Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 99 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Nguyễn Quế Thương



QUAN HỆ KINH TẾ THÁI LAN – NHẬT BẢN TỪ SAU
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997





LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGHÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ











Hà Nội - 06/2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




Nguyễn Quế Thương


QUAN HỆ KINH TẾ THÁI LAN – NHẬT BẢN TỪ SAU
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGHÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ : 60.31.40



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. Hoàng Khắc Nam









HÀ NỘI - 2010


1
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNGBIỂU
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
4. Nguồn tƣliệu
5. Đóng góp của luậnvăn
6. Bốcục
CHƢƠNG 1
Những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ Thái Lan - Nhật Bản từ
sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
1.1.2. Bối cảnh khu vực
1.1.3. Chiến lƣợc phát triển của Nhật Bản và Thái Lan trong
thế kỷ 21
1.2. Tiến trình phát triển quan hệ Thái Lan - Nhật Bản
1.2.1. Quan hệ Thái Lan - Nhật Bản giai đoạn trƣớc khủng
hoảng tài chính Châu Á

1.2.2. Vai trò của Nhật Bản đối với Thái Lan trong khủng
hoảng tài chính Châu Á

CHƢƠNG 2
Tình hình quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản sau khủng
4

5


6

7

9
9

10

10




12


12

18



20

23


23


31






2
hoảng tài chính Châu Á đến nay
2.1. Quá trình ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế giữa Thái Lan
và Nhật Bản
2.1.1. Sự hình thành ý tƣởng ký kết Hiệp định
2.1.2. Quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Hợp tác kinh
tế Thái Lan – Nhật Bản (JTEPA)
2.2. Một số chương trình hợp tác kinh tế quan trọng giữa Thái
Lan và Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến
nay
2.2.1. Hỗ trợ về thƣơng mại và đầu tƣ
2.2.2. Hợp tác về tài chính
2.2.3. Hợp tác trong nông – lâm – ngƣ nghiệp

2.2.4. Hợp tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
2.2.5. Hợp tác trong các lĩnh vực khác
2.3. Kết quả hợp tác kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản
2.3.1. Thƣơng mại ………
2.3.2. Đầu tƣ ………
2.3.3.Quan hệ ODA …………
CHƢƠNG 3
Triển vọng quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản
3.1. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ kinh
tế Thái Lan - Nhật bản
3.2. Một số bài học và kinh nghiệm đối với Việt Nam trong
quan hệ quốc tế và hoạch định chính sách
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC 1
34


34

34


37




48

48


51
52

53

55


56

64

70





77



83

86

88

3

PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO


89

91

93










































4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

FTA Free Trade Area
Hiệp định tự do thƣơng mại
GDP Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
IMF International Monetary Fund

Tổ chức tiền tệ quốc tế
JACEP Japan - ASEAN Comprehensive Economic Partnership
Chính sách Đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản – ASEAN
JBIC Japan Bank for International Cooperation
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
JICA Japan International Cooperation Agency
Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
JF Japan Foundation
Quỹ hỗ trợ Nhật Bản
JTEPA Japan-Thailand Economic Partnership Office : Ministry of
Foreign
Hiệp định Hợp tác kinh tế Thái lan – Nhật Bản
MITI Ministry of International Trade and Industry
Bộ Thƣơng mại và Công nghiệp
OECF Overseas Economic Co-operation Fund of Japan
Quỹ hợp tác kinh tế quốc tế






5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1: Trao đổi thƣơng mại giữa Thái Lan và Nhật Bản (1992 -
1998)

Bảng 1.2: Đầu tƣ của Nhật Bản vào Thái Lan (1993 –
1998)

Bảng 1.3: Tỷ lệ đầu tƣ của Nhật Bản trong tổng số đầu tƣ nƣớc
ngoài vào Thái Lan (1988 -
1996)
Bảng 1.4: Viện trợ của Nhật Bản cho Thái Lan (1982 - 1986)

Bảng 2.1: Kim ngạch thƣơng mại giữa Thái Lan – Nhật
Bản
Bảng 2.2: Một số mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Thái
Lan
Bảng 2.3: Dự án đầu tƣ của Nhật Bản vào Thái Lan

Bảng 2.4: Dự án đầu tƣ của Nhật Bản chia theo nhóm ngành

Bảng 2.5: Tổng giá trị đầu tƣ vào Thái Lan năm 2005 từ Nhật Bản
và một số nƣớc khác

Bảng 2.6: Các dự án trong bản thỏa thuận về hợp tác tiền tệ cấp
chính phủ giữa Thái Lan và Nhật Bản



25
28
28
29

58
62
65
66


67

73

6

MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Thái Lan nằm trong khu vực Đông Nam Á, luôn đƣợc coi là nƣớc có nền
kinh tế phát triển và có vai trò lớn trong hợp tác khu vực, cũng nhƣ những hợp
tác của khu vực với bên ngoài. Nhật Bản là một trong số những quốc gia công
nghiệp hàng đầu thế giới và đƣợc suy tôn là “hiện tƣợng thần kỳ” của Châu Á.
Thành công của Nhật Bản đƣợc các nhà nghiên cứu đánh giá là một điển hình
về sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá phƣơng Đông và khoa học công
nghệ hiện đại phƣơng Tây. Đối với Việt Nam cả hai nƣớc Thái Lan, Nhật Bản
đều là hai nƣớc láng giềng gần gũi. Vì vậy, trƣớc hết việc nghiên cứu dù ở bất
kỳ lĩnh vực nào của Thái Lan, Nhật Bản đều hết sức cần thiết đối với Việt
Nam. Đó sẽ là cơ hội để chúng ta có thêm hiểu biết về hai nƣớc láng giềng
quan trọng này.
Nhƣ chúng ta đã biết, Thái Lan từ xƣa đến nay vẫn luôn đƣợc coi là quốc
gia có đƣờng lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt và đặc biệt chú trọng phát triển
ngoại giao với các nƣớc lớn trong đó có Nhật Bản. Trong thời gian gần đây,
nhất là từ khi hình thành cộng đồng Đông Á, quan hệ của Thái Lan và Nhật
Bản càng trở nên phát triển. Liệu có phải chính nhờ đƣờng lối đối ngoại đúng
đắn, việc lựa chọn đối tác tin cậy, chính xác là một trong những nhân tố giúp
Thái Lan có đƣợc sự phát triển kinh tế vƣợt trội hơn so với các nƣớc trong khu
vực hay không và ngay cả khi vấp phải cuộc khủng hoảng kinh tế thì Thái Lan
cũng đã nhanh chóng vƣợt qua đƣợc? Nghiên cứu về quan hệ kinh tế Thái Lan
- Nhật Bản chính là để góp phần cắt nghĩa hiện tƣợng này. Ngoài ra, khi nghiên

cứu quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản chúng ta hiểu thêm về thực chất quan
hệ đối ngoại của hai nƣớc, từ đó có thể rút ra đƣợc những bài học kinh nghiệm
cho bản thân Việt Nam trong việc hoạch định chính sách đối ngoại trong giai
đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam từ trƣớc đến nay chƣa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề này. Do tính cấp thiết của vấn đề cả về mặt khoa học, lẫn thực
tiễn nên tôi quyết định lựa chọn vấn đề Quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản từ
sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 làm đề tài luận văn của mình.

