Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Quan hệ Nga - Gruzia từ năm 1991 đến 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 151 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG XUÂN CƯỜNG






QUAN HỆ NGA – GRUZIA
TỪ NĂM 1991 ĐẾN 2011










LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ












Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG XUÂN CƯỜNG





QUAN HỆ NGA – GRUZIA
TỪ NĂM 1991 ĐẾN 2011




Ngành: QUỐC TẾ HỌC
Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 02 06


LUẬN VĂN THẠC SĨ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH CÔNG TUẤN







Hà Nội - 2012
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGA -
GRUZIA 14
1.1. Nhân tố lịch sử 14
1.1.1. Thời kỳ Nga Sahoàng (trước năm 1917) 14
1.1.2. Thời kỳ Liên Xô (1917 - 1991) 16

1.2. Nhân tố quốc tế và khu vực 19
1.2.1. Quốc tế 19
1.2.2. Khu vực 22
1.3. Nhân tố hai nước 25
1.3.1. Chính sách của các nước lớn đối với quan hệ Nga - Gruzia 25
1.3.2. Tình hình nước Nga và Gruzia 43
1.3.3. Chính sách của hai nước đối với nhau 46
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LĨNH VỰC TRONG QUAN HỆ NGA - GRUZIA
(1991 - 2011) 50
2.1. Thời kỳ của Tổng thống Boris Yeltsin (6/1990 - 3/2000) 50
2.1.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh - quân sự - ngoại giao 50
2.1.2. Lĩnh vực kinh tế 54
2.1.3. Lĩnh vực văn hóa - khoa học kỹ thuật 58
2.2. Thời kỳ Tổng thống Vladimir Putin (3/2000 - 5/2008) 60
2.2.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh - quân sự - ngoại giao 60
2.2.2. Lĩnh vực kinh tế 73
2.2.3. Lĩnh vực văn hóa - khoa học kỹ thuật 78
2.3. Thời kỳ Tổng thống Dmitry Medvedev (5/2008 - 12/2011) 80
2.3.1. Lĩnh vực chính trị - an ninh - quân sự - ngoại giao 80
2.3.2. Lĩnh vực kinh tế 99
2.3.3. Lĩnh vực văn hóa - khoa học kỹ thuật 102

CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ NGA - GRUZIA ĐẾN THẾ
GIỚI, KHU VỰC VÀ TRIỂN VỌNG ĐẾN 2020 106
3.1. Tác động đến thế giới và nước Mỹ 106
3.1.1. Với thế giới 106
3.1.2. Với Mỹ 108
3.2. Tác động đến khu vực 110
3.2.1. Khu vực Kavkaz 110
3.2.2. Khu vực châu Âu 120

3.3. Triển vọng đến 2020 123
3.3.1. Những thuận lợi và thách thức trong quan hệ Nga - Gruzia 123
3.3.2. Triển vọng đến 2020 127

KẾT LUẬN 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO 141
















DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1
ADB
The Asian Deverlopment Bank
Ngân hàng phát triển châu Á
2
ANDES

Group of the ANDES
Nhóm các nước vùng
ANDES
3
APEC
Asia - pacific Economic
Coopertion
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương
4
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
5
ASEM
The Asia - Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
6
AU
Afican Union
Liên minh châu Phi
7
BRICS
Group Brasil, Russia, India,
China, South Afica
Nhóm 5 nền kinh tế mới nổi:
Braxin, Liên bang Nga, Ấn
Độ, Trung Quốc, Nam Phi

8
CARICOM
The Caribbean Community
and Common Market
Khu vực buôn bán mậu dịch
tự do vùng Caribê
9
CIS
Commonweath of
Inthependence States
Cộng đồng các quốc gia độc
lập
10
CSTO
Collective Security treaty
Organization
Tổ chức hiệp ước an ninh tập
thể
11
GATT
General Agreement on Tariffs
and Trade
Hiệp định buôn bán mậu dịch
tự do và thuế quan chung
12
G - 7
Group of Seven
Nhóm 7 nước công nghiệp
phát triển nhất thế giới
13

G - 8
Group of Eight countries
Nhóm 7 nước công nghiệp
phát triển nhất thế giới và
Liên bang Nga
14
G - 20
Group of Twenty countries
Nhóm 20 nền kinh tế mới nổi
và phát triển nhất thế giới
15
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm kinh tế quốc
nội
16
GCC
Guft Cooperation Council
Hội đồng hợp tác vùng Vịnh
17
GMC
Mekong - Ganda Cooperation
Metting
Dự án hợp tác sông Mê Kông
- sông Hằng
18
EC
European Community
Cộng đồng châu Âu
19

EU
European Union
Liên minh châu Âu
20
EAS
East Asia Summit
Hội nghị cấp cao Đông Á
21
MERCOSUR
Mercado Comu’ndel Sur
Khối thị trường chung Nam
Mỹ
22
NATO
North Atlantic Treaty
Organization
Khối quân sự Bắc Đại Tây
Dương
23
NICs
Newly Industrialized
Countries
Các nước công nghiệp mới
24
NPT
Nuclear Non - Proliferation
Treatyon
Hiệp ước không phổ biến vũ
khí hạt nhân
25

OAS
Organization of American
States
Tổ chức các nước châu Mỹ
26
OPEC
Organization of the Petroleum
Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ
27
OECD
Organization for Economic
Cooperation and
Development
Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế
28
OSCE
Organization for security and
Co-operation in Europe
Tổ chức an ninh và hợp tác
châu Âu
29
PCI
Provincial Competiveness
Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh
30
IMF

International Monetary Fund
Quĩ tiền tệ quốc tế
31
FDI
Foreign Direct Investment
Tổng vốn đầu tư trực tiếp
32
SAARC
South Asian Association for
Regional Cooperation
Hiệp hội hợp tác khu vực
Nam Á
33
SCO
Shanghai Cooperation
Organization
Tổ chức hợp tác Thượng Hải
34
SNG
Sodruzhestvo Nezavisimykh
Gosudarstv
Cộng đồng các quốc gia độc
lập
35
TNCs
Trans national Cooperations
Công ty xuyên quốc gia
36
UN
United Nations

Liên Hợp Quốc
37
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
38
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới























DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1: Nhịp độ phát triển GDP của Nga, Gruzia trong những năm đầu
thập niên 90
55
Bảng 2: Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm của Nga, Gruzia
73
Bảng 3: Tăng trưởng GDP tính theo giá hiện hành của Nga, Gruzia
77



