Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 119 trang )

đại học quốc gia hà nội
TR-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn






Nguyễn Đức Minh






Giáo dục đạo đức cho sinh viên
Học viện báo chí và tuyên truyền hiện nay
theo TƯ TƯởng hồ chí minh








luận văn thạc sĩ chính trị học








Hà Nội - 2011

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Kết cấu luận văn 7

Chƣơng 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN - SINH VIÊN 8
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh niên - sinh viên 8
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò thanh niên - sinh
viên 8
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhiệm vụ thanh niên - sinh viên 14
1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh
niên - sinh viên 21
1.2.1. Giáo dục lý tưởng cách mạng 21
1.2.2. Giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng 25
1.2.3. Giáo dục chí khí cách mạng 34
1.2.4. Giáo dục tinh thần khắc phục khó khăn, chiến thắng chủ nghĩa cá
nhân 35
1.3. Phƣơng châm, phƣơng pháp Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
cho thanh niên - sinh viên 37

1.3.1. Kết hợp chặt chẽ giữa học với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn 38
1.3.2. Kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục thanh
niên - sinh viên 41
1.3.3. Phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện và lấy gương “người
tốt, việc tốt” để giáo dục 44
1.3.3. Giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên thông qua các tổ
chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng 49
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY 53
2.1. Những yếu tố tác động đến đạo đức và giáo dục đạo đức cho
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay 53
2.1.1. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc xây
dựng đạo đức sinh viên 53
2.1.2. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế với đạo đức sinh viên 57
2.1.3. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với
việc giáo dục đạo đức sinh viên 60
2.2. Thực trạng đạo đức và đặc điểm sinh viên ở Học viện Báo chí
và Tuyên truyền hiện nay 61
2.2.1. Đặc điểm sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền 61
2.2.2. Thực trạng đạo đức sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền 66
2.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền 75
2.3.1. Ưu điểm 75
2.3.2. Những hạn chế và khó khăn 83
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
hiện nay 87
2.4.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên 87
2.4.2. Phát huy vai trò của các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên

nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên 89
2.4.3. Phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của bản thân sinh viên 93
2.4.4. Tăng cường hơn nữa sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên 95
2.4.5. Xây dựng môi trường giáo dục trong sáng lành mạnh cho sinh
viên 102
2.4.6. Tăng cường đầu tư kinh phí cho việc đổi mới phương pháp và
phương tiện giáo dục đạo đức cho sinh viên 103
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC 114


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh viên là một lực lượng xã hội có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển bền vững của dân tộc. Đó là những người trong độ tuổi sung sức nhất về
thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động sáng tạo, muốn khẳng định mình.
Nhưng lực lượng này còn trẻ, thiếu kinh nghiệm nên cần được sự quan tâm,
chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội. Nhận thức rõ điều đó, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến công tác đào tạo, giáo dục thanh niên về mọi mặt,
coi nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ trẻ là việc rất quan trọng và hết sức cần thiết
trước mắt cũng như có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [33, tr.310]. “Con người xã
hội chủ nghĩa” theo Hồ Chí Minh, phải hội tụ đủ cả hai yếu tố “đức” và “tài”.
Vì vậy, Người luôn chú trọng tới việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời

sau” về cả “tài” và “đức” bởi “có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
sự nghiệp “trồng người”, coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, đồng thời xác
định mục tiêu cơ bản của giáo dục Việt Nam là đào tạo ra những con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, có sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực công dân, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, giáo dục Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào, chất lượng giáo dục, đặc biệt
là giáo dục đại học có nhiều khởi sắc. Phần lớn sinh viên đều sống có lý
tưởng, hoài bão, trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã

