểu các tác gia
Hán Nôm Hải Hƣng của Nguyễn Nhã, Danh nhân Hƣng Yên của Nguyễn
Phúc Lai, và một số bài viết ngắn có liên quan đến các tác gia nhƣ bài viết của
Nguyễn Vinh Phúc, Dƣơng Thị Cẩm, Thanh Sơn…
Những bài viết trên phần nào xây dựng nên đƣợc hình ảnh của một văn
nhân thông qua giới thiệu về tiểu sử của của mỗi ngƣời, nhƣng tất cả còn ở
mức độ sơ lƣợc và mang tính tƣ liệu. Chƣa có một tác phẩm nào tập hợp đầy
đủ những gƣơng mặt văn nhân của Hƣng Yên giai đoạn 1884 – 1919, chƣa có
một tác phẩm nào giới thiệu đầy đủ tác phẩm của các tác gia trong giai đoạn
đó.
Chính vì thế, khảo sát các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên giai đoạn 1884 –
1919 sẽ là bƣớc đầu khám phá ra những giá trị còn tiềm ẩn bên trong các tác
phẩm. Nó sẽ mang lại cho chúng ta những hiểu biết chân thực nhất về tình
hình văn học Hƣng Yên trong giai đoạn đƣợc chọn lựa và hiểu cụ thể hơn về
những tác gia trong thời kì này.
III – ĐỐI TƢỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
A – Đối tƣợng
Đối tƣợng đƣợc chúng tôi xem xét trong đề tài này là những tác gia
Hán Nôm và tác phẩm Hán Nôm trên mảnh đất Hƣng Yên hiện đại, sống và
hoạt động xã hội trong khoảng nhƣng năm 1884 – 1919. Thông qua tác gia và
các tác phẩm chúng ta sẽ có cơ sở, những dữ liệu cần thiết để lý giải vấn đề
cần bàn tới trong luận văn.





5

B – Mục đích
- Lập đƣợc danh mục các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên giai đoạn 1884 –
1919 và những tác phẩm của họ đầy đủ nhất.
- Phân chia đƣợc các tác gia và tác phẩm Hán Nôm theo một tiêu chí
nhất định mà luận văn đặt ra.
- Trong những chừng mực nhất định tái lập lại đời sống văn hoá chính
yếu nhất của Hán Nôm ở Hƣng Yên trong giai đoạn đó. Từ đó thấy
đƣợc những bƣớc chuyển mình của văn hoá, văn học của Hƣng Yên từ
phạm trù truyền thống trên cơ sở giới thiệu tác gia và tác phẩm Hán
Nôm.
- Đánh giá các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên thông qua nghiên cứu đại
diện và nghiên cứu tổng hợp. Từ đó đƣa ra cái nhìn chung nhất về vấn
đề đƣợc đề cập.
IV – PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu nội dung mà đề tài đặt ra, chúng tôi đã sử
dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
1- Phƣơng pháp Duy vật biện chứng
Phƣơng pháp này xem xét các sự vật hiện tƣợng không phải trong trạng
thái tĩnh mà đƣợc xem xét trong trạng thái vận động không ngừng. Chúng
không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ ràng buộc, biện chứng, tác động qua
lại lẫn nhau. Phƣơng pháp này dùng trong đề tài nghiên cứu để xem xét các
yếu tố đƣợc đề cập đến trong từng tác gia và các tác phẩm của các tác gia có
mối quan hệ nhƣ thế nào đến việc xem xét tình hình trong quá trình phát triển
văn học cũng nhƣ văn hoá ở Hƣng Yên.





