Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Mở rộng liên minh Châu Âu ( EU) nhìn từ góc độ địa chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.3 MB, 123 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ THÙY NGUYÊN





MỞ RỘNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ ĐỊA CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế





Hà Nội-2012

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THÙY NGUYÊN


MỞ RỘNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ ĐỊA CHÍNH TRỊ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.02.06

Người hướng dẫn khoa học: TSKH Lương Văn Kế


Hà Nội-2012

3

LỜI CẢM ƠN
Sự thành công của tôi không bao giờ là nỗ lực của riêng mình.
Trước hết, tôi sẽ không thể hoàn thiện luận văn này nếu không có những tác
giả đi trước đã cung cấp thông tin, nghiên cứu về địa chính trị, về EU, NATO, quan
hệ EU - NATO, EU - Mỹ, về khu vực Balkan, và rất nhiều các vấn đề khác có liên
quan đến địa chính trị và EU hiện nay. Vì thế, tôi dành sự cảm ơn lớn đối với tất cả
tác giả có tác phẩm hoặc bài viết mà tôi đã tiếp cận trong quá trình hoàn thành luận
văn. Dù tôi không sử dụng toàn bộ tài liệu đã tiếp cận, nhưng tất cả các quan điểm
hay bài viết đó đã giúp tôi phát triển và hoàn thiện hơn những lập luận của mình.
Đặc biệt, tôi khó có thể hoàn thành luận văn nếu không có sự hướng dẫn đầy
cảm thông và tận tình của TSKH Lương Văn Kế. Thầy đã dìu dắt và định hướng
cho tôi rất nhiều trong từng bước đi của tôi từ khi còn là sinh viên, mới bắt đầu biết

đến hoạt động nghiên cứu khoa học. Không có sự dìu dắt của thầy, tôi có lẽ đã
không bắt đầu nghiên cứu về vấn đề mở rộng EU dưới góc nhìn địa chính trị.
Tôi cảm ơn tất cả bạn bè, người thân đã động viên, giúp đỡ, góp ý và giúp tôi
hoàn thiện luận văn, dịch một số tài liệu tiếng Anh, kiểm tra và soát lỗi
Ngoài ra, trong suốt quá trình học chương trình đào tạo thạc sỹ, tôi
đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của các cán bộ đào tạo và giảng
dạy của khoa Quốc tế học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và trân trọng nhất đối với tất cả
những sự giúp đỡ và quan tâm này.






4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn với đề tài: “Mở rộng Liên minh châu Âu (EU)
nhìn từ góc độ địa chính trị” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Luận văn có sự kế thừa, tham khảo các công trình nghiên cứu của những
người đi trước và có sự bổ sung những tư liệu, kết quả nghiên cứu mới. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, được sử dụng trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thùy Nguyên















5

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CÁCH LÝ GIẢI VỀ HỘI NHẬP KHU VỰC CHÂU ÂU TRONG CÁC
LÝ THUYẾT QUAN HỆ QUỐC TẾ. LÝ THUYẾT ĐỊA CHÍNH TRỊ VỀ HỘI NHẬP
CHÂU ÂU 20
1.1 Cách lý giải về hội nhập khu vực Châu Âu trong các lý thuyết quan hệ quốc tế 20
1.2 Lịch sử hình thành khoa học địa chính trị trong nghiên cứu quan hệ quốc tế …27
1.2 Cơ sở lý luận địa chính trị của liên kết châu Âu ……………………………….33
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ MỞ RỘNG
EU. TRIỂN VỌNG MỞ RỘNG EU TRONG TƯƠNG LAI 39
2.1 Đặc điểm địa lý và sự hình thành EU nhìn từ góc độ địa chính trị……… …… 39
2.1.1 Vị trí địa chính trị của khu vực châu Âu 39
2.1.2 Đặc điểm địa chính trị của sự hình thành EU 42
2.2 Đặc điểm địa chính trị của quá trình mở rộng EU…………………… ………….47
2.2.2 Đặc điểm địa chính trị của việc mở rộng EU sau Chiến tranh Lạnh 51
2.3 Triển vọng của sự mở rộng EU nhìn từ góc độ địa chính trị……… …………….61
2.3.1Triển vọng lạc quan 61
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA VIỆC MỞ RỘNG EU 75
3.1 Đối với bản thân EU …… …………………………………………….………… 75
3.2 Tác động đến vị thế địa chính trị của Mỹ trong NATO………… ……………….77

3.3 Tác động đến vị thế địa chính trị của Nga ……………………… ……………… 85
3.4 Tác động đến quan hệ EU - ASEAN và EU - Việt Nam……….…………… ……89
3.4.1 Tác động đến quan hệ EU – ASEAN…………………….… ……………………89
3.4.2 Tác động đến quan hệ EU - Việt Nam… …… ………… ………………….77
KẾT LUẬN 99
6

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 1: Bản đồ địa lý tự nhiên Châu Âu 115
PHỤ LỤC 2: Thuyết Vùng đất trái tim của H.Mackinder 115
PHỤ LỤC 3: Bản đồ các nước tiền thân của EU 115
PHỤ LỤC 4: Bản đồ và các chỉ số của EU27 119
PHỤ LỤC 5: Chính sách láng giềng EU (ENP) và triển vọng mở rộng EU trong tương
lai…………………………………………………………… ………………… 119
PHỤ LỤC 6: NATO và chính sách mở rộng sang phía Đông 120
PHỤ LỤC 7: Bản đồ các nước trong khối Eurozon và Non-Eurozon 120
PHỤ LỤC 8: Biên niên các sự kiện của EU 118











7


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TÊN VIẾT TẮT TÊN TIẾNG ANH, VIỆT
ASEAN Association of Southeast Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CEE Central- East European Countries

Các quốc gia Trung và Đông Âu
CFSP Common Foreign Securiry Policy

Chính sách An ninh và Đối ngoại chung
CTTGI Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
CTTGII Chiến tranh Thế giới lần thứ hai
ECSC European Coal and Steel Community

Cộng đồng Than Thép Châu Âu
EEA European Economic Area

Khu vực kinh tế châu Âu
EC European Commission

Hội đồng châu Âu
EEC European Economic Community

Cộng đồng kinh tế châu Âu
EMU Economic and Monetary Union

Liên minh Kinh tế và Tiền tệ
ENP European Neigbourhood Policy


Chính sách láng giềng châu Âu
EU European Union

Liên minh châu Âu
GDP Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội
IMF International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế
8

