Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 113 trang )

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG, HỘP 5
LỜI NÓI ĐẦU 6
Chương 1: XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO - VẤN ĐỀ MANG TÍNH TOÀN CẦU 11
1.1. Khái quát về vấn đề đói nghèo 11
1.1.1. Khái niệm đói nghèo 11
1.1.2. Phân loại đói nghèo. 12
1.1.3 Chuẩn đói nghèo. 13
1.2. Tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế đối với
phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới 15
1.2.1. Tổng quan nghèo đói trên thế giới 15
1.2.2.Tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế đến
phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới 17
1.3. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước khu vực và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam 27
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước khu vực về xóa đói giảm nghèo 27
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam về xóa đói giảm nghèo 30
Chương 2: CÔNG CUỘC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
1998 ĐẾN NAY 32
2.1. Tình hình đói nghèo tại Việt Nam 32
2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Chính phủ Việt Nam thời kỳ
đổi mới 38
2.2.1. Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo 38
2.2.2. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền
núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135) 45
2.2.3. Chương trình 134 52
2
2.2.4. Nghị quyết số 30a của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh và


bền vững đối với 61 huyện nghèo 53
2.3. Tác động của quá trình hội nhập quốc tế, của các chương trình hỗ trợ của
các quốc gia và tổ chức quốc tế đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
giai đoạn vừa qua 58
2.3.1. Tác động của quá trình hội nhập quốc tế đến công cuộc xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam giai đoạn vừa qua 58
2.3.2. Tác động của các chương trình hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc
tế đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua. 63
Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ 71
3.1. Bối cảnh trong nước, quốc tế mới và những vấn đề đặt ra đối với công cuộc
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 71
3.2. Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức đối với công cuộc xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập 73
3.3. Yêu cầu mục tiêu đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong
giai đoạn tới 79
3.4. Một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế 82
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 92
PHỤ LỤC 101
CHÚ THÍCH 107
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Splitter.
A watermark is added at the end of each output PDF file.
To remove the watermark, you need to purchase the software from
/>3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CPRGS Comprehensive Poverty Reduction and Growth Strategy
Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo

ESCAP The United Nations Economic and Social Commission for Asia and
the Pacific
Ủy ban Kinh tế - Xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương
EU European Union
Liên minh Châu Âu
FAO Food and Agriculture Organization
Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc
FDI Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GNP Gross National Products
Tổng Sản lượng Quốc dân
HDI Human Development Index
Chỉ số phát triển con người
IDA International Development Associations
Tổ chức Phát triển quốc tế
IGC International Grains Council
Hội đồng ngũ cốc quốc tế
ILO International Labour Organization
Tổ chức Lao động Quốc tế
MDG Millennium Development Goals
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
ODA Official Development Assistance
4
Viện trợ phát triển Chính thức
OECD Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
SIDA Sweden International Development Agency
Cơ quan Phát triển Quốc tế Thụy Điển
TCP Technical Cooperation Programme
Chương trình Hợp tác Kĩ thuật

UN United Nations
Liên hợp quốc
UNDP United Nations Development Program
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization
Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc
UNICEF The United Nations Children’s Fund
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
WB World Bank
Ngân hàng Thế giới
WHO World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới
WTO World Trade Organization
Tổ chức Thương Mại Thế giới
5
DANH MỤC BẢNG, HỘP
Hộp 1: Các hình thức trợ giúp và hợp tác của FAO 24
Hộp 2: Ba đề án nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo của UNESSCO 25
Bảng 2.1: Kết quả xây dựng các công trình hạ tầng 46
Bảng 2.2: Cơ cấu phân bổ sử dụng nguồn vốn ngân sách trung ương 48
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Thế giới bước sang thế kỷ 21 với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn
ngang những vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu. Nghèo đói luôn là nỗi bất hạnh của
loài người và là một nghịch lí trên con đường phát triển. Thực tế hiện nay, dân số
thế giới đạt khoảng 7 tỷ người trong đó khoảng 2,8 tỷ người tức là hơn một nửa dân
số các nước đang phát triển - có mức sống chưa tới 2 USD/ngày, 1 tỷ người trong số
đó có thu nhập dưới 1 USD/ngày. [25]
Tại Việt Nam, trong suốt hơn 20 năm qua, quá trình đổi mới đã đạt được

những thành tựu đáng kể trong việc tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở Việt Nam.
Tuy nhiên, số người nghèo vẫn còn rất nhiều và giúp họ thoát nghèo là một trong
những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt, với xu hướng của hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay sẽ tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến
nền kinh tế của từng quốc gia nói chung và vấn đề xóa đói giảm nghèo của quốc gia
đó nói riêng. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam việc nắm bắt được
những biến động và dự báo được tác động của những biến động của bối cảnh trong
nước và quốc tế là điều cần thiết trong việc hoạch định chính sách xóa đói giảm
nghèo. Đồng thời, tranh thủ được các cơ hội, kết hợp các nguồn nội lực và ngoại lực
để đạt được các mục tiêu xóa đói giảm nghèo của nước mình.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về mặt khoa học lẫn trên thực tiễn.
Về mặt khoa học:
Luận văn hệ thống lại một số vấn đề lý luận về đói nghèo, phân tích và đánh
giá toàn diện tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế đến
phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới, phân tích đúc rút
kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước trong khu vực và khả năng vận dụng
vào Việt Nam.
Luận văn tổng kết, phân tích và đánh giá toàn diện tình hình đói nghèo ở Việt
Nam từ năm 1998 đến nay và các chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ
triển khai trong giai đoạn này, chỉ rõ những thành công và hạn chế. Đặc biệt, luận
7
văn đi sâu đánh giá tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế
đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đồng thời, đặt ra những yêu cầu,
mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong bối cảnh mới, từ đó đề xuất một số khuyến nghị,
giải pháp. Luận văn là sự kết hợp và áp dụng những kiến thức đa ngành trong
nghiên cứu quốc tế học vào một lĩnh vực cụ thể là vấn đề đói nghèo ở Việt Nam
dưới góc độ hội nhập quốc tế.
Về mặt thực tiễn:
Những nhận định, đánh giá trong luận văn về bản chất nghèo đói tại Việt Nam,

