Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Nghiên cứu việc tạo lập, khai thác và bảo quản tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







Vũ Nguyệt Mai








NGHIÊN CỨU VIỆC TẠO LẬP, KHAI THÁC VÀ BẢO QUẢN
TÀI LIỆU SỐ TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM












LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC THƯ VIỆN










Hà nội, 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






VŨ NGUYỆT MAI






NGHIÊN CỨU VIỆC TẠO LẬP, KHAI THÁC VÀ BẢO QUẢN
TÀI LIỆU SỐ TẠI THƯ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM





Chuyên ngành: Khoa học Thư viện
Mã số: 60 32 20




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THƯ VIỆN




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. T.S LÊ VĂN VIẾT







Hà nội, 2009

MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: Vai trò của tài liệu số đối với Thƣ viện Quốc gia
Việt Nam 10
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Thư viện Quốc gia Việt Nam 10
1.1.1 Sơ lược lịch sử 10
1.1.2 Người dùng tin và nhu cầu tin ở Thư viện Quốc gia Việt Nam 14
1.1.3 Quá trình tin học hoá ở Thư viện Quốc gia Việt Nam 24
1.2 Khái niệm tài liệu số và thư viện số
1.2.1 Lịch sử tài liệu số 28
1.2.2 Sự phát triển tài liệu số trên thế giới và ở Việt Nam 31
1.2.3 Tầm quan trọng của tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ SỬ
DỤNG TÀI LIỆU SỐ TẠI THƢ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM 36
2.1 Tạo lập tài liệu số 36
2.1.1 Lập kế hoạch phát triển tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt Nam 36
2.1.2 Các nguyên tắc và tiêu chí liên quan đến số hoá tài liệu 44
2.1.3 Các bước số hoá tài liệu 63
2.1.4 Thu nhận lưu chiểu tài liệu số tại Thư viện Quóc gia Việt Nam 74
2.1.5 Phần mềm hỗ trợ số hoá tài liệu 74
2.1.6 Lưu trữ và bảo quản tài liệu số 82
2.2 Khai thác tài liệu số hoá 84
2.2.1 Khai thác tài liệu tại chỗ 84
2.2.2 Khai thác tài liệu từ xa 86
2.2.3 Đánh giá bộ sưu tập tài liệu số trong quá trình sử dụng (có bảng hỏi)
2.3 Luật pháp 88
2.4 Nhận xét, đánh giá về tài liệu số ở Thư viện Quốc gia Việt Nam 89
2.4.1 Ưu điểm 89
2.4.2 Nhược điểm 91
+ Nguyên nhân tồn tại 93

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÀI LIỆU SỐ TẠI THƢ VIỆN
QUỐC GIA VIỆT NAM 94
3.1 Hướng phát triển tài liệu số trong tương lai 94
3.2 Chính sách số hoá tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam 95
3.3. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật 96
3.4 Năng lực cán bộ 100
- Các kiến nghị và giải pháp khác 102
Kết luận 107
Tài liệu tham khảo
Phụ lục luận văn



Danh mục chữ viết tắt


BVHTT : Bộ văn hoá thông tin
CNH : Công nghiệp hóa
CNTT : Công nghệ thông tin
CSDL : Cơ sở dữ liệu
HĐH : Hiện đại hóa
KHCN : Khoa học công nghệ
NDT : Người dùng tin
TMQG : Thư mục quốc gia
TT – TV : Thông tin thư viện
TVCC : Thư viện công cộng
TVĐT : Thư viện điện tử
TVKHTH : Thư viện khoa học tổng hợp
TVS : Thư viện số
TVQGVN : Thư viện Quốc gia Việt Nam

VN : Việt Nam




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ 21, thế kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3. Thế kỷ này được dự
báo có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc cả trong lĩnh vực khoa học lẫn trong
lĩnh vực công nghệ, mà công nghệ điện tử và viễn thông là ngành khoa học
mũi nhọn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự tiến bộ xã hội nói chung và hoạt động
thông tin thư viện nói riêng. Những năm tới, tình hình chính trị của khu vực
và thế giới tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Xu thế toàn
cầu hóa, phát triển nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế phát triển mạnh
mẽ.
Trong thế kỷ này, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Khoa học thúc đẩy nền
kinh tế tri thức phát triển làm cho nền sản xuất được hiện đại hóa với năng
suất cao, sản phẩm hàng hóa phong phú có hàm lượng trí tuệ cao, chất lượng
tốt ngày càng thỏa mãn nhu cầu của con người. Như vậy, thông tin đã trở
thành tài sản và sức mạnh của mỗi quốc gia, là yếu tố quyết định sự tiến bộ xã
hội.
Ở Việt Nam, hoạt động thông tin thư viện đã từng bước đạt được nhiều
thành tựu như tiến hành số hóa các sản phẩm chính văn (sách, báo, tài liệu
điện tử…) đã cho phép mở rộng và phát triển các kỹ năng truyền thống của
hoạt động thông tin thư viện: Biên mục định chủ đề về nội dung tài liệu, tóm
tắt, phát triển các công cụ ngôn ngữ (sơ đồ phân loại, bảng từ khóa,
Thesaurus…)