NAFTA North American Free Trade Association

Hiệp hội Thương mại Tự do Bắc Mỹ
NATO North Atlantic Treaty Organisation

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
OEEC Organisation for European Economic Cooperation

Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu
QHQT Quan hệ quốc tế
SEE South East European Countries

Các quốc gia Đông Nam Âu
WEU Western European Union

Liên minh Tây Âu
TBCN Tư bản chủ nghĩa

XHCN Xã hội chủ nghĩa
ĐCT Địa chính trị











9

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Liên minh châu Âu (European Union - viết tắt là EU) xuất hiện từ năm 1993,
là một liên minh kinh tế, chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên thuộc châu Âu.
Tên gọi EU bắt đầu xuất hiện từ năm 1993, sau hiệp ước Mastricht (hiệp ước Liên
minh châu Âu. Trước đó, EU là Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic
Community - EEC), có tiền thân là tổ chức Cộng đồng than thép Châu Âu ( ECSC)
được thành lập từ năm 1957. Trải qua những giai đoạn liên kết và từng bước hội
nhập về nhiều mặt, đến nay EU với 27 quốc gia thành viên đã trở thành một trong
những trung tâm của thế giới về kinh tế cũng như chính trị, được coi là tổ chức liên
kết khu vực lớn nhất và thành công nhất trên thế giới.
Có rất nhiều cách nhìn khác nhau về nguyên nhân và động lực của sự mở rộng
EU. Khi nhìn từ góc độ địa chính trị (ĐCT), mở rộng EU như một xu hướng tất yếu
của lịch sử, thể hiện nhu cầu khách quan của chính trị nhìn từ sự gần gũi về địa lý
và mang tính chiến lược.

Tiến trình nhất thể hóa và mở rộng EU thể hiện xu thế tất yếu của thời đại, khi
mà chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế và toàn cầu hoá trở thành một chủ đề
nghiên cứu thu hút sự quan tâm không chỉ của các học giả mà còn của các nhà
hoạch định chính sách. EU lại là một tổ chức khu vực điển hình thành công trên
nhiều mặt mà các khu vực khác trên thế giới cần học hỏi. Việt Nam, không nằm
ngoài xu thế chung của thời đại, cũng đang lần lượt gia nhập các tổ chức quốc tế và
khu vực trong đó phải kể đến ASEAN - một tổ chức của những quốc gia gần gũi về
mặt địa lý và cùng chia sẻ nhiều giá trị chung. Nghiên cứu EU và sự mở rộng EU là
một trong những yêu cầu bức thiết của chúng ta trong việc học tập mô hình hội
nhập khu vực và hoạch định chính sách đối ngoại. Với mong muốn được nghiên
cứu mảng đề tài còn mới mẻ này và hy vọng được góp một phần nhỏ cho quá trình
nhận thức cũng như hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay, tôi đã
lựa chọn đề tài “Mở rộng Liên minh châu Âu nhìn từ góc độ địa chính trị” cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
10

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
EU hiện nay là chủ thể có tác động rất lớn tới cục diện thế giới cũng như có tầm
ảnh hưởng không nhỏ đối với nhiều quốc gia và khu vực. Dưới tác động của quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập xuyên quốc gia, các mối quan tâm về an ninh quốc tế,
ĐCT của biên giới châu Âu và khu vực biên giới đã trở thành chủ đề thu hút nhiều
sự quan tâm. Và quá trình mở rộng biên giới của EU trở thành trung tâm của các
cuộc thảo luận gần đây với các khía cạnh: bản chất thay đổi của EU, các ý nghĩa của
việc mở rộng EU xét về góc độ ĐCT và tương lai hiến pháp EU cho một liên minh
thống nhất hơn.
Trên thế giới:
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, chủ đề về mở rộng EU đã thu hút được nhiều sự
quan tâm của các học giả và các nhà nghiên cứu chính sách ở nhiều nước. Hầu hết
các tác phẩm về chủ đề mở rộng EU nhìn từ góc độ ĐCT là các bài bình luận ngắn
hoặc trung bình mang tính thời sự trên các báo, tạp chí và tài liệu nghiên cứu

chuyên ngành. Tuy vậy, trong các năm gần đây, sách nghiên cứu về chính sách mở
rộng EU có xét từ góc độ đia chính trị cũng liên tục được phát hành, ví dụ như:
- “Geopolitics of European Union Enlargement The fortress empire”
(ĐCT của Liên minh châu Âu mở rộng), cuốn sách tập hợp nhiều bài nghiên cứu của
các học giả, Warwick Amstrong và James Anderson biên soạn, xuất bản năm 2007,
nhà xuất bản Routledge (thuộc Taylor & Francis Group). Trong cuốn sách, thông
qua việc phân tích quá trình mở rộng EU, các tác giả của cuốn sách đã xây dựng
một hình ảnh không thể tách rời của biên giới nội bộ và bên ngoài của EU và các
vùng đất biên giới phản ánh rõ nhất quá trình thay đổi biên giới và xã hội đang diễn
ra ở châu Âu. Họ nghiên cứu các vấn đề như an ninh, nhập cư, phát triển kinh tế và
những thay đổi về văn hóa, xã hội và chính trị, cũng như mối quan hệ của EU với
thế giới Hồi giáo và các cường quốc khác. Cuốn sách bao trùm một loạt các quan
điểm tư tưởng và lý thuyết, đưa ra các nghiên cứu trường hợp chi tiết các khu vực
biên giới khác nhau và những mối quan tâm của người dân địa phương, trong khi
tham gia vào các cuộc thảo luận rộng lớn hơn của sự phát triển trên khắp châu Âu,
11

chính sách của nhà nước và các mối quan hệ của EU với các nước láng giềng. Các
tác giả cũng đưa ra dự đoán rằng EU mở rộng phải xây dựng chiến lược đối mặt với
một thế giới cạnh tranh khốc liệt - và xây dựng pháo đài phòng thủ chống lại những
khó khăn phát sinh từ việc văn hóa châu Âu bị pha trộn và các mối đe dọa như
khủng bố… Đây là một tài liệu bổ ích cho sinh viên và các nhà nghiên cứu trong
các lĩnh vực chính trị châu Âu, địa lý, các nghiên cứu quốc tế, xã hội học và nhân
chủng học.
- “Europe as Empire: The Nature of the Enlarged European Union”
(Châu Âu như Đế chế: Bản chất của Liên minh châu Âu Mở rộng), tác giả Jan
Zielonka, xuất bản năm 2006, nhà xuất bản Oxford. Cuốn sách được đánh giá như
là một tham vọng và là một công trình quan trọng trong đó trình bày về khả năng
căn bản cho một châu Âu mở rộng vĩnh viễn, vĩnh viễn phân cấp và việc tìm kiếm
cách thức mới để mang lại trách nhiệm và tính hợp pháp Với cách viết rõ ràng và