những hạn chế của các chương trình xóa đói giảm nghèo thời gian qua, tác động của
hội nhập quốc tế đối với xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam sẽ giúp các nhà hoạch
định chính sách có tư duy mới về nghèo đói trong điều kiện mới, nhận diện được
những cơ hội cũng như rủi ro trong quá trình thiết kế và triển khai các chính sách
xóa đói giảm nghèo cho phù hợp với điều kiện bối cảnh mới, nâng cao hiệu quả và
tính khả thi của các chương trình và chính sách xóa đói giảm nghèo, giúp người dân
thoát nghèo bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên quyết định chọn đề tài “Vấn đề xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xóa đói giảm nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy đã có nhiều tổ chức,
cá nhân nghiên cứu vấn đề này. Tại Việt Nam, vấn đề xóa đói giảm nghèo cũng
được Đảng, Nhà nước Việt Nam, các giới nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà
quản lý quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình và bài viết về vấn đề xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam, cả trong và ngoài nước nhưng đáng chú ý hơn cả là một số
công trình và bài viết sau:
Trong nước:
1. Nguyễn Thị Hằng (1997), “Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta
hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã đánh giá khá
đầy đủ về thực trạng nghèo đói ở nông thôn Việt Nam và đưa ra biện pháp xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn nước ta giai đoạn 1996-2000.
8
2. Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang (2001), “Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã phân tích tổng
quan về nghèo đói trên thế giới; đưa ra các phương pháp đánh giá về nghèo đói,
nghèo đói ở Việt Nam và nghiên cứu thực tiễn về nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình, qua
đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp chung về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
3. Thái Phúc Thành (2009), Giảm nghèo ở Việt Nam: cơ hội, thách thức và
một số ý tưởng giảm nghèo giai đoạn 2011-2020, Tạp chí Khoa học Lao động và

Xã hội, số 21/Quý IV, tr.44. Tác giả đã nêu lên một số kết quả về xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời cũng chỉ ra một số mặt còn tồn tại
trong xóa đói giảm nghèo. Qua đó nhận định các cơ hội và thách thức đối với công
cuộc giảm nghèo ở nước ta giai đoạn 2011-2020 và các định hướng về giảm nghèo
trong thời gian tới.
4. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - UNDP, Đánh giá giữa kỳ chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, giai đoạn 2006-2008, Hà Nội - Việt Nam,
2009. Báo cáo khẳng định đánh giá giữa kỳ được thực hiện trong bối cảnh kinh tế
và xã hội Việt Nam có nhiều biến động khôn lường qua đó đưa ra đánh giá tổng
quan về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2008 dựa trên
các tiêu chí như: sự phù hợp về thiết kế chương trình; hiệu quả chương trình trong
việc đạt các chỉ tiêu đề ra; tính kinh tế và hiệu suất quản lý thực hiện chương trình.
Đồng thời báo cáo cũng đưa ra các phát hiện chính và các khuyến nghị của đánh giá
giữa kỳ. Tuy nhiên báo cáo chưa đi vào phân tích tác động của hội nhập quốc tế đến
vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nước ta.
Ngoài nước:
Chủ yếu là các ấn phẩm từ các tổ chức quốc tế như: các ấn phẩm của Ngân
hàng Thế giới, Liên hợp quốc, Tổ chức Nông lương Thế giới, Quỹ Bảo trợ Trẻ em.
Các ấn phẩm về xóa đói giảm nghèo của các tổ chức quốc tế nêu trên chủ yếu phân
tích hiện tượng đói nghèo, các phương hướng giải quyết, các chương trình xóa đói
giảm nghèo và thành tựu đạt được, các ấn phẩm chưa xét tới góc độ phân tích tác
động của hội nhập quốc tế đến vấn đề xóa đói giảm nghèo.
9
Tóm lại, các công trình và các bài viết trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, các công trình và bài viết này chưa phân tích tác động của hội nhập quốc tế
đến vấn đề đói nghèo ở Việt Nam. Trong khuôn khổ bài luận văn, học viên mong
muốn đóng góp thêm, đưa ra một cái nhìn khái quát hơn về vấn đề nghèo đói và xóa
đói giảm nghèo tại Việt Nam hiện nay, đồng thời thấy được tác động của hội nhập
quốc tế đối với xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tình trạng đói nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế
Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Nghiên cứu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam từ năm 1998
đến nay
Về mặt không gian: Đề tài chỉ tập trung vào lĩnh vực cụ thể lầ vấn đề đói
nghèo. Hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ đến nhiều vấn đề tại Việt Nam, một
trong những vấn đề đó là vấn đề xóa đói giảm nghèo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp lý thuyết quan hệ quốc tế (dựa trên quan điểm của các lý thuyết
đã học như quan điểm của Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa tự do mới); Phương
pháp luận Mác - Lê nin; Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp so sánh, tổng hợp, phương pháp phân tích, thống kê, phân tích SWOT
(thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức).
5. Bố cục của luận văn
Tên luận văn: “ Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế". Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
10
- Chương 1: Xóa đói giảm nghèo - vấn đề mang tính toàn cầu. Chương 1
trình bày những nội dung cơ bản về đói nghèo như khái niệm, phân loại đói nghèo
và các chuẩn đói nghèo; phân tích tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các
tổ chức quốc tế đến phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới;
nghiên cứu kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước khu vực và rút ra bài học
cho Việt Nam.
- Chương 2: Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam từ năm 1998 đến
nay. Chương 2 tập trung phân tích về tình hình đói nghèo tại Việt Nam từ năm 1998