Chính vì vậy, việc tạo lập, khai thác và bảo quản tài liệu số đã cung cấp
một môi trường thông tin tri thức tích cực cho người dùng tin (NDT) nghiên

2
cứu, học tập, giải trí. Mặt khác, các thư viện ở Việt Nam đang trong quá trình
hiện đại hóa, tự động hóa, từng bước chuyển từ thư viện truyền thống sang
thư viện điện tử - thư viện số. Những kết quả trên đây đã giúp cho các thư
viện và các cơ quan thông tin ở Việt Nam liên kết chặt chẽ với nhau, sử dụng
và trao đổi tài liệu không chỉ trong vùng, lãnh thổ nhất định mà trên phạm vi
toàn thế giới. Việc xử lý bằng máy tính đã thay thế cho việc xử lý bằng tay,
tạo ra các cơ sở dữ liệu (CSDL), các thông tin được truy cập trên mạng. Việc
áp dụng mạng thông tin trong thư viện nhằm hoàn thiện công nghệ cho quá
trình xử lý, lưu trữ, trao đổi, tìm kiếm, khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn thông tin điện tử tạo điều kiện cho NDT khả năng tìm kiếm nhanh
chóng và đạt hiệu quả cao.
Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) là thư viện trung tâm của cả
nước với chức năng nhiệm vụ được quy định theo Pháp lệnh Thư viện đồng
thời là thư viện đứng đầu hệ thống thư viện công cộng và chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ văn hóa thể thao và du lịch, TVQG đã bước đầu ứng dụng công
nghệ thông tin hiện đại trong quy trình xử lý thông tin cũng như đã có những
ấn phẩm điện tử như tạo lập cấu trúc CSDL theo các yêu cầu chuyên môn, tạo
và quản lý CSDL số hóa với nhiều kiểu file khác nhau (doc, pdf…). Tuy
nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong việc tạo lập, khai thác
và bảo quản tài liệu số hóa ở nước ta nói chung và TVQG nói riêng còn là
lĩnh vực mới cần phải được nghiên cứu, khảo sát nghiêm túc và có những giải
pháp hoàn thiện hơn nữa về tài liệu số để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
xã hội và nhu cầu của NDT.
Do vậy, với mong muốn đóng góp một phần kiến thức khiêm tốn của mình
vào việc tìm kiếm giải pháp phát triển việc khai thác, bảo quản tài liệu số ở
TVQGVN nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu và học tập

cho các cán bộ nghiên cứu và các bạn học sinh sinh viên đồng thời giúp NDT

3
tại TVQG có thể tìm kiếm nguồn thông tin luôn được cập nhật, bổ sung
thường xuyên, những thông tin chính xác được chọn lọc trong một khối lượng
thông tin lớn, tôi đã chọn đề tài : “Nghiên cứu việc tạo lập, khai thác và bảo
quản tài liệu số ở TVQGVN” làm đề tài luận văn thạc sĩ Khoa học thư viện
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của Luận văn
Trong những năm vừa qua, nhờ nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng
của nguồn tài liệu số trong hoạt động TT-TV ở TVQGVN, đã có một số bài
viết đăng trên các tạp chí ra hàng tháng của thư viện:
Khai trương thư viện điện tử tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện
Quốc gia Việt Nam H., 2007 tr.1-11
Lê Đức Thắng (2008), Kỹ thuật tạo ảnh số dùng trong công tác thư viện,
Tạp chí thư viện Việt Nam số 2 tr.3-11
Lê Đức Thắng, Quy trình tổ chức số hoá tài liệu, Thư viện Quốc gia Việt
Nam
Nguyễn Thị Đào, Phan Thị Lý (2006), Nguồn tin điện tử, Tạp chí Thư viện
Việt Nam số 1 tr.25-29
Nguyễn Thị Hạnh (2007), Dịch vụ tra cứu số, Tạp chí Thư viện Việt Nam
số 1 tr.18-22
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nghiên cứu cụ thể hay luận văn khoa
học nào nghiên cứu về đề tài này. Chính vì vậy, đề tài: Nghiên cứu việc tạo
lập, khai thác và bảo quản tài liệu số tại TVQGVN là đề tài hoàn toàn mới,
không trùng lặp với đề tài nào trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4
Mục đích của luận văn là trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực

trạng của quá trình xây dựng, khai thác và bảo quản tài liệu số tại TVQG, đề
xuất giải pháp phát triển có cơ sở khoa học và đảm bảo tính thực tiễn nhằm
phát triển tài liệu số ở TVQG nói riêng và các thư viện, trung tâm thông tin
thư viện trong nước nói chung.
Từ mục đích trên, tôi đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho luận văn như sau:
- Xác định rõ vai trò tài liệu số đối với TVQGVN
- Nghiên cứu thực trạng của quá trình xây dựng, khai thác và bảo quản tài
liệu số để đổi mới hoạt động thông tin thư viện (TT-TV) ở TVQGVN trong
tất cả các khâu, các quá trình: xử lý, phân loại, biên mục và phục vụ bạn
đọc…
Nêu ra những giải pháp cụ thể có khả năng thực thi nhằm đổi mới, nâng
cao chất lượng vốn tài liệu số đáp ứng nhu cầu tin cho người đọc ở
TVQGVN.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Thư viện Quốc gia có nên số hóa toàn bộ nguồn tài liệu (trong khoảng 10
năm tới) ?
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự mở rộng quy mô
của Internet đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và ứng dụng công
nghệ trong hoạt động TT-TV mà điển hình là sự ra đời của thư viện điện tử-
thư viện số. Loại hình thư viện này không hạn chế người sử dụng và cho phép
tìm kiếm mọi thông tin với kết quả nhanh chóng. Kỹ thuật scan (quét) đã
được sử dụng nhiều năm qua nhưng nó chỉ thực sự cần thiết khi những công
cụ tìm kiếm như Google, Yahoo…xuất hiện. Khi đó, hàng triệu đầu sách,

5
hàng tỷ trang web và hầu hết các bài báo, tạp chí, tranh ảnh, bản nhạc và phim
từ trước đến nay đều được scan để lưu trữ vào thư viện số.
Thư viện Quốc gia Việt Nam là thư viện trung tâm của cả nước với chức
năng nhiệm vụ được quy định theo Pháp lệnh Thư viện đồng thời là thư viện
đứng đầu hệ thống thư viện công cộng và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ văn

hóa thể thao và du lịch. Chính vì vậy, khi sách được số hóa , một câu hỏi được
đặt ra: Liệu TVQG có nên số hóa toàn bộ nguồn tài liệu?
Thực tế cho thấy tài liệu số có nhiều tiện ích: đọc và lưu trữ trên máy tính
đồng thời cho phép liên kết tất cả các tài liệu với nhau, giúp các tài liệu ít phổ
biến có nhiều độc giả; giúp tìm hiểu sâu hơn về lịch sử cũng như nguồn gốc
của mọi vấn đề và cung cấp mọi kiến thức từng được viết trong sách vở ở tất
cả các thứ tiếng khác nhau…điều mà nhiều khi thư viện truyền thống không
thể đáp ứng.
Tuy nhiên, số lượng sách in (sách truyền thống) được xuất bản ngày một
tăng, nội dung và hình thức ngày càng phong phú và đa dạng. Sách in bền
hơn, đáng tin cậy hơn so với thiết bị lưu trữ tài liệu như ổ cứng hoặc CD…
Hơn nữa, xét đến đối tượng người đọc ở TVQG, chủ yếu là các bạn sinh
viên các trường Đại học, các nghiên cứu viên thậm chí là bạn đọc bậc cao
tuổi. Nếu số hóa toàn bộ nguồn tài liệu sẽ có bao nhiêu NDT có thể sử dụng
được, bao nhiêu bạn đọc có thể tra cứu được trên máy tính…
Do vậy, nên kết hợp cả hai loại hình tài liệu truyền thống và tài liệu điện tử,
tài liệu số ở TVQGVN.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu việc tạo lập, khai thác và bảo
quản tài liệu số ở TVQGVN

6
- Phạm vi nghiên cứu: Từ năm 1986 đến nay, khi TVQG bắt đầu tạo lập
các tài liệu điện tử.


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về công tác thông tin thư viện, sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét và đánh giá từng vấn đề

nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau trong
luận văn:
- Phân tích tổng hợp tài liệu
- Phương pháp quan sát trực tiếp
- Điều tra bằng an két và phỏng vấn trực tiếp
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
+ Ý nghĩa khoa học
- Luận văn góp phần làm sáng rõ vai trò, thực trạng tài liệu số ở TVQGVN
trong việc phục vụ thông tin và tài liệu, hỗ trợ việc học tập, nghiên cứu khoa
học cho cán bộ nghiên cứu ở TVQG cũng như bạn đọc là sinh viên, học viên
các trường Đại học trong và ngoài nước.
- Ý nghĩa thiết thực hơn cả là luận văn đưa ra những giải pháp cụ thể có
khă năng thực thi nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng vốn tài liệu số đáp ứng
NCT cho người đọc ở TVQGVN.
+ Ý nghĩa thực tiễn

