Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hồ Chí Minh với việc lãnh đạo và thể chế hoá tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân trong các Hiến pháp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.5 KB, 99 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ MAI





HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC LÃNH ĐẠO VÀ THỂ CHẾ HÓA
TƢ TƢỞNG QUYỀN LỰC THUỘC VỀ NHÂN DÂN
TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học











HÀ NỘI – 2013
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ MAI





HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC LÃNH ĐẠO VÀ THỂ CHẾ HÓA
TƢ TƢỞNG QUYỀN LỰC THUỘC VỀ NHÂN DÂN
TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04






Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Liêu








HÀ NỘI – 2013
3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ với đề tài “Hồ Chí Minh
với việc lãnh đạo và thể chế hóa tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân
trong các Hiến pháp Việt Nam”là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của TS. Trần Ngọc Liêu. Các tư liệu trong luận văn được sử
dụng và chú thích nguồn trung thực.

Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Thị Mai





















4

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, bên cạnh những cố gắng của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể.
Trước tiên, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Ngọc Liêu - Người
trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã có những chỉ dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các cán bộ và cơ quan
nơi tôi trực tiếp khai thác tư liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu như: Thư
viện Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Thư viện tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, Thư viện Trường Đại học Sài Gòn …
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè - những người

đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tôi trong toàn bộ quá trình hoàn thành
luận văn thạc sĩ của mình.

Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Thị Mai
1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Cơ sở l‎í luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của đề tài. 8
7. Bố cục của luận văn. 8
Chƣơng 1:HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC LÃNH ĐẠO SOẠN THẢO
HIẾN PHÁP 9
1.1. Khái quát lịch sử Hiến pháp 9
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Hiến pháp nói chung 9
1.1.2. Lịch sử lập hiến Việt Nam trước năm 1945 12
1.2. Quá trình đấu tranh cho một Hiến pháp dân chủ 14
1.2.1. Những hoạt động đầu tiên 14
1.2.2. Những nguyên tắc lập hiến của Hồ Chí Minh 21
1.3. Vai trò của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp
26

1.3.1. Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và
năm 1959 26
1.3.2. Vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong soạn thảo Hiến pháp
năm 1980 và năm 1992 31
Chƣơng 2: THỂ CHẾ HOÁ TƢ TƢỞNG QUYỀN LỰC THUỘC VỀ
NHÂN DÂN CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT
NAM 39
2.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền lực thuộc về nhân dân 39
2.1.1. Khái niệm “ nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh 39
2.1.2. Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh 40
2

2.2. Quyền lực thuộc về nhân dân trong các Hiến pháp Việt Nam 46
2.2.1 Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân 46
2.2.2. Quyền con người và quyền công dân 61
2.2.3. Đánh giá giá trị của các bản Hiến pháp Việt Nam 68
2.3. Kế thừa và phát triển giá trị tƣ tƣởng trong công cuộc sửa đổi
Hiến pháp của Việt Nam hiện nay 73
2.3.1. Bối cảnh chung 73
2.3.2. Một số nội dung cần bổ sung, kế thừa và phát triển trong Hiến
pháp hiện nay 76
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHẦN PHỤ LỤC 90














3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đang diễn ra như vũ bão, thì quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội của
quần chúng nhân dân cũng diễn ra mạnh mẽ. Một trong những biểu hiện cụ
thể của quá trình này là nước ta đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện
Hiến pháp để nó thực sự trở thành một Hiến pháp dân chủ.
Tuy nhiên, đúng như giới nghiên cứu đã đánh giá: “Xu hướng chung
là từ khi tiến hành đổi mới, nền lập hiến Việt Nam ngày càng có dấu hiệu
khôi phục lại giá trị của Hiến pháp năm 1946”[40, tr.7]. Có nhiều nguyên
nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là bản Hiến pháp đầu
tiên của dân tộc gắn liền với tên tuổi của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trí tuệ
lập hiến uyên bác của Người đã được phản ánh trong bản Hiến pháp này và
ngay cả trong bản Hiến pháp sửa đổi năm 1959 do Người làm trưởng ban.
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hoá kiệt xuất một người cả cuộc đời mình đã gian lao phấn đấu, gian
khổ hi sinh vì một ham muốn: “Ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [14, tr.161]. Người đã để lại cho
Đảng ta, nhân dân ta những di sản tư tưởng vô cùng quý giá, tư tưởng của