7

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản sau khủng hoảng tài chính
Châu Á đến nay hiện là vấn đề mang tính thời sự và còn khá mới mẻ. Vì vậy,
việc nghiên cứu xung quanh vấn đề này còn rất ít. Hiện tại, chúng tôi mới chỉ
tiếp cận đƣợc với một số công trình viết về quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật
Bản ở những giai đoạn trƣớc khủng hoảng tài chính nhƣ công trình Hiệp ước
Hữu nghị Nhật Bản – Thái Lan thời kỳ chiến tranh của tác giả ngƣời Nhật
Yoshikawa Toshiharu. Công trình đề cập đến một số Hiệp ƣớc giữa Thái Lan
và Nhật Bản trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã sử dụng
đất Thái Lan cho những mục đích quân sự tại khu vực Đông Nam Á và thái độ
ủng hộ, lo ngại cho chủ quyền quốc gia hay né tránh của Thái Lan trong vấn đề
này… Công trình Quan hệ Thái Lan - Nhật Bản, xem xét từ Hiệp định và
những thoả thuận trong vòng 100 năm do tác giả ngƣời Thái Lan Phắt cha ri Xỉ
rô rốt chủ biên, đã đề cập một cách khá chi tiết về quan hệ Thái Lan – Nhật Bản
từ năm 1877 đến năm 1977 thông qua các Hiệp định và thỏa thuận mà hai nƣớc
đã ký kết với nhau trong vòng 100 năm ở hầu hết các lĩnh vực nhƣ chính trị,
kinh tế, tài chính, luật pháp, văn hóa, xã hội…Bên cạnh đó, một số nhà nghiên
cứu của Việt Nam cũng đã cho công bố những bài nghiên cứu về vấn đề này
nhƣ bài viết Quan hệ của Nhật Bản với Vương quốc Xiêm (Thái Lan) thế kỷ

XVI – XVII của tác giả Nguyễn Văn Kim đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản và Đông Bắc Á, năm 2002, số 2 (38) hay bài viết của tác giả Nguyễn Văn
Tận: Liên minh Thái – Nhật trong cuộc chiến thế giới thứ hai, những vấn đề
lịch sử và luận giải đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á,
năm 2005, số 3 (57), công trình…Tất cả những công trình này đã giúp chúng
tôi rất nhiều trong việc có một cái nhìn tổng thể về quan hệ Thái Lan – Nhật
Bản trong quá khứ để từ đó có thể hiểu và lý giải đƣợc những bƣớc phát triển
trong quan hệ Thái Lan – Nhật Bản ở những giai đoạn tiếp theo và hiện nay.

8
Ngoài những công trình kể trên, chúng tôi còn đƣợc tiếp xúc với những
công trình nghiên cứu mang tính tổng thể trong đó có một vài phần đề cập đến
hoặc có liên quan đến quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản nhƣ công trình Nhật
Bản với chính sách đối tác kinh tế Nhật Bản - ASEAN (CEP) của nhà nghiên
cứu Thái Lan Sịripon Vătchavănkhu. Công trình đã đề cập khá chi tiết về chính
sách đối tác kinh tế Nhật Bản – ASEAN. Đó là việc xây dựng một thị trƣờng
thƣơng mại tự do giữa Nhật Bản và ASEAN, tạo điều kiện để Nhật đầu tƣ vào
ASEAN và đây sẽ là mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi. Để chính sách
này trở thành hiện thực và có hiệu quả đối với các bên, trƣớc mắt Nhật Bản sẽ
ký Hiệp định song phƣơng với từng nƣớc trong ASEAN… Ngoài ra, công trình
Chính sách đối ngoại của Thái Lan từ thời kỳ khủng hoảng kinh tế đến thế kỷ
mới của tác giả Praphắt Thêpchatri cũng đã có một vài phần viết về chính sách
đối ngoại của Thái Lan đối với các nƣớc lớn trong đó có Nhật Bản. Khi Thái
Lan vấp phải khủng hoảng kinh tế thì Nhật Bản là một trong những nƣớc đã
giúp đỡ Thái Lan nhiều nhất. Vì vậy chính sách đối ngoại của Thái Lan từ sau
khủng hoảng đến thế kỷ mới lại một lần nữa nhấn mạnh tới vai trò của các
nƣớc lớn trong đó có Nhật Bản. Tiêu biểu nhất là công trình Vai trò của Nhật
Bản đối với Thái Lan sau khủng hoảng kinh tế của tập thể tác giả Viện nghiên
cứu Đông Á, trƣờng Đại học Thăm ma xạt. Công trình gồm 4 phần. Phần đầu
nói về những vấn đề kinh tế của Nhật Bản và bài học đối với Thái Lan. Phần

thứ hai nói về những cải cách chính trị của Nhật Bản và bài học đối với Thái
Lan. Phần thứ ba nói về vai trò của Nhật Bản về mặt văn hóa xã hội đối với
Thái Lan, trong đó có đề cập đến một số viện trợ và một số khoản cho vay của
Nhật Bản dành cho Thái Lan. Phần cuối cùng là những định hƣớng trong quan
hệ kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ 21. Trƣớc
hết, các tác giả đã tổng kết lại quá trình quan hệ giữa Thái Lan và Nhật Bản
trong vài thập kỷ cuối của thế kỷ 20 trên các lĩnh vực thƣơng mại, đầu tƣ và sau
đó đề ra một số phƣơng hƣớng trong quan hệ hai nƣớc ở thế kỷ 21. Đối với
chúng tôi công trình này thực sự hữu ích vì nó đã giúp chúng tôi có đƣợc cái