2
hội chủ nghĩa, có năng lực làm chủ, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật
một cách sáng tạo. Hàng năm, giáo dục Việt Nam đã đào tạo ra hàng vạn cán
bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đóng vai trò xung kích, tiên phong trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong thời kỳ đổi mới có nhiều thuận lợi
song cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Cơ chế thị trường tạo điều
kiện cho sự năng động, sáng tạo của sinh viên được phát huy nhưng tính chất
cạnh tranh khốc liệt của nó lại sinh ra tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo
lý, coi thường các giá trị nhân văn. Mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đón
được gió lành nhưng cũng không tránh khỏi gió độc lọt vào nhất là sự lợi
dụng của kẻ địch để thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” mà đối tượng
chính là thế hệ trẻ trong đó có sinh viên. Dưới tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, của hội nhập với thế giới, của âm mưu “diễn biến hòa bình” một số
sinh viên đã xa rời lý tưởng cách mạng, giảm sút tình cảm, đạo đức cách
mạng.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng

cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của
sinh viên Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới
đối với mỗi sinh viên. Hơn lúc nào hết, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên, sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng hàng
đầu trong việc định hướng, phát triển và hoàn thiện nhân cách tuổi trẻ, là sự
chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là trung tâm đào tạo cán bộ công tác
tư tưởng, công tác truyền thông. Đồng thời, Học viện cũng là một cơ sở đào
tạo cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị, giảng viên các ngành lý luận chính trị.
Sinh viên sau khi ra trường thường đảm nhiệm công việc ở lĩnh vực công tác
có tính nhạy cảm chính trị cao, họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ bằng kiến

3
thức, kỹ năng nghiệp vụ nghề nghiệp mà bằng nhiệt huyết, tình cảm, đạo đức
cách mạng, do yêu cầu khách quan đó công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên trở thành yêu cầu của chất lượng giáo dục đạo đức của Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cần tìm ra những giải pháp
khả thi để góp phần hữu hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhằm đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, thực hiện lý tưởng của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”. Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục
đạo đức cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp cao học Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vấn đề thanh niên, sinh viên và giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên, tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh đã có nhiều công trình khoa học có giá trị được công bố như:

- Về sách:
+ Thành Duy (1996), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
+ Đoàn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
+ GS. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
+ Phạm Đình Nghiệp (2000), “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ
trẻ Việt Nam trong tình hình mới”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

4
+ Trần Thị Quy Nhơn (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh
niên trong cách mạng Việt Nam”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
+ TS. Dương Tự Đam (2008) “Giáo dục thanh niên kế thừa nhân cách
Hồ Chí Minh để trưởng thành và phát triển”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Trong các cuốn sách trên, các tác giả bàn đến nguồn gốc, đặc điểm tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các giá trị chuẩn mực của đạo đức mới, con
đường tu dưỡng đạo đức cách mạng. Vai trò của thanh niên trong cách mạng
Việt Nam. Làm rõ đường lối, chính sách phát triển thanh niên của Đảng và
nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, trình bày nội dung giáo dục tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh xây dựng nhân cách sống cho thế hệ trẻ và đưa ra một số
mô hình giáo dục thanh niên một cách thích hợp. Cung cấp những thông tin
về thực trạng giác ngộ lý tưởng cách mạng của thế hệ trẻ Việt Nam; công tác
giáo dục lý tưởng cách mạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình
mới.
- Về tạp chí:
+ Th.S Ngô Thị Thu Ngà có bài ”Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đào tạo đạo đức cách mạng cho thanh niên”, Tạp chí Giáo dục lý luận (tháng

5/2007) đề cập đến sự cần thiết phải giáo dục những phẩm chất đạo đức cơ
bản cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh: trung thành tuyệt đối đối với
Tổ quốc, với Đảng, hiếu với dân, thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư…
+ “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2-2001.
+ “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện
nay” của Vi Đức Được, Tạp chí Thanh niên, số 8-2001.

