Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 157 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHÓ THỊ HUYỀN TRANG




VẤN ĐỀ HẠT NHÂN TRÊN
BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC










HÀ NỘI - 2007

2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHÓ THỊ HUYỀN TRANG


VẤN ĐỀ HẠT NHÂN TRÊN
BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN

Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Hiền





HÀ NỘI – 2007



3
MỤC LỤC
Lời mở đầu

Chƣơng 1: Bối cảnh quốc tế và tình hình bán đảo Triều Tiên sau Chiến
tranh lạnh 6
1.1 Bối cảnh quốc tế 6
1.2 Tình hình bán đảo Triều Tiên 14
1.2.1 Khái quát tình hình bán đảo Triều Tiên 14
1.2.2 Quan hệ liên Triều 19
1.3 Lịch sử chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên 25
1.4 Cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên 29
Chƣơng 2: Chiến lƣợc và tiến trình đàm phán của sáu nƣớc về vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên 36
2.1. Chiến lược của sáu nước về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên 36
2.1.1 Chiến lược của CHDCND Triều Tiên 37
2.1.2 Chiến lược của Mỹ 45
2.1.3 Chiến lược của Hàn Quốc 50
2.1.4 Chiến lược của Trung Quốc 53
2.1.5 Chiến lược của Nhật Bản 59
2.1.6 Chiến lược của Nga 64
2.1.7 Một số nhận xét 67
2.2 Tiến trình đàm phán của các bên tham gia giải quyết vấn đề hạt nhân của
CHDCND Triều Tiên 70
2.2.1 Đàm phán ba bên 70
2.2.2 Vòng một đàm phán sáu bên 72
2.2.3 Vòng hai đàm phán sáu bên 74
2.2.4 Vòng ba đàm phán sáu bên 77
2.2.5 Vòng bốn đàm phán sáu bên 81
2.2.6 Vòng năm đàm phán sáu bên 90

4
2.2.7 Vòng sáu đàm phán sáu bên 88
2.2.8 Tiểu kết 93

Chƣơng 3: Một số nhận xét xung quanh tiến trình giải quyết vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên 96
3.1 Mục tiêu và kết quả của tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên 96
3.1.1 Chấm dứt chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và tiến
tới xây dựng cơ chế hoà bình trên bán đảo Triều Tiên 96
3.1.2 Xây dựng môi trường an ninh và tiến tới xây dựng cơ chế an ninh
khu vực 102
3.1.3 Tiến tới một thế giới không vũ khí hạt nhân 108
3.2 Tác động của cuộc khủng hoảng hạt nhân đối với khu vực Đông Bắc Á và
thế giới 112
3.3 Vai trò của cộng đồng quốc tế 116
KẾT LUẬN 122
Phụ lục 126
Tài liệu tham khảo 134










5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài, ý nghĩa
a. Lý do lựa chọn đề tài
Bán đảo Triều Tiên là điểm hội tụ, đan xen và tranh giành ảnh hưởng
cũng như lợi ích của các nước lớn. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một nước

Triều Tiên bị chia cắt dẫn đến sự hình thành hai nhà nước có chế độ chính trị
khác nhau và nơi đây luôn là một trong những điểm nóng có nguy cơ xảy ra
xung đột. Thời gian qua, việc Bắc Triều Tiên bí mật tiến hành chương trình
hạt nhân càng khiến cho tình hình trên bán đảo Triều Tiên diễn biến phức tạp,
khó lường, tác động đến tình hình an ninh khu vực và thế giới. Cuộc khủng
hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên vì vậy đã trở thành một vấn đề nóng
bỏng, gây xôn xao dư luận thế giới, trở thành mối quan tâm lớn của Mỹ và tất
cả các nước có lợi ích liên quan như Hàn quốc, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản.
Sau sự kiện 11/09/2001, vấn đề chống khủng bố quốc tế trở thành ưu
tiên hàng đầu của nhiều nước. Mỹ tuyên bố kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay là
chủ nghĩa khủng bố và những kẻ giúp đỡ chúng. Việc Bắc Triều Tiên có vũ
khí hạt nhân khiến Mỹ lo ngại về khả năng nước này có thể bán vũ khí,
nguyên liệu kỹ thuật hạt nhân ra ngoài để thu ngoại tệ. Đây có thể coi là
nguồn tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố khiến Mỹ và nhiều nước quan tâm.
Sự phức tạp của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã phản ánh
những tàn dư của cục diện Chiến tranh lạnh ở Đông Bắc Á và những khó khăn
trong việc phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Vấn đề được dấy lên bởi
sự bất đồng của Mỹ và Bắc Triều Tiên nhưng lại liên quan tới lợi ích của các
nước có liên quan ở Đông Bắc Á. Căn cứ vào chiến lược ngoại giao chung của
mình, các nước có liên quan đều tích cực tham gia hòa giải và điều đình vấn
đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên, lần lượt hối thúc tổ chức đàm phán ba bên
giữa Mỹ - Triều Tiên – Trung Quốc và các cuộc đàm phán sáu bên sau đó.

6
Do tính chất phức tạp và lợi ích an ninh chồng chéo của các nước lớn
nên việc giải quyết triệt đề vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên sẽ còn
phải mất nhiều thời gian. Các cuộc thương lượng sáu bên chỉ có thể thành
công nếu các bên, đặc biệt là Mỹ và Bắc Triều Tiên thực sự muốn có giải
pháp thông qua đối thoại, chứng tỏ được họ có cam kết chính trị để đưa vấn đề
đến đích cuối cùng.

Việc Bắc Triều Tiên công khai thử vũ khí hạt nhân ngày 9/10/2006 đã
một lần nữa gây xôn xao dư luận thế giới, gây lo ngại rằng hành động phổ
biến vũ khí hạt nhân có thể gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với hòa
bình và an ninh thế giới. Hầu hết các nước đều cho rằng mối đe dọa nghiêm
trọng nhất đối với loài người hiện nay không phải là những nước có vũ khí hạt
nhân mà là các tổ chức khủng bố quốc tế tìm cách sở hữu hạt nhân. Lý do là ở
chỗ các tổ chức khủng bố quốc tế không phải là nhà nước, không có chính
phủ, mọi hoạt động khủng bố đều tiến hành bí mật ngấm ngầm mà cộng đồng
quốc tế không thể kiểm soát nổi để có biện pháp gây sức ép, ngăn chặn hiệu
quả.
Sự chuyển biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường của vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên ở các mức độ khác nhau đều tác động tới an ninh
quốc tế, khu vực, quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với những lý do trên, việc
nghiên cứu đề tài “Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên” là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa.
b. Ý nghĩa
+ Ý nghĩa khoa học
Thực hiện đề tài này, luận văn sẽ góp phần thu thập và hệ thống hóa
các nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài về vấn đề hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên.
Trên cơ sở các nguồn tài liệu tìm được, luận văn sẽ cố gắng tái tạo lại
một cách hệ thống, khách quan và toàn diện quá trình diễn ra các cuộc khủng