9
nhìn tổng thể về vai trò và những ảnh hƣởng của Nhật Bản đối với Thái Lan
cũng nhƣ tái hiện phần nào mối quan hệ Thái Lan – Nhật Bản trên các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giai đoạn cuối thế kỷ 20 và những mục tiêu
trong thế kỷ 21.
Ngoài những công trình kể trên, chúng tôi còn đƣợc tiếp cận với một số
nguồn tƣ liệu khác trên các bản tin Kinh tế, tài liệu tham khảo đặc biệt của
Thông tấn xã Việt Nam và một số nguồn tƣ liệu khai thác trên mạng Internet…
3. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận chủ yếu mà tôi sử dụng trong công trình này là nhận
thức luận Mác xít, coi cơ sở kinh tế vật chất là yếu tố có vai trò quyết định căn
bản đối với các hiện tƣợng chính trị, xã hội.
Phƣơng pháp biện chứng và lôgic cũng đƣợc sử dụng trong quá trình
nghiên cứu, đi từ bối cảnh lịch sử chung, trình bày quá trình hình thành và phát
triển của các vấn đề bằng các sự kiện điển hình, phân chia các giai đoạn phát
triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian, sau đó rút ra kết luận khái quát và các
phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế.
Ngoài ra, khi tiếp cận vấn đề này tôi còn cần sử dụng đến một số phƣơng
pháp liên ngành từ các bộ môn khác có liên quan nhƣ: thống kê, so sánh…
4. Nguồn tư liệu

Để thực hiện đề tài luận văn này chúng tôi đã sử dụng nhiều nguồn tƣ
liệu nhƣ một số Hiệp định, Hiệp ƣớc đã đƣợc ký kết giữa hai nƣớc và một số tài
liệu thứ cấp khác nhƣ các công trình khoa học đã đƣợc công bố trên sách, báo,
tạp chí nghiên cứu về quan hệ Thái Lan - Nhật Bản của các tác giả Việt Nam,
Thái Lan và Nhật Bản, (phần lớn là bằng tiếng Thái Lan), quan hệ Việt Nam -
Thái Lan , quan hệ Việt Nam - Nhật Bản… phần lớn của các tác giả Việt Nam.
Ngoài ra một số thông tin đƣợc khai thác trên các báo, tạp chí và mạng
Internet…

5. Đóng góp của luận văn

10
Do đây là đề tài khá mới mẻ ở Việt Nam, chƣa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề này nên luận văn sẽ cung cấp cho bạn đọc một số thông tin trên
các lĩnh vực nhƣ: tiến trình phát triển quan hệ Thái Lan và Nhật Bản, những
bƣớc thăng trầm trong quan hệ giữa hai nƣớc, quan hệ kinh tế giữa Thái Lan và
Nhật Bản cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI…
Ngoài ra, luận văn cũng đã hệ thống hoá đƣợc một khối lƣợng khá phong
phú và tƣơng đối cập nhật các tƣ liệu liên quan tới vấn đề quan hệ Thái Lan -
Nhật bản. Những tƣ liệu này đƣợc thu thập từ rất nhiều nguồn, nhiều nơi khác
nhau, cả tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Thái.
Hy vọng rằng bản luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo
trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu cho những ngƣời có quan tâm tới vấn
đề này.
6. Bố cục luận văn
Luận văn đƣợc chia thành ba chƣơng.
Chương 1: Những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ Thái Lan – Nhật
Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay.
Trong chƣơng này chúng tôi đề cập tới các vấn đề nhƣ bối cảnh quốc tế,
bối cảnh khu vực, chiến lƣợc phát triển của mỗi nƣớc trong thế kỷ 21 và tiến

trình phát triển quan hệ Thái Lan – Nhật Bản, trong đó nhấn mạnh đến quan hệ
Thái Lan – Nhật Bản trong và sau thời kỳ chiến tranh lạnh cũng nhƣ vai trò của
Nhật Bản đối với Thái Lan trong khủng hoảng tài chính Châu Á. Đây là những
nhân tố khách quan và chủ quan đã ảnh hƣởng và làm tiền đề cho xu hƣớng
phát triển mối quan hệ giữa hai nƣớc từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến
nay.
Chương 2: Tình hình quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật Bản sau
khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay
Đây là chƣơng chính của luận văn. Trong chƣơng này chúng tôi đề cập
đến quá trình ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế giữa Thái Lan và Nhật Bản. Đây
là Hiệp định hợp tác kinh tế lớn nhất giữa hai nƣớc kể từ trƣớc đến nay. Bên
cạnh đó chƣơng 2 còn đề cập đến một số chƣơng trình hợp tác kinh tế quan
trọng giữa Thái Lan và Nhật Bản từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á đến nay
trên các lĩnh vực nhƣ thƣơng mại, đầu tƣ, tiền tệ, dịch vụ… Tất cả các chƣơng

11
trình hợp tác này đã tác động không nhỏ tới số lƣợng xuất nhập khẩu, số lƣợng
các dự án đầu tƣ và số vốn đầu tƣ… giữa hai nƣớc. Vì thế, phần cuối của
chƣơng 2, chúng tôi đã đề cập tới các kết quả hợp tác kinh tế giữa Thái Lan và
Nhật Bản trên các mặt: thƣơng mại, đầu tƣ, quan hệ ODA.
Chương 3: Triển vọng quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật Bản
Trong chƣơng 3 chúng tôi đề cập đến một số thuận lợi và khó khăn trong
quan hệ kinh tế Thái Lan - Nhật bản, qua đó để thấy đƣợc triển vọng quan hệ
giữa hai nƣớc trong tƣơng lai và từ đó rút ra một số bài học và kinh nghiệm đối
với Việt Nam trong quan hệ quốc tế và hoạch định chính sách
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do nhiều điều kiện còn hạn chế
nhƣ năng lực nghiên cứu khoa học, sự khan hiếm nguồn tài liệu, khó khăn
trong công tác điền dã, điều tra… nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót, khiếm khuyết. Vậy chúng tôi mong muốn nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo và các bạn.
















