Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng và việc vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 89 trang )


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
5. Đóng góp của luận văn 6
6. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
QUẦN CHÚNG 7
1.1. Khái quát chung về công tác vận động quần chúng 7
1.1.1. Khái niệm công tác vận động quần chúng 7
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác vận động quần chúng 8
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản của
công tác vận động quần chúng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh 17
1.2.1. Về vai trò của quần chúng nhân dân 17
1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
vận động quần chúng 24
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 47
2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng ở nước ta trong thời
gian vừa qua 47

2.2. Một số giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác vận động quần chúng trong giai đoạn hiện nay 52
2.2.1. Tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công


tác vận động quần chúng 53
2.2.2. Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc 63
2.2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, công chức trong việc
thực hiện công tác vận động quần chúng 70
2.2.4. Đẩy mạnh thực hiện công tác vận động quần chúng tham gia vào
giải quyết khiếu nại, tố cáo 75
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85









1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước Việt Nam trải ngàn năm dựng nước và giữ nước với biết bao
những biến đổi thăng trầm. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, vai trò của
nhân dân cũng luôn gắn với sự tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Trải
qua 1000 năm Bắc thuộc nhưng dân tộc Việt vẫn luôn gìn giữ những truyền
thống của dân tộc và kiên cường đấu tranh để giành độc lập, thống nhất Tổ
quốc. Nhưng với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong khu vực, sau khi
thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, đất nước vẫn luôn phải
đương đầu với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh hơn nhiều lần. Do đó, để giữ

vững độc lập chủ quyền của đất nước, công việc quan trọng và trước hết là
phải củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc, huy động toàn thể nhân dân tham gia
vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử đã ghi nhận biết bao
những anh hùng dân tộc đã dựa vào sức mạnh của nhân dân để chiến đấu và
giành chiến thắng như: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Hưng
Đạo, Nguyễn Trãi… Tất cả những bậc anh hùng đó đều có chung một mục
tiêu là độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân, nên đã tập hợp được đông
đảo nhân dân đứng lên đấu tranh giành những thắng lợi lịch sử cho đất nước.
Vì vậy, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã minh chứng
một quy luật, nhân dân luôn là lực lượng chủ yếu, quyết định sự hình thành và
phát triển của đất nước. Chỉ khi nào phát huy được vai trò, sức mạnh của toàn
dân tộc, đất nước mới thực sự có độc lập, chủ quyền.
Ngay sau khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đã có biết bao
những văn thân, sỹ phu, anh hùng hào kiệt đứng lên dựng cờ khởi nghĩa và
tìm tòi những con đường cứu nước mới nhưng đều không thành công. Có rất
2

nhiều nguyên nhân của những thất bại đó, nhưng điều tiên quyết đó là nhân
dân - một lực lượng chủ yếu nhất cho mọi thắng lợi, thì các phong trào đó
chưa thực sự có được. Ý thức được điều đó, Hồ Chí Minh - lãnh tụ của Đảng
Cộng sản và dân tộc Việt Nam, sau khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã
trở về để lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập. Chính Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thấy được một trong những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là "quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử nhân loại". Từ đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ mục đích
trước hết của Người là: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức
họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập tự do. Bác
Hồ đã đúc kết “Muốn thành công phải có 3 điều kiện là thiên thời, địa lợi và
nhân hòa. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, địa lợi không quan
trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”. Do đó, Người đã lãnh

đạo Đảng và Nhà nước huy động lực lượng của toàn dân tộc thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Việc dân vận
rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công".
Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, công tác vận động quần chúng càng
phải được quan tâm hơn nữa. Để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững
đòi hỏi phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc. Sức mạnh đó là trí
lực, tài lực, vật lực của mỗi một người dân góp chung vào sự nghiệp phát
triển đất nước. Đó chính là sự tiếp nối truyền thống gắn kết cộng đồng từ
ngàn đời của dân tộc và tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy, phát
triển trong thời đại mới. Để có được sức mạnh to lớn ấy, Đảng và Nhà nước ta
cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
chúng trong tình hình mới, luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức quần
3

chúng nhân dân tham gia vào mọi công việc của đất nước là vấn đề chiến lược
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng,
mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Do đó, đây là vấn đề được
nhiều học giả quan tâm và đi sâu nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, thời điểm
khác nhau bởi những nghiên cứu lý luận của vấn đề sẽ đem lại cho hoạt động
thực tiễn những hiệu quả nhất định, hoặc cũng có thể là một yếu tố, lực lượng
quyết định sự phát triển của lịch sử - xã hội.
Trong lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân đã được rất nhiều bậc
hiền triết, anh hùng đề cập và phát huy để giành những thắng lợi to lớn, đó là
những nhân vật tiêu biểu như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Trãi,… Đến giai đoạn Mác - Ăngghen - Lênin thì vấn đề này đã thực sự được
luận giải một cách khoa học, hệ thống và có ý nghĩa cách mạng lớn lao.