7
- Trên cơ sở tài liệu được sưu tầm và tập hợp, tác giả mong muốn kết quả
của đề tài có thể ứng dụng rộng rãi trong thư viện các trường Đại học và trung
tâm TT - TV đang và sẽ tiến hành số hoá tài liệu.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các thư viện, các bạn
học viên và sinh viên ngành TT - TV có thêm tư liệu sinh động để nghiên
cứu, góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác thư viện ở TVQGVN
8. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực trạng của quá trình xây dựng và sử dụng tài
liệu số tại TVQGV. Đề tài . Đề tài nhằm xây dựng mô hình hệ thống thông tin
thư viện điện tử/ thư viện số, trên cơ sở đó tìm kiếm giải pháp phát triển việc
khai thác, bảo quản tài liệu số ở TVQGVN nhằm đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác nghiên cứu và học tập, giúp NDT tại TVQG có thể tìm kiếm
nguồn thông tin luôn được cập nhật, bổ sung thường xuyên, những thông tin

chính xác được chọn lọc trong một khối lượng thông tin lớn.
9. Bố cục của Luận văn
Luận văn có bố cục như sau:
Phần mở đầu
Phần nội dung nghiên cứu (gồm 3 chƣơng)
Chƣơng 1: Vai trò tài liệu số đối với Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Thư viện Quốc gia Việt Nam
1.1.1 Sơ lược lịch sử
1.1.2 Người dùng tin và nhu cầu tin ở Thư viện Quốc gia Việt
Nam
1.1.3 Quá trình tin học hoá ở Thư viện Quốc gia Việt Nam

8
1.2 Khái niệm tài liệu số và thư viện số
1.2.1 Lịch sử tài liệu số
1.2.2 Sự phát triển tài liệu số trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.3 Tầm quan trọng của tài liệu số hoá tại Thư viện Quốc gia Việt
Nam
Chƣơng 2: Thực trạng của quá trình xây dựng và sử dụng tài liệu số tại
Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
2.1 Tạo lập tài liệu số
2.1.1 Lập kế hoạch cho phát triển tài liệu số tại Thư viện Quốc
gia Việt Nam
2.1.2 Các nguyên tắc và tiêu chí liên quan đến số hoá tài liệu
2.1.3 Các bước số hoá tài liệu
2.1.4 Thu nhận lưu chiểu tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt
Nam
2.1.5 Phần mềm hỗ trợ số hoá tài liệu
2.1.6 Lưu trữ và bảo quản tài liệu số
2.2 Khai thác tài liệu số hoá

2.2.1 Khai thác tài liệu tại chỗ
2.2.2 Khai thác từ xa từ xa
2.2.3 Đánh giá bộ sưu tập tài liệu số trong quá trình sử dụng (có
bảng hỏi)
2.3 Luật pháp
2.4 Nhận xét đánh giá về tài liệu số

9
2.4.1 Ưu điểm
2.4.2 Nhược điểm
+Nguyên nhân tồn tại
Chƣơng 3: Giải pháp phát triển tài liệu số ở Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
3.1 Hướng phát triển tài liệu số
3.2 Chính sách số hoá tài liệu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam
3.3 Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật
3.4 Năng lực cán bộ
* Các kiến nghị và giải pháp khác
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục luận văn (nếu có)
Luận văn được hoàn thành tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Để hoàn
thành luận văn, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi xin cảm ơn sự giúp
đỡ nhiệt tình và quan trọng của Tiến sĩ: Lê Văn Viết - người thầy, người
hướng dẫn khoa học, sự giúp đỡ của các thầy cô trong Khoa sau đại học và
Khoa TT – TV trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các anh chị, cô
chú công tác tại Thư viện Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới và sự đóng góp ý
kiến của các bạn đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian có hạn cũng như những hạn chế của cá nhân nên luận văn
không tránh khỏi những khiếm khuyết và thiếu xót. Rất mong nhận được sự
chỉ giáo của các thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.



10
Hà Nội, năm 2009



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
VAI TRÒ CỦA TÀI LIỆU SỐ
ĐỐI VỚI THƢ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) là thư viện trung tâm của cả
nước với chức năng nhiệm vụ được quy định theo Pháp lệnh thư viện đồng
thời là thư viện đứng đầu hệ thống thư viện công cộng và chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ văn hoá, thể thao và du lịch. TVQGVN trải qua 90 năm xây dựng
và phát triển (1917 – 2007) được thể hiện qua các thời kỳ:
+ Thời kỳ từ tháng 11/1917 đến 10/1954 – Thư viện công cộng lớn nhất
Đông Dương
Tiền thân của TVQGVN là Thư viện Trung ương Đông Dương được thành
lập theo Nghị định ngày 29/11/1917 của A. Sarraut, Toàn quyền Pháp ở Đông
Dương. Trụ sở đặt tại số 31 đường Trường Thi (nay là phố Tràng Thi) Hà
Nội, nơi xưa kia thường diễn ra các cuộc thi tuyển chọn nhân tài thời phong
kiến
1
và cũng là trụ sở của Kinh lược Bắc kỳ. Ngày 28/2/1935, Thư viện được
mang tên Pierre Pasquier (Pie Paskiê).
2




1
Theo tác giả Bùi Thân thì: “Đến đầu thế kỷ XIX nơi Thư viện Quốc gia hiện nay đóng là trường thi Hương
cho sĩ tử 8 tỉnh quanh Hà Nội. Đến năm 1873 Gacnie xâm lược Hà Nội, đóng quân tại đây. Năm 1876 chúng
mới trả lại song năm 1882 Rivie tái chiếm, năm 1886 dồn trường thi Hà Nội xuống thi chung với Nam Định,