12
Chương 1: Những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ Thái Lan -
Nhật Bản sau khủng hoảng kinh tế Châu Á đến nay

1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Có thể nói rằng quan hệ quốc tế cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 có rất nhiều
thay đổi, thời điểm này đƣợc coi là thời điểm cải cách của toàn bộ hệ thống
quốc tế.
Một số thay đổi trong hệ thống quốc tế đã hình thành sau thời kỳ chiến
tranh lạnh, khi mà Liên bang Xô Viết vốn là một siêu cƣờng sau thế chiến II đã
tan rã vào năm 1991, kéo theo đó là sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là
những khủng hoảng cả về chính trị, kinh tế, xã hội và sắc tộc. Cùng với nó, là
sự tan rã của những nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Nhƣ vậy, trên thế giới chỉ
còn lại một cực là Mỹ. Mỹ trở thành siêu cƣờng duy nhất cho tới ngày

11/9/2001, khi xuất hiện sự kiện khủng bố kinh hoàng và bất ngờ. Sự kiện này
đã làm thay đổi quan niệm về một nƣớc Mỹ bất khả xâm phạm và tạo nên
những hoài nghi về vấn đề an ninh và quyền lực của nƣớc Mỹ.
Có thể nhận định về quan hệ quốc tế cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 mang
một số đặc điểm cơ bản sau:
 Vai trò của đƣờng biên giới giảm sút
Hệ thống kinh tế, thƣơng mại và tài chính giữa các nƣớc giảm rào cản.
Quá trình này đƣợc hình thành ngay từ thập kỷ 80 xuất phát từ ảnh hƣởng của
cuộc cách mạng tin học và khoa học công nghệ, khi mà ngƣời ta có thể liên lạc
cũng nhƣ nhận tin tức giữa các nƣớc, các khu vực trên thế giới một cách nhanh
chóng, tức thời. Ngay cả những vấn đề nhƣ sự biến động của ngoại tệ hay đầu
tƣ với số lƣợng lớn cũng có thể đƣợc thông tin ra khắp thế giới qua hệ thống vi
tính, đồng thời sản xuất và thƣơng mại của các nƣớc cũng đi theo hƣớng của
một nền kinh tế tự do và dần dần đã đƣợc phổ biến trên khắp thế giới. Vì vậy,

13
cùng với sự hình thành của một nền kinh tế tự do và sự phát triển của tin học,
kinh tế thƣơng mại và tài chính giữa các nƣớc dần giảm đi rào cản. Với đặc
điểm này, chính phủ các nƣớc chắc chắn sẽ dần giảm đi khả năng quản lý nền
kinh tế, tài chính và thông tin trong phạm vi quốc gia của mình nhƣ trƣớc đây.
Thay vào đó, toàn cầu hóa sẽ là thách thức đối với quyền lực nhà nƣớc, điều
chƣa từng xảy ra trong lịch sử. Và điều đó sẽ làm cho các nhà nƣớc cần phải có
sự thay đổi để bảo vệ quyền lực và sự tồn tại của mình.
 Mỹ trở thành siêu cƣờng quân sự duy nhất thế giới
Mỹ đƣợc đánh giá là siêu cƣờng quân sự duy nhất trên thế giới và là
nƣớc duy nhất tự cho mình quyền đƣợc đƣa lực lƣợng quân đội đến những
điểm nóng ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên trong những năm đầu thế
kỷ 21, nội bộ nƣớc Mỹ cũng gặp phải không ít những vấn đề về mặt kinh tế và
xã hội. Những năm đầu thế kỷ 21, một loạt các công ty xuyên quốc gia của Mỹ
bị phá sản nhƣ công ty Enron, World com, Tyco, Imclone, Global Crossing,

Adelphia đã gây nên những tổn thất to lớn cho không chỉ những công ty kể trên
mà cho cả xã hội. Đó là nạn thất nghiệp, các công ty không còn khả năng để trả
tiền đền bù, lƣơng hƣu và trợ cấp thất nghiệp cho nhân viên. Tuy nhiên một vấn
đề gây nhiều tổn thất và đau đầu nhất cho Mỹ đó là vấn đề khủng bố quốc tế
mà chủ yếu nhằm vào Mỹ và ngƣời dân Mỹ kể cả ngƣời dân trong nƣớc và cả
những ngƣời Mỹ hoạt động kinh doanh, đầu tƣ hoặc đi du lịch… ở nƣớc ngoài.
Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 đã làm chết và mất tích tới 6 nghìn ngƣời, lớn
nhất trong các vụ khủng bố kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nƣớc Mỹ sau
vụ khủng bố ngày 11/9 đã tuyên bố: Vụ khủng bố 11/9 vừa qua chính là hành
động gây chiến nhằm vào nƣớc Mỹ và nƣớc Mỹ sẽ đáp trả vụ khủng bố này cho
dù phải tốn bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Tiếp theo đó, ngày 7/10/2001 Mỹ
đã cùng với Anh đƣa máy bay tới thủ đô Kabul và nhiều địa điểm khác của
Apganixtan với danh nghĩa là để bảo vệ đất nƣớc tránh nguy cơ khủng bố.
Hiện tại, rất nhiều quốc gia đã không còn tin tƣởng vào hành động của
Mỹ và những công ty xuyên quốc gia của Mỹ, kể cả ở châu Mỹ la tinh, Trung

14
Á và Đông Nam Á, do đó Mỹ không thể tự cho rằng Mỹ là quốc gia lãnh đạo
duy nhất trên thế giới mà các nƣớc khác buộc phải nghe theo.
1

 Sự phân chia thành các khu vực thƣơng mại
Chủ nghĩa khu vực trong hoạt động thƣơng mại ngày càng trở nên rõ nét
nhất là khi xuất hiện các khu vực thƣơng mại tự do giữa các nƣớc và các khu
vực thƣơng mại tự do này cũng ngày càng cạnh tranh nhau quyết liệt hơn. Có
thể nhận thấy điều đó qua việc phát triển của Châu Âu từ một Hiệp hội trở
thành Liên Hiệp châu Âu, việc thành lập các khối NAFTA, AFTA, APEC…
Mặc dù những khối kinh tế nói trên đều khẳng định rằng họ là những khối kinh
tế tự do nhƣng nhiều nguyên tắc trong các khối kinh tế này lại thể hiện ra rằng
đó là những khối kinh tế có nhiều ràng buộc, hạn chế, mang tính chất “thƣơng