5
+ ThS. Lý Thị Bích Hồng với bài viết “Quan điểm của Hồ Chí Minh về
giáo dục lý luận chính trị cho thanh niên” trên Tạp chí Lý luận chính trị
(3/2007) đưa ra các yêu cầu cơ bản cần phải giáo dục lý luận chính trị trong
đó có giáo dục lý tưởng cách mạng.
- Về luận văn, luận án:
+ Vũ Thanh Hương (2001) “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế
thị trường hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ
triết học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Lê Thị Thủy (2000) “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân
cách của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay’, luận án tiến
sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Thị Luyến (2005) “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay”,
luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Như vậy, qua các tài liệu tham khảo, tác giả chưa thấy có công trình
nào trực tiếp, tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về giáo dục
đạo đức sinh viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc đánh giá đúng
tình hình, nhận diện đúng vấn đề, phát hiện những trở ngại và vướng mắc để
tìm ra các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay là rất cần

thiết và cấp bách. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Giáo dục đạo
đức cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” là không trùng lặp với những công trình đã công bố.
Với công trình này, tác giả mong muốn góp một chút công sức nhỏ bé vào
việc thực hiện tốt nhất mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cao cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên, nghiên cứu thực trạng đạo đức và giáo
dục đạo đức cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay làm cơ
sở lý luận và thực tiễn để đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức cho thanh niên - sinh viên.
+ Làm rõ thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh
viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho
thanh niên - sinh viên, thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ

Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên, làm rõ thực trạng
đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

7
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưỏng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, đường lối của Đảng về đạo đức, thanh niên.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lôgíc và phương
pháp lịch sử, kết hợp lôgic với lịch sử, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của Luận văn
- Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho
thanh niên - sinh viên.
- Khảo sát và đánh giá khách quan về thực trạng đạo đức và giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.
Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên
Chương 2: Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay

8
Chƣơng 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN - SINH VIÊN

Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan
trọng quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên
nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức
khỏe và sáng tạo. Sinh viên là tầng lớp người đang ở độ tuổi thanh niên, đang
trong quá trình hình thành nhân cách, họ có chung một dạng hoạt động cơ bản
đặc thù là học tập có tính chất nghiên cứu. Đây là một bộ phận ưu tú trong
thanh niên, đồng thời là bộ phận tương lai của trí thức, có vị trí kép trong cơ
cấu xã hội, vị trí, vai trò của thanh niên và của trí thức. Với tư cách là thanh
niên, sinh viên là mùa xuân của xã hội, là cội nguồn của sự sống, là tương lai
của dân tộc, người kế thừa sự nghiệp của cha anh xây dựng và phát triển đất
nước.
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh niên - sinh viên
1.1.1. Quan niệm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò thanh niên - sinh
viên.
Quan niệm của Người về thanh niên là một triết lý nhân sinh sâu sắc:
“Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ
là mùa xuân xã hội” [27, tr.167]. Vì vậy, ở đâu và trong thời điểm nào, Người
cũng coi thanh niên là lực lượng xung kích, là rường cột của đất nước, tương
lai của dân tộc.
Trong cách nhìn nhận và đánh giá thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
bao giờ cũng đề cập đến cả hai mặt (mặt mạnh và hạn chế), nhưng Người luôn
coi mặt ưu điểm là cơ bản nhất, quan trọng nhất. Đây là quan điểm đúng đắn,

9
có ý nghĩa trong định hướng, giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng thanh
niên ở mọi giai đoạn của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, với tư cách “Mùa xuân của xã hội”, mùa xuân của
cách mạng, thanh niên luôn là lực lượng tràn đầy sức sống, có ước mơ, hoài

bão, giàu nghị lực; đầy sức lực và trí tuệ, đầy khát khao và năng động trong
khám phá, sáng tạo cái mới, có chí tiến thủ, ham hiểu biết và tự thể nghiệm
mình; không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh… Đó là những yếu tố quan
trọng để thực hiện lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản, là những tiềm
năng vô tận cho sự thành công của cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của thanh niên. Ngay từ đầu thế kỷ
XX, khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai
trò rất to lớn của thanh niên trong cách mạng Việt Nam, Người cho rằng
muốn vận động nhân dân đứng lên làm cách mạng, trước hết phải làm cho
tầng lớp thanh niên của dân tộc được giác ngộ. Nếu thanh niên không giác
ngộ, không đủ nghị lực, không còn sức sống, chỉ chạy theo “rượu cồn thuốc
phiện” thì dân tộc có nguy cơ diệt vong. Người nói: “Hỡi Đông Dương
thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không
sớm hồi sinh” [24, tr.133]. Lời kêu gọi của Người hàm chứa nội dung về vai
trò, vị trí của thanh niên Việt Nam đối với sự tồn vong của đất nước. Người
cho rằng thanh niên là lớp người tiêu biểu cho sức sống của một dân tộc, thực
dân Pháp đang dùng rượu cồn và thuốc phiện làm u mê, đần độn thế hệ trẻ
nhằm huỷ diệt sức sống ấy, vì vậy thanh niên phải sớm “hồi sinh” để góp
phần “hồi sinh” dân tộc. Đây là quan điểm đánh giá một cách khách quan,
khoa học vai trò của thanh niên đối với vận mệnh dân tộc.
Thanh niên phải là những người sẵn sàng xung phong trong cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân, phong kiến. Vận

