Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nhân tố dầu lửa trong quan hệ giữa Mỹ với các quốc gia vùng vịnh Péc Xích sau chiến tranh lạnh tt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.71 KB, 28 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHẠM HOÀNG TÚ LINH





NHÂN TỐ DẦU LỬA TRONG QUAN HỆ GIỮA MỸ
VỚI CÁC QUỐC GIA VÙNG VỊNH PÉC XÍCH
SAU CHIẾN TRANH LẠNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế









Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM HOÀNG TÚ LINH



NHÂN TỐ DẦU LỬA TRONG QUAN HỆ GIỮA MỸ
VỚI CÁC QUỐC GIA VÙNG VỊNH PÉC XÍCH SAU
CHIẾN TRANH LẠNH





Luận văn Thạc sỹ Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
M số: 60 31 40




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Quang Minh









Hà Nội - 2012

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
3
1. Tính cấp thiết của đề tài
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5
4. Phạm vi nghiên cứu
5
5. Phương pháp nghiên cứu
6
6. Nguồn tài liệu
6

7. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
6
8. Kết cấu của luận văn
7
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ DẦU LỬA TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
8
1.1. Tầm quan trọng của dầu lửa
8
1.1.1. Dầu lửa với tư cách là nguồn năng lượng quan trọng
8
1.1.2. An ninh dầu lửa
10
1.2. Tác động của dầu lửa đến quan hệ quốc tế
14
1.2.1. Tác động tích cực
14
1.2.2. Tác động tiêu cực
18
1.3. Vai trò của dầu lửa đối với an ninh của nước Mỹ
20
1.3.1. Tình hình sử dụng dầu lửa ở Mỹ
20
1.3.2. Quan điểm của Mỹ về an ninh dầu lửa
21
1.4. Vị trí chiến lược của các nước vùng Vịnh Pếc-xích
23
1.4.1. Khái quát về các nước vùng Vịnh Pếc-xích
23
1.4.2. Vị trí chiến lược của các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích đối với Mỹ trên lĩnh
vực an ninh, chính trị

25
1.5. Tiểu kết Chương 1
27
CHƯƠNG 2: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÂN TỐ DẦU LỬA TRONG
QUAN HỆ CỦA MỸ VỚI CÁC QUỐC GIA VÙNG VỊNH PẾC-XÍCH
29
2.1. Chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc - xích sau Chiến tranh lạnh
29
2.1.1. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Iran
30
2.1.2. Yếu tố dầu lửa trong vấn đề Irắc
35
2.1.3. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Cô oét
41
2.1.4. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Ảrập Xê út
44
2.1.5. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
49
2.2. Đánh giá chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích
55

2


2.2.1. Về chính trị
55
2.2.2. Về kinh tế
60
2.2.3. Về quân sự
67

2.3. Tiểu kết Chương 2
70
CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ GIỮA MỸ VÀ CÁC QUỐC GIA
VÙNG VỊNH PẾC-XÍCH
72
3.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia vùng Vịnh Pếc-
xích trong thời gian tới
72
3.1.1. Xu hướng biến động của tình hình dầu lửa thế giới
72
3.1.2. Nhu cầu về dầu lửa của Mỹ ngày càng tăng
73
3.1.3. Sự cạnh tranh của Nga và Trung Quốc
74
3.2. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích
80
3.3. Phản ứng của các nước
83
3.3.1. Phản ứng của các quốc gia vùng Vịnh Pếc - xích
83
3.3.2. Thái độ của OPEC đối với chính sách dầu lửa của Mỹ
85
3.4. Tiểu kết Chương 3
87
KẾT LUẬN
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
PHỤ LỤC


PHỤ LỤC 1. Bản đồ khu vực Trung Đông và Vịnh Pếc-xích
95
PHỤ LỤC 2. Cơ sở hạ tầng dầu lửa và khí đốt ở vùng Vịnh
97
PHỤ LỤC 3. Danh sách 21 mỏ dầu lớn nhất thế giới
98
PHỤ LỤC 4. Danh sách 10 nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới
99
PHỤ LỤC 5. Những quốc gia có dự trữ dầu lớn trên thế giới
100


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lượng và vấn đề an ninh năng lượng đã trở thành một trong những yếu tố
tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến đời sống quan hệ quốc tế. Năng lượng - đặc biệt là
dầu lửa có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, là một trong các yếu
tố quyết định tốc độ phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng của một quốc
gia, đặc biệt là các quốc gia lớn. Dầu lửa còn là “quân cờ” quan trọng mà các nước sử
dụng trong bàn cờ chiến lược thế giới. Dầu lửa mang lại cho những quốc gia giàu
nguồn tài nguyên này vị thế quan trọng và sức hấp dẫn lớn, nhưng đồng thời nó cũng
là nguồn gốc của những cuộc xung đột quốc tế. Nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới
xảy ra gần đây mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ dầu lửa. Vấn đề an ninh dầu lửa
đang trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của các nước và có tác động mạnh mẽ tới
quan hệ quốc tế.
Đối với Mỹ, một quốc gia có nền kinh tế phát triển vào bậc nhất trên thế giới,
thì vấn đề năng lượng càng cấp thiết. Những chính sách, động thái của Mỹ tại các

khu vực trên thế giới kể từ sau Chiến tranh lạnh dường như đều có “mùi dầu mỏ”.
Nhìn lại lịch sử phát triển trong quan hệ quốc tế của Mỹ đặc biệt là trong quan hệ với
các nước vùng Vịnh Pếc-xich đều nổi lên một nhân tố bất biến và được xác định khá
rõ ràng, đó là lợi ích quốc gia. Một điểm chung giữa các khu vực mà Mỹ dính líu là
nguồn dầu mỏ và khí đốt phong phú.
Đằng sau lợi ích của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích, đó là những
toan tính và mưu đồ chính trị, Mỹ muốn khống chế khu vực giàu tài nguyên dầu lửa
cũng như có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng ở Châu Á nhằm duy trì và xác
lập vị trí lãnh đạo trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Với những lý do trên, em quyết định lựa chọn:“Nhân tố dầu lửa trong quan hệ
cuả Mỹ với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích sau chiến tranh lạnh” làm đề tài cho
Luận văn cao học chuyên ngành Quan hệ quốc tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở trong nước, một số nghiên cứu về chính sách dầu lửa và vấn đề an ninh dầu
lửa của các quốc gia trên thế giới đã được phân tích, nghiên cứu tại các cơ quan Bộ,
các trường Đại học và Học viện.
Ở nước ngoài, khu vực Vịnh Pếc-xích cũng thu hút nhiều sự quan tâm, đánh
giá của giới học giả nước ngoài như Mỹ, Trung Quốc, Nga.
Các công trình khoa học trên đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc làm rõ
tầm quan trọng chiến lược và tiềm năng dầu lửa vô cùng phong phú của các nước trên
thế giới nói chung và của một số nước nói riêng.
Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ của Mỹ đối với các
quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích từ sau Chiến tranh lạnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích những diễn biến trong quan hệ của Mỹ với các quốc
gia vùng Vịnh Pếc-xích dưới tác động của vấn đề dầu lửa trong giai đoạn từ sau
Chiến tranh lạnh, qua đó, làm nổi bật tầm quan trọng của vấn đề dầu lửa trong quan

2



hệ kinh tế quốc tế. Để đạt được mục đích nghiên cứu này, luận văn đề ra một số
nhiệm vụ sau đây:
(i) Làm rõ vị trí, vai trò của dầu lửa trong quan hệ quốc tế và chiến lược của Mỹ
đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích;
(ii) Phân tích quá trình điều chỉnh chính sách dầu lửa của Mỹ và tác động của nó
đến quan hệ của Mỹ với các quốc gia Vịnh Pếc-xích;
(iii) Đưa ra dự báo về triển vọng trong quan hệ của Mỹ đối với khu vực này
trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Nghiên cứu nhân tố dầu lửa tác động như thế nào trong chính sách
của Mỹ đối với các nước vùng Vịnh Pếc-xích và xu hướng trong thời gian tới, tập
trung chủ yếu vào dầu mỏ.
- Thời gian: Đánh giá nhân tố dầu lửa trong chính sách đối với các nước vùng
Vịnh Pếc-xích của Mỹ sau Chiến tranh lạnh (1989) đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI.
- Không gian: Tập trung nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với các quốc gia
Vịnh Pếc-xích, bao gồm các quốc gia có nguồn dầu khí phong phú như: Iran, Irắc,
Cô-ét, Arập Xê-út và Các tiểu vương quốc Arập thống nhất.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, là một đề tài quan
hệ kinh tế quốc tế, quan điểm khi nghiên cứu là tuân thủ phương pháp nghiên cứu
quan hệ quốc tế, quan hệ kinh tế, chính trị, thống kê để xử lý số liệu. Bên cạnh đó, tác
giả kết hợp sử dụng phương pháp lôgic để lý giải nhân tố dầu lửa trong quan hệ giữa
Mỹ và khu vực Vịnh Pếc-xích. Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp trao đổi,
thảo luận để tranh thủ ý kiến mang tính phản biện cho những nhận định, đánh giá của
mình nhằm làm giảm bớt chủ quan trong quá trình nghiên cứu.
6. Nguồn tài liệu
Các tuyên bố, các văn bản thỏa thuận, hiệp định giữa Mỹ và các nước trong
khu vực; chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh và đối với khu vực
Vịnh Pếc-xích; các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn khoa học; các bài viết

trên các Tạp chí nghiên cứu quốc tế và trang web của các cơ quan về năng lượng,
viện nghiên cứu về quan hệ quốc tế trên thế giới.
7. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
Sau khi hoàn thành mục tiêu nghiên cứu và những nhiệm vụ đề ra, luận văn sẽ
góp phần tìm hiểu về một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, đó là nhân tố dầu lửa
trong quan hệ quốc tế và chiến lược phát triển của các quốc gia nói chung và nhân tố
dầu lửa trong chính sách của Mỹ đối các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích sau Chiến
tranh lạnh nói riêng. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan và cá nhân
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập các vấn đề chính trị quốc tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, luận văn được
bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Vấn đề dầu lửa trong quan hệ quốc tế