đến nay, phân tích đánh giá những thành công và hạn chế của các chương trình,
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn này; phân tích tác động của
hội nhập quốc tế và vai trò của các chương trình hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức
quốc tế đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn vừa qua.
- Chương 3: Một số khuyến nghị, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế. Chương 3, thông qua việc tìm hiểu bối cảnh mới ở trong nước và quốc tế để
phân tích những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức đối với công cuộc xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam; từ đó đặt ra yêu cầu và mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các
hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, bài viết còn đưa ra các bản phụ lục, với tư cách như một
nguồn tài liệu tra cứu, về các số liệu chỉ số về đói nghèo và các biểu bảng số liệu.
11
Chương 1: XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO - VẤN ĐỀ MANG
TÍNH TOÀN CẦU
1.1. Khái quát về vấn đề đói nghèo
1.1.1. Khái niệm đói nghèo
Đói nghèo (poverty) là một khái niệm khá rộng với nhiều cách định nghĩa
khác nhau. Lý giải về đói nghèo trước hết chúng ta nên xem xét hiện tượng đói
nghèo này ở đặc trưng kinh tế, tính vật chất của nó.
Chủ thể đói nghèo được xem xét ở đây là con người, từng cá thể cũng như xã
hội. Với hướng nghiên cứu này chúng ta có một hệ vấn đề sau: Đói nghèo, phân hóa
giàu nghèo và xóa đói giảm nghèo. Vậy, đói nghèo không bao giờ là một hiện tượng
kinh tế thuần túy, thực chất nó là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Cái “kinh tế” và
cái “ xã hội” là một sự liên kết chỉnh thể, nương tựa, biểu hiện, tác động và chế ước
lẫn nhau. Do đó, đói nghèo là khái niệm kép, vừa có mặt kinh tế, vừa có mặt xã hội
trong nội dung của nó, trong sự phát sinh, diễn biến của nó.
Đói nghèo là một khái niệm đa chiều, do đó chưa có một định nghĩa chung về đói
nghèo. Quan niệm đói nghèo chỉ mang tính chất tương đối bởi nó phụ thuộc vào điều

kiện không gian, địa lí, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa
phương, từng quốc gia. Đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề đói nghèo.
 Quan niệm đói nghèo trên thế giới.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Đói nghèo được định nghĩa là tình trạng vô
cùng thiếu thốn - do không có đủ nguồn lực đáp ứng các nhu cầu cá nhân cơ bản.
Tình trạng đói nghèo cũng đồng nghĩa với không có chỗ ở, nước sạch. Đói nghèo
cũng làm cho người ốm không thể đi khám bác sĩ, người mù chữ không được đến
trường, người lao động không có kỹ năng và trình độ, thất nghiệp phổ biến. Đói
nghèo cũng đồng nghĩa với việc lo lắng về tương lai, sống ngày nào biết ngày đấy.
Đói nghèo là điều không ai muốn. [8, tr. 11]
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đói nghèo được hiểu là sự thiếu cơ hội để
có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Theo
12
đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình
quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Income, PCI) của quốc gia. Cũng theo
WHO thì thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo
thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. [47]
Theo Ủy ban Kinh tế - Xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP),
đói nghèo được định nghĩa là: Tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Đây
là một khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới sử dụng
trong đó có Việt Nam. [48]
 Quan niệm đói nghèo của Việt Nam
Tại Việt Nam, đói nghèo được thừa nhận theo khái niệm của Ủy ban Kinh tế -
Xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình đó là: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân
cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của
từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”. [6]
Tóm lại, dù tiếp cận theo phương pháp nào thì những quan điểm đói nghèo ở

trên đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo: (i): có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; (ii): không được thụ hưởng những nhu
cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; (iii): thiếu cơ hội lựa chọn tham gia
vào quá trình phát triển cộng đồng.
1.1.2. Phân loại đói nghèo
Có nhiều cách phân loại đói nghèo khác nhau. Nếu căn cứ vào cấp độ của đói
nghèo người ta chia đói nghèo thành hai loại đó là đói nghèo tuyệt đối và đói nghèo
tương đối.
Đói nghèo tuyệt đối: Đói nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài
cùng của sự tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để
sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ, trong tình trạng bỏ bê và vượt quá sức tưởng tượng.
13
Đói nghèo tương đối: Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, đói nghèo
được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Đói nghèo tương đối có thể
được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất
cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của
xã hội đó.
1.1.3 Chuẩn đói nghèo
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương đương của
địa phương (so với USD thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát
cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các giá trị ranh giới nghèo tuyệt
đối được xác định cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2
USD/ngày cho châu Mỹ và Carribean và 4 USD/ngày cho những nước Đông Âu
cho đến 14,40 USD/ngày cho những nước công nghiệp. (UNDP 1997)
Trong chất lượng sống nói chung, người ta có nhiều chỉ số khác nhau để phản
ánh và so sánh. Có bốn hệ cơ bản là: Cấp hạng kinh tế và xã hội (Economic and
Social Rank) được tính theo quốc gia và 11 biến số khác nhau (5 biến số liên quan
đến sức khỏe, 5 biến số liên quan đến giáo dục và biến số còn lại là GNP theo đầu
người); Chỉ số Chất lượng sống Vật chất (Physical Quality of Life Index - PQLI)
dựa vào tỉ lệ tử vong trẻ em, tuổi thọ và tỉ lệ biết chữ; Chỉ số tiến bộ xã hội (Index of