7
hoảng hạt nhân của Bắc Triều Tiên trong thời gian qua. Luận văn cũng sẽ cố
gắng góp phần đưa ra các phân tích, đánh giá và nhận xét mang tính khoa học
về diễn biến cuộc khủng hoảng, các vòng đàm phán giải quyết vấn đề, lập
trường mà các bên tham gia đàm phán và thái độ của cộng đồng quốc tế trước
vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Từ đây, luận văn sẽ đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc đưa ra một sự nhìn nhận khách quan về tình

hình quốc tế và quan hệ quốc tế hiện nay.
+ Ý nghĩa thực tế
Sau sự tan rã của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu, thế giới
đang ở trong một thời kỳ mới - thời kỳ quá độ chuyển sang một trật tự thế giới
mới được đặc trưng bởi những biến động quốc tế khôn lường. An ninh quốc
gia của tất cả các nước đang đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng. Trong
khi đó, chiến lược tập trung vào phát triển kinh tế đòi hỏi phải có môi trường
hòa bình và sự ổn định chính trị. Đó là những tiền đề quan trọng để phát triển
và từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế. Do vậy, những căng thẳng về
vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên vẫn tiếp diễn trong thời gian qua đã
gây lo lắng và thu hút sự chú ý của cộng luận quốc tế. Những nghiên cứu chi
tiết, cụ thể và có hệ thống về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên sẽ giúp
chúng ta có được sự nhìn nhận thật khách quan và có cơ sở khoa học để xác
định đúng đắn chiến lược an ninh quốc gia, tìm ra các phương thức giữ gìn
hòa bình, đảm bảo an ninh chung cho khu vực và thế giới.
2. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu đề tài
Luận văn đặt ra mục tiêu đầu tiên là cố gắng nghiên cứu một cách
khách quan, khoa học và toàn diện diễn biến của cuộc khủng hoảng hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, vì các sự kiện không phải một lần xảy ra
mà vẫn đang diễn biến, nên luận văn chủ yếu tập trung phân tích toàn bộ diễn
biến cuộc khủng hoảng hạt nhân bùng phát từ năm 2002 đến nay, còn những

8
năm trước đó sẽ chỉ đề cập một cách khái quát làm cơ sở tiền đề cho đối tượng
nghiên cứu chính.
Thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân nào khiến Bắc Triều Tiên tuyên bố khôi
phục lại chương trình phát triển vũ khí hạt nhân khi điều kiện kinh tế còn khó
khăn, khả năng tiếp tục phát triển chương trình hạt nhân của nước này sẽ ra
sao, mức độ đe dọa của vấn đề hạt nhân thực sự đến đâu; tại sao Bắc Triều
Tiên lại quyết tâm sản xuất vũ khí hạt nhân và thừa nhận có loại vũ khí này.

Thứ ba, luận văn sẽ tìm hiểu những tính toán chiến lược và lợi ích của
các bên tham gia đàm phán, đi sâu vào nghiên cứu phương thức giải quyết vấn
đề hạt nhân ở Triều Tiên thông qua các vòng đàm phán.
Cuối cùng luận văn cố gắng đưa ra một số nhận xét và sẽ chỉ ra những
tác động của vấn đề hạt nhân đối với an ninh khu vực và quốc tế; tìm hiểu vai
trò của cộng đồng quốc tế, các mục tiêu, những kết quả đạt được, những khó
khăn, tồn tại và các nguyên nhân làm gián đoạn tiến trình giải quyết vấn đề
này. Luận văn sẽ chú ý hơn đến xu hướng vận động của các mối quan hệ quốc
tế, đặc biệt là giữa các nước lớn trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu và lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu các vấn đề về chính trị quốc tế, quan hệ quốc tế của khu vực và thế
giới thông qua vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Luận văn sử dụng
phương pháp nghiên cứu lịch sử dựa trên các dữ liệu và sự kiện lịch sử có
thực, phương pháp phân tích tổng hợp; đồng thời kết hợp phương pháp đối
chiếu, so sánh để làm rõ vấn đề được xác định trong luận văn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến vấn đề này,
chẳng hạn qua các cuốn sách như: “Nóng bóng bán đảo Triều Tiên” của NXB
Thông tấn xã Việt Nam; Cuộc chiến tranh không giới hạn, tập 3, NXB Lao
Động, Hà Nội, 2003; Thế giới sau Chiến tranh lạnh, NXB Quân đội nhân dân,
2006; Cục diện Châu Á – Thái Bình Dương, NXB Chính trị quốc gia, 2006;

9
Khủng bố và chống khủng bố qua lăng kính báo chí, NXB Thông tấn xã,
2006; Ngăn ngừa thảm họa hạt nhân gìn giữ hòa bình Thế giới, NXB Sự thật,
1986; Mấy vấn đề mới trong cuộc đấu tranh thống nhất Triều Tiên, 1961; Mỹ
thay đổi chiến lược toàn cầu, NXB Chính trị quốc gia, 1996; Tìm hiều Hàn
Quốc, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Trung tâm quốc gia
biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1996; Quan hệ quốc tế những
năm đầu thế kỷ XXI - Vấn đề, sự kiện và quan điểm, NXB Lý luận Chính trị,

2005; 11/9 Thảm họa Mỹ NXB Thông tấn xã, 2001…, nhiều bài viết ở các tạp
chí: Châu Mỹ ngày nay; Nghiên cứu Nhật Bản; Đông Bắc Á; Nghiên cứu
Quốc tế, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới… cũng như một số tờ báo
và bản tin hàng ngày.
4. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Bối cảnh quốc tế và tình hình bán đảo Triều Tiên sau Chiến tranh
lạnh
Chương 2: Chiến lược và tiến trình đàm phán của sáu nước về vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên
Chương 3: Một số nhận xét xung quanh tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên
Do điều kiện thời gian, thông tin, tư liệu và khả năng nghiên cứu còn
hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được
sự đóng góp của các thầy cô và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!