11
Ngày 1/9/1919, Thư viện mở cửa phục vụ bạn đọc.
Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã ký Sắc lệnh số 13 chuyển giao các thư viện công trong đó có Thư viện
Pierre Pasquier về cho Bộ Quốc gia Giáo dục quản lý. Cùng ngày hôm đó,
Chính phủ lại ra Sắc lệnh số 21 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc
Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.
Ngày 20/10/1945 Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ra quyết định đổi tên
Thư viện Pierre Pasquier thành Quốc gia Thư viện. Nhưng sau đó, cùng với
một số cơ quan khác, Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc được sáp
nhập vào Nha Giám đốc Đại học vụ và được đổi tên thành Sở Lưu trữ công
văn và Thư viện toàn quốc với công việc là tiếp nhận và bảo quản, giữ gìn hồ
sơ, tài liệu lưu trữ, sách, báo do Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương để lại.

Số lượng nhân viên của Sở chỉ có 27 người, so với 37 người dưới thời Pháp
thuộc.
Ngày 25/7/1947 theo Nghị định của Phủ Cao ủy Pháp thì Nha Lưu trữ công
văn và Thư viện Đông Dương được tái lập tại Sài Gòn. Nha này, ngoài việc
lưu trữ tài liệu, còn có nhiệm vụ điều khiển Thư viện Trung ương lúc đó được
đổi tên thành Thư viện Trung ương ở Hà Nội.
Theo Hiệp nghị Việt – Pháp ngày 9 tháng 7 năm 1953, Thư viện Trung
ương Hà Nội được sát nhập vào Viện Đại học Hà Nội, đổi tên thành Tổng thư
viện Hà Nội và trở thành một cơ quan văn hoá hỗn hợp Pháp - Việt
+Thời kỳ sau tháng 10/1954



lấy đất xây Nha Kinh lược. Năm 1896 bãi bỏ Nha đó và chuyển thành Phòng Thương mại – Canh nông. Năm
1919 thành Thư viện như hiện nay”. Xin xem: Bùi Thận. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, tấm lòng sâu
nặng với thủ đô//Sách và đời sống. -2005 Số 4. –Tr. 25
2
Pierre Pasquier (1877 – 1934) đến làm việc cho chính quyền Pháp ở Đông Dương từ năm 1898, có thời kỳ
là Toàn quyền Pháp ở Đông Dương và đã có một số đóng góp cho Thư viện Trung ương Đông Dương.

12
Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến
TVQGVN. Trong Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 4 khóa VII (từ ngày
4 tháng 1 năm 1993 đến ngày 14 tháng 1 năm 1993), Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra chủ trương: xây dựng TVQG có tầm cỡ. Tại QĐ401-Ttg ngày 9
tháng 10 năm 1976 đã xác định thư viện này là “Thư viện Trung ương” và
trong pháp lệnh Thư viện là “thư viện trung tâm”của cả nước.
+ Giai đoạn 10/1954 – 4/1975
Đây là giai đoạn đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Pháp
lâu dài và gian khổ, lại phải tiếp tục cuộc chiến tranh chống Mỹ nhằm thống
nhất nước nhà, nhưng TVQGVN đã có những bước phát triển hết sức cơ bản
cả về chức năng lẫn các hoạt động nghiệp vụ.
+ Giai đoạn từ 1976 đến 1985
Những năm đầu sau khi thống nhất đất nước, TVQGVN cũng có những
bước phát triển mới tác động tới sự phát triển của hệ thống thư viện công
cộng.
+ Giai đoạn 1986 - 1999
TVQGVN giai đoạn này cũng được đánh dấu bằng sự quan tâm lớn của
Đảng và Nhà nước. Lần đầu tiên, trong một nghị quyết của hội nghị BCH TW
Đảng có đoạn đề cập tới việc xây dựng và phát triển của TVQG Việt Nam và
chuyến thăm – làm việc tại TVQGVN của Thủ tướng Võ Văn Kiệt

(5/7/1997). Chính sự quan tâm to lớn đó của Đảng và Nhà nước đã tạo đà cho
TVQGVN phát triển nhanh và mạnh hơn.
Thư viện Quốc gia Việt Nam ngay sau ngày hoà bình lập lại đã tiến hành
những biện pháp tích cực và hữu hiệu để biến thư viện Trung ương Đông