Social Progress) gồm 44 chỉ số liên quan đến y tế, giáo dục, phúc lợi, kinh tế, ổn
định chính trị; Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) do
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc - UNDP đưa ra và gồm 3 thành phần chính:
tuổi thọ (đo bằng sự kéo dài cuộc sống), trí thức (đo bằng tỉ lệ người trưởng thành
biết chữ và số năm học tập) và tiêu chuẩn sống (đo bằng sức mua). Nhìn chung các
hệ số khác nhau bởi vì quan niệm về những mối liên hệ giữa chúng khác nhau. Hiện
nay, chúng ta thường sử dụng Chỉ số phát triển con người - HDI vì HDI đang ngày
càng có ý nghĩa với nền kinh tế tri thức như một hàng hóa hoặc dịch vụ tri thức. HDI
nhận giá trị từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là trình độ phát triển con người càng
cao, trái lại càng gần 0 nghĩa là trình độ phát triển con người càng thấp. [69].
Trong hơn 20 năm qua, quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong việc tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở Việt Nam. Tuy nhiên, số người
14
nghèo vẫn còn rất nhiều và giúp họ thoát nghèo là một trong những ưu tiên hàng
đầu của Chính phủ Việt Nam. Để đánh giá nghèo đói cũng như xác định chuẩn
nghèo, một loạt các chỉ tiêu về nghèo đói và phát triển xã hội đang được sử dụng ở
Việt Nam:
- “Bộ Lao động Thương binh và Xã hội dùng phương pháp dựa trên thu nhập
hộ. Các hộ được xếp vào diện nghèo nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức
chuẩn được xác định, mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ
lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo.
- Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người để
tính tỷ lệ nghèo. Theo đó xác định ngưỡng tiêu dùng dựa trên chi phí cho một giỏ
tiêu dùng bao gồm lương thực và phi lương thực, trong đó chi tiêu cho lương thực
phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho một người. Các hộ được coi là thuộc diện
nghèo nếu mức thu nhập và chi tiêu không đủ để đảm bảo giỏ tiêu dùng này.
- Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn tính Chỉ số phát triển con người
(HDI) ở cấp tỉnh qua việc đo thành tựu của đất nước ở 3 khía cạnh phát triển của
con người: tuổi thọ, tri thức và mức sống thỏa đáng”. [2].
“Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày

30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011-2015. Theo đó chuẩn đói không còn được đặt ra, do Việt Nam đã đạt mức dư
thừa lương thực. Chuẩn nghèo gồm 2 mức: Đối với hộ nghèo ở nông thôn có mức
thu nhập bình quân từ 400.000đồng/người/tháng (4,8 triệu/năm) trở xuống; Đối với
hộ nghèo ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (6
triệu/năm) trở xuống. Như vậy so với mức thu nhập để xác định chuẩn nghèo cho
giai đoạn 2006-2010 (200.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 260.000
đồng/người/tháng ở thành thị) thì mức thu nhập để xác định chuẩn nghèo giai đoạn
tiếp theo được điều chỉnh lên gấp hai lần. Cũng theo Quyết định số 09/QĐ-TTg thì
hộ cận nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng/người/tháng
đến 520.000 đồng/người/tháng; ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng/người/tháng đến 650.000 đồng/người/tháng.” [28].
15
1.2. Tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế đối với
phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới
1.2.1. Tổng quan nghèo đói trên thế giới
Chúng ta đang sống trong một thế giới mất cân bằng, vừa giàu lại vừa nghèo.
Dân số thế giới hiện có khoảng 7 tỷ người, hơn 1 tỷ người trong số đó chiếm 80%
thu nhập trong khi đa số còn lại (gần 6 tỷ người) lại chỉ chiếm khoản thu nhập nhỏ
nhoi, ít hơn 20%. [25]. Đói nghèo hiện được coi là thách thức lớn nhất mà nhân loại
phải đối mặt trong thế kỷ 21. Tổng quan nghèo đói trên thế giới được trình bày dựa
trên các tiêu chí chính dưới đây:
Về lương thực: Năm 2010 thế giới có 1,1 tỉ người thiếu đói, 3/4 trong số đó
phải sống với mức thu nhập dưới 1 đôla một ngày, tập trung chủ yếu ở khu vực
châu Phi, tiểu Sahara, một phần châu Á và Mỹ La tinh. Trên thế giới, mỗi năm có
hơn 9 triệu người chết vì đói và suy dinh dưỡng, 5 triệu người trong số đó là trẻ em.
Cứ 5 giây lại có một đứa trẻ chết vì đói. [41]
Theo Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế
và Phát triển (OECD) thông báo tháng 6/2010 sản lượng ngũ cốc toàn cầu giảm
mạnh hơn dự đoán do hạn hán vẫn tiếp diễn tại khu vực trồng ngũ cốc chính ở Châu

Âu, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cũng theo báo cáo mới nhất từ Hội đồng Ngũ cốc
Quốc tế (IGC) cho biết kho dự trữ ngũ cốc toàn cầu sẽ giảm nhẹ trong năm 2011-
2012 do mức tiêu thụ vượt quá sản lượng và thời tiết khô nóng ảnh hưởng đến triển
vọng sản lượng lúa mì. [33]. Có thể nói lương thực đã và đang là vấn đề được thế
giới quan tâm, được nâng tầm quan trọng lên “An ninh lương thực”. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề lương thực đối với sự tồn tại và phát triển của nhân
loại trong tương lai, các quốc gia cùng chung sức hợp tác nhằm phát triển một nền
nông nghiệp thế giới phát triển bền vững.
Về nước sạch: tài nguyên nước sạch đang ngày càng khan hiếm. Nước bao
phủ 75% bề mặt trái đất nhưng chỉ có 2,5% là nước ngọt. Trong 2,5% số lượng
nước ngọt này lại có đến 74% dưới dạng băng, phần còn lại chủ yếu nằm ở tầng
nước ngầm hay tích tụ dưới dạng sương mù, chỉ có khoảng 0,3% lượng nước ngọt
trên thế giới là có ở các sông, hồ trong khi nhu cầu dùng nước ngày càng lớn. “Theo
nghiên cứu công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Siences tại
Mỹ, cho thấy trong giai đoạn từ nay đến năm 2050, 1 tỷ người trên trái đất sẽ bị
16
thiếu nước sinh hoạt, trong đó lĩnh vực nông nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất. Cũng theo nghiên cứu này đến năm 2050, 993 triệu người sẽ không thể được
dùng 100 lít nước sạch mỗi ngày trong khi khối lượng này tương ứng với mức tối
thiểu để đáp ứng nhu cầu về nước uống, vệ sinh cho mỗi cá nhân.” [29]
Khoảng 90% nước thải chưa qua xử lí được thải trực tiếp ra sông suối ở các
nước đang phát triển dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước. Các bệnh phát sinh do
nước gây ra chiếm tới 80% bệnh tật và tử vong ở các nước đang phát triển. Chỉ tính
riêng bệnh tật và tử vong liên quan đến nước ven bờ bị ô nhiễm đã gây ra phí tổn
cho nền kinh tế toàn cầu khoảng 16 tỷ USD mỗi năm. Theo ước tính chi phí để cung
cấp nước uống sạch và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả người dân trên thế
giới vào năm 2025 khoảng 180 tỷ USD mỗi năm, lớn hơn từ 2 đến 3 lần mức đầu tư
hiện nay. [66]
Về chỗ ở: Theo Tổ chức Nhà ở cho nhân loại thế giới hiện thế giới có hơn 1 tỷ
người đang sinh sống tại các khu ổ chuột ở các thành phố. Những người này đang