thanh lịch, tránh lý thuyết quá phức tạp nhưng đã chứng minh được bản chất phát
triển của EU sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và sự thất bại của Hiến pháp châu
Âu. Nội dung chính của nó tập trung vào phân tích đánh giá việc mở rộng EU lần
thứ 5 đã là biến đổi sâu sắc EU. Tác giả so sánh và đưa ra nhiều điểm tương đồng
giữa quá trình hội nhập châu Âu và quá trình xây dựng nhà nước, EU không có gì
giống như một trạng thái siêu quốc gia Westphalia mà đang nổi lên giống như một
loại chủ nghĩa đế quốc thời Trung cổ với một hệ thống đa trung tâm, chính phủ và
khu vực pháp lý chồng chéo, gây ấn tượng không đồng nhất văn hóa và kinh tế, biên
giới bị mờ dần, và chủ quyền bị chia sẻ. Cuốn sách này cố gắng giải thích rõ ràng
nguồn gốc, hình dạng, và ảnh hưởng của “đế chế EU” với mục đích của cuốn sách
này là để đề nghị một cách tư duy mới về EU và quá trình hội nhập châu Âu. Cuốn
sách cũng đề xuất một hệ thống quản lý kinh tế và dân chủ đáp ứng những thách
thức to lớn hơn nữa của hiện đại hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau trong xu thế toàn cầu
hóa. Nó xác định kịch bản đáng tin cậy nhất của việc thúc đẩy thay đổi hòa bình ở
châu Âu và xa hơn nữa. Tác giả cho rằng suy nghĩ về hội nhập châu Âu là dựa trên
giả định sai lầm và cho thấy cách hiệu quả hơn và hợp pháp hơn trong việc quản lý
châu Âu là thông qua một Hiến pháp châu Âu, tạo ra một đội quân châu Âu, hoặc
12

giới thiệu của một mô hình xã hội châu Âu. Có thể nói, cuốn sách là một công trình
nghiên cứu lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực từ chính trị, và kinh tế đối ngoại và an
ninh. Nó phân tích sự phát triển ở cả Đông và Tây Âu.
- “The foreign policy of the European Union: assessing Europe's role in
the world” (Chính sách đối ngoại của Liên minh châu Âu (EU): đánh giá vai
trò của châu Âu trên thế giới), Tác giả Federiga M.Bind, xuất bản năm 2010, Nhà
xuất bản Brookings Institution Press. Ngoải việc đưa ra những vai trò quan trọng
của EU trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, môi trường và đặc biệt là ngoại
giao và an ninh quốc tế. Cuốn sách đặc biệt tập trung nghiên cứu về chính sách đối
ngoại của EU: mục tiêu, cách thức triển khai và những đặc điểm chính của chính
sách đối ngoại EU trên cả chiều sâu và chiều rộng. Cuốn sách còn phân tích chính

sách đối ngoại của EU với các quốc gia và khu vực cụ thể như Mỹ, châu Phi, châu
Á, đặc biệt là với các nước láng giềng lân cận của EU ở khu vực Địa Trung Hải,
Trung Đông và Trung Á.
- “European Union enlargement: A comparative history” (Liên minh châu
Âu mở rộng: Một lịch sử so sánh), tác giả Wolfram Kaiser và Jürgen Elvert (biên
soạn) xuất bản năm 2004, nhà xuất bản Routledge, tại London và New York. Cuốn
sách phân tích, so sánh các chính sách hậu Chiến tranh Lạnh của các nước gia nhập
EU giữa năm 1973 và 1995. Nghiên cứu các chính sách của các quốc gia mới gia
nhập EU hướng tới sự hợp nhất châu Âu. Xem xét chính sách của các quốc gia như:
Anh, Đan Mạch, Ai len, Hy Lạp
- “Western Balkan integration and the EU: An agenda for trade and
growth” (Tây Balkan hội nhập và EU: Chương trình nghị sự thương mại và tăng
trưởng), Sanjay Kathuria biên soạn, ấn phẩm của Ngân hàng Thế giới, xuất bản năm
2008 tại thủ đô Washington D.C. Cuốn sách nêu sơ lược về bối cảnh kinh tế vĩ mô
của Đông Nam châu Âu, phân tích những định hướng thương mại và cạnh tranh lao
động ở khu vực Đông Nam châu Âu và một số vấn đề về hội nhập kinh tế và đầu tư,
thương mại trong các dịch vụ ở Balkan và khu vực Đông Nam châu Âu
13

- Ngoài ra còn có một số cuốn sách khác như: “The European Union and its
neighbourhood: policies, problems and priorities” (Liên minh châu Âu và vùng
lân cận của nó: chính sách, các vấn đề và các ưu tiên) của Viện Quan hệ quốc
tế, Parague, tác giả: Petr Kratochvíl, xuất bản năm 2006; “The Enlargement of
European Union: Issues and Strategies” (Sự mở rộng Liên minh Châu Âu những
vấn đề và chiến lược), Alice Landau and Richard G.Withman chủ biên, xuất bản
năm 1999 tại Anh, nhà xất bản Routledge; “Social democracy and the challenge
of European Union” (Xã hội dân chủ và thách thức của Liên minh châu Âu), tác
giả Robert Ladrech, nhà xuất bản Boulder, Lynne Rienner, tại London năm 2000;
“EU and Asia: Sharing diversity in an inter - regional partnership” (EU và
châu Á: Chia sẻ sự đa dạng trong quan hệ đối tác liên khu vực), xuất bản năm 2002,