Ở Việt Nam trong thế kỷ XX, chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm thấy
con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc thì vai trò, sức mạnh của nhân dân
mới được huy động tối đa.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã được rất nhiều học giả thực
hiện ở những nội dung khác nhau để làm rõ nội dung, ý nghĩa của những tư
tưởng của Người. Đối với công tác vận động quần chúng của Hồ Chí Minh,
theo tôi được biết đã có một số công trình nghiên cứu, cụ thể như:
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2008), Tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong phần "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết và chính
sách mặt trận dân tộc thống nhất", các tác giả đã trình bày một cách cơ bản
những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của khối
4

đại đoàn kết toàn dân: "Với Hồ Chí Minh, "đoàn kết, đại đoàn kết" là một
trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; một
chiến lược cách mạng - chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có thể
tập hợp được, hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong đấu tranh
với kẻ thù dân tộc, giai cấp". Trong nội dung "Về phương pháp luận Hồ Chí
Minh" tập thể tác giả đã khẳng định "Từ những bài học trong thực tiễn hoạt
động của mình, Hồ Chí Minh đã nêu cao quan điểm về con người, quan
điểm về nhân dân: Tất cả vì con người và do con người; tất cả vì dân và do
dân; con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất". Hồ Chí Minh luôn
khẳng định vai trò quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh to
lớn của lực lượng toàn dân. Tại chương VI "Tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh", Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: "Lấy dân làm gốc, động
viên toàn dân, vũ trang toàn dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện
là nội dung cốt lõi nhất, nổi bật nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh".
- Phạm Văn Bính (chủ biên) (2008), Phương pháp dân chủ Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã minh chứng quan điểm

"lấy dân làm gốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định "Phương
pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo là từ trong quần chúng ra và
trở về nơi quần chúng". Theo Hồ Chí Minh, công tác vận động quần chúng là
một phương pháp dân chủ trong nhân dân. Đó là cách thức vận động và huy
động "tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân
nào" để "đem của dân, tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân".
Các tác phẩm nói trên là những công trình khoa học của các nhà lãnh
đạo hay các nhà nghiên cứu đều đã có những cách thể hiện riêng biệt và đã
đạt được hiệu quả ở những mức độ khác nhau. Và mặc dù công tác vận động
quần chúng không phải là nội dung chủ đạo, xuyên suốt ở các công trình này,
nhưng ở những phần nhất định, các tác giả đã khẳng định những nội dung tư
5

tưởng của Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng. Ngoài ra, còn có
rất nhiều công trình của các nhà nghiên cứu như: Đặng Xuân Kỳ, Song
Thành, Hoàng Chí Bảo đã đề cập đến vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy, cho đến nay, nhìn chung vẫn
chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện về những tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng. Với bộ
Hồ Chí Minh toàn tập là một nguồn tài liệu chủ đạo để luận văn hoàn thiện
những vấn đề nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công
tác vận động quần chúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam để
huy động, tập hợp mọi lực lượng tham gia vào sự nghiệp cách mạng nhằm
giành những thắng lợi vĩ đại, đưa đến độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân và chủ nghĩa xã hội cho Tổ quốc. Từ đó, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác vận động
quần chúng trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng
của quần chúng - luôn tham gia vào mọi công việc của cách mạng, là vấn đề

chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng;
+ Những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
quá trình lãnh đạo và thực hiện công tác vận động quần chúng.
- Phương pháp nghiên cứu:
6

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp:
những phương pháp luận chung của triết học Mác - Lênin; những phương
pháp của khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp
lôgíc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh…
5. Đóng góp của luận văn
Thông qua luận văn, tác giả mong muốn góp phần tìm hiểu tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, đó là những
giá trị lý luận và thực tiễn mà Người đã để lại. Đồng thời, mong muốn
những giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng
tiếp tục được vận dụng, phát huy có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay để
góp phần xây dựng đất nước dân chủ, công bằng, giàu đẹp, văn minh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 02 chương và 04 tiết:
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng.
Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
chúng trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải pháp.