10
mệnh của Đông Dương, trong đó có Việt Nam, mất hay còn là nằm trong tay
thanh niên. Theo Hồ Chí Minh, muốn giải phóng Đông Dương, giải phóng
dân tộc, phải trông cậy vào lực lượng thanh niên, muốn thức tỉnh một dân tộc
trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Người khẳng định: “Thanh niên là một bộ
phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ.

Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải
hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc” [36, tr.129].
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dựa
trước tiên vào thanh niên, tổ chức, giáo dục, huấn luyện họ để vận động tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến hành giải phóng dân tộc. Người
sáng lập, rèn luyện Đảng ta từ tổ chức tiền thân của Đảng là “Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí hội”. Hầu hết số đảng viên thuộc lớp đầu tiên của
Đảng đều là thanh niên, các đồng chí Tổng Bí thư lúc đó của Đảng cũng ở
tuổi thanh niên: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ
Người chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết và
xây dựng nước nhà: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng cường quốc năm châu
được hay không, một phần lớn chính là nhờ ở công học tập của các cháu” [27,
tr.33]. Từ đó, Người khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên trong sự phát
triển, trường tồn của dân tộc: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên” [28, tr.185].
Để xứng đáng với vị trí đó, Người luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi
đầu của thanh niên trong mọi hoạt động: “Thời đại này là thời đại vẻ vang của
thanh niên. Mà thanh niên phải là những đội xung phong trên các mặt trận
chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật” [33, tr.390]. Thanh niên phải không
được lùi bước trước bất cứ khó khăn, gian khổ nào, không có quyền từ chối

11
bất cứ sự hy sinh nào, thanh niên phải làm tất cả để nhanh chóng chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta
đến toàn thắng. Một nhiệm vụ cấp bách của thanh niên là phải hăng hái tiến
quân vào khoa học kỹ thuật để đưa sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa tiến đến thắng lợi vẻ vang. Trong tư tưởng văn hoá, thanh niên phải
không ngừng giác ngộ xã hội chủ nghĩa, ra sức rèn luyện lập trường giai cấp

vô sản. Vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là sản phẩm của đường lối cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, là sản phẩm tư tưởng của giai cấp vô sản, vì có
thấm nhuần quan điểm, lập trường của giai cấp vô sản thì mới hiểu đúng và
giải quyết đúng các vấn đề phức tạp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và trong cuộc sống của mỗi người. Đồng thời, thanh niên phải luôn luôn
là lực lượng xung kích trong cuộc đấu tranh chống âm mưu xâm chiếm, phá
hoại của kẻ thù.
“Thanh niên chúng ta phải sống có lý tưởng cao thượng, mà muốn có lý
tưởng cao thượng thì phải có lập trường dứt khoát rõ ràng về cái sống và cái
chết, về cống hiến và hưởng thụ” [33, tr.390]. Tuổi thanh niên là tuổi để cống
hiến. Nếu chúng ta nghĩ nhiều đến hưởng thụ, đặt hưởng thụ lên cao hơn tinh
thần phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc thì tức là chúng ta đã hạ thấp phẩm
chất của người thanh niên cách mạng, đã sống hoài những ngày đẹp nhất
trong cuộc đời của chúng ta. Thanh niên phải lấy sự hy sinh phấn đấu cho
cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, không được để cho tình
cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toan được mất cho cá nhân. Người
nào chỉ nghĩ đến lợi ích vật chất, chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình thì dù
cho họ có ở lầu son gác tía, ăn mâm cao cỗ đầy, họ vẫn chỉ là một kẻ nghèo
nàn vì đầu óc họ trống rỗng, quả tim họ không đập cùng một nhịp với cách
mạng. Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh phải là những thanh niên biết cống
hiến nhiệt tình và sức trẻ cho sự phát triển lâu bền của đất nước.