10
CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TÌNH HÌNH BÁN ĐẢO
TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Bối cảnh quốc tế
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trật
tự thế giới hai cực hình thành từ sau Chiến tranh thế giới hai và trong Chiến
tranh lạnh giữa hai phe do hai siêu cường Mỹ, Xô đứng đầu trong gần 50 năm

đã chấm dứt.
Trong thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, đời sống chính trị, kinh tế xã hội
của thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và phức tạp. Nguy cơ chiến tranh quy
mô lớn bị đẩy lùi, xu thế hòa bình và hợp tác để phát triển được củng cố hơn.
Một trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành với sự tập hợp lực
lượng mới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bắt đầu từ thập kỷ 1940 có
bước phát triển mạnh mẽ với quy mô và tốc độ chưa từng có trong lịch sử.
Nhân tố kinh tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế và tác
động tới cục diện thế giới. Tuy nhiên, tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh
cũng không kém phần phức tạp, căng thẳng, có nhiều thời cơ lớn đan xen với
nhiều thách thức lớn. Các nước vừa phải phấn đấu duy trì hòa bình, ổn định
trên thế giới và khu vực vừa phải tập trung sức lực vào nhiệm vụ trung tâm là
phát triển kinh tế; đồng thời vừa phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với
các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra. Bối cảnh quốc tế mới có
những đặc điểm lớn như:
Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển mạnh mẽ
Toàn cầu hóa
Mặc dù làn sóng toàn cầu hóa thứ ba bắt đầu diễn ra từ những năm
1980 song ảnh hưởng và tác động của nó rất lớn không chỉ trên bình diện thế
giới mà còn thể hiện rất rõ trong từng khu vực và ở từng nước từ sau Chiến
tranh lạnh đến nay.

11
Toàn cầu hóa là một xu hướng khách quan, nó được diễn ra dưới tác
động có tính chất hối thúc của những thay đổi về dân số, chính trị, kinh tế và
công nghệ. Xu hướng này được đẩy nhanh bởi các phương tiện thông tin liên
lạc siêu tốc toàn cầu.
Mặt tích cực của toàn cầu hóa là không thể phủ nhận. Có thể coi toàn
cầu hóa như một cuộc cách mạng, các doanh nghiệp, các chủ thể tham gia vào
toàn cầu hóa có thể sử dụng vốn, kỹ thuật, thông tin, quản lý và cả sức lao

động ở mọi nơi trên thế giới, tổ chức sản xuất ở nơi mà họ muốn và đưa đi
tiêu thụ ở đâu có nhu cầu. Quá trình toàn cầu hóa cũng đang tạo ra các cơ hội
cho các nước đang phát triển được tham gia vào sự phân công lao động quốc
tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội mới thích ứng và góp phần rút
ngắn quá trình hiện đại của các nước này. Hiện nay, loài người đang phải đối
mặt với rất nhiều vấn đề mang tính toàn cầu, điển hình là vấn đề môi trường,
dân số hay dịch bệnh…và quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra khả năng cho các
quốc gia, các dân tộc có thể phối hợp và chia sẻ với nhau các nguồn lực để
giải quyết các vấn đề nan giải.
Bên cạnh những cái được do toàn cầu hóa mang lại thì các chủ thể tham
gia quá trình này cũng phải chịu những thách thức không nhỏ do chính toàn
cầu hóa đẻ ra và trong đó không thể không kể đến tình trạng bị tổn thương,
thậm chí bị nghèo đi của nền kinh tế ở những quốc gia không xác định được
chiến lược phát triển phù hợp, không đủ sức chống đỡ trước sự cạnh tranh
quyết liệt mang tính toàn cầu; bất công xã hội có thể bị tăng lên; vấn đề bản
sắc văn hóa – dân tộc bị mai một…Các nước kém phát triển cũng như các
nước đang phát triển rất dễ bị thua thiệt trong “cuộc chơi” toàn cầu hóa này
bởi khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ - kỹ thuật thấp, khả năng
quản lý kém, vốn lại bị thiếu trầm trọng.
Như vậy, toàn cầu hóa là xu thế khách quan, lôi cuốn các khu vực và
các quốc gia trên thế giới, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và

12
tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, vừa mở ra nhiều cơ hội, vừa tạo
nên nhiều thách thức cho các nước.
Khu vực hóa
Toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra song hành với nhau. Có ý kiến
cho rằng trong quan hệ với toàn cầu hóa thì xu thế khu vực hóa được xem là
bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hóa. Mặt khác, xu thế khu vực hóa hiện nay
phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa

một số nước trước những nguy cơ, những tác động tiêu cực do toàn cầu hóa
đặt ra. Do đó, xét về ngắn hạn, khu vực hóa dường như đối nghịch với toàn
cầu hóa, nhưng về dài hạn thì chính khu vực hóa là bước chuẩn bị để thực
hiện toàn cầu hóa. Nội dung chủ yếu của toàn cầu hóa là thành lập các khu
kinh tế mới, mở rộng các khu vực đang tồn tại, tăng cường hơn nữa quyền tự
chủ, quyền tự trị cho các khu vực.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hóa trong giai đoạn hiện nay xuất
phát từ mục đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của
các quốc gia trong mỗi nhóm khu vực. Các quốc gia có những điểm tương
đồng đã tìm đến nhau tạo lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau các điều kiện
thuận lợi hơn các quy định quốc tế hiện hành.
Tóm lại, việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực về lâu về dài là cơ sở
cho việc thực hiện toàn cầu hóa kinh tế. Sự ra đời hàng loạt các tổ chức khu
vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu vực trên cơ sở bổ sung
các thành viên (chẳng hạn như EU), hay hợp nhất các tổ chức khu vực là bước
tiến ngày càng gần hơn đến tự do hóa trên phạm vi toàn cầu. Khu vực hóa là
bước đi tất yếu đến toàn cầu hóa; khu vực hóa càng mạnh sẽ là điều kiện và
động lực cho toàn cầu hóa. Đồng thời, sự tăng tốc của toàn cầu hóa cũng sẽ
thúc đẩy xu hướng khu vực hóa trên thế giới. Các quốc gia đã trở nên chủ
động hơn trong việc tìm kiếm sự hợp tác khu vực về kinh tế, chính trị, an
ninh.