13
Dương thành TVQGVN, là thư viện của toàn dân tộc, là thư viện trung tâm
của cả nước.
Những năm đầu thế kỷ 21, TVQGVN đã đóng góp nhiều công sức cho sự
hình thành và phát triển của sự nghiệp thư viện Việt Nam hiện đại, là chỗ dựa
đáng tin cậy, là đại diện xứng đáng của thư viện Việt Nam với nước ngoài.
Các kỹ thuật cơ bản của nghiệp vụ thư viện đều xuất phát từ đây để phổ biến
sâu rộng ra các thư viện trong cả nước.
Với những đóng góp to lớn đối với nền văn hoá, khoa học, kinh tế, giáo
dục của nước nhà TVQGVN đã được Đảng và Nhà nước trao tặng 3 Huân
chương Lao động: Năm 1967, được tặng thưởng HCLĐ hạng Ba; Năm 1982
Huân chương Lao động hạng nhì; Năm 1985 Huân chương Lao động hạng
Nhất. Và ngày 24 tháng 9 năm 2002 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký
Quyết định tặng TVQGVN Huân chương Độc lập hạng Ba. Năm 2007, được
tặng Huân chương Độc lập hạng 2. Đây là phần thưởng quý báu ghi nhận
những hi sinh và đóng góp âm thầm của các thế hệ người công tác tại
TVQGVN, đồng thời là nguồn cổ vũ, động viên các cán bộ và công chức
đang và sẽ làm việc tại Thư viện chủ động, sáng tạo hơn nữa, phục vụ hơn
nữa mục tiêu phát triển của đất nước, của Cách mạng.
Trong quá trình phát triển từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công cho đến nay, TVQGVN luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước trong chỉ đạo về đường hướng phát triển, quản lý, cung cấp tài chính,
nhân sự, đầu tư xây dựng nhà cửa, cơ sơ vật chất- kỹ thuật. Sự quan tâm đó đã
tạo ra bộ mặt mới, thế đứng mới của TVQGVN so với các nước trong khu
vực Đông Nam Á, thể hiện sự đánh giá cao về những đóng góp mới của Thư

viện đối với xã hội. Đồng thời, sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước đã mang lại
cho TVQGVN những khả năng mới để mở rộng các hoạt động và dịch vụ

14
phục vụ bạn đọc, khai thác và bảo quản tốt nhất di sản văn hoá thành văn của
dân tộc cũng như của thế giới đã được Thư viện tích luỹ trong nhiều thập niên
qua và phục vụ đất nước hiệu quả hơn trong thế kỷ XXI và những năm tiếp
theo.

1.1.2 Ngƣời dùng tin và nhu cầu tin ở Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
Người dùng tin (NDT) là yếu tố cơ bản của mọi hệ thống thông tin, là đối
tượng phục vụ của công tác TT-TV. Họ vừa là khách hàng của dịch vụ thông
tin, đồng thời là người sản sinh ra những thông tin mới.
NDT giữ vai trò quan trọng trong các hệ thống thông tin. Họ như là yếu tố
tương tác hai chiều với các đơn vị thông tin, là cơ sở định hướng các hoạt
động của một đơn vị thông tin. Họ tham gia vào hầu hết các công đoạn của
dây chuyền hoạt động thông tin và là người đánh giá các nguồn thông tin đó.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm NDT, qua đó xác định NCT là việc
làm cần thiết trong hoạt động TT-TV.
Thư viện Quốc gia Việt Nam là thư viện trung tâm của cả nước, nơi tập
trung đầy đủ các đối tượng NDT, do vậy NDT đòi hỏi thông tin phải có hàm
lượng tri thức cao, thông tin đã được tinh chế, thông tin về một lĩnh vực khoa
học xã hội…Một lực lượng đông đảo là học sinh, sinh viên – là những nhân
tài, là lực lượng kế tiếp bổ sung cho lực lượng tri thức của đất nước do vậy
TVQGVN luôn quan niệm phải góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào
tạo mọi mặt cho sinh viên thông qua việc cung cấp những thông tin mới nhất
và có chất lượng từ các nguồn trong và ngoài nước là góp phần thiết thực vào
sự phát triển của đất nước.
Việc đẩy mạnh phục vụ cho sinh viên của TVQGVN được coi là một hình
thức hỗ trợ san sẻ gánh nặng cho các thư viện trường học. Thực tế, nhiều năm


15
qua một số khá lớn các trường đại học ở Hà nội chưa có được những thư viện
hiện đại, có vốn tài liệu phong phú…để có thể đáp ứng tốt yêu cầu về thông
tin ngày càng tăng của sinh viên. Vấn đề này càng bức thiết khi giáo dục đại
học nước ta đang chuyển nhanh sang đào tạo theo học tín chỉ, theo đó những
người học sẽ phải dành nhiều thời gian hơn cho tìm thông tin, tài liệu để tự
học, tự nghiên cứu. Chính vì thế, TVQGVN đã tận dụng mọi phòng ốc, tăng
cường trang thiết bị, nhân sự…để mở rộng việc phục vụ cho sinh viên.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thống kê số lượng bạn đọc nói chung và
bạn đọc là sinh viên nói riêng của TVQGVN trong các năm từ 2000 – 2007 và
thu được kết quả như sau:
Bảng 1.1: Số lượng thẻ đọc là sinh viên từ năm 2000 – 2007

Năm

Tổng số thẻ
bạn đọc cả
năm
Trong đó thẻ sinh viên

Tổng số

Nam

Nữ
2000
7.795
5.300
2.126

3.174
2001
10.177
7.404
3.093
4.311
2002
13.529
8.666
3.659
5.007
2003
28.115
22.375
9.877
12.498
2004
28.686
21.986
9.323
12.863
2005
23.463
16.951
6.698
10.253
2006
24.836
17.923
6.221