6

2 – Phƣơng pháp duy vật lịch sử
Là phƣơng pháp nghiên cứu các sự vật hiện tƣợng dựa trên quan điểm
lịch sử cụ thể. Mỗi một hiện tƣợng văn hoá, lịch sử, văn học… đều có quá
trình lịch sử phát triển lâu dài. Mỗi một hiện tƣợng đều ẩn chứa bên trong nó
cả quá khứ, hiện tại cũng nhƣ tƣơng lai phát triển hay lụi tàn. Vì vậy, đề tài
nghiên cứu này chúng cũng đã biết kế thừa và phát huy những kết quả nghiên
cứu lịch sử phát triển. Thông qua khảo sát các tác gia Hán Nôm giai đoạn
1884 – 1919, dựa trên quan điểm lịch sử mà chúng ta phân tích đƣợc quá khứ
trong hiện tại và hƣớng phát triển cho tƣơng lai.
3 – Phƣơng pháp thống kê
Đây là phƣơng pháp dùng để nghiên cứu các sự vật hiện tƣợng trong
các lĩnh vực, trong mọi điều kiện không gian và thời gian cũng nhƣ hoàn cảnh
khác nhau, gồm có:
3.1 Thống kê mô tả
Kể lại những sự vật hiện tƣợng xảy ra trong quá trình lịch sử mà các tác
gia Hán Nôm Hƣng Yên giai đoạn này chứng kiến. Dựa vào cơ sở thực tế
bằng văn viết của mình, chúng ta có thể giúp đối tƣợng quan tâm nhìn nhận
và hiểu đƣợc vấn đề cần nghiên cứu. Trong đề tài này, chúng tôi đã mô tả
thân thế sự nghiệp, cũng nhƣ quê quán của tác gia, số lƣợng văn bản, vị trí lƣu
trữ văn bản… Bên cạnh đó để lý giải những điều cần phân tích.
3.2 Thống kê so sánh
Đây là phƣơng pháp đƣợc sử dụng để so sánh với những kết quả đã
nghiên cứu trong các thời điểm khác nhau. Để từ đó có sự chính xác và rõ
ràng nhất về nội dung mà vấn đề trong luận văn đặt ra.





7

4 – Phƣơng pháp thu thập xử lý dữ liệu
Sử dụng phƣơng pháp này trong đề tài nghiên cứu là rất cần thiết có thể
trực tiếp dựa vào những tác phẩm của các tác gia, những cuốn gia phả của
dòng họ, cũng có thể gián tiếp thông qua các tài liệu, sách vở, tạp chí, chuyện
kể, gặp gỡ phỏng vấn những cá nhân có hiểu biết nhất định về các vấn đề có
liên quan đến luận văn; toàn bộ dữ liệu sẽ làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.
Thông qua nhiều nguồn tƣ liệu khác nhau để đi đến trình bày có cơ sở về mặt
thực tiễn khoa học nhất.
5 – Phân tích ngữ văn
Là phƣơng pháp phân tích, đánh giá dữ liệu thu thập đƣợc để đƣa ra kết
luận cần thiết.
V – NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Việc đi vào khảo cứu những tác gia của Hƣng Yên giai đoạn 1884 –
1919 sẽ mang lại nhiều giá trị to lớn. Bởi chúng ta không thể hiểu hết về một
thời kì văn học nào nếu không hiểu về các tác gia cũng nhƣ tác phẩm trong
giai đoạn đó. Vì vậy, khi đi vào tìm hiểu những tác gia Hán Nôm giai đoạn
này chúng ta có thể hiểu thêm về nhiều vấn đề khác nhƣ lịch sử, văn hoá, xã
hội… đƣơng thời mà các tác gia đó đang sống.
Chính vì những lẽ đó mà việc đi vào khảo sát các tác gia Hán Nôm
Hƣng Yên giai đoạn 1884 – 1919, chúng ta sẽ thấy nó mang lại giá trị thực
tiễn cao.
Đó là lập đƣợc danh mục cụ thể về tác giả và tác phẩm trong giai đoạn
này. Thông qua đó còn mang đến cách hiểu mới, cách nhìn nhận mới và đúng
đắn hơn về văn học Hƣng Yên trong giai đoạn 1884 - 1919. Ngoài ra,còn góp
phần phát huy và bảo lƣu những giá trị văn hiến của dân tộc.