12
Cách mạng là sự nghiệp lâu dài, đầy khó khăn và thử thách của nhiều
thế hệ. Mỗi thế hệ chỉ có thể đi hết một chặng đường trên con đường vạn dặm
của lịch sử. Hồ Chí Minh thấy rõ khả năng tối đa mà thế hệ đi trước có thể
làm được, cũng như cái giới hạn tự nhiên mà thế hệ đó không thể vượt qua:
“Con người ai cũng sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết”. Do đó thế hệ đi trước
phải bàn giao, trao truyền lại thành quả, kinh nghiệm của mình cho thế hệ tiếp
sau. Bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại những gì đã có mà quan trọng hơn,

khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị cho lớp người đi sau những gì cần thiết để họ
có khả năng giữ gìn, bảo tồn và phát huy những thành quả quý báu mà các thế
hệ trước đã tạo ra, đồng thời có khả năng thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm
vụ của cách mạng trong mỗi chặng đường lịch sử. Chính vì vậy, vai trò của
thanh niên không những chỉ là “người tiếp sức” cho cách mạng mà còn là
người dìu dắt thế hệ cách mạng cho đời sau: lớp măng non nhi đồng của đất
nước - tương lai của dân tộc. Đoàn Thanh niên Lao động phải là cánh tay đắc
lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ thanh niên và nhi đồng
thành những chiến sỹ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Người đánh giá thanh niên với tất cả những ưu điểm vốn có của họ,
đồng thời Người cũng luôn chỉ ra những mặt yếu, những nhược điểm của
thanh niên. Đó là: sự thiếu từng trải trong cuộc sống, một số chưa chịu khó
học tập, mắc bệnh hình thức, bệnh cá nhân, tự cao, tự đại Người yêu cầu
thanh niên phải chống tâm lý ham sung sướng, tránh khó nhọc, chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay; chống lười biếng, xa xỉ, chống
kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang
Từ sự nhìn nhận toàn diện đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cho chúng
ta ý nghĩa, phương pháp luận trong việc đánh giá thanh niên: thanh niên là
người đang trưởng thành chứ chưa phải đã trưởng thành, họ có nhiều mâu

13
thuẫn trong quá trình đang lớn lên. Do đó phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt
yếu là con đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên. Từ đó, Người
chỉ rõ nhiệm vụ của thanh niên: “Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho
xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng cho mình,
phải làm việc chuẩn bị cái tương lai đó” [28, tr.185].
Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến sự phát triển của thanh niên,
trước hết là phát triển trí tuệ. “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân
tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Khi dân tộc được giải phóng

thì thanh niên được tự do” [30, tr.398]. Với tư cách là người tự do, thanh niên
có những yêu cầu khác để phát triển như: yêu cầu về học tập, về đào tạo
ngành nghề, về cuộc sống mới Người nói: “Từ cách mạng Tháng Tám đến
nay, thanh niên có cơ hội để phát triển một cách rộng rãi và mau chóng hơn.
Đó là sự phát triển toàn diện về học vấn, trí tuệ, nghề nghiệp, thể chất…”.
Nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của chế độ mới, hướng về
những người chủ tương lai của nước nhà, với niềm tin yêu vô hạn, trong “Thư
gửi các học sinh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn
ở công lao học tập của các em” [27, tr.33].
Theo dõi sự phát triển của phong trào thanh niên, Hồ Chí Minh nói lên
niềm tin tưởng ở tiền đồ của dân tộc: “Bác rất tự hào, sung sướng và thấy
mình như trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”
[36, tr.209].
Như vậy, thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, có vai trò
quyết định sự thịnh suy, tồn vong của nước nhà. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của thanh niên đã ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm, quán triệt trong
hành động cách mạng của thế hệ trẻ Việt Nam. Qua các giai đoạn phát triển