1
QUAN HỆ NGA - GRUZIA TỪ NĂM 1991 ĐẾN 2011

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nga và Gruzia là hai nước nằm ở khu vực Kavkaz, giữa hai nước có quan hệ
chặt chẽ với nhau về mặt lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa từ lâu đời.
Trong thời kỳ Nga Sahoàng trị vì ở nước Nga, vùng Batumi (Gruzia ngày
nay) là vùng ảnh hưởng, thuộc địa của đế quốc Nga hàng trăm năm.
Sau cách mạng tháng 10/1917, với sự ra đời của Liên bang cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Xôviết (Liên Xô). Cả Nga, Gruzia đều nằm trong thành phần Liên Xô với
tư cách hai nước cộng hòa trực thuộc.
Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, sau những biến động chính trị, xã hội
to lớn ở Liên Xô dẫn tới việc Liên bang Xôviết phải tuyên bố giải thể vào ngày
30/12/1991. Nga và Gruzia đã tuyên bố trở thành những quốc gia độc lập và đều
được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Sau khi trở thành những quốc gia độc lập, cả hai nước vẫn duy trì mối quan
hệ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật…
Tuy nhiên, do chịu sự tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho
quan hệ Nga - Gruzia trong suốt 20 năm qua có những bước phát triển thăng trầm.
Những nguyên nhân đó là:
(1). Quan hệ Nga - Gruzia thuộc mối quan hệ giữa một cường quốc với một
nước nhỏ. Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), mối quan hệ này đã nhận được sự quan
tâm rất lớn của dư luận các nước ở khu vực Kavkaz, châu Âu và cả cộng đồng thế
giới do nó ảnh hưởng trực tiếp tới việc hoạch định chính sách của các cường quốc
thế giới: Mỹ, Nga, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc. Cường quốc khu vực:
Thổ Nhĩ Kỳ. Các nước trong vùng: Gruzia, Armenia, Azerbaijan ở khu vực giàu tài
nguyên thiên nhiên và có vị trí chiến lược xung yếu này.
(2). Sự gia tăng ảnh hưởng của Nga ở Gruzia và khu vực Kavkaz trên các
mặt chính trị, an ninh, quân sự, kinh tế, văn hóa nhằm cụ thể hóa tham vọng của
Moscow muốn kiểm soát cho được không gian chiến lược hậu Xôviết, Kavkaz và

2
Gruzia vốn luôn được coi là “sân sau”, vùng ảnh hưởng truyền thống của nước Nga.
Trong khi Gruzia cũng muốn tìm kiếm địa vị, ảnh hưởng mới của mình trong khu
vực để phát triển đất nước, nên họ đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, EU và các quốc gia
Nam Kavkaz nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của Nga.
(3). Nhiều nguyên nhân do lịch sử từ thời Nga Sahoàng, Liên Xô, đã để lại
cho hai nước Nga và Gruzia có nhiều mâu thuẫn trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
văn hóa, lãnh thổ, ngôn ngữ…Giữa Moscow và Tbilisi còn có mâu thuẫn nổi cộm
trong vấn đề 3 vùng ly khai: Abkhazia, Nam Ossetia, Atgiaria (vốn là những vùng
lãnh thổ của Gruzia nhưng lại có rất đông đảo cộng đồng người gốc Nga sinh sống).
Đây làm nhân tố quan trọng dẫn tới cuộc “chiến tranh 5 ngày” giữa Nga với Gruzia
từ ngày 8 đến 12/8/2008.
(4). Sự tác động của các thế lực nước lớn: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU),
Trung Quốc tranh giành ảnh hưởng với Nga ở Gruzia và khu vực Kavkaz trên các

mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa đã góp phần làm cho quan hệ Nga - Gruzia
trở lên mâu thuẫn và phức tạp hơn.
Tất cả những mối quan hệ đan xen trái chiều nhau trong quan hệ của Nga với
Gruzia, từ khi hai nước này trở thành các quốc gia độc lập năm 1991 đến nay. Cùng
với sự tác động của các thế lực nước lớn: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung
Quốc vào tình hình hai nước và khu vực, đã góp phần làm cho quan hệ Nga - Gruzia
luôn trở thành một chủ đề hấp dẫn, nóng bỏng trong quan hệ quốc tế cũng như quan
hệ ở khu vực Kavkaz, châu Âu từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quan hệ Nga - Gruzia từ năm 1991
đến 2011” làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quốc tế học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về nước Nga, Gruzia và mối quan hệ giữa
hai nước trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao; kinh tế; văn hóa, khoa học
- kỹ thuật, không chỉ trong giai đoạn cả hai tách khỏi Liên bang Xôviết trở thành
các quốc gia độc lập từ năm 1991 đến 2011, mà ngay trong thời kỳ Nga và Gruzia
còn đứng chung trong “mái nhà Xô viết” giai đoạn 1917 - 1991.
2.1. Những công trình nghiên cứu về nước Nga, Gruzia và mối quan hệ giữa
hai nước trên lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao

3
Trong cuốn sách “Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG): Những vấn đề
chính trị và kinh tế nổi bật”, Đặng Minh Đức (chủ biên), (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2011). Nhóm tác giả trong cụm công trình trên đã đi sâu phân tích mối quan
hệ chính trị, kinh tế giữa Nga, Gruzia với các nước thành viên SNG, sau gần 20 năm
hình thành tổ chức này (21/12/1991). Công trình nêu bật được những thành tựu nổi
bật của Nga, Gruzia và các quốc gia SNG trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị: hợp
tác phát triển kinh tế; khai thác năng lượng (dầu khí, thủy điện, khoáng sản); chống
chủ nghĩa khủng bố, ly khai, dân tộc cực đoan; buôn lậu ma túy Nhưng đồng thời
cũng nêu ra những thách thức mà Nga, Gruzia và các thành viên SNG đang gặp
phải: mâu thuẫn kinh tế, chính trị giữa các nước; tình trạng phát triển kinh tế chậm

chạp trong các nước thành viên SNG; các nguy cơ của chủ nghĩa khủng bố, ly khai,
dân tộc cực đoan; sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn ở trong khu vực
không gian hậu Xôviết có nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
SNG.
Cuốn “Liên bang Nga: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Nguyễn An Hà (chủ
biên), (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011). Nhóm tác giả đã nêu ra những thuận
lợi và thách thức mà nước Nga đang gặp phải trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI
trên các lĩnh vực: chính trị, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế Nêu ra được
những mục tiêu, tham vọng mà chính quyền của Tổng thống Putin và Medvedev đã
đề ra trong nỗ lực đưa Moscow trở thành một cường quốc có tiếng nói ngày càng
quan trọng trong các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế của thế giới. Qua đó dần lấy
lại hình ảnh của một nước Nga siêu cường như Liên Xô cũ đã đạt được.
“Sự vươn lên của nước Nga dưới thời Tổng thống Putin”, (Nguyễn Thanh
Hiền, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 11 (86), Hà Nội, 2007, tr.57 - 61). Trong bài
viết, tác giả đã nêu ra được những thành tựu to lớn mà nước Nga đã đạt được trong
7 năm (2000 - 2007) dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin. Những thành tựu này
được thể hiện rất rõ nét trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, chính
sách đối ngoại, quân sự, kinh tế Nó góp phần rất quan trọng giúp nước Nga dần
lấy lại được hình ảnh của một cường quốc kinh tế, chính trị, quân sự như Liên Xô
cũ đã từng có.