3


Chương 2: Tầm quan trọng của dầu lửa trong quan hệ của Mỹ với các quốc gia
vùng Vịnh Pếc-xích
Chương 3:Triển vọng quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích.
CHƢƠNG 1.
VẤN ĐỀ DẦU LỬA TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
1.1. Tầm quan trọng của dầu lửa
1.1.1. Dầu lửa với tư cách là nguồn năng lượng quan trọng
Dầu lửa là nguồn năng lượng quan trọng không thể tái sinh. Từ khi được phát
hiện đến nay, dầu lửa đã đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, chính trị
và an ninh trên thế giới.
“Dầu lửa là ngành kinh doanh lớn và toàn diện nhất thế giới. Sự bành trướng
của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh
doanh, những thay đổi về công nghệ của các nền kinh tế quốc gia và quốc tế”.

Sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các
nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá; trong đó dầu lửa đóng vai
trò chủ đạo. Các quốc gia vùng Vịnh chiếm khoảng một nửa trữ lượng dầu xác minh
của thế giới (Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Những quốc gia dầu lửa lớn nhất trên thế giới
Số liệu tháng 01 & 09 năm 2010 (xem chú thích)
Tên quốc gia
Trữ lƣợng
1
Khai thác
2
Dự báo khai thác
3
10
9
thùng
Baren/ngày
10
9
m
3
khí
10
6
thùng
Baren/ngày
10
3
m
3


khí/ ngày
Số năm còn lại
Ảrập Xê út
260
41
8,8
1.400
81
Canada
179
28,5
2,7
430
182
Iran
136
21,6
3,9
620
96
Irắc
115
18,3
3,7
590
85
Cô-oét
99
15,7

2,5
400
108
UAE
97
15,4
2,5
400
106
Vênêzuêla
82
13
2,4
380
91
Nga
80
9,5
9,5
1.510
25
Libi
41,5
6,60
1,8
290
63
Nigieria
36,2
5,76

2,3
370
43
Hoa Kỳ
21
3,3
4,9
780
12
Mêhicô
12
1,9
3,2
510
10
Tổng cộng
1.137
180,8
48,2
7.660
65
Chú thích:
1. Nguồn: “Oil & Gas Journal, January, 2010”- Đánh giá trữ lượng tỷ (10
9
) thùng dầu Baren.
2. Nguồn: “US Energy Information Authority, September, 2010”.
3. Nguồn “US Energy Information Authority, September, 2010”.
Dầu lửa vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong việc quyết định an ninh, sự thịnh
vượng và bản chất của nền văn minh. Liên quan đến dầu lửa cần nhấn mạnh hai chủ
đề chính: Thứ nhất, là sự trỗi dậy và phát triển của chủ nghĩa tư bản và nền thương


4


mại hiện đại. Dầu lửa là ngành kinh doanh lớn, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất
trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Thứ hai, dầu mỏ liên quan mật thiết với các
chiến lược quốc gia, quyền lực và tình hình chính trị toàn cầu.
Trong thế kỷ XX, dầu cùng với khí đốt tự nhiên đã “hạ bệ” ngôi vị nguồn năng
lượng của thế giới công nghiệp của “ông vua than”. Dầu cũng trở thành nền tảng của
phong trào “ngoại ô hóa” rộng lớn thời kỳ hậu chiến, làm biến đổi cả phong cảnh
đương thời và lối sống hiện đại của chúng ta.
1.1.2. An ninh dầu lửa
Ngày nay, “An ninh dầu lửa” là mối quan tâm hàng đầu đối với các quốc gia.
Khái niệm an ninh dầu lửa là quá trình đảm bảo khả năng cung ứng dầu lửa với một
mức giá hợp lý theo phương thức bền vững.
Có rất nhiều khái niệm và quan điểm về an ninh dầu lửa được đưa ra, nhìn
chung các định nghĩa đều khẳng định: An ninh dầu lửa là đảm bảo duy trì nguồn dầu
lửa cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia, giữ ổn định giá và việc tiếp cận nguồn
dầu lửa một cách dễ dàng. An ninh dầu lửa có thể đạt được thông qua việc phát triển
nền kinh tế khu vực và thị trường quốc tế.
Thế kỷ XX chứng tỏ tầm quan trọng của “an ninh dầu lửa” do:
(i) các nền kinh tế hiện đại xây dựng dựa trên dầu mỏ;
(ii) sự nổi lên của 7 công ty dầu mỏ đa quốc gia trong tổng số 20 Tập đoàn
xuyên quốc gia hùng mạnh nhất thế giới;
(iii) bản chất của các cuộc xung đột, chiến tranh, đặc biệt ở Vịnh Pếc-xích.
Trước mắt, chính trị dầu lửa không phải liên quan tới vấn đề thế giới sẽ thiếu
dầu mà liên quan tới sự ra đời và ảnh hưởng ngày càng tăng của OPEC đối với các
nền kinh tế thế giới, tình hình bất ổn kéo dài ở “rốn dầu” Vịnh Pếc-xích và các cuộc
xung đột, tranh chấp biên giới, lãnh thổ ở các khu vực hiện nay.
Tóm lại, trong khi các nguồn tài nguyên không thể tái sinh ngày càng cạn kiệt

và những nguồn năng lượng khác chưa thể thay thế được vai trò chiến lược của dầu
lửa đối với nền kinh tế thế giới, thì an ninh dầu lửa vẫn mang tính thời sự và cuộc
chạy đua tìm kiếm dầu mỏ sẽ ngày càng quyết liệt hơn trong thế kỷ XXI.
1.2. Tác động của dầu lửa đến quan hệ quốc tế
1.2.1. Tác động tích cực
1.2.1.1. Nhu cầu cấp thiết về dầu lửa đã tác động mạnh đến quan hệ quốc tế,
tạo ra những điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại và ngoại giao của các
quốc gia. Các nước lớn và các trung tâm quyền lực trên thế giới như Mỹ, Trung
Quốc, Nga, Nhật Bản, EU đều tìm cách nắm giữ hoặc gây ảnh hưởng tại những khu
vực giàu tài nguyên dầu lửa trên thế giới như Trung Đông, Trung Á, Mỹ Latinh…
Thế giới chứng kiến một cuộc đua ngoại giao năng lượng “khốc liệt”, những
cuộc viếng thăm song phương của nguyên thủ các nước, đặc biệt là các nước lớn như
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, tới các khu vực có trữ lượng dầu lửa lớn làm cho
đời sống chính trị thế giới trở nên nhộn nhịp hơn.
1.2.1.2. Việc các nước, khu vực lôi kéo và tranh thủ các nước lớn tham gia vào
các hoạt động, dự án khai thác dầu lửa đã góp phần tạo dựng sự đan xen về lợi ích và