14
của cách mạng, thanh niên ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện vai trò
tiên phong trong công cuộc giữ nước và xây dựng Tổ quốc theo con đường xã
hội chủ nghĩa đã được lựa chọn và khẳng định. Ngày nay, trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thanh niên tiếp tục thể hiện vai trò của mình, đi
theo tư tưởng của Người, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đó chính là những biểu hiện sinh động của việc nhận thức và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên - sinh viên trong
cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Quan niệm Hồ Chí Minh về nhiệm vụ thanh niên - sinh viên

Vai trò và nhiệm vụ là hai bộ phận không thể tách rời trong một chỉnh
thể thống nhất, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau. Nếu vai trò càng cao thì nhiệm vụ sẽ đòi hỏi càng nhiều. Theo lôgíc
biện chứng đó với việc khẳng định vai trò của thanh niên trong cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng luôn đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ đối với
thanh niên. Trong bài “Nhiệm vụ của thanh niên ta” đăng trên báo Nhân dân
số 657, ngày 20 tháng 12 năm 1955. Người viết: “Lực lượng lớn thì phải có
nhiệm vụ lớn. Cho nên trong mọi công việc khôi phục kinh tế, củng cố miền
Bắc, chiếu cố miền Nam… trên các mặt trận đấu tranh để thống nhất nước
nhà, toàn thể thanh niên gái và trai phải cố gắng nhiều hơn nữa, tiến bộ hơn
nữa, để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của thanh niên”[31, tr.94-95].
Trong mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đều
đề ra các nhiệm vụ cho thanh niên. Năm 1926, nhiệm vụ quan trọng nhất đặt
ra là vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị
về mặt tư tưởng bằng cách đưa một số thanh thiếu niên đi học lý luận Mác -
Lênin. Nhiệm vụ của thanh niên lúc này là học tập và truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin: “Chúng tôi đã đưa đến Quảng Châu một số trẻ em An Nam.
Chúng tôi đã lập một nhóm thiếu nhi. Chúng tôi muốn gửi ba hay bốn em qua
Nga để các em tiếp thu một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp”[25,

15
tr.227]. Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang gay go ác liệt, Hồ
Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ cho thanh niên qua “Thư gửi các bạn thanh
niên”: “Mỗi thanh niên phải kiên quyết làm bằng được những việc sau đây:
a) Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung
sướng thanh nhàn thì nhường người ta hưởng trước.
b) Các việc đáng làm, thì khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được.
c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công
danh phú quý.
d) Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.

e) Quyết tâm làm gương về mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết”
[28, tr.185-186].
Năm 1965, khi cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở miền
Nam, Người đề ra các nhiệm vụ trong “Thư gửi thanh niên”:
- Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với
dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”[34, tr.454]. “Không sợ gian khổ hy sinh, hăng hái thi đua
tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước”[34, tr.504].
- “ Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
- Luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị
- Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật
và quân sự
- Luôn chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên nhi đồng, làm gương tốt về
mọi mặt cho đàn em noi theo”[34, tr.505].

16
Năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi vào giai đoạn
quyết liệt, Hồ Chí Minh nhắc nhở thanh niên:
“- Phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng, cùng
quân dân ta quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.
- Luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá để
ngày càng tiến bộ ” [34, tr.435].
Như vậy, nhiệm vụ của thanh niên gắn chặt với nhiệm vụ của cách
mạng, hay nói cách khác, thanh niên thực hiện nhiệm vụ của mình là thực
hiện nhiệm vụ của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ của thanh niên
toàn diện trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận nhưng tựu trung lại là: Trung