8
Đồng thời đề tài này của chúng tôi sẽ có những đóng góp nhất định
trong việc giáo dục văn học địa phƣơng, văn hoá địa phƣơng cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó nó còn giúp cho việc khảo sát các tác gia Hán Nôm giai đoạn
1884 – 1919 nói riêng và nền văn học của tỉnh nói chung có cơ sở và thông
tin. Mong muốn đƣợc góp công sức thì nhiều nhƣng khả năng của mỗi ngƣời
đều có hạn. Vì thế, thông qua đề tài này phần nào sẽ là một kênh thông tin để
chúng ta tìm hiểu văn học Việt Nam trong giai đoạn vừa đƣợc đề cập, cũng
nhƣ những dòng văn thơ điển hình cùng giai đoạn; để từ đó làm phong phú
thêm nguồn thông tin tƣ liệu về các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên, các tác gia
Hán Nôm Việt Nam…
VI – KẾT CẤU LUẬN VĂN
Luận văn của chúng tôi đƣợc chia làm hai phần chính, trong mỗi phần
sẽ có những đề mục nhỏ để giới thuyết những vấn đề cần bàn.
Mở đầu: Giới thuyết chung.
Chƣơng 1. Các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên giai đoạn 1884 – 1919 và
những đánh giá chung.
Chƣơng 2 Các tác gia Hán Nôm Hƣng Yên gia đoạn 1884 -1919 thông
qua nghiên cứu đại diện.
Phụ lục






9
CHƢƠNG 1
CÁC TÁC GIA HÁN NÔM HƢNG YÊN
GIAI ĐOẠN 1884 – 1919 VÀ NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG


1.1 Địa bàn Hƣng Yên xƣa và địa bàn Hƣng Yên nay
Về địa lý tỉnh Hƣng Yên xƣa theo Đại Nam nhất thống chí thì đông
tây cách nhau 43 dặm, nam bắc cách nhau 39 dặm. Phía đông giáp huyện
Quỳnh Côi tỉnh Nam Định, phía tây giáp sông Nhị hà, đối ngạn với huyện
Nam Xang và Phú Xuyên tỉnh Hà Nội; phía bắc giáp huyện Đƣờng Hào tỉnh
Hải Dƣơng, phía đông nam giáp huyện Thƣ Trì tỉnh Nam Định, phía đông
giáp huyện Thanh Miện Hải Dƣơng.
Nguyên trƣớc đây là đất của hai lộ Sơn Nam thƣợng và Sơn Nam hạ.
Đời Hán thuộc đất Giao Chỉ, có lẽ là đất huyện Chu Diên; đời Lƣơng đặt là
quận Vũ Bình, đời Tuỳ bỏ, đến đời Đƣờng đặt làm châu Diên, lại đặt hai
huyện An Định và Cao Lăng thuộc châu Diên. Đến đầu đời Ngô nƣớc ta thì
đổi là châu Đằng, đời Tiền Lý đổi là phủ Thái Bình, đời Lý Cao Tông đổi là
Đằng Châu, Khoái Châu.
Nhà Trần (1225-1400): Năm 1229 nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý thành 12
lộ, Hƣng Yên thuộc Khoái Lộ. Tháng 4 năm 1297, nhà Trần lại tiếp tục đổi
các lộ, phủ, thành, trấn; vùng đất Hƣng Yên thuộc Thiên Trƣờng phủ lộ.
Nhà Hồ-Trần kháng chiến chống quân Minh (1407- 1413): Tháng 6 năm
1407 nhà Minh đổi An Nam thành Giao Chỉ, lập thành 17 phủ, vùng Hƣng
Yên thuộc phủ Kiến Xƣơng.
Thời kỳ đấu tranh chống nhà Minh (1414-1427): Vùng Hƣng Yên
vẫn thuộc phủ Kiến Xƣơng.