5


qua đó, ràng buộc các nước này vào các cam kết đối với hòa bình, ổn định và phát
triển quan hệ hợp tác. Cụ thể là hợp tác tăng lên trong nội bộ khối ASEAN, trong cơ
chế ASEAN+3 và rộng hơn có cả APEC.
Việc Mỹ và các nước Phương Tây hợp tác với khu vực Vịnh Pếc-xích khai
thác dầu lửa ở các quốc gia này cũng đồng nghĩa với việc Mỹ phải có những trợ giúp
về an ninh cho các quốc gia trên. Bởi nếu tình hình kinh tế -chính trị -xã hội ở đây mà
bất ổn, lợi ích kinh tế- chính trị của Washington ở các quốc gia này sẽ bị ảnh hưởng.
1.2.1.3. Việc đảm bảo an ninh dầu lửa đã góp phần hình thành những liên
minh, những cặp quan hệ đối tác chiến lược và tập hợp lực lượng mới trên thế giới.
Thế giới đã chứng kiến sự hình thành và ra đời của khá nhiều tổ chức. Ngoài Tổ chức

các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC), sự ra đời của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
(SCO) với những thành viên đều là quốc gia có trữ lượng dầu khí dồi dào và có nhu
cầu năng lượng hàng đầu thế giới.
Ở khu vực Châu Âu, vấn đề dầu khí cũng được các quốc gia tăng cường hợp
tác liên kết. Nga, quốc gia có trữ lượng dầu lửa hàng đầu thế giới nhân cơ hội này
cũng muốn gia tăng ảnh hưởng của mình với khu vực (Dự án “Dòng chảy Phương
Nam”, “Dòng chảy Phương Bắc”).
Khu vực Nam Mỹ, sự gắn kết giữa các quốc gia Nam Mỹ còn được cũng cố
chắc hơn qua dự án xây dựng một “vành đai khí đốt” ở Nam Mỹ.
1.2.1.4. Dầu lửa trở thành một trong những ưu tiên của nhiều tổ chức khu vực
và quốc tế. ASEAN và APEC đã đưa vấn đề dầu lửa thành một trong những vấn đề
cần được quan tâm hợp tác trong khuôn khổ những hoạt động của các tổ chức này.
Với trọng tâm là hợp tác phát triển nguồn các nguồn năng lượng, nghiên cứu khả
năng xây dựng các kho dự trữ dầu lửa, hợp tác chặt chẽ đảm bảo tính ổn định của thị
trường dầu lửa và chuẩn bị phương án đối phó với trường hợp nguồn cung năng
lượng bị gián đoạn.
1.2.2. Tác động tiêu cực
1.2.2.1. Việc đảm bảo an ninh dầu lửa đã gây ra tình trạng nghi kỵ, mâu thuẫn,
tranh chấp, chiến tranh giữa các quốc gia. Những cuộc xung đột và chiến tranh về
phân chia ranh giới vùng biển và chủ quyền lãnh thổ trên thế giới đã xảy ra liên tiếp,
mà động cơ chính là do dầu lửa. Điển hình là cuộc chiến tranh vùng Vịnh trong
những năm đầy thập kỷ 90, Irắc thôn tính Cô-oét, mà gần đây là cuộc chiến tranh Irắc
do Mỹ gây ra trong năm 2003.
1.2.2.2. Sự biến động của giá dầu sẽ tác động lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc
gia. Dầu lửa đã, đang và sẽ tiếp tục tác động mạnh đến quan hệ quốc tế và chính trị
thế giới. Ngày càng xuất hiện những mối quan hệ chồng chéo, đan xen lẫn nhau giữa
các quốc gia trên thế giới, trong đó đều tính đến nhân tố dầu lửa.
1.3. Vai trò của dầu lửa đối với an ninh của nƣớc Mỹ
1.3.1. Tình hình sử dụng dầu lửa ở Mỹ
Trong những năm gần đây, Mỹ là quốc gia sản xuất dầu thô lớn thứ ba trên

thế giới với sản lượng vào khoảng 5,1 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên, mỗi ngày, nước

6


này vẫn phải nhập khẩu 13,7 triệu thùng dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ từ các
nước vùng Vịnh để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Mỹ là quốc gia sản xuất ra 19% lượng dầu lửa của thế giới nhưng lại tiêu thụ
tới 25%. Nguyên nhân chính là lượng dầu tiêu thụ trong lĩnh vực giao thông, lĩnh vực
công nghiệp, thương mại, hộ tiêu dùng.
Việc giá dầu tăng cao đẩy giá xăng tăng cao đã tác động trực tiếp đến đời sống
của người dân Mỹ. Trong tuyên bố về năng lượng vào ngày 18/6/2008 tại Nhà Trắng,
tổng thống George W. Bush cũng nhấn mạnh thực trạng sử dụng năng lượng của Mỹ:
“Với nhiều người dân Mỹ, hiện nay, không có mối quan tâm nào cấp thiết hơn giá
xăng. Các hộ gia đình trên toàn quốc đang trông đợi một phản ứng từ Washington”.
Như vậy, dầu mỏ được xem là lợi ích sống còn của Mỹ. Với vị trí là quốc gia
nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới, thị trường dầu mỏ ở bất cứ khu vực nào bị xáo
trộn đều có ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ. Chính dầu lửa là yếu tố dẫn dắt nhận thức
trong hoạch định các chính sách của Mỹ, trong đó có sự điều chỉnh quan hệ của Mỹ
đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích.
1.3.2. Quan điểm của Mỹ về an ninh dầu lửa
Đảm bảo về an ninh dầu lửa là một trong những chính sách quan trọng hàng
đầu của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ. Là nền kinh tế số một, Mỹ là quốc gia tiêu thụ
dầu mỏ lớn nhất thế giới. Mỹ luôn chú ý đến việc đảm bảo an ninh dầu lửa bởi theo
dự đoán của các chuyên gia với mức tăng trưởng bình quân 1,5% mỗi năm, sự phụ
thuộc năng lượng của Mỹ vào các nguồn dầu lửa nhập khẩu sẽ tăng từ 20 triệu
thùng/ngày lên đến 27,9 triệu thùng/ngày vào năm 2020.
Trong thông điệp Liên bang của Mỹ, Tổng thống George W. Bush cảnh báo
nước Mỹ đang có nguy cơ “nghiện” dầu nhập khẩu. Các mục tiêu của chiến lược này
rõ ràng là để đảm bảo một sự cung cấp năng lượng ổn định, tăng cường an ninh năng

lượng cho nước Mỹ và hướng tới một tương lai trong đó nước Mỹ không bị phụ thuộc
vào năng lượng.
Như vậy, đối với một siêu cường như Mỹ, việc đảm bảo nguồn cung cấp năng
lượng là vấn đề then chốt để phát triển. Và đây là một trong những nguyên nhân giải
thích vì sao từ sau Chiến tranh lạnh, Mỹ tỏ ra quan tâm đến khu vực Vịnh Pếc-xích.
1.4. Vị trí chiến lƣợc của các nƣớc vùng Vịnh Pếc-xích
1.4.1. Khái quát về các nước vùng Vịnh Pếc-xích
Các quốc gia vùng Vịnh được thế giới biết đến với tư cách là một “khu vực
phát triển kinh tế điển hình” của Trung Đông, tại đó những lợi thế về “tài nguyên dầu
lửa” đã trở thành yếu tố đầu vào hiệu quả trong phát triển kinh tế.
Vịnh Pếc-xích thuộc khu vực Trung Cận Đông bao gồm 8 nước trong đó có 6
nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) là Baranh, Cô-oét, Ôman, Qatar,
Arập Xê-út, Các Tiểu vương quốc Arập (UAE) và 2 nước khác là Iran và Irắc.
Theo đánh giá của OPEC năm 2010, sản xuất dầu lửa của các quốc gia Vịnh
Pếc-xích đạt gần 27,210 triệu thùng/ngày, chiếm hơn 32% tổng sản lượng sản xuất
hàng ngày của toàn thế giới.

7


Năm 2010, trữ lượng dầu lửa của các quốc gia vùng Vịnh đạt 789,1 tỷ thùng,
chiếm 66,5% trữ lượng dầu lửa trên toàn thế giới (Bảng 1.2). Những nước có trữ
lượng dầu lửa lớn nhất là Arập Xê-út (chiếm 22,1% trữ lượng của toàn thế giới), Iran
(11,7%), Irắc (9,7%), Cô-oét (8,3%), UAE (8,2%).
Bảng 1.2: Trữ lƣợng dầu lửa của Trung Cận Đông năm 2010 (tỷ thùng)
Nƣớc
Tỷ thùng
% toàn thế giới
Arập Xê-út
262,7

22,1
Iran
132,5
11,1
Irắc
115,0
9,7
Cô-óet
99,0
8,3
UAE
97,8
8,2
Qatar
15,2
1,3
Ôman
5,6
0,5
Libi
39,1
3,3
Angiêri
11,8
1,0
Ai Cập
3,6
0,3
Xiri
3,2

0,3
Yêmen
2,9
0,2
Tuynidi
0,6
0,1
Các nước Trung Đông khác
0,1
0,1
Tổng Trung Đông
789,0
66,5
Nguồn: BP Statistical Review of Energy, June 2010
Nắm giữ nguồn tài nguyên quan trọng của thế giới, Vịnh Pếc-xích luôn là một
khu vực rất nhạy cảm. Hầu hết các quốc gia lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc
đều phụ thuộc vào nguồn dầu lửa ở khu vực này. Nhiều cuộc chiến tranh nổ ra ở đây
là xuất phát từ sự tranh chấp về nguồn dầu lửa và có sự can dự của các nước lớn.
Cùng với dầu lửa và khí đốt, các nước vùng Vịnh cũng chiếm một vị trí quan
trọng trên bản đồ địa-kinh tế-chính trị thế giới. Năm 2010, tổng sản lượng khai thác
khí đốt của khu vực này đạt gần 395,8 tỷ m3 chiếm 14,7% sản lượng khai thác khí
đốt trên toàn cầu.
Với nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là trữ lượng dầu lửa và khí đốt
chiếm 66% trữ lượng của thế giới, Vịnh Pếc-xích là miếng mồi ngon đối với các
cường quốc lớn trên thế giới mà điển hình là Mỹ.
1.4.2. Vị trí chiến lược của các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích đối với Mỹ trên
lĩnh vực an ninh, chính trị
Vịnh Pếc-xích là khu vực có vị trí địa lý tiếp giáp với Châu Á và Châu Phi, giữa
biển Địa Trung Hải và biển Ấn Độ Dương, chứa đựng một lượng lớn nguồn tài nguyên
dầu lửa quý giá của thế giới. Vì thế, khu vực này luôn là điểm nóng và có một vị trí

chiến lược rất quan trọng trong nền chính trị và kinh tế thế giới, nhiều cường quốc trên
thế giới quan tâm trong đó có nước Mỹ.
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các quốc gia vùng Vịnh cũng bị lôi cuốn vào
cuộc đối đầu Xô-Mỹ. Ngoài những tranh giành về lợi ích kinh tế đơn thuần (tập trung