4
“Xung đột quân sự ở Nam Ossetia: Nguyên nhân, phản ứng quốc tế và triển
vọng tình hình”, (Vũ Dương Huân, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 8 (95), Hà Nội,
2008, tr.15 - 24). Trong bài viết, tác giả đã đi sâu phân tích nguyên nhân dẫn tới
cuộc xung đột quân sự ở Nam Ossetia giữa chính phủ Gruzia với lực lượng dân
quân của vùng lãnh thổ ly khai này. Sự can thiệp của nước Nga vào cuộc xung đột
trên, dẫn tới chiến tranh Nga - Gruzia tháng 8/2008, phản ứng của cộng đồng quốc
tế với sự kiện này và triển vọng tình hình ở Nam Ossetia trong những năm tới đây.
“Xung đột Nga - Gruzia: liều thuốc thử”, (Nguyễn Cảnh Toàn, Tạp chí

Nghiên cứu châu Âu, số 8 (95), Hà Nội, 2008, tr.25 - 35). Trong bài viết, tác giả đã
đi sâu phân tích cuộc chiến nhìn từ góc độ của hai phía Nga và Gruzia. Đối với Nga,
cuộc chiến này là liều thuốc thử thực sự với họ. Thông qua việc tiến hành cuộc
“chiến tranh 5 ngày” chống lại chính quyền Tbilisi, Moscow muốn khẳng định với
Mỹ, phương Tây và các thế lực khác rằng: nước Nga đang trở lại là một cường quốc
như Liên Xô trước đây đã từng có. Bất kì thế lực nào muốn tranh giành ảnh hưởng
với Nga ở khu vực không gian hậu Xôviết mà bỏ qua quyền lợi của Moscow, thì
Cremli sẽ giánh trả lại các thế lực đó bằng mọi biện pháp có thể, kể cả bằng vũ lực.
Còn với chính quyền Tbilisi, họ cũng muốn tìm kiếm địa vị, ảnh hưởng mới
trong khu vực để phát triển đất nước, nên đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, EU và các
quốc gia Nam Kazkav nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của Nga. Gruzia còn muốn sử
dụng biện pháp quân sự để giành lại Abkhazia và Nam Ossetia, tách 2 vùng ly khai
này khỏi ảnh hưởng của Moscow. Nhưng những nỗ lực này của Tbilisi đã bị thất bại
do gặp phải phản ứng mạnh mẽ bằng biện pháp quân sự từ phía Nga.
“Xung đột tại Nam Ossetia: một hình mẫu xung đột trong thời đại toàn cầu
hóa”, (Bùi Hiền, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 10(97), Hà Nội, 2008, tr.24 - 29).
Trong bài viết, tác giả đã phân tích rõ đặc điểm của cuộc xung đột tại Nam Ossetia,
đồng thời cũng đã nêu ra được một mô hình xung đột của quan hệ quốc tế đương
đại cùng những tham vọng, tính toán của các bên khi tham gia cuộc xung này.
“Từ Kosovo và Montenegro đến Nam Ossetia và Abkhazia cùng những khu
vực ly khai khác”, (Đức Minh - Hoài Phương, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 9
(96), Hà Nội, 2008, tr.16 - 24). Trong bài viết, các tác giả đã đi sâu phân tích những
tác động của sự kiện Montenegro và Kosovo được độc lập đối với các khu vực ly

5
khai khác ở không gian hậu Xôviết, đặc biệt là đối với hai vùng lãnh thổ ly khai ở
Gruzia là Abkhazia và Nam Ossetia. Thái độ của các nước Mỹ, EU, phương Tây,
Nga và các tổ chức quốc tế đối với sự kiện độc lập của Kosovo và Montenegro. Hệ
quả tiêu cực của các sự kiện trên đối với các vùng ly khai ở trên thế giới, khu vực
SNG và Gruzia cũng như quan hệ quốc tế trong những năm tới đây.

Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng có những công trình nghiên cứu về
nước Nga, Gruzia và mối quan hệ giữa hai nước trên lĩnh vực chính trị, quân sự,
ngoại giao.
Cuốn sách “From Stalin to Yeltsin”, Baibakov.N.G, (Publiser by Moscow,
Russia, 2000) đã nói lên bức tranh chính trị, kinh tế, xã hội của nước Nga, từ khi
quốc gia này còn nằm trong thành phần của Liên bang Xôviết dưới sự lãnh đạo của
Tổng bí thư Stalin (năm 1924) tới khi Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập
(12/6/1990) với vị Tổng thống đầu tiên là Yeltsin. Đây cũng là nhân vật đã lãnh đạo
nước Nga trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XX (12/6/1990 - 31/12/1999). Một
thập kỷ được đánh giá là đầy sóng gió trong lịch sử của nước Nga hiện đại.
“The foreign policy from Post - Soviet to Russia now. The leason from the
conflic with Gruzia”, (A.V.Lukin, “Russia in the world policy” Magazine, No 6,
Russia, 2008). Nói về sự thay đổi chính sách đối ngoại của nước Nga tại các khu
vực trên thế giới, ở không gian hậu Xôviết, Nam Kavkaz…Sự thay đổi này thể hiện
rất rõ trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Yeltsin và Putin. Thời kỳ Yeltsin là
giai đoạn nhượng bộ trong chính sách đối ngoại của Nga với phương Tây ở nhiều
khu vực, vùng lợi ích của Moscow trên khắp thế giới. Trong khi thời kỳ Putin, nước
Nga đã trở lại vị thế cường quốc, giành giật ảnh hưởng với Mỹ, phương Tây tại các
quốc gia, khu vực vốn trước đây thuộc vùng ảnh hưởng truyền thống của Moscow.
Nhằm phác họa sự kiện “19/8/1991” dẫn đến sự tan rã của Liên Xô, cuốn
sách “Gorbachev - Riot: August even from inside”, của nhóm tác giả Lukianov.A,
Pavlov.V, Cruiskov.V, (Publisher Moscow, Russia, 1994) đã đi sâu phân tích cuộc
chính biến ngày 19/8/1991 của những người muốn đảo chính lật đổ Tổng thống
Liên Xô Gorbachev, nhằm duy trì Liên bang Xôviết khỏi bị sụp đổ. Nhưng những
nỗ lực này của họ đã bị thất bại. Bởi Gorbachev và phe cánh đã nắm trước diễn biến
tình hình, chờ cơ hội cho những người tiến hành đảo chính rồi họ mới ra tay. Đây là