10
Năm 1426, khi tiến quân ra Đông Đô, Lê Lợi chia nƣớc ta làm 4 đạo, Hƣng
Yên thuộc Nam đạo.

Thời Lê sơ (1428-1527): Tháng 6/1466 (tức năm Quang Thuận thứ 7),
Lê Thánh Tông chia nƣớc ta làm 12 đạo thừa tuyên, Hƣng Yên thuộc thừa
tuyên Thiên Trƣờng. Tháng 3/1469 (tức năm Quang Thuận thứ 10), năm đầu
tiên nhà nƣớc định bản đồ, Thiên Trƣờng lại đổi là Sơn Nam quản 11 phủ, 42
huyện, phủ Khoái Châu quản 5 huyện gồm Đông Yên, Tiên Lữ, Kim Động,
Phù Dung, Thiên Thi; phủ Tiên Hƣng quản 4 huyện gồm Ngự Thiên, Duyên
Hà, Thần Khê, Thanh Lan. Tháng 4/1490 (năm Hồng Đức thứ 21), nƣớc ta
đƣợc chia làm 13 xứ, Hƣng Yên thuộc xứ Sơn Nam.
Nhà Mạc (1527-1533): Tháng 6 năm 1527, nhà Mạc (Đăng Dung) đem
các lộ của Khoái Châu thuộc vào Hải Dƣơng.
Thời Hậu Lê (Lê-Trịnh, 1533-1788): Nhà Lê lại đổi lại nhƣ cũ.

Bản đồ Hƣng Yên năm 1740





11
Năm Cảnh Hƣng thứ 2 (1741) tháng giêng: Nhà Lê chia Sơn Nam
thành 2 lộ Sơn Nam thƣợng và Sơn Nam hạ, phủ Khoái Châu thuộc lộ Sơn
Nam thƣợng, phủ Tiên Hƣng thuộc Sơn Nam hạ.
Nhà Tây Sơn (1778-1802): Hai phủ Sơn Nam thƣợng và Sơn Nam hạ
đƣợc đổi lại làm 2 trấn Sơn Nam thƣợng và Sơn Nam hạ.
Nhà Nguyễn (1802-1945):
 Năm Gia Long thứ nhất (1802) lấy 2 trấn thƣợng và hạ lệ thuộc vào
Bắc thành (Sơn Nam thƣợng, hạ, Kinh Bắc, Sơn Trâu, Hải Dƣơng là 5
nội trấn của Bắc thành).
 Năm Minh Mạng thứ ba 1822, trấn Sơn Nam thƣợng đổi là trấn Sơn
Nam, trấn Sơn Nam hạ đổi là trấn Nam Định.

Năm Minh Mạng thứ 12 (tháng 10/1831): Minh Mạng tiến hành một cuộc
cải cách hành chính địa phƣơng, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành
tỉnh, chia cả nƣớc thành 30 tỉnh, trong đó có tỉnh Hƣng Yên.
Các trấn phía Bắc đƣợc đổi thành 18 tỉnh, dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu và
tổng, xã. Tỉnh Hƣng Yên có phủ Khoái Châu và 5 huyện (Đông An, Kim
Động, Thiên Thi, Phù Dung, Tiên Lữ). Cải tổ lại hệ thống các quan lại đứng
đầu tỉnh, bỏ các chức cũ mà đặt mới nhƣ Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án
sát, Lãnh binh ở các tỉnh.
Sau nhiều lần thay đổi, mỗi triều đại đều có cải cách, canh tân bộ máy
hành chính từ Trung ƣơng đến cơ sở cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và
thuận bề cho việc cai trị, điều hành.
Cuối tháng 2 đầu tháng 3/1890 thực dân Pháp thành lập đạo Bãi Sậy
gồm 4 huyện Văn Lâm, Cẩm Lƣơng, Yên Mỹ và Mỹ Hào.