11.702
2007
21.705
15.448
4.360
11.088


16
Nhìn vào bảng 1.1: Số lượng thẻ đọc là sinh viên từ năm 2000 – 2007, ta
thấy số lượng bạn đọc là sinh viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học có số
lượng đông nhất trong tổng số bạn đọc hàng năm của thư viện. Nếu tính theo
tỷ lệ % thì bạn đọc là sinh viên thường chiếm 70 – 80% tổng số bạn đọc trong
năm. Nếu tính tổng số bạn đọc là sinh viên so với năm 2000 thì các năm từ
2003 – 2007 tăng gấp 3-4 lần. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, số
lượng sinh viên có xu hướng giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do các trường đại
học đã xây dựng được những thư viện khang trang, hiện đại, đủ sức đáp ứng
nhu cầu đọc và thông tin của sinh viên trường mình.
Căn cứ vào bảng 1.1, cho thấy bạn đọc là sinh viên nữ tích cực sử dụng thư
viện hơn sinh viên nam. Số lượng bạn đọc là sinh viên nữ tăng dần theo từng
năm. Nếu vào năm 2000-2005 số sinh viên nữ hàng năm tăng hơn 30-40% so
với bạn đọc –sinh viên nam thì những năm 2006 – 2007 nhiều gấp 2 lần.
Mặt khác, nghiên cứu NCT của NDT ở TVQGVN không thể tách rời đặc
điểm về lứa tuổi. Bởi NCT chịu tác động của khá nhiều yếu tố: trình độ học
vấn, giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi và hoàn cảnh sống…tuy nhiên lứa tuối
đóng vai trò then chốt.
NDT tại TVQGVN gồm nhiều độ tuổi khác nhau. Mỗi độ tuổi được sinh ra
và lớn lên trong những điều kiện xã hội tương đồng. Sự khác nhau về độ tuổi
của NDT có những đặc điểm tâm lý riêng tạo nên sự khác biệt về nhu cầu.


Bảng 1.3: Đặc điểm độ tuổi của NDT tại TVQGVN
Độ tuổi
Số lượng
Tỷ lệ (%)
18 - 30 tuổi
102
85
31 - 40
12
10

17
41 - 50
4
3
Trên 50
2
2

85%
10%
3%
2%
18 - 30 tuổi
31 - 40
41 - 50
Trên 50

Hình 1.3: Đặc điểm độ tuổi của NDT tại TVQGVN
Như vậy, lứa tuổi 18 – 30 chiếm tỷ lệ lớn nhất (85%). Đây là lứa tuổi đã bắt

đầu có sự thay đổi về tâm lý, khi hầu hết các bạn học sinh đã tốt nghiệp phổ
thông để đến một môi trường học tập khác, tạo cho mình có một nghề nghiệp
ổn định cho tương lai. Đây cũng là lứa tuổi được xem là năng động nhất, sáng
tạo, thích tự khẳng định mình cho nên NCT trong việc sử dụng nguồn tài
nguyên số cũng phong phú và đa dạng hơn các lứa tuổi khác.
Lứa tuổi 31 – 40 chiếm 10%: đây là lứa tuổi đã có công việc và gia đình ổn
định. Là lứa tuổi chuyên tâm đến nghiệp vụ, thích sử dụng các thông tin đã
được xử lý để lựa chọn thông tin phù hợp.
Từ 41 – 50 tuổi: chiếm 3%. Đây là lứa tuổi có trình độ chuyên môn cao, họ
đã và đang cống hiến những thành quả lao động, nghiên cứu khoa học cho xã

18
hội. Tuy nhiên đây cũng là lứa tuổi trình độ tin học và ngoại ngữ đã hạn chế
nên họ thường không quen sử dụng tài liệu số của thư viện.
Trên 50 tuổi: Chỉ chiếm 2% đa phần là các cán bộ sắp nghỉ hưu. Lứa tuổi
này tuy đã giảm về sức khoẻ nhưng lại là những người có bề dày kinh nghiệm
được tích luỹ trong công việc và cuộc sống nên NCT có chiều sâu và ổn định
hơn cả. Nhưng đây cũng lứa tuổi có nhu cầu đọc tài liệu trên giấy nhiều hơn
(báo, tạp chí ), họ cũng ít có nhu cầu khai thác các tài liệu điện tử hay truy
cập tài liệu từ xa…
Có thể nói, nghiên cứu nhu cầu tin (NCT) của NDT là nhận dạng nhu cầu
về thông tin và tài liệu số của họ, trên cơ sở đó tìm ra biện pháp cụ thể, phù
hợp để đáp ứng chúng. Xuất phát từ đặc điểm nhu cầu và để đảm bảo việc
cung cấp thông tin và tài liệu số thích hợp với từng đối tượng, NDT tại TVQG
có thể chia thành các thời kỳ với đặc điểm:
+Trước 1954
Khi mới thành lập, đối tượng bạn đọc của Thư viện Quốc gia rất hạn chế:
- Những người Âu từ 16 tuổi trở lên;
- Các giáo viên người bản xứ;
- Sinh viên người bản xứ của các trường đại học, cao đẳng;

- Những người bản xứ được cấp giấy phép.
- Những năm sau, đối tượng bạn đọc được mở rộng: phục vụ cả lứa tuổi
thiếu nhi.
Bạn đọc của thư viện phần lớn là học sinh, sinh viên. Gần một nửa sách
được bạn đọc sử dụng là sách văn học, sách về khoa học, triết học, sử học ít
được bạn đọc yêu thích.