Người là ngọn đuốc soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
Theo Hồ Chí Minh, một nước độc lập thì phải do nhân dân thực sự
làm chủ, nhân dân phải được hưởng quyền tự do dân chủ và Hiến pháp là
khuôn mẫu của dân chủ; vì vậy, ngay sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”
tuyên bố với thế giới nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong
4

phiên họp đầu tiên của chính phủ, Người đã đặt ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần
phải làm ngay, trong đó nhiệm vụ thứ ba là “phải có một bản Hiến pháp dân
chủ”. Trong cuộc đời hoạt động và lãnh đạo dân tộc, Người đã kí‎ hơn 60 sắc
lệnh, trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm
1959, viết nhiều tác phẩm, nhiều bài nói về Hiến pháp, lập pháp và phương
thức xây dựng nhà nước lập hiến.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử dân tộc, nước Việt Nam tự hào
vẫn tiếp bước đi theo con đường mà Người đã chọn; đặc biệt hiện nay, đất
nước đang đứng trước tình hình mới: bên cạnh cơ hội phát triển, chúng ta
cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới, trong đó không ít
vấn đề có liên quan đến chủ quyền của dân tộc, chế độ của quốc gia và trong
bối cảnh chúng ta đang sửa đổi và hoàn thiện Hiến pháp như hiện nay; tác
giả thấy rằng, cần tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu các bản Hiến pháp của Việt
Nam, trong đó có hai bản Hiến pháp (năm 1946 và năm 1959) do chủ tịch
Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, để một lần nữa khẳng định tính
chất dân chủ của chế độ ta, khẳng định thêm mối quan hệ khăng khít giữa
Đảng với nhân dân, và rút ra những nội dung bổ ích để sửa đổi và hoàn thiện
Hiến pháp hiện nay.
Với những lí‎ do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hồ Chí Minh với việc
lãnh đạo và thể chế hóa tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân trong các
Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhận thức sâu sắc giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong hàng chục năm qua, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, các
nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong nước đã có những công trình về tư
tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có thể
khái quát thành hai hướng tiếp cận cơ bản:
5

Một là, những tác phẩm, công trình nghiên cứu bao quát nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có một phần đề cập đến vấn đề tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền lực thuộc về nhân dân.
Tiêu biểu có thể kể đến một số tác phẩm:
Tác phẩm Hồ Chí minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc của giáo sư Song
Thành, Nxb Lí luận chính trị, 2005: tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện và
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong tất cả các lĩnh vực như: đạo đức, văn hoá,
Nhà nước và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , trong
tác phẩm của mình, tác giả cũng đã đề cập đến vai trò của Hồ Chí Minh trong
hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 và tư tưởng quyền lực thuộc về
nhân dân của Bác.
Tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam,
do đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2003: các bài
viết đã tập trung làm rõ về quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, những
đóng góp lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có
đề cập đến vai trò của Người trong việc soạn thảo bản Hiến pháp năm 1946 –
bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á.
Tác phẩm Hồ Chí Minh - nhà cách mạng sáng tạo, do giáo sư Mạch
Quang Thắng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009: trong đó tập
trung làm rõ những điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trên cơ sở vận dụng
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng
thời tác giả đã trình bày về tư tưởng nhà nước của dân, do dân và vì dân của
Hồ Chí Minh.

Hai là, những tác phẩm, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến
vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực thuộc của nhân dân trong các bản
Hiến pháp Việt Nam ( trong đó có hai bản Hiến pháp do Người trực tiếp chỉ
đạo soạn thảo). Có thể kể tới một số tác phẩm :
6

Tác phẩm Tư tưởng lập pháp của Hồ Chí Minh , tác giả Bùi Ngọc
Sơn, Nxb Lí luận chính trị, 2004: tác giả đã đi sâu nghiên cứu về mô hình Nhà
nước ở Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp, vai trò của Hồ Chí
Minh trong việc chỉ đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959.
Làm rõ tính nhân dân trong tư tưởng của Người thông qua hai bản Hiến pháp.
Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật chủ
biên, Nxb Công an nhân dân, 2012: tác phẩm phâm tích về nguyên tắc của
quá trình soạn thảo và ban hành Hiến pháp ở Việt Nam, trong đó có tập trung
làm rõ hoàn cảnh ra đời của các bản Hiến pháp Việt Nam, vai trò của Hồ Chí
Minh trong Hai bản Hiến pháp mà Người trực tiếp soạn thảo và giá trị sự kế
thừa tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân của Người trong các bản Hiến
pháp tiếp theo.
Tuy nhiên chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu một cách hoàn
chỉnh quyền lực thuộc về nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh với việc thể
chế hóa quyền lực thuộc về nhân dân trong các Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt
là việc kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề quyền lực thuộc
về nhân dân trong việc soạn thảo sửa đổi Hiến pháp hiện nay.
Trong đề tài này, tác giả sẽ tập trung làm rõ vai trò của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong việc xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ của Việt Nam với
tư tưởng chủ đạo là quyền lực thuộc về nhân dân, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm, những giá trị to lớn từ tư tưởng này đối với công cuộc sửa đổi
Hiến pháp hiện nay của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh trong việc đấu tranh vì