tác giả là Chủ tịch Ủy ban châu Âu Romano Prodi, “New Geopolitics of Central
and Eastern Europe: Between European Union and United State, Warsaw”
(ĐCT mới của Trung và Đông Âu: từ Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, Warsaw), xuất
bản năm 2005, ấn phẩm của Quỹ Stefan Batory, “Minority Protection and the
Enlarged European Union: The Way Forward” (Bảo vệ dân tộc thiểu số và Liên
minh châu Âu mở rộng: Con đường phía trước), do Gabriel N. Toggenburg biên
soạn, EURAC, Viện Xã hội mở, xuất bản năm 2004; v.v
- Một số ấn phẩm tiêu biểu của các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học,
cơ quan trực thuộc chính phủ, phi chính phủ có thể kể đến như: “Europeanization
beyond the EU? The case of Ukrainian energy security policy” (Quá trình châu
Âu hóa ngoài EU? Trường hợp của Chính sách an ninh năng lượng Ucraina) của
Đại học Wroclaw, Ba Lan, tháng 5/ 2007, tác giả Michal Natorski; Ferenc
Miszlivetz (2002), “The birthday of a new sovereign” (Sự ra đời của một chủ
quyền mới) của Viện Khoa học Xã hội và châu Âu (ISES), Szombathely; Các bài
viết trong Tạp chí So sánh chính trị (Comparative Politics), xuất bản tháng 07/2008
như “A too Perfect Union? Why Europe said “No” (Một Liên minh quá hoàn hảo?
Tại sao châu Âu nói “Không”?) tác giả Andrew Moravcsik, John O’Loughlin,
“Geopolitical Visions of Central Europe” (Triển vọng ĐCT ở Trung Âu) của
Viện Khoa học Hành vi, Đại học Colorado Campus; “Challenges of the Eastern
14

Enlargement of the European Union” (Thách thức của việc mở rộng Liên minh
châu Âu về phía Đông) tác giả Adina Popovic; v.v
- Ngoài ra, một số tác phẩm về ĐCT trong đó cung cấp ít nhiều nội dung về
việc mở rộng EU nói riêng và hội nhập khu vực nói chung nhìn từ góc độ ĐCT như
“Geoplitical changes in the Western regions” (Những thay đổi ĐCT ở khu vực
phía Tây) tác giả Zang Xiaodong, đăng trên tạp chí ĐCT Heartland-Eurasian (Lime);
“The Geographical Pivot of History” (Trục ĐCT của lịch sử), tác giả Halford
John Mackinder, công bố năm 1904 tại Anh; “Liên minh châu Âu và chủ nghĩa
khu vực mới, các chủ thể khu vực và quản trị toàn cầu trong thời hậu bá

quyền” (European Union and New Regionalism- Regional actors and global
governance in a post-hegemonic era), cuốn sách tập hợp các nghiên cứu trong loạt
bài về chủ nghĩa khu vực mới do Mario Telo chủ biên năm 2007, thuộc khoa Kinh
tế Chính trị Quốc tế, bản dịch của TSKH. Lương Văn Kế & Lê Thu Trang năm
2010.
Ở Việt Nam:
Có thể nói, việc nghiên cứu về EU được phát triển mạnh ở nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu về thực thể chính trị đặc biệt này,
các nhà nghiên cứu Việt Nam không chỉ lưu tâm đến vấn đề liên kết kinh tế, mà còn
đặc biệt quan tâm đến những yếu tố chính trị trong quá trình nhất thể hóa châu Âu.
Đơn cử như cuốn sách “Hợp tác thương mại và kinh tế với EU” - thông tin
chuyên đề của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Cuốn sách tập trung nghiên cứu quá
trình hình thành, phát triển, hoạt động của EU nói chung, đem đến cái nhìn tổng
quan về chính sách kinh tế của các nước thành viên EU cũng như chính sách kinh tế
chung của toàn Liên minh; từ đó hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách kinh tế của
Việt Nam cũng như quá trình thâm nhập vào thị trường EU của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Gần đây đã xuất hiện một số nghiên cứu nhất định về hội nhập khu vực và
quan hệ quốc tế (QHQT) nhìn từ góc độ ĐCT của học giả Việt Nam trong nước,
15

trong đó có việc nghiên cứu EU từ khía cạnh ĐCT cũng đã bắt đầu được chú ý. Có
thể kể đến là:
- “Thế giới đa chiều”: Cuốn sách chuyên khảo của TSKH.Lương Văn Kế về
lý thuyết kinh nghiệm và lịch sử nghiên cứu khu vực gắn liền với nghiên cứu ĐCT,
về các yếu tố ĐCT cấu thành nên sức mạnh tổng hợp của một quốc gia và khu vực.
Trong cuốn sách cũng có phần đề cập đến quá trình hội nhập EU và việc hài hòa lợi
ích của các quốc gia thành viên với lợi ích của toàn Liên minh.
- “Những vấn đề xung quanh việc hợp nhất châu Âu”: Cuốn sách tập hợp
những bài viết phân tích về các vấn đề của việc hợp nhất châu Âu trên mọi mặt an

ninh, đối tác vì hoà bình trong đó nêu lên những quan điểm của Hoa Kỳ về tương
lai của NATO
- “Mở rộng EU và các tác động đối với Việt Nam”: công trình song ngữ,
được thực hiện bởi Chương trình nghiên cứu Châu Âu tại Việt Nam do GS.TS Bùi
Huy Khoát - Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu châu Âu biên soạn. Ấn phẩm tập
trung nghiên cứu về vấn đề EU mở rộng đi kèm những thuận lợi và thách thức về
kinh tế, an ninh, chính trị sau khi EU mở rộng; đồng thời cũng phân tích, dự báo
những tác động của việc mở rộng này đối với Việt Nam.
- “Mở rộng NATO nhìn từ góc độ địa chính trị” - một công trình nghiên
cứu mới đây (2008), cũng khá gần gũi với đề tài này, là luận văn thạc sỹ của Hà Hải
Bình. Công trình tập trung vào quá trình mở rộng NATO sau Chiến tranh Lạnh và
những tác động ĐCT đối với nước Nga và các chủ thể khác. Công trình nghiên cứu
cũng đưa ra những dự báo về quá trình tồn tại và phát triển của NATO trong tương
lai gần. Nhưng trên hết, công trình cung cấp cho luận văn những tư liệu quý báu về
khái niệm ĐCT và lịch sử nghiên cứu ĐCT trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng, là cơ sở lý luận cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài.
- “Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển quốc gia”: Cuốn
sách được coi là công trình về địa chính trị mới nhất của Việt Nam tính cho đến thời
điểm hiện tại, của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, mới được xuất bản năm 2011.
Tác giả cuốn sách đã trình bày một số xu hướng lý thuyết ĐCT trên thế giới và quan
16