13
Xu hướng một cực – đa cực chưa được xác định rõ ràng
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng đánh dấu sự kết thúc của cơ
cấu chính trị quốc tế cũ và thế giới bước vào thời kỳ xây dựng một cục diện
mới. Có thể nói, đây chính là giai đoạn quá độ, khi mà trật tự cũ vừa mới mất
đi, trật tự mới đang bắt đầu hình thành. Trong bối cảnh đó các nước, nhất là
các nước lớn đang nhanh chóng sắp xếp lại lực lượng và điều chỉnh chiến lược
với mục tiêu gây ảnh hưởng và giành giật địa vị mới trên trường quốc tế. Cho

đến nay người ta vẫn chưa có sự đồng nhất trong nhận định về cục diện thế
giới. Xoay quanh vấn đề này cũng có những loại ý kiến khác nhau về xu
hướng một cực và đa cực.
Diện mạo thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, song những biến đổi
đó vẫn nối tiếp nhau không ngừng. Trong những biến đổi đó, ấn tượng đặc
biệt đối với toàn cầu chính là sự thay đổi vị thế của nước Mỹ. Mỹ đã đạt được
mục tiêu mà họ đã phải chiến đấu trong suốt gần nửa thế kỷ với Liên Xô là trở
thành một cực duy nhất chi phối toàn thế giới. Trên thực tế Mỹ đã không giấu
giếm ý định lãnh đạo thế giới sau Chiến tranh lạnh. Mỹ bắt đầu thể hiện vai
trò đơn cực của mình không chỉ trong các hoạt động của Liên Hợp Quốc,
NATO…mà còn trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các biến cố lớn trên thế
giới và ở các khu vực khác nhau: chiến tranh vùng Vịnh, xung đột ở Kosovo,
Somalia…Gần như ở bất cứ điểm nóng nào trên thế giới đều có sự can thiệp
của Mỹ. Mỹ tiếp tục chủ trương củng cố quan hệ với Liên minh châu Âu và
mở rộng hơn nữa khối NATO. Đồng thời, Mỹ tích cực và cố gắng điều chỉnh
chiến lược của mình ở các khu vực, vừa cạnh tranh, kìm chế vừa cố gắng cải
thiện quan hệ với các nước lớn như Trung Quốc, Nga…Những động thái của
Washington hơn một thập kỷ qua cho thấy Mỹ đang tìm cách duy trì và bảo vệ
trật tự đơn cực nhằm tiếp tục một mình chi phối thế giới. Tuy nhiên, sau sự
kiện Mỹ bị khủng bố ngày 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố của thế
giới ngày càng trở nên phức tạp, trong chính sách đối ngoại của Mỹ đã buộc

14
phải có những điều chỉnh. Những toan tính theo tư duy đơn cực, một mình chi
phối toàn bộ thế giới của Mỹ đã vấp phải những khó khăn và thách thức mới
khiến Mỹ thấy không thể bỏ qua các nước khác, nhất là các nước lớn. Trong
bối cảnh đó, xu hướng về đa cực của thế giới đã có thêm cơ hội và điều kiện
để phát triển.
Trên thực tế, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc những ý kiến, quan
điểm, lập luận về trật tự đa cực của thế giới được dựa trên những cơ sở sau:

Thứ nhất, khi trật tự cũ tan rã, trật tự mới chưa được xác lập, các nước
đều nhanh chóng điều chỉnh chiến lược của mình với mục tiêu tăng quyền lực
và tranh giành kiểm soát quốc tế. Quá trình đó sẽ dẫn tới nhiều khu vực, nhiều
nước sẽ trở thành đối thủ của nhau và cũng có nghĩa là sẽ tạo ra các cực của
thế giới nói chung. Sự cạnh trạnh quyết liệt sẽ được bộc lộ một cách rõ ràng
và xét ở góc độ nào đó thì tính chất phức tạp của nó cũng không thua kém trật
tự cũ, cái khác chỉ là nó được diễn ra trong điều kiện mới, trong buổi “giao
thời” mà thôi.
Thứ hai, thực tế đã xuất hiện các trung tâm sức mạnh và rất có khả
năng sẽ trở thành những cực của thế giới. Đó là sự mở rộng phạm vi, quy mô
ảnh hưởng và tăng cường quan hệ chiều sâu của Liên minh châu Âu. Xét ở
một số tiêu chí, sức mạnh của châu Âu không thua kém Mỹ, hơn nữa nó được
tăng cường trong điều kiện, liên kết nội bộ khối ngày càng chặt chẽ hơn.
Ở châu Á, Trung Quốc đang nổi lên như một cường quốc đầy sức mạnh
trong tương lai. Nhật Bản hiện vẫn là cường quốc kinh tế số hai của thế giới,
đang tích cực điều chỉnh chiến lược để khẳng định vai trò của mình trong thế
giới đa cực.
Nga đang găp nhiều khó khăn, song vẫn là một nước lớn. Với tiềm
năng của mình, đặc biệt là sự khởi sắc dưới thời Tổng thống Putin, nước Nga
đang tìm lại mình và sẽ là một đối thủ, một trung tâm sức mạnh của thế giới
trong tương lai.

15
Khi nói đến thế giới đa cực người ta không thể không nhắc đến vai trò
của các nước đang phát triển. Nếu trong trật tự cũ họ bị kiềm chế ở những
mức độ khác nhau thì trong điều kiện mới họ có quyền chủ động hơn trong
việc lựa chọn định hướng, chiến lược phát triển của mình.
Ngoài quan điểm một cực, đa cực, khi nhận diện cục diện thế giới,
nhiều đánh giá còn cho rằng đó là trật tự của một cực và đa trung tâm hay nhất
siêu đa cường. Thực chất, có thể coi là quan điểm đa cực, là bước khởi đầu để

đi đến đa cực, bởi các trung tâm hay các nước lớn hiện nay chưa đủ để trở
thành một cực.
Nhìn chung, đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế hiện nay là cuộc
chạy đua vừa công khai vừa không công khai của các nước để giành lấy quyền
lực trong tương lai và diễn ra trong xu thế hòa bình, vừa hợp tác vừa kiềm chế
lẫn nhau.
Xu thế hòa bình, hợp tác là xu hướng chủ đạo của thế giới, song tình
hình quốc tế vẫn bị xen kẽ bởi những biến đổi phức tạp, căng thẳng, nguy
hiểm, bởi các cuộc khủng hoảng, tranh chấp hay xung đột có tính chất khu
vực và đặc biệt chịu tác động mạnh mẽ của chủ nghĩa khủng bố và cuộc
chiến chống khủng bố do Mỹ phát động.
Khủng hoảng, tranh chấp và xung đột mang tính chất khu vực
Trong gần hai thập kỷ qua kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cả thế
giới đều tập trung vào phát triển kinh tế, đều hướng vào hội nhập và toàn cầu
hóa kinh tế, đều cố gắng duy trì nền hòa bình và an ninh chung của nhân loại.
Tuy nhiên, hòa bình không phải có được ở mọi nơi, mọi lúc. Xu hướng gia
tăng xung đột nội bộ, sắc tộc đã bùng lên ở nhiều khu vực. Sự bất ổn này
không chỉ thể hiện ở nhiều mức độ, phạm vi khác nhau mà còn tồn tại các
nhân tố không xác định. Vì vậy, đây sẽ là những thách thức không nhỏ đến
tiến trình ổn định chung của nhân loại.