một Hiến pháp dân chủ, sự lãnh đạo và thể chế hoá tư tưởng quyền lực thuộc
về nhân dân trong hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người trực
tiếp chỉ đạo soạn thảo, giá trị của tư tưởng đó được kế thừa và phát triển trong
7

hai bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm trong công cuộc hoàn thiện Hiến pháp của nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh vì một
Hiến pháp dân chủ.
- Tìm hiểu tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh
trong các bản Hiến pháp Việt Nam.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc sửa đổi và hoàn thiện
Hiến pháp của nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Hồ Chí Minh trong việc lãnh đạo và thể chế hoá tư tưởng
quyền lực thuộc về nhân dân trong các bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959
do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo.
Giá trị của tư tưởng đó được kế thừa và phát triển trong hai Hiến pháp
năm 1980 và năm 1992.
Phạm vi nghiên cứu:
Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh vì một Hiến pháp dân chủ. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với vấn đề quyền lực thuộc về nhân dân, tập trung
làm nổi bật tư tưởng này thông qua các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959,
năm 1980 và năm 1992. Vai trò lãnh đạo của Bác trong hai bản Hiến pháp
năm 1946 và năm 1959. Rút ra một số ý kiến đóng góp cho công cuộc sửa đổi
Hiến pháp hiện nay.
5. Cơ sở l‎í luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Lấy thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm
cơ sở lí luận cho quá trình nghiên cứu. Đồng thời sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học cụ thể như: Lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, quy
nạp và diễn dịch, so sánh, đối chiếu, khái quát hóa để nghiên cứu và trình
bày luận văn.
8

6. Đóng góp của đề tài.
Đề tài tìm hiểu một cách khá cụ thể quá trình hình thành tư tưởng Hồ
ChíMinh trong vấn đề quyền lực thuộc về nhân dân và việc thể chế hóa tư
tưởng đó trong các Hiến pháp Việt Nam.
Đồng thời góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu giá trị tư tưởng quyền
lực thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh; từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm trong công cuộc hoàn thiện Hiến pháp của nước ta hiện nay. Mặt
khác, đây còn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những người muốn tìm
hiểu sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương:
Chƣơng 1:Hồ Chí Minh với việc lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp
Chƣơng 2: Thể chế hoá tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân của Hồ
Chí Minh trong các Hiến pháp Việt Nam.











9

Chƣơng 1
HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC LÃNH ĐẠO SOẠN THẢO HIẾN PHÁP

1.1. Khái quát lịch sử Hiến pháp
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Hiến pháp nói chung
Lênin đã khẳng định:“ Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn
đề chính quyền Nhà nước” [30, tr.13], vấn đề chính quyền Nhà nước ở đây
không chỉ được hiểu là việc giành chính quyền Nhà nước trong cách mạng mà
còn là việc tổ chức chính quyền Nhà nước sau khi cách mạng giành thắng lợi,
bởi vì khi một xã hội mới ra đời, giai cấp đã tiến hành cách mạng và giành
được chính quyền không thể giữ lại toàn bộ cách thức tổ chức quyền lực Nhà
nước của giai cấp cầm quyền trước đó, mà phải tổ chức lại quyền lực Nhà
nước theo những cách thức mới, phù hợp với điều kiện cầm quyền của giai
cấp mình, đây luôn được ưu tiên là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của
chính quyền mới. Như vậy, vấn đề tổ chức quyền lực Nhà nước là vấn đề cơ
bản của mọi cuộc cách mạng.
Trong khi đó, ấn định cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước lại là
một nội dung cơ bản của Hiến pháp, vì vậy việc định ra Hiến pháp cũng chính
là nội dung quan trọng của chính quyền mới, mà nhìn vào đó người ta có thể
biết được thể chế chính trị của một quốc gia, và quyền lực của quốc qia thuộc
về ai.
Cụm từ “Hiến pháp” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “constitutio” có
nghĩa là xác định, thiết lập. Văn bản có tính chất Hiến pháp là “Hình thức cai
quản Nhà nước Anh, Xcôtlen, Ailen” [35, tr.20] năm 1653 (sau cách mạng tư
sản Anh). Còn Hiến pháp được hiểu như ngày nay là bộ luật cơ bản của Nhà
nước chỉ xuất hiện cách đây hơn hai trăm năm.
10