12
Năm 1891 thực dân Pháp lại bỏ đạo Bãi Sậy, đƣa các huyện Văn Lâm,
Yên Mỹ, Mỹ Hào vào Hƣng Yên.
Ngày 28/11/1894 chính quyền thực dân cắt hai huyện Hƣng Nhân và
Duyên Hà của Hƣng Yên về Thái Bình.
Năm 1945 sau khi giành đƣợc chính quyền, tỉnh Hƣng Yên gồm có các
huyện: Khoái Châu, Mỹ Hào, Tiên Lữ, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ, Văn
Lâm, Yên Mỹ.
Đầu năm 1947 huyện Văn Giang chuyển về Hƣng Yên, Hƣng Yên chính
thức có 1 thị xã và 9 huyện.
Giữa tháng 11/1967 Hội đồng nhân dân tỉnh Hƣng Yên họp phiên bất
thƣờng, bàn chuẩn bị việc hợp nhất hai tỉnh Hƣng Yên và Hải Dƣơng. Hội

nghị ra Nghị quyết đề nghị Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội cho hợp nhất hai tỉnh
lấy tên là tỉnh Hải Hƣng.
Ngày 6/11/1996 Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 phê chuẩn việc phân
chia lại địa giới hành chính tỉnh. Hải Hƣng đƣợc tách ra làm hai tỉnh; Hƣng
Yên và Hải Dƣơng. Tỉnh Hƣng Yên có diện tích tự nhiên là 923,09km2, dân
số 1.075.517 ngƣời, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Hƣng Yên,
Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Ân Thi, Kim Động. Vị trí địa lý, phía bắc
giáp tỉnh Bắc Ninh và thủ đô Hà Nội; phía đông giáp tỉnh Hải Dƣơng; phía
Nam giáp tỉnh Thái Bình và Hà Nam; phía tây giáp tỉnh Hà Nam, và thủ đô
Hà Nội.
Tháng 5/ 1998 chia lại một số huyện trên địa bàn tỉnh huyện Mỹ Văn
thành ba huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào. Huyện Châu giang thành hai





13
huyện Khoái Châu và Văn Giang. Huyện Phù Tiên chia thành huyện Phù Cừ
và Tiên Lữ. Từ đây, tỉnh Hƣng Yên có 10 huyện và thị xã.
Trong đề tài này, chúng tôi lấy tỉnh Hƣng Yên đƣợc phân chia sau năm
1998 để nghiên cứu về các tác gia và tác phẩm giai đoạn 1884 - 1919.
1.2 Khảo sát các tác gia và tác phẩm Hán Nôm Hƣng Yên
1.2.1 Tác gia Hán Nôm Hưng Yên theo lịch đại
Là một tỉnh nằm giữa đồng bằng Sông Hồng, Hƣng Yên có truyền thống
vẻ vang trong lao động sản xuất, chống chọi với thiên tai và chống giặc ngoại
xâm, lịch sử Phố Hiến – Hƣng Yên đã qua nhiều phen biến đổi thăng trầm.
Ngƣời ta biết đến Phố Hiến nhƣ một vùng đất văn hoá nhƣng cần khẳng định
thêm về truyền thống hiếu học, vẻ đẹp văn học ở vùng quê này…. Tuy nhiên,
thời kì hƣng thịnh xƣa kia đã qua, những gì còn lại chỉ đƣợc lƣu giữ trong các