16
Những mâu thuẫn, cọ sát, thậm chí xung đột và chiến tranh vẫn xảy ra
cục bộ tại nhiều khu vực trên thế giới. Bên cạnh những cuộc chiến do Mỹ đơn
phương phát động còn có rất nhiều các cuộc xung đột khác ở châu Phi, Trung
Đông, Trung và Nam Á, đặc biệt là vấn đề hạt nhân của Iran và CHDCND
Triều Tiên làm cho tình hình khu vực trên nên căng thẳng và nguy hiểm.
Có thể nói, một khi vấn đề hạt nhân vẫn chưa được giải quyết triệt để
thì an ninh khu vực và của thế giới vẫn bị đe dọa. Về cuộc khủng hoảng hạt
nhân ở Triều Tiên, một mặt cuộc khủng hoảng này tạo ra thế đối kháng toàn

diện về chính trị, kinh tế, quân sự giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên. Mặt
khác, ai cũng thấy rõ đằng sau cuộc khủng hoảng này là lợi ích thiết thân của
các nước lớn đang tham gia vào cơ chế đàm phán hiện nay. Cho đến giờ phút
này Mỹ và CHDCND Triều Tiên ở vào giai đoạn nhạy cảm và then chốt. Hai
bên có nguyện vọng chính trị cải thiện quan hệ, nhượng bộ nhau đến đâu, có
tính toán chiến lược như thế nào và những thỏa thuận đạt được có thể thực
hiện ở chừng mực lớn đến đâu, đều là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến quan hệ Triều - Mỹ và là nhân tố góp phần ổn định tình hình an
ninh khu vực.
Chủ nghĩa khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố
Tình hình quốc tế từ những năm đầu thế kỷ XXI đã có những biến đổi
sâu sắc, đặc biệt từ sau sự kiện 11/9. Mỹ đã phát động cuộc chiến chống
khủng bố trên quy mô toàn cầu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới vấn
đề khủng bố và chống khủng bố đã trở thành vấn đề toàn cầu và một sắc thái
mới lại xuất hiện trong bức tranh chung về bối cảnh quốc tế mới thời kỳ hậu
Chiến tranh lạnh. Sự kiện 11/9 được bình luận là sự kiện châm ngòi cho
những chuyển biến lớn trong quan hệ quốc tế và cục diện thế giới những năm
đầu thế kỷ XXI.
Nguyên nhân sinh ra khủng bố có nhiều, song có lẽ ít ai phản đối quan
điểm rằng một nguyên nhân quan trọng của chủ nghĩa khủng bố thời nay tác

17
động của mặt trái của toàn cầu hóa. Đó là việc toàn cầu hóa làm gia tăng
khoảng cách giàu-nghèo, làm cho một bộ phận không nhỏ dân thường bị gạt
ra ngoài rìa dòng chảy của lịch sử. Từ đó phát sinh mâu thuẫn xã hội và dẫn
đến xung đột. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng khủng bố phát sinh từ chủ nghĩa
tôn giáo cực đoan và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tóm lại, nguyên nhân sinh
ra khủng bố có rất nhiều, tất cả các loại khủng bố đều có nguyên nhân riêng.
Do đó, muốn diệt trừ tận gốc chủ nghĩa khủng bố phải loại bỏ những yếu tố
khách quan và chủ quan làm thành nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa khủng bố

đặc biệt là những nhân tố khách quan [3; 111 -132].
Cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động từ năm 2001 đến nay rõ
ràng đã tác động rất mạnh đến mọi lĩnh vực trên quy mô toàn thế giới. Chỉ
riêng lĩnh vực chính trị - an ninh của thế giới và khu vực tác động này đã được
cảm nhận ngay bằng trực giác. Tác động đầu tiên là làm cho môi trường hòa
bình, ổn định và hợp tác trở nên rất phức tạp. Mỹ có thể đơn phương tiến hành
chiến tranh chống lại bất kỳ nước nào mà Mỹ cho là theo hoặc ủng hộ chủ
nghĩa khủng bố. Với cuộc chiến chống khủng bố như vậy, Mỹ đã nâng cao vị
trí nhất siêu, đơn cực đầy sức mạnh chi phối của mình trong các quan hệ quốc
tế. Những cuộc chiến tranh đơn cực do Mỹ phát động ở Kosovo, Afghanistan
và Iraq những năm đầu thế kỷ này đã cho thấy rõ những điều mà Mỹ muốn
khẳng định. Tuy nhiên, vẫn có những hạn chế trong việc thực hiện chính sách
cường quyền áp đặt của mình. Mỹ không thể hoàn toàn phớt lờ Liên Hợp
Quốc, bỏ qua sự phản đối của các nước khác, đặc biệt là các nước lớn. Tác
động thứ hai của cuộc chiến khủng bố và chống khủng bố là nó làm cho nhiều
nước, trong đó bao gồm cả các nước lớn phải điều chỉnh chiến lược và quan
hệ của mình. Tác động lớn thứ ba là cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu đã
làm thắt chặt thêm các quan hệ đồng minh chiến lược của Mỹ với các nước
vốn là đồng minh của Mỹ trên các châu lục, tạo điều kiện cho một số nước
trong số đó thay đổi lập trường đối ngoại và chính sách an ninh của mình.

18
Tóm lại, nhìn vào thực trạng bối cảnh quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh
đến nay có thể nhận thấy nhiều thay đổi căn bản đã diễn ra từ lĩnh vực kinh tế
đến chính trị- an ninh và quan hệ quốc tế…Về bối cảnh kinh tế, quốc tế nét
đặc thù nhất của nó hiện nay là sự lan tỏa với tốc độ nhanh hơn của toàn cầu
hóa, khu vực hóa kinh tế và tác động của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ đến việc hình thành xu hướng phát triển kinh tế tri thức. Về bối cảnh
chính trị - an ninh và quan hệ quốc tế có thể được phác họa qua những biểu
hiện mới như ưu thế số một thế giới của Mỹ, hình thành cục diện nhất siêu đa

cường và sự tranh đấu của các nước lớn nhằm phát triển thế giới theo hướng
đa cực hóa; hòa bình và phát triển là chiều hướng chủ đạo song vẫn có sự xen
kẽ của các cuộc khủng hoảng và xung đột mang tính chất khu vực; những vấn
đề về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là hạt nhân luôn gây ra những tác động nhiều
chiều đến nền an ninh của khu vực và thế giới.
1.2. Tình hình bán đảo Triều Tiên
1.2.1 Khái quát về tình hình bán đảo Triều Tiên
Bán đảo Triều Tiên có diện tích 222.154 km
2
, chiều dài 1.100 km, chiều
ngang rộng nhất 320 km, phía tây cách Trung Quốc 190 km, có khoảng 800
km đường biên giới Tây Bắc giáp với vùng Mãn Châu Lý, Trung Quốc và
khoảng 18 km đường biên giới phía Đông Băc giáp với Nga. Trên bán đảo
Triều Tiên chỉ có một dân tộc Triều Tiên thuần khiết, một nền văn hóa, tiếng
nói và chữ viết. Đây chính là cơ sở của tinh thần dân tộc, ý chí quyết tâm và
động lực thúc đẩy hai miền Triều Tiên hướng tới thống nhất đất nước.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ và Liên Xô không thống nhất
được với nhau về việc phân chia quyền lợi trên bán đảo Triều Tiên, vì thế
không tổ chức được cuộc bầu cử trong phạm vi cả nước để thành lập một nhà
nước Triều Tiên thống nhất trên cả nước. Mỹ đã lợi dụng diễn đàn Liên Hợp
Quốc để tổ chức bầu cử ở miền Nam Triều Tiên lập nên Chính phủ Đại Hàn
Dân Quốc (15/8/1948). Được sự ủng hộ của Liên Xô, Đảng Cộng sản Triều