Kể từ khi Hiến pháp ra đời đến nay, có nhiều quan điểm, định nghĩa
khác nhau về Hiến pháp. Theo quan điểm Mác-Lênin, “Hiến pháp là đạo luật
cơ bản của Nhà nước, trong đó quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan
trọng nhất của một Nhà nước, một xã hội như: chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, văn hoá-xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và đặc biệt là tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp thể hiện một cách tập
trung nhất ý chí của Nhà nước, bản chất giai cấp của Nhà nước.” [35, tr.21]
Hiến pháp đầu tiên xuất hiện trên thế giới là Hiến pháp của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ năm 1787. Tiếp đó là Hiến pháp của nền đệ nhất Cộng hoà Pháp
năm 1791 và Hiến pháp Ba Lan năm 1791 Nói chung, vào cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX ở hầu hết các nước tư sản đều có Hiến pháp. Sự ra đời
của các Hiến pháp nói trên đánh dấu giai đoạn phát triển đầu tiên trong lịch sử
lập hiến của nhân loại, là cơ sở pháp lí cho việc xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ hơn, với việc thiết lập chính thể cộng hoà thay cho chính thể
quân chủ chuyên chế của các vương triều phong kiến trước đây.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giai cấp công nhân đã sinh ra và
trưởng thành trong lòng xã hội tư bản, khi đủ điều kiện thì làm cách mạng vô
sản để giành chính quyền Nhà nước. Với cách mạng tháng Mười Nga năm
1917, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại giai cấp công nhân đã lãnh đạo cách
mạng thành công, thành lập ra Nhà nước công-nông đầu tiên dưới hình thức
Cộng hoà Xô viết. Ngay sau đó, năm 1918, Hiến pháp của Nhà nước Xô viết
Nga ra đời, năm 1919 Hiến pháp của Nhà nước Cộng hoà Xô viết U-cơ-rai-na
và Cộng hoà Xô viết B-la-ru-xi ra đời Theo sáng kiến của Lênin, năm 1922
các nước Cộng hoà Xô viết (Liên bang Nga, U-cơ-rai-na, B-la-ru-xi và ngoại
Cáp-ca-dơ) hợp nhất thành Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô xiết (gọi
tắt là Liên-Xô) thì Hiến pháp Liên xô ra đời. Cũng trong năm 1924, Hiến
pháp của Cộng hoà nhân dân Mông Cổ ra đời. Sự ra đời của các Hiến pháp
11

nói trên, đánh dấu một giai đoạn mới (giai đoạn thứ hai) trong lịch sử lập hiến

của nhân loại, đó là sự ra đời của các Hiến pháp Xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới, làm cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước dân chủ đối với nhân
dân.
Như vậy, thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã vạch ra đường
giải phóng dân tộc và giai cấp, nhằm giải phóng triệt để loài người khỏi sự áp
bức. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga cùng sự ra đời của Nhà nước
Xô Viết đầu tiên, đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc thế giới.
Chính lúc đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuất
hiện, vượt lên những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin- tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, tiếp thu có
chọn lọc và phát triển sáng tạo tư tưởng đó vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử dân tộc và tạo dựng nên bước
ngoặt có tính cách mạng nhất trong lịch sử dân tộc.Tư tưởng Hồ Chí Minh là
sự kết tinh trí tuệ của dân tộc và thời đại, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Sau thế chiến hai năm 1945, với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên xô,
nhiều nước trên thế giới đã làm cách mạng thành công, thoát khỏi sự áp bức
của phát xít Đức - Nhật, xây dựng nên Nhà nước theo chính thể cộng hoà dân
chủ nhân dân. Do đó, Hiến pháp của các nước này cũng ra đời: Việt Nam năm
1946, Bungari năm 1947, Rumani và Triều Tiên năm 1948, Hunggari năm
1949, Balan năm 1952 Sự ra đời của Hiến pháp các nước nói trên đánh dấu
giai đoạn phát triển thứ ba trong lịch sử lập hiến của nhân loại, đó là giai đoạn
các nước Xã hội chủ nghĩa đã trở thành hệ thống trên toàn thế giới.
Tóm lại, sự ra đời của các Hiến pháp tư sản và Hiến pháp Xã hội chủ
nghĩa là kết quả tất yếu của quá trình phát triển của xã hội loài người nhằm
12

hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ. Vì vậy, Hiến pháp chỉ ra đời và tồn
tại trong một xã hội có dân chủ, vì dân, nhằm xây dựng và bảo vệ cho một xã

hội có dân chủ, vì dân chủ.
1.1.2.Lịch sử lập hiến Việt Nam trước năm 1945
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền, thì
vấn đề cơ bản của một chính quyền là nó thuộc về ai? Phục vụ cho quyền lợi
của ai?
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa
nửa phong kiến theo chính thể quân chủ chuyên chế đặt dưới sự thống trị của
thực dân Pháp, phục vụ cho mục đích khai thác và bóc lột của thực dân Pháp,
do đó chưa có Hiến pháp.
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa, nước Pháp đã
theo chính thể Cộng hòa nghị viện. Hình thức chính thể Nhà nước được ấn
định theo Hiến pháp năm 1875. Đứng đầu Nhà nước là Tổng thống do nghị
viện bầu ra với nhiệm kỳ 7 năm, Tổng thống Pháp có quyền hành lớn và đa
dạng. “Năm 1887, khi Liên bang Đông Dương được thành lập, trong đó có
Việt Nam thì đứng đầu Liên bang Đông Dương là một viên chức cấp cao
người Pháp, mang chức danh Toàn quyền Đông Dương do Tổng thống Pháp
bổ nhiệm bằng sắc lệnh, thông qua Hội đồng bộ trưởng Pháp. Toàn quyền
Đông Dương năm toàn bộ các quyền lập quy, lập pháp, hiến pháp và hành
pháp ở Đông Dương”.[ 31, tr.69]
Để thực hiện có hiệu quả quyền lực của mình, Toàn quyền Đông
Dương thi hành chính sách “Địa phương phân quyền” trên địa bàn cai trị của
mình. Liên bang Đông Dương bị chia làm năm xứ theo các thể chế chính trị
khác nhau: Nam Kì là xứ thuộc địa do viên Thống đốc đứng đầu, Bắc Kì là xứ
bảo hộ do Thống sứ đứng đầu, còn ba xứ Trung Kì, Cam-pu-chia và Lào tuy
cũng là xứ bảo hộ nhưng mỗi xứ lại do viên Khâm sứ đứng đầu. Toàn quyền
13