trang viết của những nhân sĩ đƣơng thời.
Có một điều mà tất cả các nhà nghiên cứu văn học sử đều thừa nhận. Trên
bầu trời văn học Việt Nam, trong mọi thời đại, mảnh đất Hƣng Yên bao giờ
cũng góp mặt những ngôi sao sáng nhất làm cho bầu trời văn học càng thêm
lung linh và ẩn chứa vẻ diệu kỳ. Tính từ thế kỉ X đến nửa cuối thế kỉ XIX nền
văn học Hán – Nôm trên mảnh đất Phố Hiến đã góp mặt vào làng Nho Việt
Nam những tên tuổi lớn.
Thời Lý – Trần đất Hƣng Yên thuộc Đằng Châu, lộ Long Hƣng và lộ
Khoái văn học thời kỳ này phát triển hết sức đa dạng, bao trùm lên cả thời kỳ
này là tƣ tƣởng Phật giáo khá đậm nét, ngƣời đầu tiên có thể kể đến lF
Nguyên phi Ỷ Lan, Đỗ Thế Diên và một số tác gia vô danh khác.





14
Sang đến đời Trần thì văn học ở đây rực rỡ hơn, lúc này các tác gia xuất
hiện ngày càng nhiều, những gƣơng mặt nổi bật nhất có thể kể đến Nguyễn
Trung Ngạn, Phạm Ngũ Lão
Đến thời Lê các tác gia Hƣng Yên xuất hiện với số lƣợng lớn. Những
gƣơng mặt tiêu biểu của thời kỳ này có thể kể đến Hoàng Bình Chính, Hoàng
Công Chí, Phan Phu Tiên, Vƣơng Sƣ Bá, Phạm Công Trứ, Đào Công Soạn,
Đào Nghiễm, Trình Phong, Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Danh, Lê Hữu Kiều, Lê
Hữu Trác, Lê Tô, Bùi Trí Dĩnh, Vũ Lãm, Trƣơng Thị Ngọc Chử
Thời Mạc Hƣng Yên không những xuất hiện nhiều nhà khoa bảng đỗ
trạng nguyên ( Dƣơng Phúc Tƣ, Đỗ Tông, Nguyễn Kỳ) mà còn là thời kỳ xuất
hiện nhiều tác gia có những tác phẩm lớn nhƣ Dƣơng Phúc Tƣ, Đỗ Nhân,
Nguyễn Phúc Chiêu, Lê Tuấn Ngạn, Đào Công Soạn, Trình Phong
Sang đến thời Nguyễn, các tác gia Hán Nôm đồng loạt xuất hiện với

nhiều thành phần, địa vị khác nhau. Nhƣng tựu chung lại, họ đều là những cây
bút xuất sắc nhƣ Hoàng Công Bảo, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Khắc Trạch,
Bùi Thực, Hoàng Văn Mỹ, Nguyễn Đình Tố, Trần Tú Dĩnh, Nguyễn Thiện
Thuật, Nguyễn Thạc Chi, Phạm Đình Trạc, Phạm Sĩ Ái, Phạm Văn Thụ, Bùi
Ngọc Quỹ, Lê Cù, Chu Mạnh Trinh, Dƣơng Bá Trạc Nguyễn Gia Cát,
Nguyễn Hành, Nguyễn Tuỵ Trân, Nguyễn Văn San, Phan Văn Ái, Tô Nha,
Tô Ngọc Huyễn, Ngô Quang Huy…
Với tập hợp của hơn 70 tác gia qua các thời kỳ, phần nào cho chúng ta
thấy đƣợc tập hợp đa dạng của các văn nhân trên mảnh đất Hƣng Yên. Tuy
thế, những tác gia có tầm ảnh hƣởng lớn đến xã hội cũng nhƣ đến nhận thức
văn chƣơng trong thời gian tác gia đó sống lại chƣa đƣợc tìm hiểu và nghiên
cứu nhiều. Nhƣng dẫu sao, họ đã tác động lớn đến diện mạo văn học trên đất