điểm ĐCT trong chiến lược và chính sách phát triển quốc gia của một số nước và
khu vực chủ chốt trên thế giới trong đó có EU, từ đó đề xuất một số kinh nghiệm
gợi mở cho Việt Nam.
- Điểm chung của các công trình và bài viết nghiên cứu về EU ở Việt Nam là
tập trung tìm hiểu về mô hình phát triển của EU và tiến trình mở rộng của EU cùng
với những tác động của nó đến QHQT nhưng xét trên khía cạnh kinh tế học, văn
hóa học và xã hội học. Ngoài cuốn sách Địa chính trị trong chiến lược và chính
sách phát triển quốc gia của Nguyễn Văn Dân có phân tích và đánh giá qua về

ĐCT các nước trong đó có EU thì hiện chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu nào từ góc độ ĐCT (geopolitics) để đánh giá tổng thể về sự biến đổi ĐCT của
EU do quá trình mở rộng và tác động ĐCT của sự mở rộng này đối với các chủ thể
khác trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu về lĩnh vực ĐCT nói
chung và quá trình mở rộng EU từ góc độ ĐCT nói riêng ở Việt Nam còn rất hiếm
hoi và rời rạc. Trong khi đó trên thế giới đây là hướng nghiên cứu hiệu quả, giải
thích được nhiều hiện tượng trong QHQT mà các cách nghiên cứu khác không làm
được, bởi QHQT giữa các quốc gia hiện nay (ví dụ vấn đề liên kết khu vực, hình
thành các tổ chức liên minh quốc tế, chiến tranh và hoà bình v.v…) luôn luôn dựa
trên các tiêu chí địa lý và bị chi phối bởi các mục tiêu chính trị và an ninh.
Luận văn hy vọng sẽ bổ sung thêm một phương pháp tiếp cận mới, góp phần
đem đến một cách nhìn toàn diện hơn về những thay đổi chính trị, ĐCT của thế giới
hiện đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của công trình nghiên cứu là nhằm sáng tỏ quá trình mở rộng EU và
dự đoán xu thế mở rộng trong tương lai của tổ chức này từ động lực ĐCT. Luận văn
cũng phân tích những tác động ĐCT của việc mở rộng EU đến các quốc gia thành
viên EU; cuối cùng là tác động ĐCT đối với các quốc gia láng giềng, các quốc gia
dân tộc và những khu vực trọng yếu trên thế giới. Từ đó, dự báo tình hình phát triển
17

của tiến trình mở rộng - nhất thể hóa EU trong tương lai, đối tượng nhắm tới tiếp
theo của khối này.
Ngoài mục đích kể trên, luận văn còn nhằm cung cấp một cơ sở lý luận phục vụ
cho đào tạo về chuyên ban châu Âu học nói riêng và chuyên ngành QHQT nói
chung.
Để đạt được mục đích như trên, luận văn đã thực hiện được những nhiệm vụ cơ
bản sau:
(1) Điểm qua các khái niệm và những đặc điểm cơ bản của ĐCT, đặc biệt là luận

điểm của bộ môn khoa học này về vấn đề liên kết khu vực.
(2) Phân tích động lực ĐCT của sự hình thành EU và của những lần mở rộng EU
từ khi thành lập cho đến nay. Dự báo về triển vọng mở rộng của EU trong
tương lai.
(3) Đánh giá tác động ĐCT của các chính sách mở rộng EU đối với tiến trình
nhất thể hóa EU, tổ chức NATO, các nước lớn, các tổ chức quốc tế, các khu
vực trên thế giới .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do việc xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên
cứu của luận văn là chính sách mở rộng của EU, tiến trình mở rộng EU qua các thời
kỳ lịch sử và tác động ĐCT của việc mở rộng EU đối với các quốc gia thành viên,
nước Nga, Mỹ, các cường quốc trên thế giới và các khu vực trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết được những nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn được vận
dụng những phương pháp nghiên cứu QHQT, đặc biệt là phương pháp liên ngành
của khu vực học trong đó bao gồm phương pháp ĐCT và địa lý chính trị; phương
pháp phân tích định lượng, định tính, phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp - đánh
giá… Trong quá trình phân tích, luận văn sẽ cố gắng xem xét các vấn đề từ góc độ
của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Các quan điểm của cách tiếp
cận hệ thống - cấu trúc cũng được vận dụng triệt để.
18

6. Cấu trúc nội dung luận văn
Luận văn gồm: Lời cảm ơn, Lời cam đoan, Mục lục, Mở đầu, Phần Nội dung
gồm có 3 chương, Phần kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo.
Cấu trúc chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cách lý giải về hội nhập khu vực Châu Âu trong các lý thuyết
quan hệ quốc tế. Lý thuyết địa chính trị về hội nhập Châu Âu
Chương này sẽ điểm qua những lý thuyết chủ yếu về hội nhập khu vực, nhấn
những điểm nổi bật trong lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ĐCT trong quan hệ

quốc tế (QHQT) và những cơ sở lý luận ĐCT của liên kết khu vực EU. Do dung
lượng luận văn có hạn và để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu đề ra ở trên, người
viết chỉ vận dụng các khái niệm cơ bản của ĐCT gắn liền với liên kết khu vực, phục
vụ cho việc lý giải cho quá trình mở rộng của tổ chức liên kết khu vực tại châu Âu
(EU).
Chương 2: Đặc điểm địa chính trị của sự hình thành và quá trình mở
rộng EU. Triển vọng mở rộng EU trong tương lai.
Nội dung chính của chương này tập trung vào phân tích những cơ sở dẫn đến
việc hình thành và chiến lược, quá trình mở rộng EU nhìn từ góc độ ĐCT, những
mục tiêu chung và riêng của EU và các quốc gia thành viên trong chiến lược này.
Chương này cũng đưa ra những đánh giá hiện trạng của EU sau sáu lần mở
rộng dưới góc độ ĐCT, từ đó dự đoán về triển vọng phát triển của EU trong tương
lai: Khả năng tiếp tục mở rộng EU cũng như khả năng ngừng mở rộng để trả lời
được câu hỏi: Thuyết ĐCT có được áp dụng trong lần mở rộng sau được không?
Chương 3: Tác động địa chính trị của việc mở rộng EU
EU mở rộng là một vấn đề quốc tế lớn và tác động đến nhiều chủ thể khác
nhau trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chương 3 chỉ tập trung phân tích những tác động
của việc EU mở rộng đến địa chiến lược, điều chỉnh chiến lược ngoại giao, quân sự
và các mối QHQT của Liên bang Nga, Mỹ, NATO, và những tác động này đối với
chính sách đối ngoại của ASEAN, Việt Nam trong thời đại ngày nay. Những tác
19