7

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG

1.1. Khái quát chung về công tác vận động quần chúng
1.1.1. Khái niệm công tác vận động quần chúng
Trong Từ điển mở của Wikypedia "quần chúng" có nghĩa là: 1- nhân
dân đông đảo (được sự ủng hộ của quần chúng, phát động quần chúng), 2- số
đông người ngoài Đảng, là đối tượng lãnh đạo của Đảng (quần chúng góp ý
cho từng đảng viên). Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học,
quần chúng có nghĩa: 1- những người dân bình thường trong xã hội (nói tổng
quát và trong quan hệ với lãnh đạo), cách mạng là sự nghiệp của quần chúng;
2- số đông người ngoài đảng và là đối tượng lãnh đạo trực tiếp của một tổ
chức đảng (nói trong quan hệ với tổ chức đảng ấy), quần chúng công nhân
trong nhà máy, quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, đi sát quần chúng; 3-
người ngoài đảng (nói trong quan hệ với đảng lãnh đạo), một quần chúng cảm
tình của đảng [38, tr.323]. Theo Lênin thì "Khái niệm "quần chúng" là có thể
thay đổi tuỳ theo sự thay đổi tính chất của đấu tranh thay đổi theo cái nghĩa
người ta hiểu quần chúng là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người
bị bóc lột; người cách mạng không thể hiểu khác thế được".
Do vậy, công tác vận động quần chúng là công việc của Đảng, Nhà
nước hoặc của các đoàn thể nhằm tuyên truyền, giải thích, động viên làm cho
đông đảo nhân dân ủng hộ hoặc tự nguyện làm theo những công việc mang
lại lợi ích chung.
Khái niệm "công tác vận động quần chúng" cũng được sử dụng bằng

cụm từ "dân vận". Trong Wikypedia, "dân vận" có nghĩa là tuyên truyền, vận
8

động nhân dân (công tác dân vận, các tổ chức dân vận). Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao
cho". Như vậy, công tác vận động quần chúng là tuyên truyền, động viên, tổ
chức đông đảo lực lượng nhân dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc để tiến
hành sự nghiệp cách mạng. Quan điểm của Bác trong công tác vận động quần
chúng là “không để sót một người dân nào” vì mỗi người dân, mỗi tầng lớp xã
hội đều giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc cách mạng.
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tình hình thực tiễn
của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về công tác vận
động quần chúng rất đầy đủ và ý nghĩa, trong đó thể hiện rõ quan điểm của
Người, thể hiện rõ tính đúng đắn đối với công tác dân vận trong suốt thời kỳ
thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và vẫn còn phù hợp với điều
kiện của đất nước hiện nay.
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác vận động quần chúng
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, ngay từ thời cổ đại
đã có rất nhiều bậc danh sĩ, vua chúa đưa ra quan niệm, tư tưởng "quốc dĩ dân
vi bản" (lấy dân làm gốc), bởi dân chính là bộ phận (lực lượng) đóng vai trò
quan trọng, quyết định sự tồn vong của lịch sử nhân loại.
Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn thời cổ đại đã sớm nhận ra vai trò
của dân chúng, ông đã dùng Nho giáo để giáo hoá, làm cho dân chúng phục
tùng thiên tử. "Nho gia thuận nhân tính mà điều hành chính sự nên tin dân yên
dân, tỏ rõ chân thành thi hành liêm chính để cốt yên dân" [13, tr.145]. Mạnh
Tử cho rằng: Thiên tử sở dĩ có được thiên hạ là do được "ứng mệnh trời",
9


nhưng muốn biết mệnh trời thì phải xem lòng dân "thiên mệnh tại ý dân". Vì
vậy, ông đặt ra nguyên tắc nổi tiếng cho nền chính trị nhân trị - đức trị là: Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý hơn hết, kế đó là xã tắc, vua
là nhẹ), đã thể hiện tư tưởng coi dân là gốc của nước. Trong các sách Tứ thư
của Khổng Tử và Mạnh Tử đã ghi lại nhiều câu nói nổi tiếng nhằm răn dạy
những bậc vua sáng suốt phải coi đó như đạo trời cần biết để trị nước. Nho
giáo cho rằng vua vì dân mà tồn tại, người điều hành chính sự rất chú ý đến
sự yêu ghét của dân chúng và phải thường xuyên bảo ban dân, nuôi dưỡng
dân, yêu mến dân, bảo vệ cho dân, cho nên nhẹ hình phạt thuế má. Tư tưởng
này khác hẳn với phái Pháp gia của Hàn Phi Tử cho rằng con người vốn có
tính ác nên nghi ngờ, không tin dân chúng, phải dùng thuật để khống chế dân
chúng, dân vì vua mà tồn tại, yêu cầu thần dân phải làm theo ý vua, đặc biệt là
chú trọng ở hình phạt, chu di tam tộc, ngu dân, đề phòng với dân, ra oai với
dân và ngược đãi dân.
Trong Binh pháp Tôn Tử, dân chúng là lực lượng quan trọng để
đánh thắng địch, Tôn Tử cho rằng: "Phàm pháp tắc dụng binh là tướng
soái chịu mệnh lệnh của vua, trưng tập dân chúng, tổ chức thành quân
lữ…" [1, tr.252].
Đối với Việt Nam, trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, đắp đê và
chống giặc luôn luôn là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, gắn liền với vận
mệnh của quốc gia. Để làm được hai nhiệm vụ đó cần phải huy động sức
mạnh của đông đảo quần chúng. Đặc biệt là trong sự nghiệp chống giặc ngoại
xâm, nhân dân luôn đóng vai trò quyết định sự thành bại. Lịch sử chống ngoại
xâm của Việt Nam chỉ ra rằng, sự nghiệp kháng chiến chỉ có thể thắng lợi khi
người lãnh đạo biết dựa vào sức mạnh của toàn dân, biết tổ chức các cuộc
chiến tranh mang tính chất nhân dân.
10