19
Tiên sáp nhập với Đảng Dân chủ mới Triều Tiên để thành lập nên Đảng Lao
động Triều Tiên và ngày 9/09/1948 thành lập Nhà nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc.
Ngày 26/06/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, kéo theo sự tham gia
của một bên là Trung Quốc và Bắc Triều Tiên với bên kia là Mỹ (dưới danh
nghĩa đại diện Liên Hợp Quốc), Hàn Quốc và 14 nước chư hầu của Mỹ. Sau ba

năm kéo dài chiến sự, ngày 27/07/1953 CHDCND Triều Tiên và Trung Quốc
đã ký với Mỹ “Hiệp định đình chiến”, chấm dứt chiến tranh trên bán đảo Triều
Tiên. Trên thực tế chiến trường và trong quá trình đàm phán, thương lượng,
Trung Quốc đã thể hiện rất rõ mong muốn duy trì nguyên trạng bán đảo Triều
Tiên, lần lượt nhân nhượng Mỹ trên các vấn đề quan trọng như rút quân đội
nước ngoài, vạch ranh giới chia cắt hai miền, lập kế hoạch trao trả tù binh.
Về Hàn Quốc, sau sáu lần thực hiện thành công các “kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm” kể từ năm 1960, nước này đã có bước tiến thần kỳ về kinh tế.
Từ một nước nghèo, công nghiệp kém phát triển, Hàn Quốc trở thành một
trong bốn “con rồng nhỏ châu Á”. Năm 1995, kinh tế Hàn Quốc xếp thứ 11 thế
giới với tổng thu nhập quốc dân (GNP) là 451 tỷ USD; tổng kim ngạch mậu
dịch đạt 620,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đã vượt chỉ tiêu 100 tỷ USD, xếp
thứ 12 trên thế giới. Cuối năm 1997, Hàn Quốc lâm vào cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ trầm trọng, cuộc khủng hoảng đã có tác động xấu, làm cho các
ngành kinh tế gặp nhiều khó khăn, kinh tế không phát triển, thậm chí có lúc
mức tăng trưởng kinh tế âm. Tuy nhiên, sau đó Hàn Quốc đã áp dụng các biện
pháp tích cực, thích hợp, làm cho nền kinh tế tiếp tục đứng vững và thậm chí
vẫn còn nhiều khả năng phát triển mạnh hơn.
Về chính trị nội bộ, kể từ ngày thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc
(1948), chính quyền Hàn Quốc nắm trong tay nhiều đời tổng thống độc tài
quân sự. Đến 1998, Tổng thống Kim Dae – Jung lên nắm quyền, đánh dấu sự
kiện lịch sử chính trị nổi bật ở Hàn Quốc. Lần đầu tiên trong suốt 50 năm, một

20
đảng đối lập đã giành được quyền lãnh đạo đất nước từ tay đảng cầm quyền.
Tuy nhiên, “di sản” mà các chính quyền độc tài quân sự để lại còn rất nặng nề -
“Đó là tính trạng mất dân chủ, chia rẽ nội bộ, phe phái, địa phương chủ nghĩa,
tham nhũng, câu kết giữa các thế lực chính trị với các tập đoàn kinh tế làm tê
liệt sự kiểm soát của chính phủ đối với nền kinh tế tài chính quốc gia” [2; 5].
Về an ninh quốc phòng, mặc dù Hàn Quốc bị Hiệp định đình chiến ràng

buộc, được đặt dưới sự bảo hộ quân sự và ô hạt nhân của Mỹ, song Hàn Quốc
vẫn tăng cường xây dựng và củng cố tiềm lực quốc phòng để đối phó với điều
mà họ cho là “mối đe dọa trực tiếp, thường xuyên” từ miền Bắc. Nếu so sánh
lực lượng quân sự hai miền Triều Tiên, “Hàn Quốc chỉ thua kém Bắc Triều
Tiên về tổng số quân thường trực và tên lửa tầm xa có khả năng mang đầu đạn
hạt nhân (tên lửa đạn đạo) – còn tiềm lực về hải, lục, không quân đều vượt Bắc
Triều Tiên kể cả số lượng và chất lượng”. Cuộc chạy đua vũ trang đã làm cho
tình hình bán đảo Triều Tiên luôn trong trạng thái căng thẳng [16; 9].
Việc Hàn Quốc qua các đời tổng thống khác nhau đều theo đuổi chính
sách liên minh chặt chẽ với Mỹ, cho Mỹ đồn trú 37.000 quân trên lãnh thổ Hàn
Quốc tạo ra mối quan hệ đe dọa dai dẳng cho Bắc Triều Tiên. Trong khoảng
thời gian từ 1988 - 1992, Hàn Quốc đã thành công trong việc thực hiện chính
sách “Ngoại giao phương Bắc” do Tổng thống Roh Tae – Woo đề xướng
(25/2/1998) với các nước XHCN trước hết vốn là đồng minh chiến lược của
Bắc Triều Tiên như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam…Tiếp đó, Hàn Quốc
điều chỉnh chính sách đối ngoại, thực hiện “quan hệ đa phương”, tranh thủ các
điều kiện quốc tế thuận lợi để Hàn Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc, đồng thời
giúp Hàn Quốc tăng cường vị thế quốc tế, tạo lợi thế trong quan hệ liên Triều.
Trong các năm từ 1993 – 1997, Tổng thống Kim Young – Sam đề ra chính
sách “Ngoại giao mới” với 5 nội dung cơ bản là:“Toàn cầu hóa; Đa biên hóa;
Đa nguyên hóa; Hợp tác các khu vực của thời đại Thái Bình Dương và ngoại
giao thống nhất hướng về tương lai” nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề an