động đối với các chủ thể khác và khu vực khác được đề cập đến ở dạng nhận định
khái quát.
Đây là một đề tài còn rất mới đối với người viết. Trong quá trình nghiên cứu
và hoàn thiện luận văn này, mặc dù tôi đã cố gắng khách quan hết sức có thể nhưng
chắc chắn, công trình sẽ không thể đạt được sự khách quan tuyệt đối. Sự hạn chế về
ngôn ngữ là một điểm yếu lớn đối với cá nhân tôi, dẫn đến sự hạn chế về sự phong
phú và chất lượng của tài liệu mà tôi có thể tiếp cận được. Tôi đã cố gắng khách
quan một cách nghiêm túc nhưng tôi cũng không tránh khỏi những suy nghĩ chủ

quan của riêng mình (xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, tính cách cá nhân và
hướng tư duy, tiếp cận vấn đề, ) khi phân tích, đánh giá và cố gắng đưa ra dự báo
hợp lý từ các sự kiện. Vì vậy, luận văn có thể có những thiếu sót hay sự thiếu chiều
sâu và những ý kiến gây tranh cãi cần nhận được sự phê bình, đóng góp để sửa chữa
và hoàn thiện. Người viết kính mong nhận được sự đóng góp, phản biện của các
thầy cô, các chuyên gia cùng trong lĩnh vực và tất cả những bạn đọc quan tâm đến
đề tài.










20

CHƯƠNG 1: CÁCH LÝ GIẢI VỀ HỘI NHẬP KHU VỰC CHÂU ÂU TRONG
CÁC LÝ THUYẾT QUAN HỆ QUỐC TẾ. LÝ THUYẾT ĐỊA CHÍNH TRỊ VỀ
HỘI NHẬP CHÂU ÂU
1.1 Cách lý giải về hội nhập khu vực Châu Âu trong các lý thuyết quan
hệ quốc tế
Trong lịch sử hình thành và hội nhập EU, có rất nhiều học giả trong nhiều
lĩnh vực khác nhau trên thế giới cố gắng tìm ra lý thuyết giải thích và từ đó định
hướng cho sự hội nhập của Liên minh này trong tương lai. Có thể kể đến cả chục lý
thuyết như thuyết hiện thực mới, thuyết chức năng mới, thuyết tự do mới, thuyết
liên chính phủ, thuyết liên bang, thuyết chủ nghĩa khu vực mới, thuyết thể chế (chủ
nghĩa thiết chế hay chủ nghĩa kiến tạo)

Chủ nghĩa hiện thực mới
1
: Mặc dù không ít tư tưởng của trường phái chủ
nghĩa hiện thực mới đã bị chỉ trích phê phán, nhưng nhiều khái niệm và giả thuyết
cơ bản của trường phái này vẫn có giá trị trong phân tích và giải thích sự vận động
của quan hệ quốc tế. Những luận điểm của trường phái chủ nghĩa hiện thực mới có
ảnh hưởng sâu sắc tới những lý luận ban đầu về chủ nghĩa khu vực hay còn gọi là
những lý thuyết về hội nhập cổ điển, đặc biệt là chủ nghĩa liên chính phủ.
Những lập luận cơ bản của chủ nghĩa hiện thực mới đặt trọng tâm vào vai trò
của nhà nước, coi nhà nước là chủ thể chính chi phối tiến trình hội nhập. Tiến trình
hội nhập và thể chế hoá phụ thuộc vào nhà nước, lợi ích và quan hệ qua lại giữa các
nhà nước với nhau. Mặc dù nhân tố phi nhà nước có vai trò ngày càng tăng, nhưng
nhà nước vẫn là nhân tố chính chịu trách nhiệm đàm phán về các chuẩn tắc và luật
lệ khi tham gia vào nền kinh tế quốc tế. Thực tiễn cho thấy tiến trình hội nhập châu
Âu chịu nhiều ảnh hưởng của chủ thể nhà nước. Ngoài ra, nhìn từ góc độ khác rộng
hơn, chủ nghĩa hiện thực mới vẫn có giá trị lý giải hiện thực mới. Khi có sự thay đổi
các chủ thể, khi khu vực thay thế quốc gia-dân tộc trở thành chủ thể chính trong

1
Tiêu biểu cho trường phái này là Kenneth Waltz, Morgenthau, Robert Jervis, George Quester và Stephan
Van Evera.
21

chính trị quốc tế, chính trị giữa các quốc gia sẽ được thay thế bằng chính trị giữa
các khu vực, nhưng vẫn xoay quanh những vấn đề cốt lõi của chính trị như cạnh
tranh, sự đối lập giữa chiến tranh và hòa bình, và đấu tranh quyền lực.
- Thuyết chủ nghĩa tự do mới: Quan điểm của trường phái lý luận quan hệ
quốc tế của chủ nghĩa tự do mới cũng có những dấu ấn quan trọng trong tiến trình
phát triển của những lý luận về chủ nghĩa khu vực thời kỳ đầu. Về vai trò của nhà
nước, thuyết về sự phụ thuộc lẫn nhau cho rằng hợp tác giữa các quốc gia, chủ yếu