thành với Tổ quốc, với nhân dân; anh dũng chiến đấu và hăng hái lao động
sản xuất; trau dồi đạo đức cách mạng; ra sức học tập; dìu dắt thiếu niên nhi
đồng
Đồng thời với việc đặt ra yêu cầu về sự tu dưỡng, rèn luyện lý tưởng,
chí khí, đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ chính của
thanh niên học sinh là học” [30, tr.398]. Mục đích của việc học tập là để
phụng sự cho nhân dân, cho Tổ quốc. Việc học tập cần phải tiến hành thường
xuyên và ở mọi nơi, mọi lúc, “học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và
học ở nhân dân” [29, tr.50]. Người nhấn mạnh “không học ở nhân dân là một
thiếu sót rất lớn” [29, tr.50].
Người luôn yêu cầu, nhắc nhở thanh niên phải không ngừng học tập,
nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, bởi đây là điều kiện
quan trọng để họ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Trình độ học vấn, khoa học, kỹ thuật và công nghệ là lực lượng vật chất tác
động trực tiếp đến năng suất lao động, hiệu quả làm việc của mỗi người đặc
biệt là thanh niên.

17
Chính vì thế, thanh niên luôn phải trau dồi bản thân, luôn “phải học và
học cho giỏi”[33, tr.621]. Cách mạng luôn cần những con người có cả đức lẫn
tài, vừa hồng vừa chuyên.
Xuất phát từ quan điểm coi thanh niên là lực lượng kế tục sự nghiệp
cách mạng, Đoàn thanh niên là đội hậu bị của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng
định:
“Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà.
Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên”[31, tr.95].
Chính vì thế, thanh niên luôn phải trau dồi bản thân, luôn “phải học và
học cho giỏi”. Cách mạng luôn cần có những con người có cả đức lẫn tài, vừa
hồng vừa chuyên.
Một trong 5 điều Bác Hồ dạy thanh niên là: “… Ra sức học tập nâng

cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến
ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân” [30, tr.505]. Đây là yếu tố quyết
định trong quá trình hình thành phẩm chất cách mạng cũng như nhân cách con
người mới đối với cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Tình cảm cũng như chí khí
cách mạng được thực hiện trong hành động hàng ngày của từng người với
những hiệu quả khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ khác nhau. Nói cách khác là
hành động đạt được ít hay nhiều là tuỳ thuộc vào trình độ chính trị, văn hoá,
khoa học kỹ thuật và công nghệ của bản thân chủ thể.
Trong thời đại công nghệ thế giới phát triển như vũ bão, vấn đề học tập
nâng cao trình độ của thanh niên càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây
là một trong những điều kiện tiên quyết giúp thanh niên không ngừng vươn
tới chiếm lĩnh những đỉnh cao của văn minh nhân loại, phấn đấu trở thành
nhân tài trên nhiều lĩnh vực góp phần xây dựng đất nước Việt Nam vững
mạnh có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như mong mỏi của Bác
Hồ lúc sinh thời.

18
Với vai trò, lực lượng to lớn là những người trẻ tuổi hăng hái, đầy tinh
thần quyết tâm cách mạng, theo Hồ Chí Minh thanh niên phải hy sinh, cống
hiến nhiều nhất cho đất nước, phải biết “tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc”.
Đây là một nhiệm vụ, một yêu cầu đặt ra và không dễ thực hiện, đòi hỏi mỗi
thanh niên phải không ngừng rèn luyện, nâng cao đạo đức, chí khí, tinh thần
cách mạng…
Trong bài “Nhiệm vụ của thanh niên ta” năm 1955, Hồ Chí Minh viết:
“Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì.
Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu
chừng nào?” [30, tr.455]. Trong hoàn cảnh ngày nay, khi mà tư tưởng tự tư, tự
lợi đang làm suy yếu nhiều lĩnh vực trong đời sống và đạo đức, thì lời dạy đó
của Bác càng làm cho chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều, và cũng không phải

chỉ riêng thanh niên suy nghĩ
Đây là sự đúc kết một cách đầy đủ, ngắn gọn, khúc triết nhất của Hồ
Chí Minh về nhiệm vụ thanh niên, trong đó đã làm bật lên yêu cầu thanh niên
phải biết hy sinh, cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc.
Trong thời kỳ hiện nay đây vẫn là câu hỏi, là nhiệm vụ đặt ra đối với
mỗi thanh niên. Lời dặn của Người đã trở thành câu hát luôn được vang lên
trong từng hoạt động của thanh niên Việt Nam: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì
cho ta mà tự hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc thân yêu!”.
Hồ Chí Minh rất chú ý đến vai trò xung kích, xung phong của thanh
niên nên Người còn nhấn mạnh: “Về nhiệm vụ của thanh niên, nam nữ thanh
niên phải làm sao thực hiện được tốt khẩu hiệu:
Việc gì khó có thanh niên.
Ở đâu khó có thanh niên” [32, tr.310].