8


chủ yếu vào lĩnh vực dầu lửa), khu vực này cũng chứng kiến những cuộc đối đầu, tranh
giành ảnh hưởng về chính trị, quân sự và lôi kéo các quốc gia trong vùng ngả theo
mình của hai phe.
Sau thời kỳ Chiến tranh lạnh, Vịnh Pếc-xích luôn thuộc khu vực có tầm chiến lược
về an ninh, chính trị, kinh tế không chỉ của khu vực mà còn với thế giới. Nó thực sự là nơi
tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới đặc biệt giữa Liên Xô và Mỹ.
Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình an ninh,
chính trị của các quốc gia vùng Vịnh không những không bớt đi tính căng thẳng, phức
tạp vốn có từ trước, mà giờ đây khu vực này còn nảy sinh ra rất nhiều vấn đề chính trị-
an ninh phức tạp, đe dọa tới hòa bình, ổn định, an ninh của khu vực và thế giới.
Tóm lại, các quốc gia vịnh Pếc-xích có vị trí địa chiến lược quan trọng và là
điểm tranh giành lợi ích của các nước lớn, trong đó có Mỹ với chiến lược toàn cầu hiện
nay, Mỹ chủ trương thực hiện kế hoạch “Đại Trung Đông” để tạo cơ sở cho tham vọng
bá chủ toàn cầu của mình.
1.5. Tiểu kết Chƣơng 1
Dầu lửa là một trong những yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế thế giới
nói chung và tình hình kinh tế - xã hội từng nước nói riêng đặc biệt là quan hệ giữa
Mỹ và các nước vùng Vịnh Pếc-xích.
Giờ đây, vấn đề dầu lửa không còn là “vấn đề chuyên môn kỹ thuật thuần túy
mà là vấn đề chính trị - xã hội, vấn đề quan hệ quốc tế”. Theo đánh giá của nhiều
chuyên gia thế giới, hầu hết các cuộc chiến tranh thương mại, quân sự, ngoại giao
trong mấy thập niên gần đây đều gắn chặt hoặc có nguyên nhân trực tiếp từ vấn đề

dầu lửa. Việc Mỹ phát động cuộc chiến tranh xâm lược Irắc năm 1991 và năm 2003
là minh chứng sinh động cho nhận định trên.
Ngày nay, vấn đề dầu lửa còn được xác định là một “con bài chiến lược” rất
quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia. Nhiều nước lấy việc đe
dọa cắt hoặc hạn chế cung cấp nguồn dầu mỏ, khí đốt để thể hiện quyền uy, sức mạnh
của mình. Nhiều nước coi dầu lửa là lợi thế so sánh to lớn của quốc gia mình, để từ
đó thể hiện tiếng nói và vị thế của mình trong các mối quan hệ song phương hoặc đa
phương. Nhờ tài nguyên dầu lửa, nhiều nước đã giàu lên nhanh chóng. Nhưng cũng
vì dầu lửa, nhiều nước đã trở thành điểm nóng xung đột, tranh chấp và chiến tranh.
CHƢƠNG 2.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÂN TỐ DẦU LỬA TRONG QUAN HỆ
CỦA MỸ VỚI CÁC QUỐC GIA VÙNG VỊNH PẾC-XÍCH
2.1. Chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích sau Chiến
tranh lạnh
Chính sách của chính quyền Tổng thống Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh cho đến
nay vẫn chưa có gì rõ nét mặc dù Tổng thống Bush tuyên bố “sẽ bảo vệ các quyền lợi
của Mỹ tại Vịnh Pếc-xích và thúc đẩy hòa bình ở Trung Đông, cho dù là bất kỳ một
nền hòa bình nào trên cơ sở một Ixraen được đảm bảo về an ninh”.
Mục tiêu chiến lược của Mỹ là hỗ trợ các quốc gia Vịnh Pếc-xích về mặt kinh
tế, thúc đẩy cải cách, dân chủ và qua đó tăng cường quan hệ song phương trên lĩnh

9


vực khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo nguồn cung ứng dầu lửa và khí
đốt cho Mỹ. Chính sách dầu lửa của Mỹ đối với khu vực vùng Vịnh còn thể hiện
qua hợp tác song phương giữa Mỹ với từng quốc gia:
2.1.1. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ-Iran
Iran là một quốc gia nằm ở Vịnh Pếc-xích, có vị trí chiến lược nằm giữa
Trung Đông và Trung Á. Ngoài ra, Iran là một quốc gia có trữ lượng dầu lửa đứng

thứ hai trên thế giới. Chính vì vậy mà Iran luôn là tâm điểm của sự tranh giành ảnh
hưởng giữa các cường quốc như Liên Xô, Anh, Mỹ.
Các ngành công nghiệp chủ yếu của Iran bao gồm: dầu lửa, hóa dầu, chế tạo
kim loại, sản xuất vũ khí…Dầu lửa là ngành công nghiệp then chốt đối với sự phát
triển kinh tế ở Iran.
Sau Chiến tranh lạnh, các đời Tổng thống Mỹ đều có sự điều chỉnh trong chính
sách đối ngoại của Mỹ đối với Iran. Bởi Mỹ và Iran đều có những lợi ích chung trong
việc tiêu diệt lực lượng Taliban và Al-Qaeda.
Từ năm 2003 đến 2011 do cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran nên quan hệ Mỹ và
Iran luôn trong tình trạng căng thẳng. Cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran trở thành một
trong những tiêu điểm trong chính sách đối ngoại của chính quyền Bush.
Những đánh giá về tình hình phát triển kinh tế của Iran những năm gần đây
cho thấy Iran là một nước phát triển kinh tế chưa ổn định, nền kinh tế của Iran vẫn
còn phụ thuộc nhiều vào dầu lửa. Iran là một nước đã từng bước mở rộng quan hệ với
thế giới nhưng do vấn đề hạt nhân nên quan hệ giữa Mỹ và Iran về phương diện
chính trị - ngoại giao có nhiều căng thẳng liên quan đến hạt nhân của Iran.
Nhân tố dẫn đến quan hệ Mỹ-Iran trong thời gian gần đây trở nên căng thẳng
xuất phát từ lý do của Mỹ muốn thay đổi dân chủ ở Trung Đông. Têhêran cho rằng,
việc Mỹ đưa ra kế hoạch Đại Trung Đông hay chương trình hạt nhân chỉ là bức bình
phong. Còn nguyên nhân sâu xa, Washington muốn độc chiếm nguồn dầu mỏ phong
phú của quốc gia Hồi giáo nay.
Để quan hệ Mỹ và Iran phát triển, trong thời gian tới chính phủ hai nước cần
có những chính sách kinh tế phù hợp (đặc biệt là dầu mỏ và năng lượng hạt nhân)
trên tinh thần hợp tác, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
2.1.2. Yếu tố dầu lửa trong vấn đề Irắc
Chiến tranh lạnh kết thúc đánh dầu bước chuyển quan trọng trong chính
sách Mỹ đối với Irắc. Nằm ở Vịnh Pếc-xích, Irắc là nơi gặp gỡ của ba châu Âu, Á,
Phi và là nơi có kênh đào Xuy-ê nổi tiếng mà nhiều đời Tổng thống Mỹ coi là nền
tảng sinh tồn của Mỹ và Châu Âu. Đây là nơi vốn mệnh danh là “rốn dầu thế giới”.
Cuộc chiến tại Irắc tuy có phần tác động tới uy tín, danh dự nước Mỹ, song đó

là cơ hội vàng cho Mỹ thực hiện ý đồ chiến lược của mình. Đây là thời cơ thuận lợi
nhất để Mỹ có thể triển khai thực hiện mục tiêu chiến lược nhằm:
(i) Lật đổ chế độ của Saddam Hussein, dựng lên một chế độ thân Mỹ ở Irắc và
“cải tạo” nước này theo giá trị quan điểm dân chủ kiểu Mỹ;