15
Phố Hiến và tạo nên bƣớc chuyển mình mới so với nhiều vùng quê khác. Họ
là những con ngƣời cả đời cống hiến cho một lý tƣởng cao đẹp mà mình theo
đuổi, ngƣời thích thú với cảnh điền viên, ngƣời lại vui với thú sách đèn, ngƣời
lại hăng say với sự nghiệp cách mạng, cho sự nghiệp chung của toàn dân tộc,
ngƣời lại bận rộn với con đƣờng quan nghiệp và tƣ tƣởng của họ đã trƣờng
tồn, áng văn thơ của họ đã làm nên những tiếng vang lớn trong trào lƣu cứu
quốc, giải phóng dân tộc và họ đã trở thành niềm tự hào cho mảnh đất Phố
Hiến xƣa và Hƣng Yên nay.
1.2.2 Tác phẩm Hán Nôm Hưng Yên theo lịch đại
Với số lƣợng các tác gia lớn nhƣ vậy, phần nào chúng ta cũng mƣờng
tƣợng ra đƣợc số lƣợng tác phẩm Hán Nôm có trên mảnh đất Hƣng Yên. Trải
qua những biến cố của lịch sử và sự phá hoại của thiên nhiên, những tác phẩm

Hán Nôm trên đất Hƣng Yên đã bị thất lạc nhiều. Dù đã đƣợc lƣu tâm sƣu
tầm, khai thác và bảo quản trong một vài năm gần đây thì sự mai một, thất
truyền cũng khó tránh khỏi.
Với ngót ngàn năm lịch sử từ triều Lý đến triều Nguyễn số lƣợng tác
phẩm Hán Nôm do các tác gia ngƣời Hƣng Yên trƣớc tác khá đa dạng.
Thời Lý với “ Sắc không” của Nguyên phi Ỷ Lan, “ Cảm Ân tự bi ký”
của Đỗ Thế Diên
Sang thời Trần có “Thuật hoài”, “ Khấp Hƣng Đạo Vƣơng” của Phạm
Ngũ Lão; “ Giới Hiên thi tập” của Nguyễn Trung Ngạn
Đến thời Lê các tác phẩm xuất hiện với số lƣợng lớn nhƣ: “ Hƣng Hoá
xứ phong thổ” của Hoàng Bình Chính; “ Nham Khê thi tập” của Vƣơng Sƣ
Bá; “Đại Việt sử kí toàn thƣ”, “47 mục giáo điều” của Phạm Công Trứ;
“Nghiã Xuyên quan quang tập” của Đào Nghiễm; “ Mạn hứng” của Trình





16
Phong; “Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm; “Hoàng hoa nhã vịnh”, “
Bắc sứ hiệu tần thi” của Lê Hữu Kiều; “Hải Thƣợng y tông tâm lĩnh”,
“Thƣợng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác
Thời Mạc những tác phẩm đáng lƣu tâm có “ Vịnh sử thi tập” của Đỗ
Nhân; với mƣời bài thơ trong “Toàn việt thi lục” của Lê Tuấn Ngạn; ba
bài thơ trong “Toàn việt thi lục” của Đào Công Soạn
Sang đến thời Nguyễn, chúng ta có các tác phẩm “Nhuế Xuyên bạch bút
thi tập”, “ Nhuế Xuyên tập”, “ Nhuế Xuyên thi tập”, “Nhuế Xuyên văn
tập” của Nguyễn Khắc Trạch; “ Hào Xuyên Hầu thi tập”, “Hoạ hồ tập”
của Bùi Thực; “Thuấn Thiều thi văn tập” của Hoàng Văn Mỹ; “Sử triều
ngâm lục”, “Thiên nam lịch triều hội tuyển” của Nguyễn Đình Tố; “ Gia