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, việc huy động sức mạnh của

nhân dân đã được các vị thánh nhân và nhiều ông vua thực hiện để đánh thắng
giặc phương Bắc và xây dựng triều đại hưng thịnh. Ngay từ đầu công nguyên,
Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã phất cờ nghĩa để kêu gọi nhân dân tham gia khởi
nghĩa. "Một trong những quy luật cơ bản của chiến tranh giữ nước là phải dựa
vào nhân dân, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, tổ chức nhân dân
thành một lực lượng vật chất để chiến thắng kẻ thù. Cho nên, dựa vào dân và
đoàn kết toàn dân để có sức mạnh diệt giặc cứu nước đã trở thành một vấn
đề trung tâm trong sự suy nghĩ của thời đại, đặc biệt là trong sự suy nghĩ của
những bộ óc sáng suốt đã từng tham gia chỉ đạo cuộc chiến tranh cứu nước đi
đến thắng lợi như Lý Thường Kiệt và Trần Quốc Tuấn" [36, tr.160].
Lý Thường Kiệt cho rằng: Người làm vua của dân cốt phải nuôi dân.
Khi nhà Trần nắm quyền cai trị đất nước đã đưa ra rất nhiều chính sách để
động viên tài dân, sức dân và được coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà nước
"thân dân". Vua Trần Nhân Tông luôn tâm niệm: Nếu làm vua mà làm cho
dân giàu nước mạnh thì hãy làm, còn ngôi vua ư? Ta coi như chiếc dép
rách mà thôi. Khi thấy Trần Anh Tông thăng quan tước cho hàng trăm
người, ông tức giận và thét lên bằng tiếng thét xé lòng: Đất nước bé bằng
bàn tay, quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi? Nguyên tắc vì dân của
Trần Nhân Tông là: bộ máy cai trị càng ít, quan lại ít phải điều hành là điều
vì dân hiệu quả nhất, thiết thực nhất. Đạo Nhân cao cả nhất của ông là luôn
đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết thảy và ông coi tiếng dân, lòng
dân, sức mạnh của dân là điều thiêng liêng nhất. Một khi dân đã đồng lòng
thì vận nước mới hưng thịnh, thành công mới đến, chiến thắng mới rủ gọi
nhau về.
Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên mông
là đỉnh cao của nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của dân tộc
11

ta trong thời đại phong kiến. Người đề ra và vận dụng thiên tài chiến lược,
chiến thuật chiến tranh nhân dân đó không ai khác là Hưng Ðạo Ðại Vương

Trần Quốc Tuấn - anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài trong lịch sử Việt
Nam, ông luôn dùng kế sách "khoan thư sức dân" để đánh thắng giặc
Nguyên mông và xây dựng vương triều Trần thái bình, thịnh trị. Lần đầu
tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta, đã xuất hiện hình thái thế
trận của dân chúng đánh giặc ở khắp các xóm làng, kết hợp chiến đấu của
quân triều đình với quân các lộ và dân binh, tiêu diệt địch trong những trận
lớn, xây dựng một thế trận rộng mà sâu, mạnh mà vững, luôn luôn chủ động,
luôn luôn tiến công, tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng quân thù. Tài năng
của Trần Quốc Tuấn biểu hiện ở sự nhận thức rất rõ dân là nguồn sức mạnh
của đất nước. Nguồn sức mạnh đó phải được xây dựng, bồi dưỡng lâu dài
trong thời bình cũng như trong thời chiến và bằng nhiều chính sách kinh tế,
văn hóa, xã hội. Một minh chứng đậm nét là tháng 12 năm 1284, ông đã
cùng với vua Trần Nhân Tông tổ chức họp với các bô lão tại điện Diên Hồng
để bàn xem nên hoà hay nên đánh. Việc hội họp các bô lão là hành động cực
kỳ khôn ngoan, có tính dân chủ, lại động viên được toàn dân náo nức đánh
giặc. Đối với Hưng Đạo vương "trị nước và đánh giặc phải lấy đạo đức thân
dân làm căn bản. Được lòng dân thì nước yên, giặc trong không có, giặc
ngoài dù mạnh cũng chẳng làm được gì. Mất lòng dân thì mất hết, quân lính
đông và giỏi, vũ khí sắc bén, thành cao hào sâu, cũng chẳng ích gì" [34,
tr.265]. Trần Hưng Ðạo rất coi trọng việc đoàn kết nội bộ, đoàn kết vua - tôi
(dân), đoàn kết trong quân đội "như cha con một nhà", ông luôn đề cao việc
tập hợp lực lượng toàn dân là một nhân tố cực kỳ quan trọng để tạo thành
sức mạnh. Chính nhờ nguồn sức mạnh đó mà dân tộc Việt Nam đã vượt qua
và đứng vững trước những thử thách ghê gớm của họa xâm lăng khốc liệt do
đế quốc Nguyên mông gây ra.
12