10


(ii) Giành được nguồn dầu lửa của Irắc. Nếu kiểm soát được nguồn dầu của
Irắc, Mỹ sẽ “đa dạng” được nguồn dầu của mình. Điều này sẽ giúp bảo đảm an ninh
dầu lửa lâu dài cho Mỹ ;
(iii) Thử nghiệm học thuyết “đánh đòn phủ đầu”. Đây là học thuyết đề cao
phương thức “tấn công ngăn ngừa”, thay thế cho phương thức “răn đe” từng được áp
dụng thành công trong Chiến tranh lạnh;
(iv) Khẳng định vị trí siêu cường số một và thực hiện “chủ nghĩa đơn phương”.
Sau Chiến tranh lạnh, lợi dụng môi trường an ninh thế giới thay đổi, Mỹ đã
liên tục có những hành động đơn phương, kể cả can thiệp quân sự ra bên ngoài. Mục
tiêu chính của Mỹ tại cuộc Chiến tranh Irắc là:
Thứ nhất, mục tiêu trực tiếp của Mỹ ở Irắc là loại bỏ chính quyền của Tổng thống
Saddam Hussein, thay thế bằng một chính phủ thân Mỹ.
Thứ hai, với cuộc chiến tranh chống Irắc, Mỹ muốn sắp xếp lại bàn cờ chính trị-
chiến lược ở vùng Vịnh bảo đảm lợi ích lâu dài về kinh tế, an ninh của Mỹ.
Thứ ba, kiểm soát nguồn cung cấp dầu lửa ở Vịnh Pếc-xích, khu vực được coi là
“trung tâm an ninh dầu lửa thế giới”, là yêu cầu thiết yếu đối với Mỹ trong ba thập kỷ
tới. Từ sau Chiến tranh lạnh, các chính quyền Mỹ đều tỏ ra hết sức lo ngại về sự phụ
thuộc ngày càng tăng của kinh tế Mỹ vào nhập khẩu dầu lửa, đặc biệt từ vùng Vịnh.
Thứ tư, cuộc chiến tranh Irắc nằm trong chiến lược của chính quyền Bush hướng
tới thiết lập một trật tự thế giới mới với vai trò siêu cường duy nhất của Mỹ.
Thứ năm, những động cơ và yêu cầu nội bộ Mỹ đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong quyết định của chính quyền Bush. Mỹ dự tính xây dựng một đất nước

Irắc tự do và dân chủ theo kiểu Mỹ.
Chính sách của Mỹ hiện nay là khống chế chặt nguồn dầu lửa của Irắc, bất cứ
quốc gia nào muốn ký kết những hợp đồng dầu lửa hoặc các hợp đồng kinh tế khác ở
vùng Vịnh này đều phải thông qua và được sự đồng ý của Mỹ.
Tất cả các mục tiêu và ý đồ trên của Mỹ nhằm mục đích khống chế nguồn dầu
lửa phong phú của Irắc. Qua đó thực hiện được toan tính của Washington là duy trì vị
trí lãnh đạo số một của mình ở khu vực Trung Đông và thế giới.
2.1.3. Yếu tố dầu mỏ trong quan hệ Mỹ - Cô oét
Cô-oét là một quốc gia nằm trên bờ Vịnh Pếc-xích, giáp với Arập-Xê út ở phía
nam và với Irắc ở hướng Tây và hướng Bắc. Cô-oét là nước có trữ lượng dầu lửa lớn
thứ 5 trên thế giới và là nước giàu thứ 6 toàn cầu. Dầu khí và các sản phẩm từ dầu khí
chiếm 95% tổng doanh thu từ xuất khẩu và chiếm gần 80% lợi tức của chính phủ.
Việc Irắc tiến công Cô-oét ngày 02/08/1990 đã tạo ra những cơ hội mới cho
tham vọng địa chiến lược của Mỹ:
Thứ nhất, Mỹ thiết lập căn cứ quân sự ở Cô-oét một mặt bảo vệ an ninh mặt
khác là Mỹ muốn quan hệ với Cô oét để khống chế vùng Vịnh giàu có về nguồn dầu
lửa này. Nếu kiểm soát được nguồn dầu lửa ở khu vực, Mỹ có thể gây được áp lực rất
mạnh không chỉ đối với các nước Hồi giáo tại đây mà còn đối với nhiều cường quốc và
khu vực khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu…Các nước này hàng năm cũng
phải nhập khẩu một khối lượng lớn dầu lửa của vùng Vịnh.

11


Thứ hai, Mỹ tăng cường quan hệ với Cô oét để khống chế chính quyền Tổng
thống Saddam Hussein và chính quyền các nước Hồi giáo.
Thứ ba, Mỹ tăng cường quan hệ với Cô oét để đáp ứng nhu cầu năng lượng
đóng góp 10-20% dầu lửa cho Mỹ.
Thứ tư, Mỹ quan hệ với Cô oét vì đây là cửa ngõ ra vào của Vịnh Pếc-xích giàu
dầu lửa. Nếu kiểm soát Cô oét, Mỹ sẽ khống chế được khu vực giàu dầu lửa và đảm

bảo được đường vận chuyển dầu lửa sang các quốc gia khác.
Thứ năm, Cô-oét theo chế độ quân chủ chuyên chế nên Cô-oét nằm trong kế
hoạch thay đổi dân chủ ở Trung Đông của Mỹ. Chính sách cụ thể của Mỹ ở Vịnh Pếc-
xích là triệt để cải tổ Irắc, liên minh với Cô-oét, lôi kéo các Tiểu vương quốc Arập,
Ôman, Qatar hình thành các tập đoàn thân Mỹ, xác lập căn cứ cung cấp dầu do Mỹ làm
chủ đạo từ đó nắm chặt quyền cung cấp dầu.
Thứ sáu là hiện nay trong quan hệ giữa các quốc gia Vịnh Pếc-xích. Mỹ dùng
Cô-oét là con bài chiến lược về chính trị và ngoại giao để Mỹ nói chuyện với các nước
khác trong khu vực.
Việc Mỹ xâm lược Irắc và biến quốc gia này làm thuộc địa kiểu mới của mình
làm cho vị trí của Cô-oét ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực Trung Đông.
Một là, Mỹ coi Cô-oét là quốc gia có vị trí chiến lược trong việc đảm bảo
nguồn năng lượng cho nước Mỹ.
Hai là, Mỹ sử dụng Cô-oét như một trong những quốc gia có thể thực hiện
chiến lược “thay đổi dân chủ” ở Trung Đông.
Ba là, Mỹ vẫn duy trì sự hiện diện của lực lượng quân sự hùng hậu tại Cô-oét.
Bốn là, khống chế được Cô-oét, Washington có thể khống chế được khu vực
giàu dầu lửa nhất thế giới.
Năm là, Washington luôn hy vọng với việc thiết lập, duy trì lực lượng quân sự
hùng mạnh ở Cô-oét.
Việc duy trì một lực lượng quân sự mạnh ở khu vực đồng nghĩa với việc các
cường quốc trên thế giới nếu muốn gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này hoặc tìm kiếm
nguồn dầu lửa ở Trung Đông sẽ phải thông qua và nhận được sự đồng ý của Mỹ.
Trong thời gian gần đây, Mỹ và Cô-oét tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh
vực dầu lửa, xây dựng quan hệ đối tác liên minh chiến lược Mỹ - Cô oét ngày càng
bền chặt hơn.
2.1.4. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Ảrập Xê út
Arập Xê-út được biết đến là quốc gia có trữ lượng dầu lửa và xuất khẩu dầu
lửa lớn nhất thế giới. Mỹ, một đồng minh lớn nhất của phương Tây, lại là nước có ảnh
hưởng nhiều nhất đối với các chính sách đối ngoại của Arập Xê-út.

Dầu lửa luôn là ngành kinh tế mũi nhọn của Arập Xê út. Hiện nay, Arập Xê-út
đang duy trì sản lượng khai thác dầu thô vào khoảng 10,5-11 triệu thùng/ngày.
Quan hệ ngoại giao giữa Arập Xê-út với Mỹ đã được thiết lập từ năm 1933.
Quan hệ giữa Mỹ và Arập Xê út đã có phần chao đảo kể từ sau vụ khủng bố. Từ sau
ngày 11/9/2001 cho đến nay, kiểm soát khủng bố là một trong những lĩnh vực hợp tác
quan trọng giữa Arập Xê-út với Mỹ.