6
cái cớ hợp pháp mà kẻ phản bội Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô này chờ đợi
từ lâu để hắn có cớ tuyên bố sự giải tán của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên bang

Xôviết. Cuộc chính biến 19/8/1991 thất bại, đã dẫn đến một sự thực là: chủ nghĩa xã
hội không còn tồn tại ở Liên Xô nữa. Đây là tổn thất vô cùng to lớn đối với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như phong trào cách mạng trên thế giới.
“South of Kavkaz, one year and half after “five days of war””, (Gaids
Minassian, Strategy Studying Group Magazine, France, March 2010). Tác giả đi sâu
phân tích tình hình Nam Kavkaz 18 tháng sau cuộc “chiến tranh 5 ngày” Nga -
Gruzia tháng 8/2008. Nga đã giành lại ảnh hưởng và lợi thế nhất định ở khu vực
này. Buộc các cường quốc thế giới: Mỹ, EU. Cường quốc khu vực: Thổ Nhĩ Kỹ.
Các nước trong vùng: Armenia, Azerbaijan và Gruzia phải chuyển hướng chính
sách, tái tổ chức lại vị thế của mình đề có thể đối phó với những sáng kiến hành
động của chính quyền Nga.
“The way the Russian Empire out of the crisis”, (Jeffrey Mankoff, Russie.
Nei.Visions Magazine, No 48, United States, March 2010). Nói về tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới (2007 - 2010) tới nền kinh tế Nga. Ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng này tới chính sách đối ngoại của Moscow ở không
gian hậu Xôviết; khu vực Trung Á và Kavkaz; Mỹ; Trung Quốc; EU
2.2. Công trình nghiên cứu về nước Nga, Gruzia và mối quan hệ hai nước
trên lĩnh vực kinh tế
“Liên bang Nga trong nền kinh tế thế giới trước thềm thế kỷ XXI”, (Nguyễn
An Hà, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4, Hà Nội, 2000, tr.43 - 48). Tác giả đã nêu
ra những khó khăn kinh tế to lớn mà nước Nga gặp phải sau khi tách khỏi Liên Xô
trở thành một quốc gia độc lập năm 1991. Tiềm lực kinh tế suy giảm, sản xuất giảm
sút, lại chịu ảnh hưởng của những bất ổn chính trị trong nước và khủng hoảng kinh
tế kéo dài trong thập niên 1990 đã làm cho nền kinh tế Liên bang Nga đứng bên bờ
vực của sự sụp đổ. Những khó khăn, thách thức trên sẽ là những chướng ngại rất
lớn cho nền kinh tế của Liên bang Nga khi quốc gia này bước vào thế kỷ XXI.
“Hoạt động ngoại thương của các nước SNG trong những năm đầu thế kỉ
XXI”, (Đinh Mạnh Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 2 (50), Hà Nội, 2003, tr.
48 - 55). Tác giả đã đề cập đến mối quan hệ kinh tế, ngoại thương giữa giữa Nga


7
với Gruzia và các nước SNG trong những năm đầu thế kỉ XXI. Mối quan hệ ngoại
thương giữa hai nước và với SNG cũng đạt được một số thành tựu quan trọng: Đó là
tăng cường hợp tác buôn bán các sản phẩm nông, công nghiệp nội khối, xuất khẩu
các mặt hàng chiến lược về năng lượng (dầu khí, than đá, điện), khoáng sản, kim
loại màu sang thị trường châu Âu, Á và thế giới. Điều này giúp cho Nga, Gruzia
và các nước SNG thu được nhiều nguồn ngoại tệ quan trọng để phát triển đất nước.
Nhưng đồng thời, bài viết cũng nêu ra được những hạn chế mà ngoại thương
của Nga, Gruzia và các nước SNG hiện đang gặp phải: Các sản phẩm xuất khẩu
tương đối giống nhau về một số mặt hàng nhất định (chủ yếu là xuất khẩu năng
lượng, khoáng sản thô); thị trường xuất khẩu của SNG quá phụ thuộc vào EU…
Điều này đã hạn chế không nhỏ sự phát triển của ngoại thương các nước SNG.
“Khủng hoảng tài chính thế giới và những tác động tới Liên bang Nga”,
(Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 12.(99), Hà Nội, 2008, tr.8 - 17).
Tác giả đã đi sâu phân tích và làm rõ những tác động to lớn của khủng hoảng tài
chính châu Á (1997 - 1998) và cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 tới
nền kinh tế của nước Nga. Cuộc khủng hoảng tài chính 1998 đã làm cho nền kinh tế
Liên bang Nga đứng bên bờ vực của sự sụp đổ. Còn cuộc khủng hoảng kinh tế lần
2, dù chỉ diễn ra ở nước Nga trong một thời gian tương đối ngắn (nửa cuối năm
2008) nhưng nó đã gây ra những hậu quả vô cùng to lớn tới nền kinh tế Nga. Trong
vòng 3 tháng, dự trữ ngoại tệ của nước Nga đã từ mức đỉnh 597,5 tỉ USD (8/2008)
xuống còn 453,5 tỉ USD vào giữa tháng 11, giảm 144 tỉ USD hay 24%
“Nga gia nhập WTO và một số vấn đề xã hội”, (Trần Phương Hoa, Tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, số 8 (74), Hà Nội, 2006, tr.55 - 63). Trong bài viết, tác giả đã
đi sâu tìm hiểu những biến chuyển về mặt xã hội trong lòng nước Nga trong quá
trình Nga hướng tới gia nhập WTO. Những biến chuyển này được thể hiện rõ trong
các vấn đề di dân, lực lượng lao động, sở hữu trí tuệ và mức sống của người dân.
Những tác động trên được dự báo không phải là quá lớn. Bởi Nga đang từng bước
chuyển giao vai trò quản lý và giám sát nhà nước về các vấn đề xã hội sang cho
chính quyền địa phương, nhóm xã hội, các tổ chức xã hội và cho chính các công

dân. Tuy nhiên việc xây dựng một xã hội và nhà nước phúc lợi với các thiết chế của
nó đòi hỏi một quá trình lâu dài.