Trần Hưng Đạo đã đúc kết một truyền thống quý báu của dân tộc thành
những nguyên lý giữ nước: "Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước
chung sức"; "phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, ấy là thượng

sách để giữ nước vậy"; "phải làm sao để lòng dân không xa rời mình"; "ý chí
của nhân dân là thành trì kiên cố để giữ nước". Đại tướng Võ Nguyên Giáp
nhận xét: "Tài năng của Trần Quốc Tuấn biểu hiện ở sự nhận thức rất rõ dân
ta là nguồn sức mạnh giữ nước. Nguồn sức mạnh đó phải được xây dựng, bồi
dưỡng lâu dài trong thời bình cũng như trong thời chiến, bằng nhiều chính
sách kinh tế, văn hóa, xã hội". Chính vì vậy, tư tưởng chính trị - quân sự dựa
vào dân, khoan thư sức cho dân của Trần Hưng Đạo là tư tưởng tiên tiến,
đúng đắn và sáng tạo, vượt thời đại, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị, Ngài đã
trở thành vị Thánh được toàn thể nhân dân ta thờ phụng.
Nguyễn Trãi là một danh nhân vừa tiêu biểu cho truyền thống anh
hùng, vừa tiêu biểu cho nền văn hoá ưu việt của dân tộc. Ngài là một thiên
tài trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao,…
đã đem tài năng lỗi lạc và tất cả tâm hồn, nghị lực của mình hiến dâng cho
sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi lớn lên trong một thời kỳ lịch
sử đầy biến động và bão táp, triều Trần suy vong vì "chỉ cậy mình mạnh
giàu, mặc dân khốn khổ", "dân nghèo nhao nhác chờ cơm, áo", bọn quý tộc
thì "vàng ngọc chất đống… sánh núi cao", "muôn dân oán giận mà không
biết, lòng trời oán trách mà chẳng kinh". Khi nhà Hồ lên thay, cũng chỉ
trong vòng nửa năm, cơ đồ tan vỡ, nước mất vào tay giặc Minh và cũng chỉ
vì triều Hồ "chính sự phiền hà", "để đến nỗi lòng dân oán giận". Chính lúc
đó, Nguyễn Trãi đã thấy được sức mạnh của dân trong các cuộc khởi nghĩa
liên tiếp nổ ra. Ông đã đem hết tâm lực ra phò minh chủ, huy động đông
đảo nông dân và nô tỳ - lực lượng chủ yếu, để làm cuộc kháng chiến chống
giặc Minh thắng lợi.
13

Từ thực tế lịch sử, Nguyễn Trãi đã rút ra những kinh nghiệm quan
trọng có tính quy luật, vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, đều do sức
mạnh của dân quyết định: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân,
thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Dân "như nước" có thể