phải sống trong điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu nước sạch, không có dịch vụ y tế tối
thiểu cùng các phương tiện sinh hoạt khác, và họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Hiện nay,
Liên hợp quốc đã phát động chiến dịch cải tạo nhà ổ chuột trên toàn thế giới, do số
người phải sống trong những ngôi nhà dột nát này đã tăng từ 900 triệu người năm
2000 lên 1 tỷ người vào năm 2009 và có thể sẽ tăng lên gấp đôi trong vòng 30 năm
nữa. [37]
Về y tế: Vấn đề thuốc men, thiếu trang thiết bị hiện đại và cơ sở vật chất y tế
đủ điều kiện, trình độ và số lượng y, bác sỹ là những vấn đề lớn về y tế mà các nước
nghèo đang gặp phải. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Bảo trợ trẻ em, tỷ
lệ tử vong ở trẻ sơ sinh năm 2009 là 3,3 triệu trẻ, giảm hơn 1 triệu trẻ trong vòng 20
năm, với việc giảm 1% mỗi năm, khu vực Châu Phi được nhận thấy là có những
tiến bộ chậm nhất so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Có tới 99% trường hợp tử
vong sơ sinh xảy ra ở các nước đang phát triển nguyên nhân tử vong sơ sinh thế giới
là do sinh non (29%), ngạt (23%) và nhiễm trùng nghiêm trọng đồng thời một phần
còn do dân số quá đông tại các nước này. [71]
17
Về giáo dục: theo báo cáo giám sát toàn cầu năm 2009, thế giới hiện có 850
triệu người mù chữ (chiếm khoảng 1/5 tổng dân số thế giới), trong đó có 75 triệu là
trẻ em. Gần 98% số người mù chữ ở các nước đang phát triển, trong đó Châu Phi có
tỷ lệ so với số dân cao nhất, tới 54%. [26].
Về việc làm: tạo công ăn việc làm cho người lao động là một vấn đề cấp bách
không những ở các nước chậm phát triển mà cả ở các nước công nghiệp phát triển.
“Theo báo cáo từ Tổ chức Lao động Quốc Tế (ILO) số người thất nghiệp trên thế
giới năm 2010 là 205 triệu người, tương đương với số người mất việc làm trong
năm này. Cũng theo ILO, thanh niên là đối tượng bị thất nghiệp nhiều nhất lên tới
78 triệu người và con số này sẽ tiếp tục tăng trong các năm tới”. [50]
Trước thực trạng nghèo đói trên thế giới được trình bày ở trên đòi hỏi sự nỗ
lực của các quốc gia trong việc khắc phục nạn đói nghèo trên quy mô toàn cầu,
đặc biệt là vai trò của các quốc gia phát triển, các tổ chức chính phủ và phi chính
phủ quốc tế, của các Quỹ đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo trên thế giới

được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.2.2. Tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức quốc tế đến phát
triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới
 Tác động của hội nhập quốc tế đến phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói
giảm nghèo trên thế giới
Sự hình thành và phát triển của tiến trình hội nhập quốc tế là một đòi hỏi khách
quan. Nó có tác động mạnh tới sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và các
quan hệ quốc tế nói riêng cũng như vấn đề nghèo đói trên thế giới. Dựa trên các quan
điểm khác nhau thì các tác động được xem xét và phân tích khác nhau. Tuy nhiên, dù
xem xét và phân tích dưới góc độ nào thì khi xem xét nội dung tác động của hội nhập
quốc tế đến một vấn đề thì không thể không xem xét đến hệ quả của tác động. Xem
xét tác động của hội nhập quốc tế đến phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm
nghèo trên thế giới chúng ta nên xem xét dưới các góc độ sau:
18
Những tác động tích cực của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là bước đột phá về tư duy, không còn tư duy khép
kín, thúc đẩy sự quy tụ và thống nhất trong đa dạng như phát triển kinh tế, tự do,
dân chủ và bình đẳng. Hội nhập quốc tế mà rõ nét nhất là hội nhập kinh tế quốc tế
thúc đẩy sự hình thành thị trường thế giới thống nhất và mang tính toàn cầu. Sử
dụng cơ chế thị trường, phát huy các quy luật của thị trường kết hợp với sự điều tiết
của Nhà nước để hạn chế các khuyết tật của thị trường đang là phương thức phát
triển kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Đó là nhận thức chung
nhất, tư duy phát triển kinh tế chung nhất của thế giới ngày nay.
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế của các nước thúc đẩy mạnh mẽ hơn xu
thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Hội nhập quốc tế mà rõ nét nhất là hội nhập kinh
tế quốc tế thúc đẩy phân công lao động quốc tế và phân bổ hợp lí hơn các nguồn lực
trên phạm vi toàn cầu. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc
độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.