19
+ Sau 10/1954
Đối tượng phục vụ của TVQGVN về nguyên tắc là mọi người dân của
nước Việt Nam. Nhưng tùy vào điều kiện từng thời kỳ, TVQGVN quy định
đối tượng bạn đọc được phục vụ trực tiếp tại Thư viện.
Trong giai đoạn này, Thư viện mở rộng nguyên tắc phục vụ có phân biệt
theo dạng tài liệu và đối tượng phục vụ: tổ chức các phòng đọc sách tổng hợp,
phòng đọc báo - tạp chí, phòng đọc vi phim, phòng đọc cho thiếu nhi, phòng
đọc cho học sinh cấp 3 v.v…Tuy vậy, mức độ chuyên biệt hóa tăng, giảm tùy
điều kiện của từng thời kỳ.
Khi chiến tranh phá hoại của Mỹ kết thúc, tài liệu ở các nơi sơ tán được sắp
xếp, chấn chỉnh theo trật tự đã quy định để phục vụ ngay bạn đọc. Lúc này,
TVQGVN chỉ mở cửa phục vụ tại phòng đọc cho bạn đọc nghiên cứu, không
tổ chức phòng đọc cho thiếu nhi và học sinh cấp 3 nữa. Kho sách phòng
mượn và bộ phận thiếu nhi với khoảng 75.000 bản sách đã được chuyển cho
Thư viện thành phố Hà Nội.
+ Công tác phục vụ bạn đọc (giai đoạn 1976 – 1985)
Thư viện Quốc gia phục vụ bạn đọc thông qua 4 phòng đọc:
- Phòng Đọc sách tổng hợp;
- Phòng Đọc Báo, Tạp chí;
- Phòng Đọc vi phim, vi phích;
- Phòng đọc tài liệu nghiệp vụ thư viện học.
Cùng với sự phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật và sự ra đời của nhiều cơ

quan, viện nghiên cứu, trường đại học … đội ngũ người đọc với trình độ học
vấn, chuyên môn cao có nhu cầu sử dụng tài liệu tra cứu của TVQGVN ngày
càng lớn. Để đáp ứng yêu cầu đó, vào năm 1982, Thư viện mở Phòng Đọc tra

20
cứu và Tài liệu Liên hợp Quốc với khoảng 3.000 tên tài liệu gồm các tác
phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, bách khoa toàn thư, từ điển, các
sách có tính chất tổng hợp khác, thư mục in thành sách…Sách xếp theo các
mục lớn của bảng phân loại 19 dãy và bạn đọc tự đến giá chọn sách để đọc.
Trong giai đoạn này, thư viện đã phục vụ kịp thời, có hiệu quả những
chuyên đề nghiên cứu chính trị, kinh tế quan trọng của các cơ quan Trung
ương như Phủ Thủ tướng, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ban
Tuyên huấn trung ương, các cơ quan thông tấn, truyền thanh truyền hình, báo
chí, viện nghiên cứu … Trong nhiều trường hợp, thư viện còn liên hệ với các
thư viện lớn trên thế giới mượn giúp cho người đọc những tài liệu không có
trong kho của mình.
+ Phục vụ bạn đọc giai đoạn 1986 - 1999
Trong giai đoạn này, TVQG đã tổ chức kho mở cho phần lớn báo chí trong
và ngoài nước (gần 500 tên) nhưng chỉ với 6 số mới nhất của mỗi tên báo, tạp
chí.
+ Công tác phục vụ bạn đọc giai đoạn 2000 đến nay
Việc quy định thành phần bạn đọc là cần thiết đối với các thư viện để bảo
đảm công tác phục vụ đạt kết quả cao hơn. Việc quy định này căn cứ vào
nhiều tiêu chí, điều kiện. Ở nước ta, ban đầu TVQGVN chỉ phục vụ cho bạn
đọc có trình độ từ đại học trở lên. Nhưng do nhu cầu đọc của người dân ngày
càng cao nên trước năm 2000, TVQGVN vẫn phục vụ cho bạn đọc là sinh
viên năm cuối của các trường đại học ở Hà Nội mặc dù tổng số chỗ ngồi trong
các phòng đọc chưa tới 200 chỗ. Từ tháng 9/2001, do được mở rộng diện tích
nên TVQGVN đó dành toàn bộ toà nhà D (trừ tầng 6) với tổng số hơn 700
chỗ ngồi để phục vụ bạn đọc. Đồng thời, TV cũng chọn phương thức phục vụ

×