8
Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng có các công trình nghiên cứu về
nước Nga, Gruzia và mối quan hệ giữa hai nước trên lĩnh vực kinh tế.
“Why Russia don’t join WTO?”, (Anders Aslund, “The Washington
Quarterly” Magazine, No 4, United States, March 2010). Tác giả đã làm rõ những
nguyên nhân chính mà Nga không gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
bao gồm cách tiếp cận của giới lãnh đạo chính trị Nga, vấn đề thể chế, thái độ nước
lớn và những mâu thuẫn trong nội bộ giới chính trị Nga. Một nguyên nhân quan
trọng nữa mà Nga chưa thể gia nhập tổ chức WTO sớm được là do những cản trở từ
Mỹ, EU và Gruzia. Những căng thẳng chính trị với Gruzia (đặc biệt là sau cuộc
chiến tranh 5 ngày Nga - Gruzia tháng 8/2008) đã ảnh hưởng tiêu cực đến vòng đàm
phán WTO của Moscow với nước này. Đây là những lý do chính khiến Nga không
gia nhập WTO.
“Russia, accession prospect increasingly fragile”, (Sergey Minaev, business
report, Russia, August 2008). Trong bài viết, tác giả đã phân tích những khó khăn
của Nga khi gia nhập WTO bởi giữa Moscow và EU, Mỹ vẫn bất đồng với nhau
trong nhiều vấn đề: Nga chưa hủy bỏ biện pháp thu phí hai lần với máy bay nước
ngoài bay trên lãnh thổ Nga, trợ giá cho nông nghiệp…Nga vẫn tiếp tục tuyên bố
chỉ gia nhập WTO theo điều kiện của mình, còn phương Tây thì tiếp tục nghi ngờ
thành tâm của Nga thực hiện những thỏa thuận đã đạt được. Những trở ngại này sẽ
làm cho triển vọng gia nhập WTO của Nga ngày càng mong manh.
“Russia: Resulf of 4 working years of President Medvedev”, (Pavel Danillin,
Independent Newspaper, Russia, 15 October 2011). Tác giả đã nêu bật được những
thành tựu mà ông Medevedev đạt được sau 4 năm làm tổng thống Liên bang Nga.
Đó là: giành thắng lợi trong “cuộc chiến 5 ngày” với Gruzia tháng 8/2008, giành
quyền đăng cai Olimpic mùa đông Sochi năm 2014, giải vô địch khúc côn cầu thế
giới năm 2016, vòng chung kết World Cup 2018. Cùng với hàng loạt các thành tựu

khác về chính trị, kinh tế, xã hội như: đưa nước Nga ra thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008, nâng cao tuổi thọ của người dân, thực hiện thành công
chính sách tăng dân số Nga, tăng thu nhập cho người dân, tỉ lệ tội phạm giảm, kinh
tế tăng trưởng khá ổn định, Nga được kết nạp vào WTO (17/12/2011), nợ công
thấp, dự trữ ngoại tệ cao thứ 3 thế giới đạt 517 tỉ USD năm 2008, chương trình hiện

9
đại hóa nền kinh tế Nga đã bắt đầu phát huy hiệu quả, hệ thống chính trị ở nước
Nga được duy trì ổn định, vai trò của Đảng nước Nga thống nhất được củng cố
vững chắc…Những thành tựu trên đã đưa nước Nga trở thành 1 trong 10 nền kinh tế
lớn nhất, vị thế chính trị nước Nga được củng cố vững chắc trên trường quốc tế.
“Analysis of the new strategy, “modernization” of Russia”, (Peace and
development”, China, June 2011). Bài viết đi sâu phân tích về chiến lược “hiện đại
hóa” của nước Nga do Thủ tướng Nga Putin đề xuất ý tưởng vào cuối năm 2008,
đưa ra những qui hoạch tương đối rõ ràng đối với mục tiêu, đường lối, phương thức
phát triển cho nền kinh tế Nga trước năm 2020. Làm rõ chiến lược hiện đại hóa
nước Nga của “tổ hợp Medvedev - Putin” với 5 phương hướng để hiện đại hóa kỹ
thuật trong tương lai: nâng cao hiệu quả hiệu xuất nguồn năng lượng, trong đó bao
gồm nguồn năng lượng mới; công nghệ hạt nhân, công nghệ du hành vũ trụ, trước
hết là thông tin vệ tinh (hệ thống thông tin định vị toàn cầu GLONASS); kỹ thuật
chữa bệnh, kỹ thuật thông tin chiến lược, phổ biến rộng rãi truyền hình kỹ thuật số
và mạng thông tin di động thế hệ thứ tư (4G). Đồng thời nêu ra được triển vọng
tương lai của Nga trong việc thực hiện sự hiện đại hóa này.
2.3. Công trình nghiên cứu về nước Nga, Gruzia và mối quan hệ giữa hai
nước trên lĩnh vực văn hóa, khoa học - kỹ thuật
Trong cuốn sách “Cộng đồng các quốc gia độc lập quá trình hình và phát
triển” của tác giả Nguyễn Quang Thuấn (chủ biên), (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2007, tr.40 - 41 và tr.169 - 174) đã phân tích sâu sắc sự giao thoa văn hóa, tôn giáo,
dân tộc rất chặt chẽ giữa Nga với Gruzia và các nước SNG như: người Nga theo
Chính thống giáo có liên chặt chẽ với người theo tôn giáo này ở Armenia, Gruzia.

Người Hồi giáo ở Nga có quan hệ gắn bó với người Hồi giáo ở Gruzia, Azerbaijan
…Đồng thời cũng chỉ ra những mâu thuẫn, xung đột về văn hóa, dân tộc, tôn giáo
giữa các nước ở trong khu vực: người Hồi giáo ở Nga có mâu thuẫn với người theo
đạo Chính thống giáo. Người Ossetia nói tiếng Batư mâu thuẫn gay gắt với người
Gruzia nói tiếng Kavkaz, người Armenia theo đạo Chính thống có mâu thuẫn với
người Azerbaijan theo Hồi giáo…Điều này đã tạo nên bức tranh văn hóa rất đa dạng
và phức tạp ở khu vực Kavkaz và SNG.