12


Mỹ rất chú trọng quan hệ kinh tế với các quốc gia dầu lửa để đảm bảo nguồn
năng lượng cho sự phát triển kinh tế. Hợp tác dầu lửa với Arập Xê út luôn được Mỹ
quan tâm số một trong khu vực Vịnh Pếc-xích. Đối với Arập Xê-út, không có sự lựa
chọn nào khác cho sự bảo đảm về an ninh là Mỹ; còn đối với Mỹ, cũng không có gì
có thể thay thế được dầu lửa của Arập Xê út.
Trong giai đoạn hiện nay, Mỹ tăng cường hơn nữa mối quan hệ với Arập Xê út
trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, ngoại giao, chính trị…bởi những nhân tố sau:
Arập Xê út là mỏ dầu lớn nhất thế giới, chiếm ¼ trữ lượng dầu mỏ thế giới và
là quê hương của hai thánh địa Hồi giáo linh thiêng nhất thế giới là Mecca và
Medina. Chính vì thế, quốc gia này đang đóng vai trò địa - chính trị - kinh tế vô cùng
quan trọng của thế giới Hồi giáo nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
Hiện nay, Arập Xê-út gia tăng cung cấp nguồn dầu lửa chủ yếu cho Mỹ. Với tư
cách là nước đi đầu trong số các quốc gia Vịnh Pếc-xích, Arập Xê út cũng luôn đóng
vai trò là cầu nối và đồng minh tin cậy của Mỹ tại Trung Đông.
Arập Xê-út là một trong những quốc gia Trung Đông duy nhất thừa nhận Nhà
nước Do Thái Ixraen (đồng minh số một của Mỹ ở Trung Đông) đồng thời công nhận
sự tồn tại của Nhà nước Do Thái này. Điều này, tạo thuận lợi cho Washington hợp
tác với Arập Xê út giải quyết cuộc xung đột Ixraen- Palextin.
Hợp tác với Arập Xê út, Mỹ sẽ có điều kiện thuận lợi để hợp tác với quốc gia
này trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố mà Washington đang phát động ở

khu vực Trung Đông, tạo thuận lợi trong việc triển khai chiến lược “Đại Trung
Đông” ở khu vực này.
2.1.5. Yếu tố dầu lửa trong quan hệ Mỹ - Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
Nằm ở Vịnh Pếc-xích, các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (UAE) là một đất
nước nhỏ đi lên từ dầu lửa, UAE đã biến đất nước sa mạc thành một đất nước giàu có và
thịnh vượng. Tận dụng được nguồn tài nguyên dầu lửa dồi dào và những điều kiện thuận
lợi của môi trường quốc tế. Quan hệ giữa Mỹ và UAE ngày càng cải thiện do sự tác
động của yếu tố dầu lửa.
Sản lượng dầu thô của UAE tiếp tục đà tăng trưởng mạnh trong quá trình cung
ứng nguồn năng lượng cho thị trường thế giới. Trong những năm qua, tổng sản lượng
dầu thô của UAE vẫn tăng 31%.
Mỹ là nước nhập khẩu dầu lửa và khí gas từ UAE. Trong tương lai, các cơ sở
cung cấp sản phẩm dầu mỏ sẽ tiếp tục tiến hành các dự án mới nhằm mục đích đẩy
mạnh tổng sản lượng dầu thô của cả nước lên 4 triệu thùng/ngày vào năm 2020.
Tháng 4/2004, UAE ký Hiệp định khung về thương mại và đầu tư với Mỹ và
tháng 11/2004 UAE ký kết FTA với Mỹ. Năm 2005, UAE trở thành một trong các
quốc gia đầu tiên và chủ yếu sản xuất dầu thông qua Nghị định thư Kyoto của Hiệp
ước Biến đổi Khí hậu của Liên Hợp Quốc. Các đối tác Mỹ bao gồm MIT, Columbia
University, Colorado University, Chicago Adrian Smith Gordon Gill Architecture.
Làm việc với các đối tác, đặc biệt là Mỹ: Abu Dhabi có lịch sử tiếp nhận đầu
tư tư nhân trong việc khai thác và sản xuất dầu lửa và khí gas. Hiện nay, các công ty

13


dầu lửa quốc tế từ Mỹ, Nhật, Pháp, Anh và các quốc gia khác tiếp tục nắm giữ cổ
phần từ 40-100% quyền sở hữu các giếng dầu lớn của Abu Dhabi.
UAE hợp tác chặt chẽ với Mỹ, Liên Hợp Quốc, các lực lượng NATO trong
việc đóng góp công sức và hưởng lợi ích từ sự hợp tác an ninh trong khu vực. Trong
quan hệ đối tác với Mỹ, UAE cho phép Mỹ lập căn cứ không quân và tham gia tập

trận chung với quân lực Mỹ.
Mỹ xác định tăng cường mối quan hệ đối tác chiến lược với UAE trên các mặt
kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao nhằm mục đích:
UAE là quốc gia giàu tiềm năng dầu lửa, khí đốt. Tăng cường mối quan hệ với
quốc gia này sẽ giúp cho Mỹ đảm bảo được nguồn năng lượng phục vụ cho nhu cầu
phát triển kinh tế trong nước.
UAE luôn muốn dựa vào Mỹ để giải quyết cuộc tranh chấp với Iran. Đây là cơ
hội thuận lợi để Washington gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này. Tăng cường quan hệ
với UAE, Mỹ có thể xâm nhập sâu vào Tổ chức hợp tác vùng Vịnh (GCC), định hướng
hoạt động của Tổ chức này theo hướng của Mỹ.
Với những hợp tác quan trọng trong lĩnh vực dầu lửa và chương trình năng
lượng hòa bình, quan hệ Mỹ và UAE ngày càng trở nên thân thiện trên cơ sở hợp
tác, bình đẳng và tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
2.2. Đánh giá chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích
2.2.1. Về chính trị
Đối với các quốc gia vùng Vịnh, chính sách của Mỹ mang tính chất chiến lược
và toàn diện góp phần vào hòa bình và an ninh khu vực Vịnh Pếc-xích.
Mỹ ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng ở khu vực Trung Đông, trung gian
hòa giải cuộc xung đột Ixraen-Palextin, thành viên nhóm bộ tứ, giải quyết hòa bình
Trung Đông. Chính sách đối ngoại của Mỹ là tìm kiếm giải pháp giữa các quốc gia
vùng Vịnh sống bên cạnh nhau trong hòa bình và an ninh.
Một thành tựu cơ bản trong chính sách của Hoa Kỳ đối với các quốc gia Vịnh
Pếc-xích là thúc đẩy một Iran có trách nhiệm và được hưởng các cơ hội kinh tế và
chính trị mà người dân nước này xứng đáng được nhận. Mỹ đã thu được những kết
quả trong chiến lược đối với các quốc gia vùng Vịnh:
Thứ nhất, vị trí và địa vị chính trị của Mỹ ở khu vực đã được xác lập một cách
khá vững chắc.
Thứ hai, kế hoạch “thay đổi dân chủ Trung Đông” của Mỹ ít nhiều cũng đã thu
được kết quả nhất định khi một số quốc gia bị Mỹ liệt vào danh sách những nhà nước
phản dân chủ độc tài chuyên chế đã bị Mỹ lật đổ. Chính quyền của Tổng thống

Saddam Hussein ở Irắc bị Mỹ lật đổ vào năm 2003.
Thứ ba, Mỹ có vai trò và vị trí rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối
với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích.
Thứ tư, do có sự hợp tác với Mỹ trên lĩnh vực chính trị nên các quốc gia vùng
Vịnh Pếc-xích và Trung Đông ít nhiều cũng có được sự ổn định về chính trị trong nội
bộ quốc gia mình.

14


Thứ năm, sau sự kiện khủng bố 11/9, Mỹ coi Trung Đông là địa bàn chiến lược
trong cuộc chiến chống lại lực lượng Hồi giáo cực đoan và khủng bố quốc tế.
Thứ sáu, nhiều lực lượng có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, li khai, Hồi giáo cực
đoan cũng bị Mỹ trấn áp và làm suy yếu như lực lượng của Đảng công nhân người
Cuốc (PKK) ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Bên cạnh đó còn có một số hạn chế sau:
Khó khăn của Mỹ là hầu hết các quốc gia Vịnh Pếc-xích trong suốt thời kỳ lịch
sử của mình chưa bao giờ biết đến khái niệm dân chủ, và nhiều giáo lý cơ bản của
Đạo Hồi cũng đi ngược lại các nguyên tắc dân chủ của Mỹ. Điều này, thể hiện quyết
tâm làm thay đổi cục diện Trung Đông dù mất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức.
Mỹ gây áp lực với chính phủ các nước vùng Vịnh nhằm tạo ra sự thay đổi ở tầm
vĩ mô như kêu gọi bầu cử tự do, mở rộng khả năng tham gia vào hệ thống chính trị của
các đảng có khuynh hướng chính trị khác nhau.
Chính sách và hành động của Mỹ tại Trung Đông cho thấy Mỹ sẵn sàng thách
thức các chuẩn mực cơ bản trong quan hệ quốc tế- Hiến chương Liên Hợp quốc, luật
pháp quốc tế,v.v…để thực hiện các quyết định phục vụ lợi ích của mình.
Chính sách đối với Vịnh Pếc-xích là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây
bất đồng và làm rạn nứt quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh truyền thống, đặc biệt là
các nước Châu Âu.
Chính sách của Mỹ gây lo ngại sâu sắc cho các nước vùng Vịnh, trước hết là

những nước có chế độ Mỹ cho là độc tài.
Qua việc thực thi chính sách Trung Đông, Mỹ nhận thấy những hạn chế của chủ
nghĩa đơn phương. Cho dù là nước hùng mạnh nhất trên thế giới, một mình Mỹ không
có đủ khả năng giải quyết vấn đề.
Dư luận các nước vùng Vịnh Pếc-xích cho rằng việc Mỹ hợp tác chính trị với các
Chính phủ của họ ngoài những mục đích về chống khủng bố và các nhóm Hồi giáo cực
đoan, Mỹ thực chất muốn thâu tóm nguồn tài nguyên chiến lược của khu vực - dầu mỏ.
Nền văn hóa Hồi giáo về cơ bản đó là một nền văn hóa khép kín mang bản sắc của
người Phương Đông. Việc Mỹ ra sức quảng cáo và phổ biến mô hình văn hóa Mỹ tới các
quốc gia vùng Vịnh, vô hình chung đã chống lại giá trị văn hóa truyền thống của những
người dân trong khu vực, động chạm tới giá trị tín ngưỡng của họ.
Hiện nay, Mỹ áp dụng “tiêu chuẩn kép” trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan và chủ nghĩa khủng bố ở Trung Đông. Mỹ tiếp tục thực hiện chính
sách thiên vị với Ixraen trong việc giải quyết xung đột Palextin-Ixraen.
Dư luận các nước vùng Vịnh Pếc-xích đều cho rằng các chính sách của Mỹ đối
với khu vực này mang dấu ấn của chủ nghĩa thực dân mới. Chính vì vậy, họ chống lại
các chính sách của Mỹ.
2.2.2. Về kinh tế
Thành tựu bước đầu mà Mỹ đã đạt được trong việc thực hiện chính sách kinh tế
đối với các quốc gia Vịnh Pếc-xích, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dầu lửa. Mỹ coi
vùng Vịnh như một thị trường năng lượng riêng của mình. Trên thị trường nhiên liệu,