21
ninh, kinh tế, chuyển hóa quan hệ Nam - Bắc Triều Tiên theo hướng hòa giải
và hợp tác, tạo cơ sở cho việc thống nhất đất nước. Với việc thực hiện chính
sách “Ngoại giao mới”, Hàn Quốc đã chính thức chấm dứt thời kỳ “phong
toả”, “cạnh tranh” với Bắc Triều Tiên và chuyển sang thời kỳ mới với mục tiêu
duy trì hòa bình và ổn định, đối thoại và hợp tác trong quan hệ liên Triều”[2].
Sau khi lên nắm quyền vào năm 1998, Tổng thống Kim Dae – Jung vẫn

tiếp tục khẳng định hợp tác an ninh với Mỹ là một trong những nhân tố trọng
tâm đối với an ninh quốc gia, cần tăng cường hợp tác tích cực với các cường
quốc Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga, đẩy mạnh hợp tác ba bên (Mỹ - Nhật
Bản – Hàn Quốc) trong việc giải quyết các vấn đề ở bán đảo Triều Tiên, thúc
đẩy phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các nước. Đối với Hàn
Quốc, Bắc Triều Tiên luôn được coi là đối thủ chính tiềm tàng và họ rất lo sợ
miền Bắc (có vũ khí hạt nhân) sẽ hành động cực đoan nếu bị dồn vào chân
tường. Hơn nữa, sự sụp đổ, hỗn loạn của một Bắc Triều Tiên phụ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc không phù hợp với lợi ích của Hàn Quốc nên Kim Dae
– Jung đã đưa ra chính sách “Ánh dương”, can dự tích cực vào Bắc Triều Tiên,
chủ trương lôi kéo CHDCND Triều Tiên vào các kênh đối thoại, làm giảm
căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên như thông qua hợp tác kinh tế, duy trì đối
thoại và giải quyết vấn đề đoàn tụ các gia đình lý tán, từng bước cải thiện quan
hệ hai miền, tiến tới thống nhất Triều Tiên theo hướng có lợi cho mình. Chính
sách đó đã đạt được kết quả tích cực, đang từng bước kéo Bắc Triều Tiên vào
tiến trình mà Hàn Quốc đặt ra. “Bắc Triều Tiên ngày càng phụ thuộc hơn vào
miền Nam về kinh tế nên đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng hòa
dịu hơn, thể hiện trong các chương trình tên lửa và hạt nhân”[16, 61].
Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, Bắc Triều Tiên
vừa bị mất chỗ dựa quan trọng về chính trị, kinh tế, vừa bị mất thị trường
truyền thống, khiến cho Bắc Triều Tiên vốn đã bị khó khăn và cô lập càng
thêm khó khăn trước sự bao vây cấm vận của Mỹ. Bắc Triều Tiên thiếu ngoại

22
tệ trầm trọng và không có khả năng nhập nguyên, nhiên liệu. Các ngành công
nghiệp sa sút, các nhà máy chỉ hoạt động khoảng 30% công suất. Trong sản
xuất nông nghiệp, do thiên tai liên tiếp và thiếu phân bón nên liên tục bị mất
mùa, dẫn đến thiếu lương thực trầm trọng, bình quân hàng năm thiếu khoảng
1,5–2 triệu tấn. Từ 1990–1997, GDP của Bắc Triều Tiên liên tục giảm sút.
Từ trước tới nay, CHDCND Triều Tiên xây dựng chế độ xã hội chủ

nghĩa theo “kiểu Triều Tiên” với chính sách “tự lập, tập trung, bao cấp” và
đường lối chính trị độc đoán chuyên quyền theo “hệ tư tưởng chủ thể”, “cha
truyền con nối”. Trong khi nền kinh tế còn kém phát triển, CHDCND Triều
Tiên vẫn ưu tiên tập trung cho việc xây dựng lực lượng quốc phòng, “đầu tư
cho quốc phòng chiếm tới trên 30% ngân sách, duy trì đội quân thường trực
trên 1 triệu người và đẩy mạnh phát triển các vũ khí hiện đại, kể cả chương
trình hạt nhân, tên lửa đạn đạo…, thực hiện quân sự hóa toàn bộ đời sống xã
hội”[16; 10]. Chính việc CHDCND Triều Tiên nghiên cứu, phát triển chương
trình tên lửa và hạt nhân đã làm cho nhiều nước trên thế giới quan ngại và
phản đối. Đây là một trong những cái cớ để Mỹ và Hàn Quốc thi hành chính
sách cứng rắn đối với CHDCND Triều Tiên, khiến bán đảo Triều Tiên thành
một “điểm nóng” dễ bùng nổ.
Chính sách đối ngoại của CHDCND Triều Tiên trong giai đoạn chuyển
giao quyền lực sau cái chết của Kim Nhật Thành (1994) có xu hướng khép kín
và nhiều điểm không rõ ràng. Trong suốt 5 năm, từ 1994 đến 1999, CHDCND
Triều Tiên hầu như không có hoạt động đối ngoại lớn nào. Mãi tới năm 2000,
khi Kim Chính Nhật ổn định được nội bộ và chính thức trở thành lãnh tụ tối
cao của CHDCND Triều Tiên thì tình hình mới sáng tỏ hơn. Kim Chính Nhật
xây dựng cơ chế lãnh đạo mới, nhưng nhìn chung vẫn mang nặng màu sắc
quân sự, thể hiện qua việc mọi quyền lực đều tập trung vào Hội đồng Quốc
phòng do Kim Chính Nhật làm chủ tịch. Về đối ngoại, chính sách của Kim
Chính Nhật cởi mở hơn. Nổi bật nhất là việc CHDCND Triều Tiên thúc đẩy

23
các cuộc đàm phán liên Triều, tạo ra bầu không khí hòa dịu trên bán đảo Triều
Tiên. Quá trình hòa dịu trên bị gián đoạn kể từ khi G. Bush lên cầm quyền tại
Mỹ và thi hành chính sách đối ngoại cường quyền, xếp CHDCND Triều Tiên
vào liên mình “trục ma quỷ” và là một trong 7 quốc gia có thể bị Mỹ tấn công
hạt nhân. Sự lựa chọn chính sách cứng rắn của chính quyền Bush đã làm cho
tình hình bán đảo Triều Tiên trở nên phức tạp, khiến CHDCND Triều Tiên