mại khối”. Tình trạng này thực chất đã làm cho sự cạnh tranh giữa các nƣớc trở
nên quyết liệt hơn mà theo nhận định của nhiều chuyên gia thì đây giống nhƣ
một cuộc chiến kinh tế. Mặc dù vậy, sự xuất hiện của những trung tâm thƣơng
mại mang tính khu vực này cũng mang lại những lợi ích trực tiếp cho các khu
vực đó là khả năng nâng cao vị thế trong đàm phán. Ngoài ra còn một lợi ích
nữa đó là giúp cho các sản phẩm khi sản xuất ra có cơ hội mở rộng thị trƣờng
sang nhiều khu vực với một giá thành công bằng, hợp lý hơn.
 Nâng cao vị thế của các chủ thể quan hệ quốc tế không phải là nhà
nƣớc
Mặc dù nhà nƣớc vẫn là một chủ thể quan trọng nhất nhƣng hiện nay
trong quan hệ quốc tế còn có những chủ thể khác có vị thế quan trọng không
kém đó là các tổ chức quốc tế, các cơ quan quốc tế kể cả ở cấp khu vực và thế
giới, các công ty xuyên quốc gia hiện có vị trí ngày càng quan trọng hơn trong
các giao dịch quốc tế thậm chí nhiều nhà phân tích và nghiên cứu còn cho rằng
các công ty xuyên quốc gia hiện đang là những chủ thể cạnh tranh quyền lực

1
[15, tr.12]
[16, tr. 10]

15
với chính phủ nhiều nhất. Mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận những lợi ích
mà các công ty xuyên quốc gia mang đến cho đất nƣớc nhƣ tạo nên sự phát
triển của nền công nghiệp và công nghệ hiện đại đã giúp cải thiện công ăn việc
làm cho ngƣời lao động, cải thiện chất lƣợng cuộc sống cho ngƣời dân kể cả là
trong giao thông, liên lạc hay trong rất nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhƣng các
công ty xuyên quốc gia này có số vốn khổng lồ với các chi nhánh, bộ phận ở
khắp các khu vực trên thế giới. Việc điều hành, quản lý chính thuộc về công ty
mẹ trong đó có các bộ phận quản lý nhỏ đƣợc điều xuống các chi nhánh, các
công ty con để giám sát các hoạt động của các chi nhánh và các công ty này.

Các công ty xuyên quốc gia do có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới nên việc
lƣu chuyển dòng vốn, chuyển đổi công nghệ hay quá trình sản xuất khá thuận
tiện, dễ dàng. Trong trƣờng hợp nếu ở khu vực nào gặp phải khủng hoảng kinh
tế thì công ty xuyên quốc gia cũng vẫn có khả năng chuyển đổi từ nơi có khủng
hoảng sang nơi không bị ảnh hƣởng của khủng hoảng. Nhƣ vậy, cho dù có xảy
ra khủng hoảng kinh tế cấp khu vực thì những công ty xuyên quốc gia vẫn có
khả năng tồn tại vững vàng. Ngoài ra, công ty xuyên quốc gia khi đột ngột rút
một nguồn vốn lớn tại một quốc gia nào đó thì có khả năng sẽ làm rối loạn thị
trƣờng chứng khoán của nƣớc đó do lƣợng vốn mà họ có trong tay là khổng lồ.
Có thể thấy đƣợc điều này trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại một
số nƣớc châu Á, đặc biệt là ở Thái Lan, khủng hoảng tài chính trở nên nặng nề
hơn cũng có một lý do là do các công ty xuyên quốc gia đã nhanh chóng rút
vốn làm cho thị trƣờng tài chính ở nƣớc này càng thêm rối loạn.
 Sự mở rộng vấn đề an ninh quốc tế
An ninh quốc tế hiện tại (tính từ khoảng giữa thập kỷ 80 đến nay) không
phải chỉ trong vấn đề quân sự hay các hành động quân sự nhƣ trong hơn 50
năm qua. Việc nghiên cứu các chiến lƣợc trong thời điểm hiện nay đƣợc hiểu
một cách sâu rộng hơn trƣớc, không chỉ là những vấn đề về sức mạnh quân sự.
Vấn đề an ninh ở mỗi quốc gia cũng không chỉ có nghĩa là việc chạy đua vũ
trang hay việc chống lại sự xâm lƣợc của các thế lực bên ngoài. Sự mâu thuẫn

16
không chỉ có nghĩa là mâu thuẫn về mặt quân sự, Nhà nƣớc cũng không hẳn là
nơi có quyền lực duy nhất trong việc giải quyết các vấn đề trên. Hiện nay, nguy
cơ đối với an ninh của đất nƣớc không phải chỉ là sự can thiệp của các thế lực
quân sự bên ngoài mà những nguy cơ đối với nền an ninh của quốc gia xuất
phát từ rất nhiều vấn đề nhƣ vấn đề kinh tế, sự xuống cấp của môi trƣờng, buôn
lậu, mua bán trái phép chất gây nghiện, vận chuyển tiền trái phép, nhập cƣ, di
cƣ trái phép, bệnh truyền nhiễm, khủng bố, biểu tình chính trị và tham ô, tham
nhũng… Tất cả những vấn đề trên đều có những ảnh hƣởng nhất định tới an

ninh quốc gia.
 Vấn đề đói nghèo ở các nƣớc đang phát triển
Các nƣớc đang phát triển trong giai đoạn hiện nay phần lớn gặp phải tình
trạng thiếu thốn do xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân từ lịch sử: phần lớn các nƣớc đang phát triển hiện nay đều
xuất phát từ những nƣớc trƣớc đây là thuộc địa của đế quốc trong một thời gian
dài. Điều này đã làm cho những nƣớc là thuộc địa bị cạn kiệt về tài nguyên
thiên nhiên do bị các nƣớc đế quốc khai thác nguồn tài nguyên với số lƣợng
lớn. Ngƣời dân phần lớn không đƣợc học hành và nghèo khó.
- Nguyên nhân từ chính trị: Ngƣời dân ở những nƣớc này phần lớn thiếu
kiến thức về chính trị và quản lý.
- Nguyên nhân từ nền kinh tế trong nƣớc: sự chênh lệch giàu nghèo trong
những quốc gia này là khá lớn. Vì thế, ngƣời giàu đã sử dụng quyền lực kinh tế
của mình để thống trị số đông ngƣời nghèo. Cũng vì lẽ đó mà ngƣời giàu luôn
lo lắng khi kinh tế của họ giảm đi thì quyền lực cũng giảm theo. Do vậy, họ
luôn tìm cách vơ vét lợi ích nhiều nhất cho bản thân mà không đếm xỉa đến lợi
ích của xã hội, của số đông ngƣời dân khác sẽ nhƣ thế nào. Những nhà nƣớc
kiểu này sẽ phát sinh nạn tham nhũng trong giới chính trị gia hết thời kỳ này
nối tiếp sang thời kỳ khác. Chính trị gia sẽ hợp tác rộng rãi với các thƣơng gia,
thƣơng nhân gây ra những tiêu cực, bất bình đẳng trong hoạt động kinh doanh.