15


Mỹ “thâm nhập vào thị trường dầu mỏ Trung Đông và phần còn lại của thế giới”
nhằm mục đích triển khai các dự án đường ống dẫn dầu lớn như:
* Mỹ và dự án đƣờng ống dẫn dầu Baku - Tbilisi - Ceyhan (BTC)
Nhiệm vụ chiến lược của Mỹ là định hướng lại các tuyến đường ống dẫn dầu
và gas bằng các tuyến đường ống mới đi vòng qua Nga nhằm cô lập Nga với EU. Dự

án “Hành lang Đông-Tây” của Mỹ qua Baku, Tbilisi và Sayhan đã được đưa vào sử
dụng. Washington đã thiết lập một chỗ đứng vững chắc trong ngành công nghiệp dầu
lửa với việc đã kiểm soát 27% trữ lượng dầu lửa ở khu vực Caspi.
Mỹ từng thúc đẩy việc xây dựng một đường ống dẫn dầu mới xuyên qua Trung
Á sẽ làm giảm sự phụ thuộc của Mỹ đối với vùng Vịnh. Với kế hoạch “Đại Trung
Đông”, Mỹ kiểm soát nguồn dầu lửa ở khu vực Trung Đông, mọi hành động của các
quốc gia khác đến khu vực này đều phải thông qua Mỹ.
Đối với Vịnh Pếc-xích, Mỹ đã hỗ trợ đắc lực trong việc phát triển thị trường và
đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng cho việc thăm dò, khai thác dầu khí. Mỹ đã xúc tiến và
hậu thuẫn mạnh mẽ cho các công ty đa quốc gia đầu tư xây dựng các đường ống dẫn
dầu và dẫn khí từ biển Caspi mà không cần đi qua Nga.
Sự dính líu của Mỹ vào vùng Vịnh đi liền với các công ty xuyên quốc gia lớn
trong lĩnh vực dầu mỏ, các hoạt động đầu tư, phối hợp và cạnh tranh với những trung
tâm kinh tế lớn của thế giới để Mỹ vừa khai thác mỏ “vàng đen” của Vịnh Pếc-xích,
vừa cùng phát triển với thế giới Phương Tây.
*Mỹ và đƣờng ống dẫn dầu xuyên Arập (Trans-Arabian Pipeline
(TAPLINE))
Các chính quyền Mỹ đều hỗ trợ tích cực những công ty xuyên quốc gia: công ty
liên doanh dầu lửa Mỹ-Arập Xê út (ARAMCO) và Công ty Dầu lửa Anh-Iran (AIOC) vì
mục tiêu đặt ra trong chính sách dầu lửa.
Các đời Tổng thống Mỹ đã tập trung xây dựng một trụ cột quan hệ với Vịnh
Pếc-xích, đặc biệt là Arập Xê út. Các nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa ban giám đốc của ARAMCO, công ty liên doanh dầu khí lớn nhất giữa
Mỹ và Arập Xê út và giới hoạch định chính sách Mỹ.
Bộ Ngoại giao Mỹ đã đàm phán với chính quyền Arập Xê-út xây dựng đường
ống dẫn dầu xuyên Arập (Trans-Arabian Pipeline-TAPLINE) chạy dài từ Dhahran
của Arập Xê út tới Sidon, Libăng.
Thông qua mối quan hệ đồng minh với nhiều quốc gia Vịnh Pếc-xích,
Washington đã có được những ưu thế nhất định so với các cường quốc khác trong
việc ký kết nhiều hợp đồng kinh tế với các quốc gia trong khu vực như Arập Xê út,

Cô-oét tạo thuận lợi trong việc phát triển nền kinh tế nước Mỹ.
Việc Mỹ xâm chiếm Irắc, Apghanistan hai quốc gia có tiềm năng dầu mỏ và có
vị trí chiến lược trong việc vận chuyển, đặt những đường ống dẫn dầu từ Trung Á,
biển Caspi ra Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải đã tạo thuận lợi cho Washington có thể
thực hiện được những tham vọng chính trị đối với khu vực này.

16


Mỹ đã giúp đỡ các hãng dầu mỏ quốc tế xây dựng cơ sở vật chất và khung
pháp lý trong việc xây dựng các đường ống dẫn dầu, cung cấp năng lượng và góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng cho Mỹ.
Bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
Đối với Irắc, sự sa lầy tại Irắc đã làm cho những toan tính của Mỹ tan thành
mây khói, thậm chí còn làm xấu đi tình hình năng lượng toàn cầu. Theo Bộ Dầu mỏ
Irắc, những cuộc tấn công này làm Irắc thiệt hại 6,25 tỉ USD riêng trong năm 2005.
Hai tuyến đường ống dẫn dầu chiến lược của Irắc là tuyến Kirkuk - Sayhan đều bị tấn
công, thậm chí nhiều lúc phải ngừng hoạt động làm ảnh hưởng đến nguồn cung dầu
mỏ ra các thị trường nước ngoài.
Chính sách kinh tế của Mỹ đối với các quốc gia Vịnh Pếc-xích chú trọng cải
cách và thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển để củng cố bộ máy kinh tế phát triển một
cách bền vững. Tuy nhiên, nhìn chung kinh tế của các quốc gia trong khu vực này
vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào nguồn tài nguyên dầu lửa. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn
những rủi ro về lâu dài.
Trước khi Mỹ tiến hành cuộc chiến xâm lược Irắc năm 2003, chính quyền của
Tổng thống Hussein của Irắc đã ký kết những Hợp đồng dầu lửa trị giá hàng tỷ USD
với Tập đoàn Dầu lửa Tôtan của Pháp, Gazprom, Xinep (Nga), Xinôpếch (Trung
Quốc) và các Tập đoàn Dầu lửa của Đức, Ấn Độ v.v…Sau khi, Mỹ chiếm được Irắc,
Mỹ đòi xem xét lại các Hợp đồng dầu lửa đã ký của các quốc gia này. Chính vì vậy,
gặp phải sự phản đối quyết liệt của các quốc gia này.

Hiện nay, Mỹ gặp phải sự cạnh tranh khai thác dầu lửa của Nga, Trung Quốc,
Pháp và Đức tại các nước vùng Vịnh. Đặc biệt, Trung Quốc và Nga là hai quốc gia có
những Hợp đồng dầu lửa rất lớn với Iran (đối thủ số một của Mỹ ở Trung Đông).
2.2.3. Về quân sự
Các biện pháp quân sự trong chính sách đối với khu vực Vịnh Pếc-xích của Mỹ
bao gồm việc lập liên minh quân sự, viện trợ quân sự, thiết lập căn cứ quân sự tại khu
vực, chính thức hóa các hoạt động quân sự nhằm bảo đảm lợi ích dầu mỏ của Mỹ ở
vùng Vịnh.
Washington và Lầu Năm Góc xây dựng và gia nhập hàng chục liên minh quân
sự. Liên minh quân sự đầu tiên và quan trọng nhất của Mỹ là khối quân sự Bắc Đại
tây Dương (NATO) ở Tây Âu. Hiệp ước CENTO giữa Mỹ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ,
Pakixtan và Iran thiết lập một phòng tuyến bờ Nam Liên Xô.
Trong chính sách với Vịnh Pếc-xích, viện trợ và bán vũ khí của Mỹ chủ yếu
diễn ra với bốn đồng minh chính: Ixraen, Iran, Arập Xê út và Thổ Nhĩ Kỳ. Viện trợ
quân sự có nhiều điểm lợi:
Thứ nhất, Mỹ xúc tiến bán vũ khí, xăng dầu và nhất là hàng hóa.
Thứ hai, để đổi lại viện trợ các đồng minh này phải bán lại cho Mỹ nhiều
nguồn nguyên liệu (dầu lửa) với giá rẻ.
Thứ ba, đi kèm với viện trợ, một trong những thỏa thuận mà Mỹ có thể đưa ra
là thiết lập căn cứ ở nước sở tại nhằm bảo vệ sự an toàn lợi ích dầu lửa, Mỹ xác định