phản ứng gay gắt, gây ra mối nghi ngờ về triển vọng quan hệ liên Triều, hòa
bình và ổn định trong khu vực.
1.2.2 Quan hệ liên Triều
Mặc dù Bắc Triều Tiên vẫn đang tiếp tục gây ra những thách thức hạt
nhân đối với khu vực, nhưng Seoul đang ngày càng có sự thống nhất về chính
sách đối với Bắc Triều Tiên. Điều này cho thấy chiến lược hợp tác đang có xu
hướng thay thế cho sự đối đầu giữa hai miền Triều Tiên. Chính điều này cũng
đã gắn kết Hàn Quốc với Trung Quốc và Nga nhiều hơn là với Mỹ và Nhật
Bản, vốn được coi là hai đồng minh của Hàn Quốc trong việc giải quyết vấn
đề Bắc Triều Tiên. Việc mở rộng các hoạt động kinh tế liên Triều và các mối
quan hệ khác hiện nay đang được coi là xu thế không thể đảo ngược trong
quan hệ liên Triều và đã đặt nền tảng cho sự thống nhất hai miền
Sau nhiều năm đối đầu, Nam-Bắc Triều Tiên bắt đầu tiến hành các cuộc
đàm phán từ năm 1971, trùng hợp với thời điểm Trung Quốc và Mỹ thiết lập
các mối quan hệ hữu nghị. Các cuộc đối thoại giữa hai miền đã giảm dần vào
khoảng 1985 và 1990 – 1992, mặc dù vòng đàm phán cuối cùng đã chứng
kiến lễ ký kết một số thỏa thuận liên Triều. Kết quả vòng đàm phán cuối cùng
không được thực hiện do cuộc khủng hoảng hạt nhân đầu tiên vào năm 1993 -
1994 của Bắc Triều Tiên gây ra cản trở cho tiến trình đàm phán. Tuy nhiên,
quan hệ giữa hai miền vẫn căng thẳng do hoạt động khủng bố của CHDCND
Triều Tiên chống Hàn Quốc, các vụ xâm phạm của tàu ngầm CHDCND Triều

24
Tiên vào vùng lãnh hải của Hàn Quốc và các vụ xung đột hải quân giữa hai
nước tuy không kéo dài nhưng đã gây tổn thất về sinh mạng.
Cùng với thời gian, tương quan lực lượng giữa hai miền đã có nhiều
thay đổi. Nếu như ở thời điểm 1948, hai miền có mức phát triển tương đương
nhau cả về kinh tế lẫn xã hội thì nay miền Bắc phải đàm phán với một miền
Nam giàu mạnh hơn nhiều. Chính vì vậy, không ai ngờ một cuộc gặp thượng
đỉnh lại được quyết định vào năm 2000.

Cuộc gặp ngày 10/04/2000, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc công bố hai
bên đã đạt được thỏa thuận tổ chức hội nghị thượng đỉnh liên Triều giữa nhà
lãnh đạo Kim Jong Il và Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung.
Có thể nói, quyết định về cuộc gặp thượng đỉnh liên Triều khá bất ngờ
nhưng không hoàn toàn ngẫu nhiên. Nguyên nhân sâu xa của nó không nằm
ngoài nguyện vọng thống nhất đất nước được ấp ủ từ lâu và bối cảnh thế giới
sau Chiến tranh lạnh đã thúc đẩy cả hai miền Triều Tiên điều chỉnh lại chính
sách. Rút kinh nghiệm từ việc thống nhất nước Đức, Hàn Quốc tính toán rằng
nếu để chiến tranh xảy ra, hai miền sẽ bị hủy diệt nặng nề và kinh phí dành
vào việc thống nhất đất nước sẽ là rất cao, khoảng vài nghìn tỉ USD. Điều này
khiến cho Hàn Quốc lo ngại, muốn tránh giải pháp chiến tranh và làm dịu
xung đột với CHDCND Triều Tiên, từ đó tiến đến việc thống nhất đất nước.
Trong khi đó, Bình Nhưỡng cũng không muốn thống nhất “theo kiểu Đức” và
tính đến giải pháp khác, nhất là khi Tổng thống Kim Dae Jung đề ra chính
sách “Ánh dương”, can dự vào miền Bắc theo nguyên tắc tách kinh tế và
chính trị, không nhằm lật đổ chế độ ở CHDCND Triều Tiên. Hai miền tạo
điều kiện trao đổi thư từ, thậm chí có thể đoàn tụ các gia đình bị ly tán theo
cách không gây hiềm khích chính trị.
Không ai tin rằng tất cả những mâu thuẫn tích lũy trên bán đảo Triều
Tiên trong 50 năm qua có thể có khả năng được giải quyết trong ba ngày họp
thượng đỉnh giữa hai nhà lãnh đạo cao nhất của hai miền vào giữa tháng

25
6/2000. Tuy nhiên, những gì diễn ra ở Bình Nhưỡng trong ba ngày 13 –
15/06/2000 đã làm cho tất cả mọi người bi quan nhất cũng phải thừa nhận đó
là một sự kiện lịch sử đẩy lùi tàn tích Chiến tranh lạnh trên bán đảo này và mở
triển vọng mới cho nền hòa bình, hòa giải dân tộc và tiến đến việc hai miền
Nam - Bắc Triều Tiên cùng chung sống hòa bình trong đại gia đình dân tộc.
Nó tháo ngòi nổ tiềm tàng ở Đông Bắc Á và có ý nghĩa rất quan trọng, bởi đây
là khu vực nhạy cảm và dễ đổ vỡ nhất đối với nền hòa bình và an ninh của

toàn bộ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Từ nhận thức này, hoạt động ngoại giao của CHDCND Triều Tiên đã
có một số bước đột phá. Đầu năm 2000, CHDCND Triều Tiên chính thức lập
quan hệ ngoại giao với Italia, tiến hành đàm phán và bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, Nhật Bản, Autraslia, Philippin, chính thức xin gia nhập Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF). Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của
CHDCND Triều Tiên cũng phần nào phù hợp với chủ trương thúc đẩy hòa
giải dân tộc của Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung và xu hướng cải cách,
tìm kiếm quyền lợi của các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc sau khủng
hoảng tài chính năm 1997 – 1998. Cùng với những chuyển động tích cực từ
Bình Nhưỡng, chính sách “Ánh dương” của Tổng thống Kim Dae Jung chủ
trương “can dự tích cực” vào CHDCND Triều Tiên sau hai năm thực hiện đã
cho thấy có tác động nhất định trong việc thúc đẩy quan hệ hai miền xích lại
gần nhau. Thứ nhất, người Triều Tiên dù ở miền Bắc hay miền Nam đều có
chung một tinh thần dân tộc tự quyết cao. Sau nhiều thập kỷ bị chia cắt, có lẽ
giờ đây người dân ở hai bên phía vĩ tuyến 38 đều mong muốn hướng về một
nước Triều Tiên thống nhất. Thứ hai, dường như ngay cả những người cầm
quyền và nhân dân của hai miền Triều Tiên ý thức được vị thế quan trọng của
bán đảo Triều Tiên trên bàn cờ khu vực và thế giới.
Bên cạnh những tiến triển trong quan hệ liên Triều, vẫn còn có những
điểm phức tạp đang xảy ra. Trên một số lĩnh vực, mối quan hệ này đã thể hiện

×