Dưới tác động của những chiều hướng đó, kinh tế thế giới trải qua những biến đổi
về chất, các ngành công nghệ cao, đặc biệt là những lĩnh vực có hàm lượng chất
xám cao, công nghệ thông tin và sinh học phát triển nhanh chóng làm thay đổi sâu
sắc cơ cấu sản xuất, tiêu dùng, trao đổi, cũng như phương thức làm ăn và cả sinh
hoạt, giao lưu của loài người.
Thứ ba, hội nhập quốc tế là căn cứ, tiền đề để hình thành và phát triển mô
thức kinh tế thị trường mở cửa trên phạm vi toàn thế giới. Bởi hội nhập tức là không
chấp nhận kinh tế khép kín, tình trạng phân biệt đối xử, các ưu đãi riêng, các rào
cản quốc tế để có thể xâm nhập vào thị trường của các nước khác thì một nước
trước tiên phải mở cửa thị trường nước mình. Hội nhập kinh tế quốc tế là hội nhập
vào nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó các yếu tố thị trường bao giờ cũng vận
hành đồng bộ. Do đó những nước đi sau, do trình độ phát triển kinh tế thị trường
còn thấp (chẳng hạn đồng tiền chưa chuyển đổi, thị trường chứng khoán chưa phát
triển, mức độ tự do hóa thị trường tài chính ở mức thấp, ) tất yếu trước sức ép của
hội nhập sẽ có điều kiện để đẩy nhanh các quá trình cải cách, khắc phục điểm yếu
19
nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường để hội nhập có hiệu quả vào nền
kinh tế thế giới.
Thứ tư, hội nhập quốc tế là phương thức làm bật ra nguồn lực, các lợi thế so
sánh và theo đó, là lợi thế cạnh tranh của từng nước. Do vậy hội nhập quốc tế có tác
động tích cực trong việc xem xét và đánh giá các nguồn lực phát triển của từng
nước, xác định được vị trí và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước trong
so sánh với trình độ phát triển của các nước khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Công
việc này tuy khó khăn nhưng hết sức quan trọng để giúp các nước đi sau gia tăng
khả năng cạnh tranh, phát huy lợi thế so sánh, kết hợp được nguồn lực trong và
ngoài nước thực hiện nhanh bước chuyển kinh tế thị trường theo hướng tự do hóa
mà cụ thể là nhanh chóng dỡ bỏ các hàng rào thương mại, đầu tư, tài chính, công
nghệ, để tận dụng được các cơ hội do cam kết khu vực và quốc tế mang lại.
Thứ năm, hội nhập quốc tế có tác động làm thay đổi tư duy và phương pháp
quản lý điều hành của chính phủ đối với các quá trính phát triển. Khi các nền kinh

tế tham gia hội nhập cao hơn, Chính phủ sẽ có ít chính sách hơn và phải dựa nhiều
hơn vào sự hợp tác quốc tế. Bởi lúc này các quá trình phát triển của mỗi nước đã
mang tính khu vực và quốc tế nên các chính phủ thường có xu hướng thiếu nguồn
lực để thực hiện các mục tiêu của mình. Đồng thời Chính phủ tại các quốc gia cũng
cần chú trọng điều hành và quản trị tốt các vấn đề phát triển xã hội đã trở thành một
yếu tố quan trọng, gắn chặt với tiến trình phát triển kinh tế. Vấn đề giảm nghèo, vấn
đề nâng cao năng lực quản lý sự phát triển ở các địa phương; vấn đề việc làm và
phát triển con người; vấn đề môi trường là những mối quan tâm mang đặc tính chi
tiêu công, đặt lên vai của các chính phủ. Đây cũng là yêu cầu và điều kiện quan
trọng mà hội nhập quốc tế đặt ra cho một nước trong việc theo đuổi mục tiêu tăng
trưởng bền vững và hội nhập quốc tế hiệu quả nhất.
Những thách thức của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và xóa đói giảm nghèo trên thế giới
Một là, hội nhập quốc tế làm cho tình trạng đói nghèo tại một số nước trầm
trọng hơn và sự phân hóa giàu nghèo trên thế giới ngày càng rõ nét. Trong 100 năm
của thế kỷ 20, loài người đã đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế kỳ diệu
20
nhưng cái giá phải trả cho kết quả đó là môi trường sinh thái bị hủy hoại ghê gớm
do việc khai thác tài nguyên quá mức. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa không
được kiểm soát mọi mặt về môi trường ở hầu khắp các nước trên thế giới đã gây ra
biến đổi khí hậu dẫn đến hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như hạn hán, lụt lội, nước
mặn xâm thực ảnh hưởng ngược trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
mọi quốc gia.
Người nghèo thường sống dựa vào môi trường tự nhiên và người nghèo dù có
nhận thức được cần phải bảo vệ thiên nhiên nhưng lại thường phải tàn phá thiên
nhiên, khai thác nó vì sự sinh kế vì họ không còn con đường nào khác. Người nghèo
buộc phải sử dụng quá mức tài nguyên môi trường và ngày càng nghèo đi do sự cạn
kiệt các nguồn tài nguyên này. Mặt khác, đói nghèo dẫn đến sự suy giảm chất lượng
dân cư. Dân số tăng nhanh đòi hỏi phải khai thác các tài nguyên tự nhiên nhiều hơn,
nhịp độ cao hơn, chất thải các loại tăng lên nhanh hơn dẫn tới phá vỡ cân bằng, vắt