10
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nêu bật sự hợp tác giáo dục, khoa học - kỹ thuật
giữa Nga với Gruzia và các nước SNG khi các nước đã tiến hành xây dựng được
một không gian thông tin chung nhằm mở rộng khả năng trao đổi thông tin giữa các
nước. Bản kế hoạch tổng thể về dự án này đã Hội đồng Nguyên thủ các quốc gia
SNG phê duyệt vào năm 1998.
Trong cuốn sách “Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG): những vấn đề
kinh tế - chính trị nổi bật” của tác giả Đặng Minh Đức (chủ biên), (Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2011, tr.60 - 72) đã phân tích sâu sắc những sự đa dạng về xung đột
văn hóa, dân tộc, tôn giáo và ly khai tại Nga, Gruzia và các nước SNG trong những
năm vừa qua với những nguyên nhân sau: 1)Tranh chấp lãnh thổ liên quan trực tiếp
đến các cuộc xung đột sắc tộc, văn hóa. Vấn đề này thường có quan hệ mật thiết với
Nga. 2)Nguyên nhân và trách nhiệm của phía Nga. Bản thân nước Nga cũng muốn
tạo “vùng đệm” an toàn cho mình và răn đe những quốc gia SNG muốn thân Mỹ và
phương Tây và tách khỏi quĩ đạo ảnh hưởng của Nga. 3)Nguyên nhân về kinh tế, xã
hội. 4)Nguyên nhân đã ngôn ngữ, đa văn hóa. 5)Nguyên nhân đa dân tộc, sắc tộc và
đa tôn giáo cùng với những biến động phức tạp về nhân khẩu học. 6)Nhân tố ô
nhiễm, suy thoái môi trường và sự không công bằng trong việc phân chia tài nguyên
thiên nhiên. 7)Nguyên nhân lịch sử về phân bố, di cư dân tộc, lãnh thổ. 8)Nguyên
nhân lịch sử - mối quan hệ quá khứ của các dân tộc, sắc tộc với bộ máy cai trị. 9)
Nguyên nhân đức tin. 10)Sự yếu kém của hệ thống bộ máy chính trị của các cấp
chính quyền, đặc biệt là chính quyền cấp cơ sở. 11)Nguyên nhân hối lộ, tham nhũng

và kỳ thị dân tộc. 12)Nguyên nhân bên ngoài: Mỹ, phương Tây và một số quốc gia
Hồi giáo khác không muốn Nga và SNG ổn định và mạnh lên.
“Tác động của các nhân tố truyền thống và lịch sử đến sự hình thành các
chiến lược của Liên bang Nga sau Chiến tranh Lạnh”, (Hà Mỹ Hương, Tạp chí
Nghiên cứu châu Âu, số 11, Hà Nội, 2008, tr.44 - 51). Trong bài viết, tác giả khắc
họa rõ nét một số nhân tố mang tính truyền thống và lịch sử đã và đang tác động
đến sự hình thành các chiến lược của Liên bang Nga từ sau khi Chiến tranh Lạnh
kết thúc đến nay, mà cụ thể là Chủ nghĩa dân tộc Đại Nga và Chủ nghĩa cấp tiến.
Nhưng mức độ tác động, hay tầm ảnh hưởng của từng nhân tố đó thể hiện trong
chiến lược, chính sách phát triển của nước Nga, tùy thuộc vào nhận thức và tư duy

11
của giới cầm quyền Nga trong các nhiệm kỳ cụ thể. Hơn nữa, không thể không nói
đến dấu ấn mà các cá nhân lãnh tụ để lại trong các chiến lược, chính sách trong các
nhiệm kỳ lãnh đạo của họ. Đây cũng là một nét truyền thống ở Nga và Liên Xô, khi
mà vai trò của cá nhân lãnh tụ thường được quần chúng nhân dân đề cao, coi trọng.
Đến lượt mình, các cá nhân lãnh tụ ở Nga hiện nay, Liên Xô trước đây nhiều khi
đóng vai trò “thay đổi cả lịch sử” của quốc gia, nhà nước dân tộc hoặc theo hướng
tích cực, phản tiến bộ hay kéo giật lùi những tiến bộ về văn minh của dân tộc Nga
lại phía sau.
Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng có các công trình nghiên cứu về
nước Nga, Gruzia và mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực văn hóa, khoa học - kỹ
thuật.
Cuốn sách “The clash of civilizations”, Samuel Huttington (Publisher
Ottawa, Canada, 1996). Tác giả đã làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự giao thoa cũng
như xung đột về văn hóa giữa các dân tộc ở khu vực Kavkaz. Trong đó có sự giao
thoa, xung đột giữa người Nga với người Gruzia, hai dân tộc ở khu vực này.
“The benefit range or sphere of influence of Russia”, (The Washington
Quarterly, No 10, United States, 2009, p 31-32). Bài viết đi sâu phân tích và làm rõ
mặc dù có sự nổi lên của vị trí của các ngôn ngữ dân tộc ở các nước mới độc lập và

sự du nhập của tiếng Anh (và mức độ nhỏ hơn nhiều của các ngôn ngữ khác) nhưng
tiếng Nga vẫn có vị trí rất quan trọng tại Gruzia và các nước thuộc Liên Xô cũ.
Riga, thủ đô của Latvia, phần lớn vẫn nói tiếng Nga. Ở Ucraina cũng vậy. Minks
gần như hoàn toàn nói tiếng Nga. Trong giới tinh hoa chính trị ở Trung Á, Gruzia
và các nước Nam Kavkaz, tiếng Nga vẫn là ngôn ngữ thứ hai. Như vậy, ảnh hưởng
của tiếng Nga và văn hóa Nga ở không gian hậu Xôviết vẫn rất sâu rộng, mối quan
hệ văn hóa giữa nước Nga với Gruzia và các nước SNG vẫn rất gắn bó, khăng khít.
“Almanach 5000 years, world civilization” của hai tác giả Chu Hữu Chí,
Khương Thiếu Bá (đồng chủ biên) (Publisher Beijing, China, 2004) đã giới thiệu
một cách sâu sắc nền văn hóa của các dân tộc Nga, Gruzia, Azerbaijan, Armenia
cùng các tôn giáo như: Chính thống giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo…ở khu vực
Kavkaz. Đồng thời cũng nêu ra những mâu thuẫn về dân tộc, tôn giáo, văn hóa giữa
người Nga với Gruzia và các dân tộc ở khu vực này.

12
Tóm lại: Tất cả các công trình trên đã phân tích khá toàn diện về tình hình
nước Nga, Gruzia và mối quan hệ hai nước trên các lĩnh vực chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Đồng thời nêu ra được những
thuận lợi cũng như mâu thuẫn, xung đột mà cả hai đang gặp phải trong suốt hai thập
kỷ trở thành hai quốc gia độc lập (1991 - 2011).
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Làm rõ thực trạng quan hệ Nga - Gruzia trên các lĩnh vực: chính trị, an ninh,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật từ năm 1991 đến năm 2011. Từ đó
phân tích ảnh hưởng của mối quan hệ này đến quan hệ quốc tế và khu vực. Đồng
thời đánh giá triển vọng quan hệ Nga - Gruzia đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục tiêu trên nhiệm vụ của luận văn là:
Phân tích làm rõ những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Nga - Gruzia.
Phân tích quan hệ Nga - Gruzia trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, đối ngoại

, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật từ năm 1991 đến năm 2011.
Phân tích tác động của quan hệ Nga - Gruzia đến khu vực và quan hệ quốc
tế.
Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong quan hệ Nga - Gruzia. Từ đó đưa
ra dự báo triển vọng của mối quan hệ này đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về quan hệ Nga - Gruzia trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh
tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu mối quan hệ Nga - Gruzia từ năm 1991 đến năm 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế trong đó
bao gồm: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận
văn còn sử dụng các phương pháp xã hội: lôgíc, lịch sử, so sánh, tổng hợp…Để
nghiên cứu về quan hệ Nga - Gruzia sau chiến tranh Lạnh.