17
Tình hình kinh tế trong nƣớc và kinh tế đối ngoại của những nƣớc đang phát
triển càng bị thua thiệt so với những nƣớc công nghiệp phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các vấn đề nhƣ kinh tế,
thƣơng mại, chính trị, quân sự và nhiều vấn đề khác đều có sự giao thoa lẫn
nhau và có nhiều biến đổi nhanh chóng thì các nƣớc đang phát triển càng cần
thiết phải nghiêm túc cải cách đất nƣớc nhằm theo kịp với những biến đổi của
thế giới. Trong quá trình cải cách đất nƣớc cũng cần hết sức chú trọng đến lợi
ích quốc gia.

 Các nƣớc lớn vẫn nắm giữ vai trò trong việc quy định các nguyên
tắc của thế giới mới
Các nƣớc lớn là nhóm các nƣớc công nghiệp phát triển, có sức mạnh
trong rất nhiều lĩnh vực kể cả trong kinh tế, công nghiệp, kỹ thuật công nghệ và
cả trong lĩnh vực quân sự. Vì thế những nƣớc này cũng có quyền lực trong việc
định ra các nguyên tắc cho một thế giới mới, từ những nguyên tắc trong kinh tế,
thƣơng mại, tiền tệ, môi trƣờng, chống khủng bố, chống ma túy, chuyển giao
công nghệ cho tới cả những vấn đề nhƣ an ninh thế giới và vũ khí hủy diệt hàng
loạt… Hiện nay, các nƣớc lớn vẫn có những ảnh hƣởng nhất định tới những
quyết định của nhiều tổ chức quân sự, kinh tế, thƣơng mại, tài chính quốc tế, kể
cả tầm thế giới lẫn tầm khu vực và các nƣớc lớn cũng có những ảnh hƣởng ít
nhiều tới quyết định của nhiều quốc gia trên thế giới bởi lẽ hiện tại, những
bƣớc chuyển đổi của nhóm nƣớc này đều có những tác động nhất định và
nhanh chóng tới hầu khắp các nƣớc trên thế giới.
1.1.2. Bối cảnh khu vực
Giai đoạn cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 khu vực châu Á cũng có những
thay đổi đáng kể, tác động không nhỏ tới chính sách đối ngoại của các nƣớc
trong khu vực. Giữa năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, bắt đầu từ
Thái Lan và sau đó lan nhanh sang các nƣớc khác ở Châu Á. Mƣời năm sau
cuộc khủng hoảng tài chính, các thị trƣờng tài chính châu Á lại bùng nổ trở lại

18
và một lần nữa khu vực này lại trở thành nơi mà thế giới quan tâm. Một châu Á
đang nổi lên đã đạt mức tăng trƣởng trung bình hàng năm 8% trong những năm
2005, 2006, 2007, nhanh nhƣ trƣớc cuộc khủng hoảng tài chính. Do đó châu Á
có vẻ đã phục hồi sau cuộc khủng hoảng. Một số nhà bình luận kinh tế cho rằng
nhờ cải cách cơ cấu, những nƣớc từng rơi vào khủng hoảng hiện trở nên động
và kiên cƣờng hơn. Điều này đƣợc thể hiện rõ hơn vào những năm 2008 –
2009, thời điểm diễn ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nƣớc châu Á nhìn
chung đã vững vàng hơn. Tuy nhiên, cũng trong thời điểm này Nhật Bản có tốc

độ tăng trƣởng còn thấp, dƣới 1%, thậm chí có nhiều năm tốc độ tăng trƣởng
âm
2
. Thái Lan cũng là nƣớc chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng
tài chính, tốc độ tăng trƣởng chậm trong nhiều năm, thậm chí năm 2001, tốc độ
tăng trƣởng chỉ khoảng 1,8%.
3

Đông Á cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 vẫn đƣợc coi là nơi diễn ra những
chính sách sôi động về kinh tế thị trƣờng. Những sự phát triển ngoạn mục của
các nƣớc NIEs, sự chuyển nhanh sang kinh tế thị trƣờng của Trung Quốc, Việt
Nam… đang có hiệu ứng tích cực đến quá trình cải cách và phát triển nền kinh
tế Nhật Bản, Thái Lan. Vai trò nổi bật của khu vực này thể hiện ở chỗ: nếu năm
1980 kinh tế Đông Á chỉ chiếm 20,6% giá trị thƣơng mại thế giới, nhƣng năm
1990 đã tăng lên 31,4% và đến năm 2000 đạt khoảng 46%
4
khiến cho nó trở
thành một đối tác quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế, nhất là hợp tác từ
Mỹ và EU. Hợp tác Đông Á đƣợc đẩy mạnh hơn bao giờ hết và nếu không có
những điều chỉnh chính sách kịp thời, Nhật Bản có thể sẽ mất đi ƣu thế của nền
kinh tế hàng đầu trong khu vực và Thái Lan có thể mất hi vọng về vai trò đầu
tầu trong ASEAN.

2
[12, tr.3]
3
[9, tr. 11]
4
[11, tr.8]