Đông Dương chỉ cần nắm lấy năm viên chức đứng đầu. Đến lượt mình, mỗi
viên chức đừng đầu mỗi xứ lại nắm lấy mạng lưới những viên quan cai trị
thực dân đứng đầu cấp tỉnh thuộc xứ mình cai trị. Hệ thống vua quan người

bản xứ đều trở thành công cụ thống trị của các viên chức Pháp kể trên.
Như vậy, mô hình tổ chức quyền lực của thực dân Pháp ở Việt Nam
không có cơ sở hiến định. Đó là một chính quyền thuộc địa bất hợp hiến,
không có cơ sở từ một Hiến pháp dân chủ, chính quyền thuộc địa cai trị theo
một lề lối tùy tiện, độc đoán và người dân bản xứ không có chút quyền hành
nào trong bộ máy đó.
Rõ ràng rằng: vì không có một bản Hiến pháp nên nước ta dưới sự cai
trị của thực dân Pháp không có một hệ thống pháp luật thống nhất từ trên
xuống, nhân dân ta phải hứng chịu đủ mọi khổ cực từ sự cai trị tuỳ tiện và độc
đoán. Như sau này Bác nói: “Luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, không
phải là ý chí chung của toàn thể nhân dân ta…luật pháp ấy đặt ra trước hết để
trừng trị, áp bức nhân dân lao động ” [36, tr. 152],.
Do ảnh hưởng từ bên ngoài: Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ,
bình đẳng, bác ái ở các nước lên cao, cũng như sự xuất hiện của Hiến pháp ở
một loạt các nước tư sản vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, cũng như
ở các nước Cộng hoà Xô viết vào đầu thế kỷ XX, nên ở Việt Nam đã xuất
hiện luồng tư tưởng cho rằng Việt Nam phải có một bản Hiến pháp. Tuy
nhiên, xuất phát từ nhận thức và động cơ khác nhau nên có những chủ trương
khác nhau về vấn đề này.
Trước hết là những chủ trương của những trí thức yêu nước mà tiêu
biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc họ chủ trương
phải xây dựng cho Việt Nam một bản Hiến Pháp trên cơ sở dân quyền. Tức là
đất nước phải được độc lập, nhân dân phải được làm chủ và chính quyền nhân
dân Việt Nam sẽ tự mình xây dựng một bản Hiến pháp dân chủ đối với nhân
14

dân. Đây là một chủ trương đúng, phù hợp với lòng dân. Vì vậy, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương nhân dân ta đã làm cách mạng tháng
Tám thành công, giành chính quyền Nhà nước về tay nhân dân và sau đó làm
ra Hiến pháp năm 1946.

Bên cạnh chủ trương nói trên, một bộ phận trí thức tay sai của thực
dân Pháp mà tiêu biểu là Phạm Quỳnh (chủ bút tạp chí Nam Phong) và Bùi
Quang Chiêu (quan đại thần triều Nguyễn, người đề xướng ra “thuyết trực trị”
và là một trong những người thành lập ra “Đảng lập hiến”) chủ trương yêu
cầu thực dân Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp. Như vậy, chủ
trương này thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam.
Nếu chủ trương này được thực hiện và Việt Nam có một bản Hiến pháp do
thực dân Pháp làm ra thì bản Hiến pháp đó chỉ là “cái bánh vẽ” vì chừng nào
đất nước chưa được độc lập thì nhân dân ta không thể có dân chủ, tự do, bình
đẳng, vì vậy càng không thể có bản Hiến pháp dân chủ.
Như vậy, trong bối cảnh chung của thời đại và những nét riêng của
lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã lĩnh hội
những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà nước; mặt khác, là
người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đông, với một trí tuệ phi
thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những tinh
hoa tư tưởng của nhân loại trên cơ sở những yêu cầu của thực tiễn cách mạng
Việt Nam và từ đó xây dựng nên những tư tưởng của riêng mình với những
nét độc đáo hiếm thấy.
1.2. Quá trình đấu tranh cho một Hiến pháp dân chủ
1.2.1. Những hoạt động đầu tiên
Hoàn toàn khác với các bậc tiền bối cả về hướng đi, cách đi và mục
đích đi, việc ra đi của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã giải
15