"chở thuyền" mà cũng có thể "lật thuyền", và khi "thuyền bị lật mới hay
dân như nước", mới hay sức mạnh của dân. Khi nói đến "dân", trước hết
ông hướng về đông đảo quần chúng nông dân và nô tỳ cùng khổ, ông kêu
gọi lực lượng cho cuộc kháng chiến là khối cố kết toàn dân mà nòng cốt là
đông đảo nông dân nghèo khổ, là anh hùng hào kiệt bốn phương. Với tấm
lòng thương dân, tin dân, Nguyễn Trãi đã nhận thức sâu sắc vai trò quyết
định của nhân dân trong những biến thiên của lịch sử. Theo ông, cứu nước
gắn liền với dân, cứu nước là để cứu dân, chiến đấu vì nước phải kết hợp
với chiến đấu vì dân, đó là sự nghiệp "chí nhân", "đại nghĩa". Với Nguyễn
Trãi, dân là gốc của thành, bại, ông khẳng định: có được lòng dân, cố kết
nhân tâm thì mới lập được công to, làm nên việc lớn. Đó chính là bước
ngoặt quyết định trong sự nghiệp tìm ra con đường cứu nước, cứu dân của
Nguyễn Trãi. Tư tưởng quán xuyến và chi phối toàn bộ hoạt động của
Nguyễn Trãi là tư tưởng "nhân nghĩa", "đại nghĩa", "chí nhân", đó là sự kết
tinh những tư tưởng tiến bộ, những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc
ta từ buổi đầu dựng nước cho đến thế kỷ thứ XV. Ông đã gắn "nhân nghĩa"
với "dân" khi ông viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". "Nguyễn Trãi có
nhận thức vô cùng sâu sắc về sức mạnh và thế mạnh của tư tưởng nhân -
nghĩa đúng với lời nói nổi tiếng của C. Mác về sức mạnh của tư tưởng lúc
xâm nhập vào quần chúng" [10, tr.8].
Như vậy, Nguyễn Trãi đã nhận thức được một cách sâu sắc vai trò của
nhân dân trong đời sống xã hội và trong các biến thiên lịch sử. Ông tin tưởng
vững chắc ở sức mạnh của chính nghĩa, của nhân dân, từ đó, ông chủ trương
14

cứu nước phải cứu dân và chỉ có dựa vào dân mới có thể cứu nước thành công
được và ông nhấn mạnh phải "yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi
thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than". Đây là tư tưởng chủ
đạo của Đại sách bình Ngô để chiến thắng giặc Minh và là một bài học kinh
nghiệm cho lịch sử dân tộc. Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc vĩ đại, một

con người văn võ song toàn, có đủ nhân, trí, dũng, mãi mãi xứng đáng với
lòng khâm phục, kính yêu và tự hào của dân tộc.
Chúng ta tự hào biết bao về dân tộc ta, nhân dân ta, những bậc anh
hùng hào kiệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của mình. Thời nào cũng
có những vị anh hùng xuất chúng, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, từ Ngô Quyền,
Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần
Hưng Đạo, từ Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung… đã dẫn dắt dân tộc ta,
nhân dân ta giữ vững độc lập, tự do, đời đời gìn giữ non sông gấm vóc do các
vua Hùng để lại, đưa Tổ quốc ta mãi mãi tiến lên những đỉnh cao mới cho tới
ngày nay. Lịch sử nhiều lần chứng tỏ: vương triều nào, nhân vật lịch sử nào
biết khoan thư sức dân, thi hành chính sách thân dân thì trên dưới đồng lòng,
lập nên công to, nghiệp lớn. Trái lại, vương triều nào, nhân vật lịch sử nào đi
ngược lại lòng dân thì sớm muộn đều đi đến thất bại. Không phải ngày nay
chúng ta mới coi tư tưởng "lấy dân làm gốc" làm nền tảng giữ và dựng nước,
mà từ rất xa xưa tư tưởng đó đã trở thành một chân lý, một giá trị nhân văn
đạo đức truyền thống có ý nghĩa trường tồn. Truyền thống đặc sắc của dân tộc
ta là cả nước cùng đánh giặc trên cơ sở chăm lo nền tảng xã hội vững bền,
dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
Ngay khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu tranh
của nhân dân thường xuyên diễn ra. Đến một nhà nho yêu nước như Phan Bội
Châu cũng phải thốt lên rằng: "Nước lấy dân làm chủ, dân coi việc nước như
nhà; Dân là dân nước, nước là nước dân; Dân quyền là phép đổi dời non
15

sông". Bài học lịch sử của đất nước đã chỉ ra: mỗi khi nhân dân được quan
tâm, truyền thống đoàn kết thống nhất, trên dưới đồng lòng, tinh thần yêu
nước được phát huy, trở thành chỗ dựa vững chắc nhất cho cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm thắng lợi, chiến thắng được thiên tai, giữ yên bờ cõi, đất
nước được thái bình, thịnh vượng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của

quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực
hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc, liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Trong chủ
nghĩa Mác - Lênin thì quần chúng nhân dân là một phạm trù của lịch sử, vận
động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội, được xác định bởi các nội
dung sau đây: một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân;
hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối
kháng với nhân dân; ba là, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường
tự giải phóng. Lênin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai
cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô
sản. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với
đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không
thể thực hiện được.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn
bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại
thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm
16

giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không những đã khẳng định vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong
cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo chân chính ra lịch sử. Điều đó được biểu hiện ở ba nội dung: một là,
quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội; hai

là, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà
không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ
bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách
mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh
tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực
lượng tham gia đông đảo và cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là ngày
hội của quần chúng. Chính nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình
kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội; ba là, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị
văn hoá tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự sáng
tạo và phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng
những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Và các hoạt động của quần
chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng
tạo tinh thần trong đời sống xã hội và các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể
trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá
sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. Lênin cho rằng: "Nghệ thuật thuộc về
nhân dân. Nó cần phải bắt rễ sâu vào trong đông đảo quần chúng lao động.
17