19
Với việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO và thỏa
thuận thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) đã
đƣợc ký kết vào tháng 11/2002, nền kinh tế ASEAN – Trung Quốc trở thành
đối tác tích cực đối với hội nhập khu vực và toàn cầu. Là địa bàn hấp dẫn đầu
tƣ, thƣơng mại của tất cả các nƣớc, Trung Quốc không chỉ là đối tác kinh tế lớn
mà còn là đối thủ đáng gờm của Nhật Bản. Trung Quốc sẽ có vai trò đáng kể
hơn với ASEAN trong vòng 10 năm tới. Hiệp định ACFTA đƣợc hoàn tất và
theo cùng với WTO, các quan hệ hợp tác của các đối tác bên ngoài khu vực sẽ
đặt trọng tâm vào Trung Quốc bởi từ đây, họ có thể có vai trò ảnh hƣởng trên
toàn khu vực, trƣớc hết là ở Đông và Đông Nam Á. Đây có thể coi là sức mạnh
và thách thức trực tiếp đối với quan hệ hợp tác kinh tế của Nhật với châu Á
trong những năm đầu của thế kỷ 21. Nói cách khác, Trung Quốc với khả năng
trở thành một trung tâm kinh tế thế giới mới đang tỏ rõ khả năng và sức cạnh
tranh mạnh với các trung tâm kinh tế thế giới truyền thống.
Với ASEAN và Ấn Độ, hai thực thể kinh tế đang ngày càng có vai trò
đáng kể trong châu Á, Nhật Bản dành những ƣu tiên đáng kể để củng cố phạm
vi ảnh hƣởng vốn có và để sử dụng các nƣớc này nhƣ là điều kiện thực hiện của
chiến lƣợc điều chỉnh cơ cấu và nâng cao vị thế cạnh tranh của nền kinh tế
Nhật Bản. Đặc biệt, thành công khiêm tốn của liên kết kinh tế ASEAN đƣợc
xem nhƣ là hình mẫu của tổ chức liên kết kinh tế trong các nƣớc đang phát
triển và với vị thế mới của ASEAN trong quan hệ quốc tế, các nƣớc lớn, trong
đó có Nhật Bản, đều phải xem nó nhƣ là một đối tác kinh tế quan trọng trong
điều chỉnh chính sách kinh tế của họ.
Hợp tác trong khuôn khổ APEC với mục tiêu tạo thuận lợi và tự do hóa
trong hoạt động kinh tế của các nƣớc thành viên, trong đó có Nhật Bản và Thái
Lan, đang đặt ra yêu cầu cho Nhật Bản và Thái Lan cũng nhƣ các nƣớc thành
viên khác là đẩy mạnh các quan hệ hợp tác kinh tế song phƣơng và tích cực
tham gia, dẫn dắt các quan hệ hợp tác đa phƣơng trong khu vực. Trong khuôn


20
khổ APEC, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục tỏ rõ vai trò quan trọng trong sự điều
chỉnh hợp tác khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng trong điều kiện mới.
1.1.3. Chiến lược phát triển của Nhật Bản và Thái Lan trong thế kỷ 21
Bƣớc vào thế kỷ 21, trƣớc những thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu
vực, Nhật Bản đã đƣa ra một chiến lƣợc phát triển với tên gọi: Chiến lược phát
triển mới trong thế kỷ 21 (The New Development Strategy). Trong quan hệ
giữa các nƣớc đang phát triển thì mục đích phát triển con ngƣời là trọng tâm
trong chiến lƣợc, chú trọng tới việc nâng cao chất lƣợng cuộc sống của con
ngƣời. Đề cao việc các nƣớc tự dựa vào sức mình, tự chịu trách nhiệm và tìm
kiếm đối tác hợp tác vì sự phát triển của cả hai bên, đặc biệt là các nƣớc
ASEAN.
Chiến lƣợc của Nhật Bản là tập trung phát triển các lĩnh vực nhƣ: sức
khỏe cộng đồng, y tế, giáo dục, phát triển bền vững và bảo vệ môi trƣờng.
Ngoài ra, Nhật Bản cũng có chiến lƣợc giúp đỡ các nƣớc đang phát triển để các
nƣớc này có thể vững vàng và tự lập hơn nữa trƣớc những thay đổi của thế giới
và khu vực. Do vậy, Nhật Bản đã thay đổi một số chính sách nhƣ chính sách
xin – cho đƣợc thay thế bằng chính sách cộng tác với những nƣớc đang phát
triển, có xem xét đến khả năng tự lực của nƣớc đó.
5

Trong chuyến thăm các nƣớc ASEAN đầu năm 2002, Thủ tƣớng Nhật
Bản Koizumi đã tuyên bố chính sách Đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản –
ASEAN, nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa Nhật Bản với ASEAN đó là mối
quan hệ bạn bè thật sự cho dù tình hình thế giới có thay đổi thế nào chăng nữa
thì Nhật Bản cũng vẫn gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp với ASEAN. Trong thế kỷ
21 này, mối quan hệ Nhật Bản và ASEAN đƣợc mở rộng và hợp tác chặt chẽ
hơn nữa với chính sách hỗ trợ của Nhật Bản đối với những cải cách của từng
nƣớc trong ASEAN nhằm mục đích hợp tác cùng phát triển cho một cộng đồng
bền vững. Sự hợp tác trong thế kỷ 21 bao gồm:


5
[26, tr. 2]

21
- Thiết lập một mạng lƣới kinh tế giữa Nhật Bản và ASEAN
- Thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN trong lĩnh vực
an ninh
- Hợp tác trong giáo dục và phát triển nguồn nhân lực
- Thúc đẩy hợp tác và năm 2003 là năm trọng tâm trong việc trao đổi
văn hóa giữa Nhật Bản và ASEAN
- Thúc đẩy hợp tác Đông Á
6

Bên cạnh đó, trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Thái Lan cũng
có một số thay đổi trong chính sách đối ngoại. Nếu nhƣ thời kỳ trƣớc khủng
hoảng tài chính, Thái Lan là một nƣớc có nền kinh tế phát triển mạnh trong khu
vực với tốc độ tăng trƣởng cao nhất khu vực và ổn định trong nhiều năm, Thái
Lan có hi vọng sẽ trở thành quốc gia đầu tầu trong ASEAN, sẽ là cầu nối giữa
các nƣớc lớn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu với
ASEAN. Vì thế, trong thời gian này chính sách đối ngoại của Thái Lan là tập
trung số một cho mối quan hệ với các nƣớc láng giềng và với Hiệp hội
ASEAN, nhằm mở rộng thị trƣờng thƣơng mại, thị trƣờng đầu tƣ…
Tuy nhiên, kể từ sau khủng hoảng tài chính, Thái Lan nhận thấy rằng các
nƣớc trong ASEAN không thể có khả năng giúp Thái Lan vƣợt qua khủng
hoảng mà chỉ có những nƣớc lớn, những nƣớc kinh tế phát triển nhƣ Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu, mới có thể giúp đƣợc Thái Lan. Vì
thế, thời gian này Thái Lan đã phải điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù
hợp với tình hình thực tế và tƣơng lai lâu dài. Chính sách đối ngoại của Thái
Lan đầu thế kỷ 21 là ƣu tiên thiết lập mối quan hệ khăng khít trở lại với các

nƣớc lớn Mỹ, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu, mà đã bị Thái Lan quên lãng
khoảng hơn 10 năm cuối thế kỷ 20. Trong mối quan hệ này Thái Lan đặc biệt
quan tâm tới việc kêu gọi sự giúp đỡ và viện trợ từ các nƣớc lớn trong việc giúp