19
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi thanh niên phải có chí tiến thủ, có ý chí cách
mạng kiên cường để không ngừng tiến bộ và vượt qua mọi khó khăn thử
thách.
“Thanh niên cần phải có chí tự động, tự cường, tự lập.
Phải có khí khái ham làm việc chứ không ham địa vị.
Phải có quyết tâm đã làm việc gì thì làm cho đến nơi đến chốn, làm cho
kỳ được, phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học luôn, học mãi. Học văn
hoá, học chính trị, học nghề nghiệp.
Phải có lòng kiên quyết tham gia kháng chiến để đấu tranh cho kỳ được
thống nhất và độc lập, dân chủ và tự do.
Như thế mới xứng đáng thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà”
[28, tr.375].
Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của thanh niên là nhất quán,
có cơ sở xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng chung. Tuy nhiên nếu xét ở góc độ
thanh thiếu niên là lực lượng hậu bị của Đảng, là đội quân kế cận của cách

mạng mới thấy hết ý nghĩa sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Cốt lõi trong
nhiệm vụ của thanh thiếu niên là phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, là trau dồi
đạo đức cộng sản, là hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Đó là điều
cơ bản nhất, quan trọng nhất, nhất quán trong phẩm chất của người cộng sản.
Thanh niên thực hiện nhiệm vụ của mình không chỉ là thực hiện nhiệm vụ
chung của cách mạng, mà còn là thực hiện nhiệm vụ của những người cộng
sản trẻ trên bước đường cống hiến, phấn đấu để hoàn thiện mình theo lý tưởng
của Đảng.
Đối với thế hệ trẻ, để thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng xã
hội mới, cần phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh dạy: “Thanh
niên ta phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải trau dồi đạo đức
của người cách mạng”. Bởi theo Người đạo đức chính là cái gốc, cái nền cơ
bản của người cách mạng, không có cái gốc cái nền đó không thể trở thành

20
người cách mạng chân chính, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Có tài mà không có đức, tham ô hủ hoá, có hại cho nước nhà.
Chính vì vậy thanh niên phải không ngừng tự mình nâng cao đạo đức
cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc mà
trước hết là tình yêu thương những người ruột thịt, bạn bè, đồng loại.
Một nhiệm vụ lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho thanh niên là
“phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai, tức là các cháu nhi đồng”[33,
tr.488]. Người còn lưu ý thanh niên nội dung và phương pháp dạy các cháu
nhi đồng “phải giữ gìn toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động,
trẻ trung của chúng”[29, tr.85]. Bác luôn lưu ý đến đặc điểm lứa tuổi của thế
hệ trẻ khi giáo dục, không chỉ nói đến học tập, công tác mà còn dặn dò phải
biết vui chơi, giải trí, đừng để cho thanh niên, nhi đồng biến thành những
người “già sớm”.
Thanh niên không những phải học cái tốt trong sách vở, trong nhân dân
mà còn có nhiệm vụ chống cái xấu ngay trong bản thân mình. Bác chỉ rõ

những khuyết điểm mà thanh niên thường mắc phải là ham chuộng hình thức,
thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng… chỉ khi nào chúng ta loại bỏ
được “kẻ thù” ngay trong chính bản thân mình thì chừng đó chúng ta mới có
thể trở thành con người chí công vô tư được.
Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những quan điểm của Người về vai trò,
nhiệm vụ của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam vẫn còn
nguyên giá trị.
Trong thực tế cách mạng Việt Nam, mỗi khi đất nước phát huy được
sức mạnh tổng hợp của dân tộc, sức mạnh của thanh niên thì mọi công việc
đều thành công và ngược lại khi cả nước không đồng lòng, thanh niên không
đồng sức thì công việc đó sẽ rất khó thành công.

×