quyết được nhiệm vụ kép rất bức thiết cho dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ: một
là, nhận diện chính xác tình hình xã hội Việt Nam; hai là, tìm ra con đường
cứu nước đúng đắn. Đồng thời, khi tiếp xúc với nền Dân chủ tư sản, Người đã
sớm nhận thức được vai trò quan trọng của Pháp luật trong quản lý và điều
hành xã hội.

Trên cơ sở này, Người đã có những hành động đúng đắn để giải phóng
dân tộc và một trong những vấn đề mà Người hướng tới là nhanh chóng thiết
lập một nền Hiến pháp thực sự dân chủ ở Việt Nam, tư tưởng này được Người
phản ánh trong rất nhiều tác phẩm của mình.
Trước hết, tác phẩm phải nói đến là bản diễn ca với tựa đề “Việt Nam
yêu cầu ca” (1922), tác phẩm này đã bày tỏ nguyện vọng của Người về sự cần
thiết phải có một Hiến pháp dân chủ.
Năm 1919, trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị
Véc-xây do Người khởi thảo gồm 8 điểm; trong đó điểm thứ hai yêu cầu phải
“cải cách nền pháp lí ở Đông Dương bằng cách cho người dân bản xứ cũng
được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu [11,
tr.435-436]. Đây là lần đầu tiên, một người An Nam dám công khai đứng ra
đòi cải cách nền luật pháp ở các nước thuộc địa để người dân thuộc địa được
hưởng các quyền tự do, dân chủ như người chính quốc. Vì vậy, mặc dù bản
yêu sách không được chấp nhận nhưng đã gây được tiếng vang lớn tại Hội
nghị và thu hút sự chú ý của bọn thực dân.
Sau đó vào năm 1922, trong bài “Việt Nam yêu cầu ca”, Người đã
phản ánh lại nội dung của “bản yêu sách 8 điểm” bằng lối thơ để dễ phổ biến,
dễ đi vào quần chúng nhân dân. Người viết:
“ Hai xin phép luật sửa sang
Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng

16

Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. [12, tr.438]
Yêu sách thứ bảy mà Người đề cập đã nêu lên một triết lí chính trị:
Hiến pháp là tiền đề của pháp quyền, có Hiến pháp mới có pháp quyền. Do
đó, yêu cầu về Hiến pháp cũng có nghĩa là yêu cầu về pháp quyền - Pháp
quyền là một lí thuyết của phương Tây, là một mô thức tổ chức xã hội mà

trong đó Nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội phải chịu sự
cương toả của pháp luật.
Nhưng vì sao pháp luật lại có công năng kiểm soát Nhà nước và các
chủ thể khác trong xã hội? Bởi vì, pháp luật có chỗ dựa riêng của nó: đó là
thần linh pháp quyền mà Người đã đề cập, đây chính là “pháp luật của tạo
hoá” (pháp luật tự nhiên)[39, tr.26], được bắt nguồn từ sức mạnh của luật tự
nhiên nên pháp luật có công năng đó. Nhưng chỉ khi nào pháp luật của con
người gần với luật tự nhiên thì mới là một thứ pháp luật thật sự cần thiết và
mới có công năng kiểm soát xã hội.
Chính quyền thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam là một chính
quyền bất hợp hiến. Do đó không có những giới hạn cho việc thực thi quyền
lực. Điều này chính là cơ sở cho sự cai trị tuỳ tiện, chuyên chế của chính
quyền thực dân và hệ quả là sự xâm phạm các quyền và tự do của con người,
chà đạp công lí. Một Nhà nước bất hợp hiến như vậy là một Nhà nước phản
diện so với Nhà nước pháp quyền. Hướng tới mục tiêu đòi lại công lí cho
nhân dân An Nam, bảo vệ các quyền tự do của con người, Người đã đặt ra
yêu cầu Nhà nước phải được tổ chức theo Hiến pháp, để thiết lập một nền
pháp quyền. Người yêu cầu pháp quyền không chỉ giành riêng cho Nhà nước
mà đối với “trăm điều - tức là mọi thứ, toàn xã hội”[39, tr.30]. Pháp quyền
không đơn thuần chỉ là mô thức tổ chức Nhà nước mà còn là mô thức tổ chức
xã hội.
17

Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, không chỉ là một
văn bản điều tiết về Nhà nước, Hiến pháp còn là văn bản ghi nhận các quyền
và tự do của con người. Đây chính là lí do tại sao Hồ Chí Minh yêu cầu “sắp
xếp một nền Hiến pháp về phương diện chính trị và xã hội, theo như những lí
tưởng nhân quyền”[39, tr.30].
Nhưng Hiến pháp là cơ sở cho pháp quyền không chỉ vì Hiến pháp
đặt ra những nguyên tắc ràng buộc việc tổ chức và hoạt động của công

quyền, mà còn ở ý nghĩa khẳng định những quyền cơ bản của con người.
Các quyền cơ bản mà Hiến pháp tôn trọng chính là giới hạn cho sự can thiệp
của công quyền. Đó chính là “khu vực cấm” đối với công quyền. Việc Hiến
pháp khẳng định dân quyền có ý nghĩa để người dân có thể sử dụng các
quyền hiến định đó để bảo vệ mình trong đời sống, nhất là trước sự xâm
phạm từ phía công quyền.
Như vậy, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã yêu
cầu về một thứ mà đầu thế kỷ XXI, Hiến pháp Việt Nam đã chính thức ghi
nhận: pháp quyền; tuy nhiên sự khác biệt ở đây là: Nêu như ở đây Người yêu
cầu về một nền pháp quyền thì Hiến pháp hiện hành của chúng ta lại cam kết
thực thi một Nhà nước pháp quyền.
Thứ hai,phải kể đến là “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1927), đây là
tác phẩm lên án chính quyền thuộc địa bất hợp hiến ở Việt Nam. Người đã tố
cáo bộ mặt tàn bạo lố lăng, giã nhân, giã nghĩa của những cá nhân đại diện
thực hành chế độ thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã chọc sâu vào bản chất phản
dân chủ, vô nhân đạo, phi công lí của nền cai trị thực dân Pháp. Nguyễn Ái
Quốc có đoạn viết: “Dưới sự cai trị của ngài (Anbe Xarô- toàn quyền Đông
Dương), dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự,
hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc
phiện, những thứ đó song song với sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ
18

và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam
tiến bộ nhất Châu Âu và sung sướng nhất trần đời” [11, tr.91]. Sự lên án chế
độ thực dân nói chung và tổ chức quyền lực của chính quyền thuộc địa nói
riêng đã được tiến hành bởi các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Tuy nhiên, sự lên
án đó còn chung chung trừu tượng, theo lập trường của ý thức hệ phong kiến.
Với sự phê phán, tố cáo chế độ thực dân Pháp cũng như bộ máy thống trị của
quan lại, nhân viên chính quyền thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra bước
ngoặt trong nhận thức của người dân Việt Nam. Tính đặc sắc trong sự phê

phán, lên án của Nguyễn Ái Quốc đối với chế độ thực dân là Người xuất phát
từ nhiều phương diện rất khác nhau của một lập trường dân chủ, dân tộc, yêu
nước kiên định, không khoan nhượng “Từ bản thân lí tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái, để từ đó dựng nên bức tranh về Chủ nghĩa thực dân, đế quốc rất
nhiều vẻ mặt và kẻ nào cũng đặc trưng tiêu biểu cho sự xấu xa tàn bạo, phi
nghĩa, bất nhân của chế độ thực dân Pháp” [45, tr.7].
Từ sự phủ nhận chính quyền của thực dân Pháp ở Việt Nam, có thể
thấy rằng Nguyễn Ái Quốc không chấp nhận một chính quyền bất hợp hiến
trên đất nước ta. Lúc này, trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, Việt Nam phải
được độc lập và có chủ quyền, mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam trong
tương lai phải là một mô hình chính diện đối lập với mô hình phản diện của
chính quyền thuộc địa.
Thứ ba, là bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là bản tuyên
ngôn độc lập thứ ba của dân tộc Việt Nam, ra đời sau “Nam quốc sơn hà”
(1077) của Lí Thường Kiệt và “Bình Ngô đại cáo” (1428) của Nguyễn Trãi.
Đến lượt mình, để viết một bản tuyên ngôn tuyên bố với thế giới về nền hoà
bình của dân tộc, Hồ Chí Minh biết lịch sử đã giao phó cho mình một công
việc mà cha ông ta đã làm vào thế kỷ XI và thế kỷ XV. Vì vậy, bản tuyên
19

ngôn độc lập phải thể hiện được ước vọng của ngàn đời trước và ngàn đời sau
của dân tộc Việt Nam về một nền độc lập tự chủ. Người đã không làm cả dân
tộc phải thất vọng!
Sau khi đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945; ngày 2 - 9 - 1945, giữa đất Thăng Long ngàn năm văn
hiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản “’Tuyên ngôn độc lập”
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
“Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lập quốc kiệt xuất của Chủ tịch
Hồ Chí Minh tuyên bố trước thế giới rằng: Nước Việt Nam đã trở thành quốc