6
Theo báo: Nhà quản lý ra ngày 12, 13/1/2001, tr. 1 - 2

22
Thái Lan phục hồi nền kinh tế. Ngoài ra, Thái Lan cũng chú trọng tới việc hợp
tác thƣơng mại với các nƣớc này. Thái Lan luôn tìm cách để xuất khẩu đƣợc
ngày càng nhiều hàng hóa ra nƣớc ngoài. Nếu trƣớc khủng hoảng tài chính
Châu Á, Thái Lan đặt hi vọng vào thị trƣờng ASEAN, thì kể từ sau khủng
hoảng tài chính Châu Á, Thái Lan đã nhận thấy rằng không nên quá hi vọng
vào thị trƣờng ASEAN mà nên củng cố lại và mở rộng thị trƣờng ở Mỹ, Nhật
Bản và khu vực Châu Âu. Thực tế lâu nay thị trƣờng Mỹ vốn vẫn là thị trƣờng
quan trọng và lớn số một của Thái Lan, còn thị trƣờng Châu Âu và Nhật Bản
vẫn luôn là những thị trƣờng lớn thứ hai.
Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích đầu tƣ cũng đƣợc nhà nƣớc Thái
quan tâm. Chính sách của Thái Lan là luôn tìm cách để không cho vốn đầu
chảy ra ngoài mà phải thu hút đƣợc vốn đầu tƣ vào trong nƣớc. Thái Lan không
ngừng tạo dựng một môi trƣờng đầu tƣ thông thoáng, khuyến khích đầu tƣ, tạo
dựng niềm tin đối với các nhà đầu tƣ đặc biệt là thu hút các nhà đầu tƣ lớn nhƣ
Mỹ và Nhật Bản.
7

Nhƣ vậy, với bối cảnh quốc tế, khu vực cũng nhƣ điều kiện của từng
nƣớc Nhật Bản và Thái Lan, có thể thấy rằng việc tăng cƣờng hợp tác kinh tế
giữa hai nƣớc này là hoàn toàn tất yếu. Nó xuất phát từ những ảnh hƣởng của
xu thế quốc tế và khu vực cũng nhƣ nhu cầu thực tế của mỗi quốc gia.
1.2. Tiến trình phát triển quan hệ kinh tế Thái Lan – Nhật Bản

1.2.1. Quan hệ Thái Lan - Nhật Bản giai đoạn trước khủng hoảng tài
chính Châu Á
Quan hệ Thái Lan – Nhật Bản đƣợc hình thành và phát triển từ lâu. Ngay
từ thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản đã đƣa các sản phẩm công
nghiệp đến bán tại Thái Lan và khi đó các sản phẩm này của Nhật Bản đã cạnh
tranh đƣợc với các hàng hóa của Anh tại đây. Nhật Bản đã gặt hái đƣợc nhiều
thành công và thu đƣợc nhiều lợi ích trong việc kinh doanh tại Thái Lan thời kỳ

7
[24, tr.43]

23
này. Tiếp sau đó, trong chiến tranh thế giới thứ hai, mối quan hệ giữa Thái Lan
và Nhật Bản ngày càng trở nên gắn bó hơn, nhất là trong mối quan hệ đồng
minh chiến tranh. Thái Lan trở thành nơi cung cấp nguyên liệu, tài nguyên cho
Nhật Bản, thậm chí còn cho phép Nhật Bản sử dụng lãnh thổ của mình cho
những mục đích quân sự. Nhƣng cuối cùng, tất cả những mối quan hệ giữa
Thái Lan và Nhật Bản đƣợc gây dựng qua hai cuộc chiến tranh đều không
mang lại kết quả gì tốt đẹp cho xã hội Thái Lan, ngƣời dân Thái Lan vẫn luôn
phải đối mặt với lạm phát và sự thiếu thốn các nhu yếu phẩm.
Tiếp theo đó, trong giai đoạn chiến tranh lạnh, quan hệ chính trị, quân sự
giữa hai nƣớc giảm xuống đáng kể nhƣng quan hệ kinh tế vẫn đƣợc duy trì và
củng cố. Cuối thời kỳ chiến tranh lạnh, nhất là những năm 80, hàng hóa từ Nhật
Bản nhập khẩu vào Thái Lan với số lƣợng lớn, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Đầu
năm 1980, hàng hoá nhập khẩu vào Thái Lan tăng so với những năm 70 là
33,7% trong đó hàng tiêu dùng nhập khẩu tăng tới 41,3%. Tuy nhiên từ khoảng
những năm 1983 đến 1986, hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản vào Thái Lan đã
có chiều hƣớng dịch chuyển, số lƣợng hàng tiêu dùng giảm xuống chút ít và
thay vào đó là số lƣợng hàng công nghiệp. Đến năm 1986, nhập khẩu từ Nhật
Bản vào Thái Lan giảm đi 5%, do số lƣợng các công ty Nhật Bản đầu tƣ vào

Thái Lan đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên tới năm 1987 và 1988 số lƣợng nhập
khẩu từ Nhật Bản vào Thái Lan lại tăng lên đáng kể 36% vào năm 1987 và
72% vào năm 1988. Do thời gian này Thái Lan đặc biệt đẩy mạnh phát triển
nền công nghiệp nên đã nhập từ Nhật Bản một khối lƣợng máy móc lớn.
Cũng trong thời gian này, hàng hoá từ Thái Lan xuất khẩu sang Nhật
Bản chủ yếu là các mặt hàng lƣơng thực thực phẩm và nhiên liệu, do Nhật Bản
là một nƣớc có nền công nghiệp rất phát triển nhƣng lại thiếu trầm trọng về
thực phẩm và nhiên liệu. Vì vậy, hàng năm Thái Lan xuất khẩu sang Nhật Bản
một số lƣợng lớn lƣơng thực thực phẩm, chiếm tới 60% tổng giá trị xuất khẩu
sang Nhật Bản, khoảng hơn 7 tỷ Baht. Nhiên liệu xuất sang Nhật Bản chiếm
khoảng 15% tổng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra các mặt hàng thủ công của Thái

×