13
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Nga - Gruzia
Chương 2: Một số lĩnh vực trong quan hệ Nga - Gruzia (1991 - 2011)
Chương 3: Tác động của quan hệ Nga - Gruzia đối với thế giới, khu vực
và triển vọng đến 2020


























14
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGA -
GRUZIA

1.1. Nhân tố lịch sử
1.1.1. Thời kỳ Nga Sahoàng (trước năm 1917)
Nga và Gruzia là hai quốc gia nằm ở khu vực Kavkaz, đây là khu vực có lịch
sử, văn hóa, tôn giáo, dân tộc rất đa dạng và phức tạp.
Về dân tộc - tôn giáo: Kavkaz là vùng đất có sự đa dạng về sắc tộc với các
tộc người chính: người Nga, Armenia, Gruzia, Azerbaijan, Abkhazia Người Nga,
Armenia, Gruzia chủ yếu theo đạo Chính thống giáo; người Azerbaijan, Abkhazia

theo Hồi giáo Sự đa dạng còn được thể hiện ở ngôn ngữ: Người Nga nói tiếng Nga
;người Gruzia nói tiếng Kavkaz; người Ossetia nói gần giống với tiếng Batư
Khu vực Kavkaz là vùng đất có lịch sử rất lâu đời. Vào khoảng thiên niên kỷ
I TCN, nơi đây đã là địa bàn sinh sống của nhiều tộc người: Gruzia, Armenia Đây
cũng là địa bàn tranh giành ảnh hưởng của nhiều cường quốc trong lịch sử:
Vào thế kỷ thứ VII TCN, khu vực này nằm trong vùng ảnh hưởng của đế
quốc Batư cổ đại. Sau đó, dưới triều đại của vua Macedonia Alesander Đại đế (năm
336 đến 323 TCN), Kavkaz lại trở thành vùng đất của đế quốc này.
Năm 324 SCN, Hoàng đế Lamã là Constantin đã chọn Constantinople làm
thủ đô Lamã, chia tách Lamã thành Lamã phương Tây và Lamã phương Đông, đồng
thời Thiên chúa giáo cũng bị tách làm Cơ đốc giáo phương Tây (Cơ đốc giáo Lamã)
và Cơ đốc giáo phương Đông (Cơ đốc giáo chính thống). Cơ đốc giáo chính thống
với thủ đô được lựa chọn là Constantinople (nay là Istanbul thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), đây
chính là tiền đề quan trọng hình thành đế quốc Bizantin [7, tr.41].
Trong thời kỳ cai trị của của đế chế Byzantin (324 - 1453), đế chế này có
lãnh thổ trải dài đến Armenia và Gruzia ở phía Đông và nam bán đảo Italia ở phía
Tây, trùm lên toàn bộ Balkan và vùng Tiểu Á trong đó có nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày
nay (dưới triều đại của vua Basil II - 1025) [7, tr.41].
Sau khi đế chế Byzantil sụp đổ năm 1453, đã xuất hiện một đế chế mới là
Ốttôman. Trong giai đoạn phồn thịnh nhất của mình từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế
kỷ XVII, đế chế này đã trở thành một trong những cường quốc ở châu Âu, chiếm

15
lĩnh toàn bộ vùng Balkan, Bắc Phi, trải đến tận Kavkaz ở phía Đông và tới tận
vương quốc Ba Lan - Litva ở phía Bắc [7, tr.41-42].
Vào cuối thế kỷ XV, lịch sử châu Âu đã xuất hiện một đế quốc mới Đế chế
Nga Sahoàng. Nền tảng của đế chế này được dựng lên trong thời kỳ trị vì của Ivan
III (1462 - 1505) người đã loại bỏ sự cai trị của Mông Cổ và lập ra một nhà nước
sắc tộc Nga tập trung hóa; con trai ông Vassili (1505 - 1533) người đã hoàn thành
việc “thu lại những mảnh đất Nga” bằng việc thêm vào các công quốc Smolensk,

Pskov và Ryzan; cháu trai ông Ivan IV (1533 - 1584) người đã thông qua các cuộc
chinh phục Kazan và Astrakhan, đã biến nhà nước sắc tộc Nga với giáo hội Cơ đốc
giáo chính thống thành một đế chế đa sắc tộc với yếu tố Hồi giáo đáng kể - và tuy
thế, ngày càng Nga hóa. Năm 1703, Pie Đạiđế lên nắm quyền ở nước Nga và trong
suốt 70 năm sau khi ông lên nắm quyền, người Nga đã thực dân hóa Siberi và vươn
tới bờ biển Thái Bình Dương. Trong thế kỷ XIX, Nga đã cạnh tranh gay gắt với các
nước về quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ nằm giữa họ. Phần Lan và các nhà nước
Baltic; Ba Lan và các nước Balkan; khu vực Kavkaz và Trung Á; Mông Cổ và Mãn
Châu Lý [37, tr.16-17].
Do có vị trí xung yếu và đặc biệt quan trọng ở châu Âu nên trong suốt thế kỷ
XIX, Kavkaz đã trở thành địa bàn tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc:
Anh, Nga, Ốttôman, Pháp quyết liệt là giữa đế quốc Nga và Ốttôman.
Năm 1807 - 1812, cuộc chiến tranh kéo dài 5 năm giữa Nga - Ốttôman đã
diễn ra và nước Nga giành thắng lợi trong cuộc chiến này. Tại Hội nghị Viên (Áo)
năm 1815, 3 cường quốc thắng trận trong cuộc chiến với đế chế Napênêông I là:
Anh, Áo, Phổ đã yêu cầu Ốttôman phải trao cho đế quốc Nga vùng Batumi…nước
Nga đã giành được từ Ốttôman những vùng đất này. Năm 1853 - 1856, Nga và
Ốttôman diễn ra cuộc chiến tranh lần I, với sự hậu thuẫn của Anh, Phổ, Pháp, Áo -
Hung Ốttôman đã giành thắng lợi trong cuộc chiến này và giành lại vùng Batumi
từ tay Nga Sahoàng. Nước Nga vẫn không có lối ra Biển Đen và Địa Trung Hải.
Năm 1877 - 1878, Nga và Ốttôman diễn ra cuộc chiến tranh lần II và đế quốc
Nga đã giành thắng lợi. Tại Hội nghị 7 cường quốc (Anh, Pháp, Nga, Đức, Ý, Áo -
Hung, Ốttôman) ở Berlin (Đức) năm 1878, Ốttôman đã phải trả lại cho nước Nga
vùng Batumi (Gruzia ngày nay). Từ sau cuộc chiến này, đến khi Cách mạng tháng