lễ”, “ Quan đào thi tập” của Trần Tú Dĩnh; “ Học ngâm tồn thảo binh”,
“Hoạ hồ tập” của Phạm Đình Trạc; “ Đồng Giang ất tiến sĩ Phan tƣớng
công tập cảo”, “ Phƣợng minh tập” của Phan Văn Ái; “ Phạm Đôn Nhân
nguyên thảo”, “ Nghĩa Khê thi tập” của Phạm Sĩ Ái; “Thái Bình tỉnh
thông sử”, “ An Nam sơ học sử lƣợc” của Phạm Văn Thụ; “ Hữu Trúc thi
tập”, “ Yên đài anh hoại”, “ Hải phái thi văn tập”, “ Bùi tiên sinh thi
tập” của Bùi Ngọc Quỹ; “ Trúc Vân thi văn tập”; “ Hƣơng Sơn nhật
trình ca” của Chu Mạnh Trinh; “ Bi nhu quận phƣơng trích lục”, “ Hoa
trình thi tập” của Nguyễn Gia Cát; “ Đại Việt cổ kim diên cách địa chí
khảo” của Nguyễn Tuỵ Trân; “Cao Man thế thứ kỉ lƣợc” của Tô Ngọc
Huyễn; “ Minh Mệnh chính yếu”, “ Nam hành tập”, “ Bắc hành tập” của
Tô Trân…
Qua đây, chúng ta thấy sự phát triển của văn học và văn hóa không bao
giờ tách rời quan hệ truyền thống, không bao giờ tồn tại trong thế đơn lẻ mà
nó luôn có sự giao thoa và ảnh hƣởng của một nền hay một giai đoạn văn học





17
nào đó. Ở Hƣng Yên cũng vậy, nền văn học trên mảnh đất “Đô thị Tiểu Tràng
An” xuyên suốt một quá trình lịch sử lâu dài và để lại những nét đặc trƣng
riêng. Nó hiện lên nhƣ bộ mặt tinh thần để chúng ta có thể soi tỏ lịch sử, cũng
nhƣ văn hóa trong từng giai đoạn. Bởi tất cả đều đƣợc văn học đƣơng thời
phản ánh một cách chi tiết và xác thực. Hiển nhiên, đó là sản phẩm đƣợc kết
tinh qua những thăng trầm của lịch sử, qua sự tiếp biến của nền văn học trƣớc.
Đa số các tác phẩm trên đều thuộc lĩnh vực văn học, một số ít thuộc lĩnh
vực sử địa, triết học, hay xã hội học Mà càng về giai đoạn sau các tác phẩm
vƣợt ra khỏi khuôn khổ văn chƣơng thể hiện chí, tình xuất hiện thêm càng

nhiều, qua đó góp thêm vào những tác phẩm có tính chất nghiên cứu về sử
tịch, địa lý của địa phƣơng nhiều hơn. Tất cả điều đó âu cũng do nhận thức
chung trong từng thời điểm lịch sử khác nhau mà ra.
1.3 Hán Nôm Hƣng Yên giai đoạn 1884 -1919
Văn học trên mảnh đất Phố Hiến từ những năm 1884 – 1919 không chỉ
hình thành nên bởi tầng lớp các nhà trí thức có phẩm hàm, chức sắc, đỗ đạt
cao. Họ là tập hợp đông đảo các nhà văn, nhà thơ có tinh thần cấp tiến. Tất cả
những ngƣời này đều có chung một mong muốn phục hƣng nền văn học tại
mảnh đất gắn bó với bản thân từ thuở thơ ấu thức dậy sao cho xứng với những
gì nó vốn có từ xƣa. Đó là những con ngƣời mang trong mình hoài bão lớn.
Tuy nhiên, nếu xét về số lƣợng những nhà khoa bảng trong tỉnh Hƣng Yên,
thì đây là một tầng lớp khá đông đảo, nhƣng đóng góp vào việc hình thành
nên một trào lƣu văn học đƣơng đại khi đó thì các nhà khoa bảng tham gia
không thật nhiều, ƣớc chừng họ có khoảng một phần mƣời trong hàng ngũ
những ngƣời đăng khoa. Bởi vậy, số lƣợng những tác gia còn lƣu lại tác phẩm
đến nay nếu phân chia trên bình diện đỗ đạt trong khoa cử và không đỗ đạt

×