Nó có nhiệm vụ kết hợp những tình cảm, ý nghĩ và ý chí của quần chúng,
đồng thời cổ vũ quần chúng".
Vì vậy, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động
tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân
dân cũng biểu hiện khác nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có
trong chủ nghĩa xã hội quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy
tài năng và trí sáng tạo của mình.
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và những nội dung cơ bản
của công tác vận động quần chúng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh

1.2.1. Về vai trò của quần chúng nhân dân
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh mất nước, Nguyễn Ái Quốc đã ý
thức sâu sắc việc phải đứng lên đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc. Chính
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc và sự tiếp thu, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đã có tác động mạnh mẽ đến việc hình
thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã xác định: Đảng ta
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một
lần nữa khẳng định Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nhấn mạnh: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí
18

Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta" [6, tr.83-84].
Khi khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận về đường lối chiến
lược, sách lược của cách mạng Việt Nam: Cách mạng giải phóng dân tộc,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội (giai cấp), giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới" [12, tr.95].
Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì công tác vận động
quần chúng (công tác dân vận) chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong tư

tưởng của Người. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định công tác vận động quần chúng là
một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách
mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng là một hệ
thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc
đời và trong các tác phẩm của Người. Thương yêu nhân dân, thương yêu con
người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
để hình thành tư tưởng về công tác vận động quần chúng của Người.
Hồ Chí Minh luôn ý thức "Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân
là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Hoặc "ở trong xã
hội muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa.
19

Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng
bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết".
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước
và giữ nước, "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước" [25, tr.171]. Từ một nước phong kiến độc lập, nước Việt Nam
bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Trong suốt thời kỳ bị áp bức bóc lột của thực dân Pháp và tay
sai, nhân dân ta không ngừng nổi dậy "chống cả triều lẫn Tây" nhưng đều
thất bại. Đất nước chìm trong đêm tối như không có đường ra. Đối với người
dân mất nước, cái mong muốn suốt đời là độc lập của Tổ quốc, tự do cho
nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói: "Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho
Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ".

Thấm nhuần quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ những ngày đầu dấn thân vào sự
nghiệp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã thấy được vai trò, sức mạnh to lớn
của nhân dân và Người sớm khẳng định: quần chúng nhân dân là gốc của sự
nghiệp cách mạng; cách mạng là việc chung của cả dân chúng. Hồ Chí Minh
là một lãnh tụ cộng sản sớm coi trọng yếu tố dân tộc đồng thời cũng là người
sớm đề cao sức mạnh dân tộc. Theo Người, chỉ có sự tham gia đông đảo của
quần chúng nhân dân thì cách mạng mới thành công một cách triệt để.
Với Hồ Chí Minh thì cách mạng phải là công việc chung của cả dân
chúng, bao nhiêu lực lượng là ở dân hết. Trong sự nghiệp cách mạng nói
chung, trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng cũng vậy, Người luôn
20

đánh giá rất cao vai trò của nhân dân và chính sức mạnh của toàn dân vũ
trang là một ưu thế tuyệt đối để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Toàn dân
đứng dậy sẽ tạo ra sức mạnh vô cùng, không súng ống nào chống lại nổi.
Chính bởi vậy mà quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và họ
rõ ràng cũng là người quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến tranh cách
mạng. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xây dựng cơ sở chính trị trong
nhân dân, "phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào
tiêu diệt được". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (tháng 2 - 1951), Hồ Chủ tịch khẳng định: "chúng ta tin
chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc".
Như một quy luật tất yếu của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định sự nghiệp
cách mạng là của quần chúng nhân dân, bởi theo Người "có dân là có tất
cả", "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong",
bởi thế "chúng ta phải dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách
giải quyết sự thiếu kém vật chất".
Không giống những nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã tìm

thấy lực lượng cốt cán của cách mạng. Người khẳng định: Dân trước hết là
công nông và ý thức được rằng: "Công nông là gốc cách mệnh". Dân là nhân
dân lao động và quần chúng cách mạng có tổ chức, là khối đoàn kết toàn dân
tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nông
làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng tiền phong.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, bao gồm các giai cấp cách
mạng như: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc và
những cá nhân yêu nước thuộc tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ. Toàn dân Việt
21