kiệt tài nguyên và môi trường. Môi trường không được đảm bảo, cuộc sống của
những con người sống trong môi trường đó cũng không được đảm bảo. Như vậy,
đói nghèo, tài nguyên môi trường bị khai thác cạn kiệt, dân số và chất lượng dân số
không đảm bảo, tất cả các yếu tố này đang là thách thức đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội và quá trình hội nhập quốc tế của các quốc gia, kéo theo các tệ nạn xã hội,
vấn đề tội phạm và tội phạm quốc tế gia tăng gây ảnh hưởng tới an ninh xã hội
trong quốc gia đó nói riêng đồng thời gây bất ổn an ninh quốc tế.
Hội nhập quốc tế làm phân hóa giàu nghèo trên thế giới rất nghiêm trọng. Đi
cùng với hội nhập quốc tế là việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đưa đến sự phát
triển về kinh tế - chính trị - xã hội giữa các quốc gia từ đó đem lại kết quả là mức
sống tốt hơn cho con người nhưng cũng cần nhận thấy rằng kết quả đó không được
phân phối đồng đều. Bên cạnh một số ít nước tận dụng được cơ hội, mở cửa nền
kinh tế và thực hiện hội nhập quốc tế thành công, cải thiện cuộc sống cho bộ phận
lớn người dân thì còn rất nhiều các quốc gia nhất là các quốc gia đang phát triển và
kém phát triển vẫn luẩn quẩn trong đói nghèo và lạc hậu. Hầu hết các nước đều
nhận thức được tất yếu phải hội nhập quốc tế nếu không sẽ không thể thoát khỏi
tình trạng nghèo đói và lạc hậu. Nhưng nếu hội nhập quốc tế thì các nước đang phát
21
triển và kém phát triển sẽ phải đối mặt với những thách thức cực kỳ gay gắt là phụ
thuộc vào các nước tư bản, công nghệ nước ngoài và rơi vào quỹ đạo của các nước
tư bản phát triển nếu không có đối sách phù hợp. Như vậy, hội nhập quốc tế làm
cho khoảng cách giàu - nghèo, phát triển - kém phát triển trở thành rào cản phân
chia ngày càng rõ nét khi các nỗ lực kinh tế của các nước nghèo dồn vào cho công
cuộc xóa đói giảm nghèo, nền kinh tế chỉ đạt được những thành tựu không đáng kể.
Hai là, hội nhập quốc tế là quá trình xóa bỏ một số khác biệt giữa các nước,
xác lập những tiêu chí phát triển chung, trong đó cùng với việc làm rõ quyền lợi,
nghĩa vụ, trách nhiệm về mọi mặt của từng quốc gia thành viên, là việc hy sinh một
phần tính độc lập trong các quyết sách kinh tế và phát triển. Điều này đồng nghĩa
với việc để hội nhập quốc tế một cách đầy đủ và toàn diện thì quyền quyết định
quốc gia càng có nguy cơ bị thu hẹp.

Ba là, hội nhập quốc tế ngày nay là xu thế chung, phổ biến, đã diễn ra với tốc
độ rất nhanh. Việc mở cửa thị trường trong một thời gian ngắn đồng nghĩa với việc
tạo điều kiện cho các dòng hàng hóa nhập khẩu xâm nhập mạnh nhất, khiến cho sản
xuất bên trong của một số nước bị đe dọa nghiêm trọng, trước hết là đối với các
doanh nghiệp non trẻ; nguồn thu của ngân sách nhà nước bị thu hẹp, đồng nghĩa với
việc các tập đoàn xuyên quốc gia sẽ “tham dự” trong một số lĩnh vực kinh tế quan
trọng; đồng nghĩa với việc phải loại bỏ một lực lượng lớn những người lao động và
quản lý không còn đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ chế kinh tế mới, gây hậu quả
nghiêm trọng đến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động trong nước,
khoét sâu nghèo đói. Những thách thức này là lớn đối với những nền kinh tế mà ở
đó kinh tế thị trường phát triển chậm, mức độ sẵn sàng hội nhập của chính phủ và
doanh nghiệp cùng người dân thấp, nguồn lực bên trong (tài nguyên, vốn, nhân lực)
yếu bởi hội nhập quốc tế không chờ đợi ai.
Tóm lại, tác động của hội nhập quốc tế đến phát triển kinh tế - xã hội và đói
nghèo trên thế giới bao gồm cả cơ hội và thách thức, trong đó những thách thức là
không nhỏ, đặc biệt là ở thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế như hiện nay. Nhưng
điều quan trọng là cả cơ hội và thách thức đều mang tính tương đối, tạm thời và đều
có thể dự đoán được.
22
 Vai trò của các tổ chức quốc tế đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo trên
thế giới
Liên hợp quốc (The United Nations - UNs): Trong thời gian qua, Liên hợp
quốc thể hiện rõ vai trò của mình qua một loạt các nỗ lực trong cuộc chiến chống
đói nghèo. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp
quốc về Môi trường và Phát triển; Chương trình Nghị sự 21; và các Mục tiêu Phát
triểnThiên niên kỷ (MDGs):
Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (Rio de
Janeiro - 1992). Hội nghị đã thống nhất về quan điểm phát triển bền vững đó là: Tất
cả các quốc gia và tất cả các dân tộc cần hợp tác trong nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ
nghèo nàn như một yêu cầu không thể thiếu được cho sự phát triển bền vững để

giảm những chênh lệch về mức sống và để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đại đa số
nhân dân thế giới. Hội nghị đã thông qua Chương trình Nghị sự 21 - Agenda 21.
Chương trình Nghị sự 21 có nội dung bao trùm lên các vấn đề về môi trường, phát
triển và nhằm vào 12 mục tiêu. Đạt được phát triển bền vững trong thế kỷ 21 là mục
tiêu chủ đạo của Chương trình Nghị sự 21.
Bên cạnh Chương trình Nghị sự 21, tháng 9 năm 2000, tại Hội nghị Thượng
đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại New York đã đưa ra các Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ (Millenium Development Goals - MDGs), với phương châm
“cùng tiến lên phía trước”, các nhà lãnh đạo của 189 quốc gia đã thống nhất thông
qua tám mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ ghi nhận sự đồng lòng chưa từng có của
các nhà lãnh đạo trên thế giới về những thách thức quan trọng trong thế kỷ 21 cũng
như cam kết chung về việc giải quyết những thách thức này. Tám mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ bao gồm 18 chỉ tiêu và 48 chỉ số kỹ thuật đo lường tiến độ thực hiện các
MDG,
là chương trình đầy tham vọng trải dài suốt 15 năm (xem phụ lục 1).
Việt Nam cũng như hầu hết các nước tiếp tục triển khai thực hiện những cam
kết của mình trong Tuyên bố Thiên niên kỷ; Cùng với việc đề ra các mục tiêu phát
triển của Việt Nam (xem phụ lục 2) Chính phủ Việt Nam cũng tiến hành lồng ghép
ngày càng đầy đủ hơn các MDG với chất lượng cao hơn trong kế hoạch Phát triển
kinh tế - xã hội, thúc đẩy việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Trong 10 năm qua thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc đạt được các
MDG nhưng mức độ tiến bộ là không đồng đều ở các châu lục và các quốc gia.
23
Trong khi những nước có nền kinh tế phát triển nhanh có cơ hội thực hiện được các
MDG theo đúng lộ trình và có thể hoàn tất vào năm 2015 thì ngược lại, nhiều nước
khác chỉ có thể đạt được MDGs nếu nhận được hỗ trợ từ bên ngoài. Khó khăn đối
với cộng đồng thế giới là làm thế nào huy động được sự hỗ trợ tài chính và hậu
thuẫn chính trị, tái định hướng các chính sách phát triển của mình và thiết lập quan
hệ hợp tác với các tổ chức phi Chính phủ và khu vực tư nhân. Qua đây cho thấy đói
nghèo là vấn đề chung trên quy mô toàn cầu. Do vậy, hội nhập quốc tế là đòn bẩy,