là giữa các chủ thể nhà nước, được xúc tiến khi các bên nhận thức được mối đe dọa
chung, hoặc để đối phó với những mối đe dọa mới xuất hiện như sự đình trệ kinh tế
hay tình hình bất ổn định, gọi chung là những vấn đề “xuyên biên giới" mà bất cứ
quốc gia nào, dù mạnh đến đâu cũng không thể một mình xử lý được.
Luận điểm của chủ nghĩa tự do về kinh tế thị trường và tự do thương mại, về sự
hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế-chính trị giữa các chủ thể trong hệ thống
quốc tế có ảnh hưởng tới luận điểm cơ bản của trường phái chức năng mới ở chỗ
cho rằng hội nhập kinh tế sẽ tạo ra sức ép dẫn tới hội nhập chính trị, và hội nhập
chính trị tới lượt nó sẽ thúc đẩy nhanh hơn nữa hội nhập kinh tế. Quan điểm của
những người theo chủ nghĩa tự do cho rằng "các cơ chế quốc tế và sự quản lý toàn
cầu ở một mức độ nào đó là cần thiết để đàm phán và thực thi các hiệp định toàn
cầu", nhằm tới mục tiêu cuối cùng là tạo ra một sự hội nhập khu vực, xây dựng một
thể chế siêu quốc gia theo mô hình liên bang (hoặc khu vực). Những ý tưởng của
chủ nghĩa tự do mới đã được phản ánh rõ nét qua các cuộc đàm phán thương mại để
thành lập GATT cũng như một loạt các hiệp định mậu dịch tự do khu vực (Free
Trade Agreement-FTA) giữa các nước thành viên của liên minh châu Âu-EU và
Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ- NAFTA sau này.
- Thuyết chức năng mới: Đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, tiến trình hội nhập châu
Âu đã khởi động trước hết với việc cải thiện quan hệ Pháp-Đức thông qua ý tưởng
Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) năm 1952, và tiếp đến là Cộng đồng Kinh tế
châu Âu (EEC) và Cộng đồng Nguyên tử châu Âu (Euratom). Sự ra đời của những
chính sách hội nhập châu Âu mang tính siêu quốc gia như "kế hoạch Schuman" hay
"phương pháp Monnet" góp phần khẳng định vị trí tiên phong trong lý luận chủ
22

nghĩa khu vực của những người theo trường phái chức năng mới (neo-functionalism)
trong thập niên 50 và 60 của thế kỷ XX như Earst Haas (1958, 1964), Leon
Lindberg (1966) [104].
Thuyết này dựa chủ yếu vào các nghiên cứu tập trung đối với các vụ việc thực
tế cụ thể. Haas, Nye và Lindberg được xem là cha đẻ của cách tiếp cận này. Hass

xem xét hoạt động hội nhập như là quá trình hình thành và mở rộng các thương
lượng, dàn xếp cùng có lợi. Ông lập luận rằng có những cách hợp tác giữa các chính
phủ, trong đó những kinh nghiệm hợp tác trong một số lĩnh vực cụ thể có thể dẫn
tới sự hợp tác của những lĩnh vực khác: sự hợp tác có thể bắt đầu trong lĩnh vực ít
liên quan tới chính trị (ví dụ than và thép) và có thể mở rộng dần sang các lĩnh vực
chính trị quan trọng khác (ví dụ ngoại giao) và quốc phòng. Nói cách khác, có một
quá trình “chảy tràn” (spillover) từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác
2
. Haas cho rằng
quá trình này không phải là một quá trình tự động hoặc tất yếu xảy ra mà nó phụ
thuộc vào sự lựa chọn khả năng hợp tác gữa cá chính phủ và các chủ thể khác.
Theo Haas và những người theo chủ nghĩa chức năng, tiến trình hội nhập khu
vực sẽ được thúc đẩy trên ba giả định: (i) tác động lan tỏa; (ii) cam kết trung thành
của các nhóm lợi ích chuyển từ cấp độ quốc gia sang thể chế khu vực; (iii) vai trò
quyết định của các thể chế siêu quốc gia đối với tiến trình hội nhập khi các thể chế
này có quyền lực hơn và độc lập hơn với các quốc gia thành viên. Cuối những năm
1960, lý luận của trường phái chức năng mới đã vấp phải những thất bại trong việc
lý giải và dự đoán tiến trình hội nhập châu Âu do sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc
mà tiêu biểu là vai trò của De Gaulle (Pháp). Nó đã làm tê liệt các cơ chế hợp tác
khu vực (ECSC, EEC và EURATOM).

2
Luận điểm này được cho là chịu ảnh hưởng của những người theo “trường phái tương tác”
("transactionalism") cho rằng "hội nhập là quá trình tiệm tiến trước hết ở lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội và
bản sắc chính trị, rồi tiến tới thể chế hoá chính trị". Các luận điểm của những người theo trường phái này chủ
trương rằng thông qua tiếp xúc để xây dựng “tính cộng đồng” (sense of community) cũng có ảnh hưởng nhất
định đối với những lý luận về hội nhập châu Âu và chiến lược phù hợp nhất để đạt tới mục tiêu cuối cùng
(tức là sự nhất thể hoá khu vực) cần phải là một chiến lược từng bước, thông qua chính sách hội nhập từng
lĩnh vực chức năng cụ thể để chuyển dần quyền lực từ cấp độ nhà nước quốc gia sang trung tâm mới


23

- Thuyết liên chính phủ: Năm 1968, Haas đã thừa nhận học thuyết chủ nghĩa
chức năng mới không còn phù hợp với thực tiễn mới, chính thức nhường lại vị trí
thống soái về tư tưởng và lý luận chủ nghĩa khu vực của trường phái này cho những
người thuộc trường phái chủ nghĩa liên chính phủ (intergovernmentalism) đứng đầu
là Stanley Hoffmann. Hoffmann đã phê phán quan điểm của chủ nghĩa chức năng
mới, cho rằng trường phái này đã mắc phải những sai lầm về mặt lý luận vì: (i) tiến
trình hội nhập không phải là quá trình khép kín, mà còn chịu tác động của môi
trường quốc tế; (ii) nhà nước quốc gia là nhân tố có quyền lực mạnh nhất trong tiến
trình hội nhập châu Âu, quyết định bản chất và tiến độ hội nhập trên cơ sở mối quan
tâm nhằm bảo vệ và phát huy "lợi ích quốc gia" của mình; (iii) hội nhập ở những
lĩnh vực chính trị cấp thấp không chắc sẽ đưa tới sự liên kết ở những lĩnh vực chính
trị cấp cao.
Theo Hoffmann, tiến trình hội nhập châu Âu là quá trình chính phủ các quốc
gia tự nguyện tham gia các hiệp định nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề chung.
Quyền lực vẫn thuộc về chính phủ các quốc gia thành viên và các quyết định được
đưa ra trên cơ sở nhất trí, chủ yếu là sự đồng thuận giữa các cường quốc. Nói cách
khác, tiến trình hội nhập chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ thành viên,
mang tính chất liên chính phủ nhiều hơn là tính chất siêu quốc gia, và "tiến trình hội
nhập chỉ tiến triển trong phạm vi mà chính phủ các quốc gia mong muốn mà thôi"
[103].
Vào đầu những năm 1990, với những nghiên cứu của Andrew Moravcsik -
những người theo trường phái chủ nghĩa liên chính phủ củng cố thêm một bước
quan trọng học thuyết của mình về mặt lý luận để đáp ứng với tình hình mới. Cũng
giống như Hoffmann, Moravcsik khẳng định quốc gia vẫn là nhân tố lý tính quyết
định trong tiến trình hội nhập châu Âu. Tuy nhiên, học thuyết chủ nghĩa liên chính
phủ tự do mới (neo-liberal intergovernmentalism) của Moravcsik có sự kết hợp với
cách tiếp cận của những người theo chủ nghĩa chức năng mới.
Trong phân tích và lý giải tiến trình hội nhập châu Âu, Moravcsik đưa ra

những nhận xét rất có giá trị: (i) tiến trình thương lượng liên chính phủ giữa các
quốc gia tham gia tiến trình hội nhập khu vực châu Âu giúp củng cố quyền lực của
24