gia độc lập, tự chủ. Tạo tiền đề lí luận cho việc khẳng định quyền độc lập, tự
chủ dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh trước tiên xuất phát từ “đạo lí và chính
nghĩa” để thừa nhận một giá trị tiến bộ của nền văn minh nhân loại, rằng: “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[14,tr.1]. Sau khi nhắc lại những
lời đó trong tuyên ngôn độc lập nước Mỹ, Hồ Chí Minh đã đưa ra suy luận
khoa học: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do” [14, tr.1]. Nếu như, quyền con người được đề cập trong “Tuyên
ngôn độc lập” của Mỹ chỉ được hiểu là quyền cá nhân thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã suy rộng ra quyền độc lập, quyền tự do của tất cả các dân tộc, đây là
nội dung cốt yếu của quyền con người. Như vậy, đối Người quyền con người
không chỉ được hiểu là quyền cá nhân mà còn là quyền của tập thể, quyền của
cả một dân tộc.
Mọi dân tộc sinh ra đều có quyền bình đẳng, tự quyết định vận mệnh
dân tộc của mình. Đó là “ lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Đó chính là
20

chân lý của nhân loại, đạo lý của con người “ không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Đạo lý ấy có “ gốc của thiện. Làm trái lại là ác. Phải lấy thiện chống ác.
Trên thế giới, trong xã hội ta và trong bản thân mỗi người” [28,tr.303]. Quyền
tự quyết của dân tộc như vậy xuất phát từ tính nhân bản của nhân loại, đó
chính là quyền con người. Do đó, với việc khẳng định quyền độc lập dân tộc,
“Tuyên ngôn độc lập” thể hiện tính nhân bản rất cao. Đoạn kết của bản tuyên
ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước thế giới: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do
và độc lập.Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [14,tr.4]. Khẳng
định độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở cho việc ra đời Hiến

pháp năm 1946 sau này - đây cũng chính là bản tuyên ngôn đặt nền móng cho
nền lập hiến Việt Nam.
Tuy nhiên, không phải lúc nào có tuyên ngôn độc lập cũng sẽ có sự ra
đời của Hiến pháp. Lịch sử việt Nam đã ghi nhận hai văn bản được xem là
“Tuyên ngôn độc lập” của dân tộc là “Nam quốc sơn hà” (1077) của Lý
Thường Kiệt và “Bình ngô đại cáo”(1428) của Nguyễn Trãi, nhưng sau khi
hai bản tuyên ngôn ra đời nước ta vẵn chưa có Hiến pháp. Như vậy, Hiến
pháp chỉ ra đời khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Hiến pháp
năm 1946 ra đời trong điều kiện đó.
Sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập”, Người đã lập tức đặt vấn đề soạn
thảo Hiến pháp, vì Người nhận thức rằng Hiến pháp chỉ tồn tại trong một
quốc gia có độc lập và chủ quyền. Vì vậy, khi cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đã giành được thắng lợi thì phải có Hiến pháp.
Như vậy, “Tuyên ngôn độc lập” đã tạo điều kiện cho sự ra đời của
Hiến pháp. Đến lượt mình, Hiến pháp lại khẳng định những giá trị độc lập dân
tộc mà “Tuyên ngôn độc lập” đã ghi nhận.
21

Hiến pháp bao gồm quy định có tầm cao nhất nhằm điều chỉnh việc tổ
chức Nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước; hình
thức, cơ cấu và mối quan hệ của Nhà nước với công dân. Hiến pháp là tất cả
các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, quy định thể chế chính trị
của quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm
quyền của các cơ quan ấy. Nói cách khác, Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ
chức chính trị của quốc gia. Chính vì tính đặc thù của Hiến pháp là văn bản
quy định về tổ chức quyền lực Nhà nước, tổ chức chính trị của quốc gia, cho
nên việc thiết lập Hiến pháp là thể hiện chủ quyền của quốc gia.
Như vậy, cùng với quá trình hoạt động cách mạng thực tế và
với những tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng bày tỏ rõ
quan điểm về một Nhà nước có pháp quyền, và đó phải thực sự là Nhà nước

của dân, do dân, vì dân.
1.2.2. Những nguyên tắc lập hiến của Hồ Chí Minh
Các nguyên tắc lập hiến mà chúng ta muốn bàn tới ở đây được hiểu là
những tư tưởng, những quan điểm của Bác mang tính chất chỉ đạo, định
hướng cho việc thiết lập nên một bản Hiến pháp.Hiến pháp là bộ luật cơ bản
của một quốc gia, nhằm tổ chức đời sống xã hội của quốc gia đó. Vì vậy,
Hiến pháp là văn bản vô cùng quan trọng, cần phải có những tư tưởng, quan
điểm mang tính chất nền tảng, định hướng cho việc tổ chức quốc gia. Những
tư tưởng, quan điểm đó xuất phát từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, đoàn kết dân tộc
Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, là cội nguồn của
những thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết có vai
trò vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Người nói: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
[11, tr.154]

×