16
Mười Nga thành công (7/11/1917), vùng Batumi và Kavkaz thuộc chủ quyền của
nước Nga Sahoàng.
1.1.2. Thời kỳ Liên Xô (1917 - 1991)
1.1.2.1. Những đóng góp của Nga, Gruzia đối với sự phát triển Liên Xô

Ngày 7/11/1917, Cách mạng tháng 10 Nga đã thành công. Ngày 21/12/1922,
Liên bang Xôviết ra đời với các thành viên: Nga, Ucraina, Belarus, Ngoại Kavkaz.
Như vậy, Nga và Gruzia đều là những thành viên sáng lập Liên Xô. Trong 74 năm
tồn tại, phát triển của Liên Xô (1917 - 1991), Nga và Gruzia đều có những đóng góp
quan trọng trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, thể thao
Về văn hóa: Cả Nga và Gruzia có những đóng góp quan trọng vào sự đa
dạng sắc tộc, văn hóa của Liên Xô: Nước Nga có 80% dân số theo đạo Chính thống,
15% theo Hồi giáo, 5% theo Thiên chúa và các tôn giáo khác, nói tiếng Nga, thuộc
chủng tộc Slavơ. Còn Gruzia có 83,9% dân số theo đạo Chính thống giáo, nói tiếng
Kavkaz; người Abkhazia, Atgiaria theo Hồi giáo
Về thể thao: Gruzia có những đóng góp quan trọng cho thể thao Xôviết, đặc
biệt là môn bóng đá: CLB DinamoTbilisi từng 2 lần giành chức vô địch Liên Xô
năm 1976, 1981; vô địch Cúp C2 châu Âu năm 1981 Trong khi Nga có đóng góp
quan trọng hầu hết các môn: Cờ vua có G.Karpov, giữ vị trí số 1 thế giới từ 1975 -
1985. Môn bóng đá, Nga có các CLB: Spartak Moscow, CSKA Moscow giúp cho
Liên Xô vô địch EURO 1960; 2 lần vô địch Olimpic Merbern 1956, Seun 1988.
Về chính trị: Nga và Gruzia có những đóng góp quan trọng đối với nền
chính trị Liên Xô. Nước Nga là quê hương của Lenin, người sáng lập Đảng Cộng
sản, Nhà nước Liên Xô. Trong khi Gruzia là quê hương của Stalin, người đã lãnh
đạo nhân dân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật trong Chiến tranh
II và đưa Liên Xô trở thành siêu cường quân sự, chính trị…hàng đầu thế giới trong
thế kỷ XX; Beria, Bộ trưởng nội vụ; Shevarnadze, Ngoại trưởng Liên Xô…
Về quân sự: “Tính đến những năm cuối thập niên 80 thế kỷ XX, Liên Xô đã
sở hữu 40000 đầu đạn hạt nhân, 60.000 xe tăng, hơn 2000 máy bay chiến đấu, 5000
tên lửa vượt đại châu, hơn 2,5 triệu quân chính qui, 14 tàu sân bay, 300 tàu ngầm và
4 hạm đội: Hắc Hải, Biển Bắc, Thái Bình Dương, Baltic” [35, tr.53]. Những thành
tựu vĩ đại về công 3 nghiệp quân sự của Liên Xô có sự đóng góp to lớn của cả hai

17
nước cộng hòa Nga và Gruzia. Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga là quốc gia

kế thừa duy nhất kho vũ khí hạt nhân khổng lồ mà Liên Xô đã để lại.
Về lĩnh vực kinh tế - khoa học kỹ thuật: Gruzia có nhiều điểm du lịch, nghỉ
dưỡng rất có giá trị ở Gori, Batumi, Sokhumi đồng thời cung cấp cho Liên Xô các
sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng: nho, ôliu, thuốc lá Còn với Nga, đóng góp của họ
với nền kinh tế Liên Xô rất to lớn: chiếm 60% sản lượng nông nghiệp, 70% công
nghiệp, 70% nguồn tài nguyên của toàn liên bang. Những thành tựu vĩ đại của nền
khoa học Xôviết: vệ tinh SPUTNIK 1; tàu vũ trụ Phương Đông 1 là niềm tự hào
của nhân dân Liên Xô và của cả nhân loại. Tên tuổi của các nhà khoa học: Sukhoi,
Tubonev, Gagarin…sẽ mãi được lịch sử nhân loại ghi danh.
1.1.2.2. Liên Xô tan rã và sự ra đời của nhà nước Liên bang Nga, Gruzia
Đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc khủng hoảng
năng lượng do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Trung Đông lần 4 (năm 1973), các
nước Arập thuộc OPEC đã tiến hành cấm vận dầu lửa các đồng minh phương Tây
của Israel và đẩy giá dầu tăng cao chưa từng có trong lịch sử từ 2 USD/thùng lên 32
USD/thùng vào cuối năm 1973. Tháng 2/1979, cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran do
Đại giáo chủ Khomeni lãnh đạo đã lật đổ nhà độc tài Palevi thân Mỹ, sự kiện này đã
đẩy thế giới vào một cuộc khủng hoảng năng lượng lần thứ 2 trong vòng chưa đầy 1
thập kỷ. Để đối phó với tình trạng khủng hoảng năng lượng các nước tư bản đã đi
sâu vào cải cách kinh tế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất
nhờ vậy họ đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trong khi đó các
nhà lãnh đạo các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lại cho rằng, cuộc
khủng hoảng năng lượng này không ảnh hưởng đến mình nên chậm đổi mới về kinh
tế, khoa học công nghệ Đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, hầu hết các nước
Đông Âu và Liên Xô đều lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Tại Liên Xô, sau khi Brezhnev mất năm 1982, Liên Xô liên tục có sự thay
đổi lãnh đạo, trong khi kinh tế cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng trì trệ. Tại Đại
hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVIII vào tháng 3/1985, Gorbachev được bầu
làm Tổng bí thư. Ngay sau khi nắm quyền, Gorbachev đã thi hành hàng loạt các
chính sách cải cách đối nội và đối ngoại.

×