Nam chống lại kẻ thù của dân tộc và giai cấp là chủ nghĩa tư bản đế quốc
cướp nước và tay sai của chúng, giành lại độc lập, tự do cho nhân dân và
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Với quan điểm này, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo sách lược cách mạng vô sản của Mác và Lênin vào điều kiện nước
ta, một sự đóng góp to lớn của Người về lý luận và thực tiễn vào kho tàng
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo, có sức mạnh to lớn, là
động lực chủ yếu để đưa cách mạng đến thành công. Khi khẳng định cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể giành được thắng lợi khi tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng, phát triển
một nền quốc phòng toàn dân, với sự tham gia của đông đảo nhân dân và dựa
vào sức mạnh của toàn dân tộc. "Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một
bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức
nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại", "không quân
đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hi sinh của toàn
thể một dân tộc" [22, tr.77].
Để đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thực dân, phản động,
giành độc lập cho dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành bạo lực cách
mạng và tập hợp được lực lượng của toàn dân tộc đứng lên tranh đấu bằng

mọi hình thức để đi đến thắng lợi cuối cùng. Năm 1942 trong Bài ca du kích,
Bác chủ trương mọi người già trẻ, gái trai, dân lính đều tham gia đánh giặc,
trong bản Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-
12-1944), Người viết: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân,
phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Để lý giải cho nguyên nhân thất
bại của các cuộc khởi nghĩa trước đây, Hồ Chí Minh cho rằng: Một là vì cơ
hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa đồng tâm hiệp lực.
22

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra một kết luận: muốn cứu nước
thì không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải
dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình. Trong tác phẩm Đường kách
mệnh, Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp
lấy mình đã. Lực lượng thực hiện sự nghiệp cách mạng là đông đảo nhân
dân bị áp bức, những người Việt Nam yêu nước trên toàn thế giới. Ngay từ
những ngày đầu lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
vững mạnh. Người thường nhấn mạnh muốn phát triển lực lượng vũ trang
cách mạng thì chủ yếu phải dựa vào nhân dân và dựa vào đấu tranh chính trị
của quần chúng. Trong cách mạng tháng Tám năm 1945 khi thời cơ "ngàn
năm có một" để tiến hành tổng khởi nghĩa xuất hiện, Hồ Chí Minh kêu gọi:
"Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Cách mạng tháng Tám là một cuộc Tổng khởi nghĩa với lực lượng chính trị
của toàn dân, là thắng lợi rực rỡ của tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ
trang toàn dân giành lại độc lập cho dân tộc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh
luôn lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên
suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Hồ Chí Minh khẳng định: "Địch
chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng
nồng nàn yêu nước của nhân dân ta", "Không dùng toàn lực của nhân dân về

đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được" [23, tr.298].
"Tác phong của Người là "lời nói đi đôi với việc làm", "đảng viên đi
trước, làng nước theo sau". Chính Người nêu gương "cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư"; lắng nghe ý kiến quần chúng, suy nghĩ, cân nhắc, cốt tìm ra
chân lý. Đó là tác phong quần chúng, tác phong tập thể, dân chủ, tác phong
khoa học. Tình cảm của Người đối với nhân dân thật là bao la, thắm thiết.
23

Người quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân, luôn gần gũi, tin tưởng ở khả
năng sáng tạo của quần chúng" [3, tr.30]. Khi đi xa, Người còn "để lại muôn
vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thanh niên và nhi đồng".
Hồ Chí Minh luôn coi cách mạng là sự nghiệp của toàn dân bị áp bức
và bóc lột. Nhưng để giành được sự thống nhất về lực lượng và với lực
lượng của mình, quần chúng đã sáng tạo ra phương pháp cách mạng trong
điều kiện và tương quan cho phép để chiến thắng đế quốc, phong kiến và
xây dựng đất nước là cả một vấn đề to lớn về chiến lược, sách lược và
phương pháp cách mạng. Với lực lượng đông đảo có tổ chức và với phương
pháp cách mạng bạo lực của quần chúng, Hồ Chí Minh đã phát huy sức
mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Cách
mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Dân chúng công nông là gốc của cách mạng, có dân là có tất cả, "dân
khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại" [21,
tr.274]. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, phải luôn tin vào dân, dựa vào dân, phấn
đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân
làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa và nâng lên một bước, là phạm
trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tin vào dân, dựa vào dân và
lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và

năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng
nhân dân. Người viết: "Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn
mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [24, tr.295].

×