sự liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia nhằm đạt được mục đích chung là xóa đói
giảm nghèo trên toàn thế giới.
Hệ thống các tổ chức thuộc Liên hợp quốc: Các tổ chức thuộc Liên hợp
quốc đóng góp vai trò to lớn trong công cuộc khắc phục nạn đói nghèo. Với mỗi đặc
trưng riêng của từng tổ chức, các khía cạnh của đói nghèo được thảo luận và đưa ra
các biện pháp hiệu quả nhất.
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP): là nguồn hỗ trợ phát triển đa
phương lớn nhất trên thế giới. Thông qua việc cung cấp chuyên gia tư vấn, đào tạo
và hỗ trợ các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, UNDP đã
hỗ trợ các quốc gia nhằm đạt được các MDG. Để thực hiện các MDG và khuyến
khích phát triển toàn cầu, UNDP đặc biệt chú trọng vào công tác giảm nghèo và
HIV/AIDS, quản lý dân chủ, ngăn ngừa và phục hồi khủng hoảng; năng lượng và
môi trường. Cụ thể:
Về xóa đói giảm nghèo: UNDP giúp các nước phát triển các chiến lược chống
đói nghèo thông qua việc mở rộng tiếp cận với các cơ hội và nguồn lực kinh tế, kết
nối các chương trình đói nghèo với các chính sách và mục tiêu lớn hơn của quốc gia
và đảm bảo tiếng nói cho người nghèo. UNDP hoạt động ở tầm vĩ mô nhằm cải
cách thương mại, khuyến khích xóa nợ và đầu tư nước ngoài và đảm bảo người
nghèo nhất cũng được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa.
Về HIV/AIDS: UNDP giúp các quốc gia đặt vấn đề HIV/AIDS vào trọng tâm
phát triển quốc gia và chiến lược xóa đói giảm nghèo; xây dựng năng lực quốc gia
và huy động tất cả các cấp chính quyền và địa phương nhằm tìm giải pháp hiệu quả,
bảo vệ quyền của những người sống chung với AIDS, phụ nữ và những người dễ bị
tổn thương.
Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (Food and Agriculture Organization -
FAO): là cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc, tổ chức dẫn đầu các nỗ lực thế
giới chống đói nghèo. FAO hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ các quốc gia thành
24
viên nâng cao mức dinh dưỡng và mức sống của người dân, thông qua việc tăng
cường sản xuất, cải tiến thị trường; khuyến khích phát triển nông thôn và nâng cao

điều kiện sống của người nông dân, qua đó thực hiện thắng lợi mục tiêu xóa đói
giảm nghèo. FAO đặc biệt chú trọng đến các khu vực nông thôn đang phát triển, nơi
có 70% dân số nghèo đói trên thế giới nhằm đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và an
ninh lương thực cho mọi người.
Hộp 1: Các hình thức trợ giúp và hợp tác của FAO
- Hợp tác thông qua các dự án của UNDP: Trong khuôn khổ các dự án của UNDP,
ngoài UNDP và nước nhận viện trợ, FAO tham gia như một th
ành viên thứ ba.
- Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác kỹ thuật (TCP): Đây là sự hỗ trợ của FAO
dưới h
ình thức dự án trợ giúp các nước thành viên. Mỗi dự án trị giá khoảng từ
250.000 USD đến 500.000 USD, trích từ nguồn vốn ngân sách thường xuyên của
FAO. Khoảng 60% dự án TCP hỗ trợ trực tiếp cho các nước nhận viện trợ và 40% cho
các chương trình quốc tế khác. Trung bình thời gian thực hiện dự án này là một năm và
không được kéo dài quá hai năm.
- Hợp tác thông qua Quỹ Ủy Thác (TF) của FAO: Đây là nguồn viện trợ nước ngoài
c
ủa các chính phủ, các ngân hàng và các tổ chức thế giới thông qua FAO thực hiện và
qu
ản lý.
- Hợp tác thông qua Sáng kiến Chương trình lương thực truyền thông (Telefood): Sáng
ki
ến này được FAO đưa ra nhằm huy động thêm nguồn tài chính cho các dự án chống
đói nghèo, thông qua các hoạt động truyền thông giúp nâng cao nhận thức của người
dân về nạn đói nghèo trên thế giới. Nguồn vốn cho mỗi dự án thuộc loại này rất hạn
chế, chỉ khoảng 10.000 USD/dự án.
- Hợp tác thông qua Chương trình đặc biệt về an ninh lương thực (The Special
Programme for Food Security (SPFS): Chương tr
ình SPFS hiện đang được triển khai ở
trên 100 quốc gia nhằm nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân nhỏ và các hộ

nghèo thành thị.
- Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác giữa các nước đang phát triển (gọi tắt là hợp tác
Nam - Nam): Nước đang phát triển này cung cấp kinh nghiệm, chuyên gia trong các lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp… cho các nước đang phát triển khác. Chương trình này được
đánh giá cao v
ì chi phí cho chuyên gia thấp, dễ chia sẻ kinh nghiệm vì các nước đang phát
triển có nhiều điều kiện và trình độ phát triển tương tự. [70]

×