Nhà nước trong chính trị nội bộ, (ii) hội nhập không nhất thiết đồng nghĩa với sự
củng cố quyền lực cho các thể chế siêu quốc gia, (iii) nhà nước quốc gia vẫn có thể
được coi là tác nhân chính quyết định mức độ và tiến độ hội nhập, và mục đích hội
nhập là để duy trì quyền tự trị của nhà nước quốc gia thành viên.
Ông cho rằng lợi ích quốc gia được xác định là phần quan trọng của tiến trình
vận động trong nội bộ xã hội đa nguyên chính trị của quốc gia thành viên đó.
Moravcsik sử dụng phương pháp phân tích "trò chơi hai cấp" (two-level game) để
giải thích các cuộc mặc cả thương lượng trong nội bộ liên minh châu Âu. Nhu cầu
hội nhập nảy sinh từ quá trình vận động chính trị nội bộ, và thế lực chính trị mạnh
nhất sẽ quyết định lợi ích và lập trường của chính phủ quốc gia đó khi tham gia đàm
phán hội nhập. Tuy nhiên, kết quả hội nhập lại phụ thuộc vào kết quả đàm phán
quốc tế giữa quốc gia đó với những quốc gia khác, và kết quả đó sẽ tác động trở lại
đối với tiến trình chính trị nội bộ. Mô hình "trò chơi hai cấp" có thể đưa ra cách giải
thích thuyết phục hơn các giai đoạn chính trong tiến trình hội nhập khu vực châu Âu:
(i) giai đoạn đầu khi tiến trình hội nhập châu Âu bị chững lại do các quốc gia mâu
thuẫn về lợi ích, đỉnh cao là chính trị "bỏ ghế trống" ("empty-chair" politics) của De
Gaulle; (ii) giai đoạn hai từ đầu những năm 1970 khi tiến trình hội nhập có thay đổi
cơ bản, các chính phủ tìm được tiếng nói chung trên cơ sở thương lượng và nhân
nhượng lẫn nhau.
Năm 1986, đạo luật châu Âu thống nhất (Single European Act - SEA) và thị
trường châu Âu thống nhất (Single European Market) ra đời. Những diễn biến này
phản ánh tương quan lực lượng giữa những người theo trường phái liên bang chủ
nghĩa và những người theo trường phái liên chính phủ. Mối tương quan này rõ nét
hơn khi năm 1992, Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU) đã được
15 nước thành viên ký kết, đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập
châu Âu với thể chế quyền lực siêu quốc gia và liên chính phủ tồn tại song song.

- Thuyết liên bang (Federalism): Ảnh hưởng của tư tưởng liên bang đối với
quá trình hội nhập châu Âu rất khó đánh giá. Mặc dù các nhóm theo chủ nghĩa liên
bang hoạt động khá tích cực nhưng những quyết định quan trọng thúc đẩy hội nhập
châu Âu giai đoạn đầu sau chiến tranh thế giới thứ 2 không phản ánh rõ ràng sự ảnh
25

hưởng của họ. Tuy vậy, có thể thấy sự phát triển của EU luôn có dấu hiệu ảnh
hưởng của chủ nghĩa liên bang. Những người theo chủ nghĩa liên bang hiện nay có
xu hướng hiện thực hơn và đang chuẩn bị cho việc xây dựng một liên bang theo
cách tiếp cận từng bước chứ không phải làm cách mạng một lần (tiêu biểu cho cách
tiếp cận này là Jean Monet).
Mục tiêu xây dựng EU trở thành một liên bang đầu đủ theo nghĩa của nó với
chính phủ và nghị viện riêng, được đề xuất bởi Ngoại trưởng Đức Joska Fischer
trong bài phát biểu của ông tại Berlin tháng 5 năm 2000. Mặc dù Fischer nói rằng
đây là ý kiến của riêng cá nhân ông nhưng có thể qua đó thấy rõ ước mơ liên bang
vẫn rất mạnh mẽ trong lục địa châu Âu, đặc biệt là trong giới lãnh đạo - những
người có quyền lực rất lớn trong việc thúc đẩy và làm cho giấc mơ “liên bang” của
EU trở thành hiện thực. Điều này được thể hiện bởi một loạt các dự thảo hiệp ước
của EU sau này như Hiệp ước thiết lập Hiến pháp châu Âu năm 2004, Hiệp ước cải
cách hiến pháp (Hiệp ước Lisbon).
- Chủ nghĩa khu vực mới: Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX,
những nghiên cứu về chủ nghĩa khu vực trở thành đề tài được dư luận đặc biệt quan
tâm với những lý luận mới được gọi chung là "chủ nghĩa khu vực mới". "Chủ nghĩa
khu vực mới" (new regionalism) là sự kế tiếp và phát triển mới về lý luận của chủ
nghĩa khu vực cũ, trên cơ sở chắt lọc những tư tưởng của những lý luận về hội nhập
khu vực châu Âu. "Chủ nghĩa khu vực mới" có sức khái quát lớn hơn, mang tính
học thuật và lý luận chặt chẽ hơn, đồng thời lý thuyết cũng mang tính chuẩn mực
hơn những lý luận về hội nhập khu vực cổ điển.
Lý thuyết “chủ nghĩa khu vực mới” hay cách tiếp cận “chủ nghĩa khu vực
mới” đã thành công nhất định trong việc khái quát hóa (i) khái niệm về khu vực và

tính khu vực (regionness); (ii) tính toàn diện của bản chất mở (open, inclusive and
comprehensive) và độc lập (autonomous), tính đa dạng về hình thái (dimensional)
của mô hình hội nhập khu vực; (iii) sự tương tác giữa các thành phần, tác nhân tham
gia tiến trình hội nhập khu vực (nhà nước và thành phần phi nhà nước).

×