17


tại Vịnh Pếc-xích những điểm có vị trí chiến lược để đặt căn cứ quân sự là Arập Xê
út và Thổ Nhĩ Kỳ.
Đi xa hơn, Mỹ có những hoạt động can thiệp, hỗ trợ lật đỗ chính quyền không
thân Mỹ tại vùng Vịnh. Cùng với đó, Mỹ tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa
bình dưới lá cờ của Liên Hiệp Quốc.
Các hoạt động can thiệp quân sự của Mỹ trong một số trường hợp là biện pháp

để chống chính sách quốc hữu hóa của một số nước Vịnh Pếc-xích đối với các cơ sở
công nghiệp của Mỹ và đồng minh phương Tây.
Thông qua những mối quan hệ đồng minh truyền thống với các quốc gia vùng
Vịnh, Mỹ đã thiết lập được các mối quan hệ quân sự ràng buộc chặt chẽ với các quốc
gia trong khu vực. Duy trì sự hiện diện quân sự của mình ở Irắc, Apghanistan nhằm
khống chế khu vực giàu tiềm năng dầu lửa này.
Với các hệ thống căn cứ quân sự được bố trí dày đặc ở Vịnh Pếc-xích và Trung
Đông: lực lượng quân sự bố trí ở Arập Xê-út, Cô-oét, UAE, đảo Điagôgratxia,
Dibuti, Yêmen. Mỹ có thể thuận lợi trong việc phát động cuộc chiến chống lại lực
lượng Hồi giáo cực đoan trong khu vực, không để cho lực lượng này đe dọa những
lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế và quân sự của Mỹ cũng như các nước đồng minh.
Mỹ tăng cường hỗ trợ quân sự cho các đồng minh Arập: đặc biệt là Arập Xê-út và
Ai Cập để cho lực lượng quân sự của hai nước này vững mạnh, làm đối trọng với Iran.
Khó khăn: Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ lấy cớ Trung Đông là khu vực tồn tại và
phát triển của Chủ nghĩa khủng bố và Chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan nên đã tiến hành
can thiệp quân sự vào Irắc và Apghanistan. Dư luận các nước cho rằng việc Mỹ và
đồng minh duy trì một lực lượng quân sự lâu dài trên nước họ làm căn nguyên dẫn tới
chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan phát triển mạnh, gây nên sự mâu
thuẫn và chia rẽ trong nội bộ của Irắc và Apghanistan.
Dư luận Trung Đông yêu cầu Mỹ phải rút quân ra khỏi Irắc và Apghanistan,
tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong khu vực.
Hiện nay, Mỹ vẫn duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu ở vùng Vịnh. Việc
Washington duy trì lực lượng quân sự lớn mạnh ở đây trên danh nghĩa có thể đảm
bảo lợi ích an ninh trước mắt cho một số quốc gia đồng minh của Mỹ trong khu vực.
Mỹ tăng cường hợp tác quân sự với một số quốc gia đồng minh như: Arập Xê
út, Ixraen, dùng các quốc gia này làm đối trọng với Iran, Xiri, những quốc gia đối
địch với Mỹ. Điều này, làm cho nội bộ khu vực trở nên bất ổn, nguy cơ chiến tranh
giữa các quốc gia luôn hiện hữu.
2.3. Tiểu kết Chƣơng 2
Chính sách đối với Vịnh Pếc-xích của Mỹ được điều chỉnh mạnh kể từ sau

Chiến tranh lạnh theo hướng chú trọng can thiệp vũ trang và đe dọa sử dụng vũ lực
thay vì tăng cường các biện pháp ngoại giao. Từ chính sách đối ngoại của Mỹ có thể
đưa ra một số nhận định như sau:
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực vùng Vịnh đều phục
vụ cho lợi ích của nước Mỹ đem lại tự do cho dân tộc, góp phần mang lại hòa bình
cho các quốc gia, xây dựng nền tự do dân chủ thực sự.

18


Thứ hai, mặc dù chính sách đối ngoại có sự thay đổi theo thời gian cho phù
hợp với các hoàn cảnh cụ thể của thời đại, cũng như gắn liền với cá tính của các đời
Tổng thống và được thực hiện bằng những biện pháp khác nhau, song nhìn tổng thể
chính sách đối ngoại của Mỹ ở Vịnh Pếc-xích vẫn nhằm đến cái đích cuối cùng là
duy trì bảo vệ lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội của Mỹ ở khu vực này.
Thứ ba, trong thời gian tới chính sách đối ngoại của Mỹ ở vùng Vịnh sẽ rất khó
thực hiện vì “từ sau chiến tranh lạnh, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đã và
đang là xu hướng nổi trội trong quan hệ quốc tế”. Đồng thời, Mỹ sẽ gặp phải sự thách
thức không nhỏ từ các chủ thế bên trong và bên ngoài khu vực Iran, Ixraen, Nga,
Trung Quốc, EU….
Thứ tư, nước Mỹ cũng giữ một vai trò nhất định trong việc giữ gìn và đem lại
hòa bình cho khu vực Vịnh Pếc-xích. Đây chính là điều mà Brzezinski- nguyên cố
vấn an ninh của Tổng thống Mỹ từng đề cập khi ông viết: “Tuy đa số các nước nằm
trong vùng Vịnh mất ổn định, song ở đó lại có sự hiện diện của Mỹ với tư cách như
một trọng tài. Do vậy, khu vực bất ổn ở vòng ngoài là một khu vực chỉ có một nước
bá quyền và quyền lực của nó đã làm tình hình dịu đi”.
CHƢƠNG 3.
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ GIỮA MỸ VÀ CÁC QUỐC GIA VÙNG VỊNH
PẾC-XÍCH
3.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia vùng Vịnh

Pếc-xích trong thời gian tới
3.1.1. Xu hướng biến động của tình hình dầu lửa thế giới
Nhu cầu dầu lửa trên thế giới sẽ tiếp tục tăng với tốc độ rất nhanh. Theo dự báo
của Cục thông tin năng lượng Mỹ (EIA), nhu cầu dầu lửa của toàn thế giới sẽ tăng
lên 37% vào năm 2030. Nguyên nhân chủ yếu khiến nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ gia tăng
là do ngành giao thông vận tải và công nghiệp.
Trong thời gian tới, có nhiều khả năng cho thấy giá dầu vẫn sẽ tăng. Giá dầu
tăng lên có nhiều nguyên nhân, cả về kinh tế lẫn chính trị như: tình hình bất ổn ở các
nước có nguồn cung cấp dầu lửa lớn trên thế giới, nhất là Vịnh Pếc-xích, Do đó, các
nước vùng Vịnh thường bị ảnh hưởng trực tiếp và thường dẫn đến các cuộc khủng
hoảng kinh tế kèm theo.
Nhu cầu phát triển kinh tế và tiêu dùng đã làm cho dầu lửa ngày càng trở thành
vấn đề sinh tồn đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo nhận định của các
chuyên gia kinh tế, dầu lửa sẽ vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ quốc tế.
Ai bảo đảm được an ninh năng lượng, người đó sẽ duy trì được tăng trưởng kinh tế.
Ai cầm trịch được các nguồn dầu lửa, người đó sẽ có uy lực trong quan hệ quốc tế.
3.1.2. Nhu cầu về dầu khí của Mỹ ngày càng tăng
Mỹ là quốc gia đứng thứ ba về sản xuất dầu lửa trên thế giới chỉ sau Arập Xê
út và Nga, là nước có trữ lượng lớn về dầu lửa của thế giới. Mặc dù, Mỹ sản xuất
khối lượng từ 5-7 triệu thùng/ngày nhưng còn phải nhập khẩu thêm khoảng 14 triệu
thùng dầu thô để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước.

19


Ngày 18/6/2008, phát biểu tại Nhà Trắng, Tổng thống Bush thừa nhận tình
trạng ngày càng báo động của nước Mỹ về năng lượng. “Trong tương lai gần, nền
kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục phụ thuộc cao vào dầu mỏ. Điều đó, có nghĩa là chúng ta cần
phải tăng nguồn cung, đặc biệt là nguồn cung nội địa”.
Sau khi, Obama lên nhận chức Tổng thống Mỹ vào năm 2009, nền kinh tế Mỹ

vốn chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế từ thời Bush nay gặp thêm những khó khăn
mới. Trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là dầu lửa, Mỹ đang gặp phải sự cạnh tranh
quyết liệt của các cường quốc mới nổi trên thế giới. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt
Mỹ, trở thành quốc gia nhập khẩu dầu lửa lớn nhất thế giới.
Với vị trí là quốc gia tiêu thụ dầu lửa lớn nhất thế giới và cũng là quốc gia
nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, thị trường dầu mỏ ở bất cứ khu vực nào trên thế giới
bị xáo trộn đều có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Mỹ. Qua đó, vai trò của dầu
mỏ là tối quan trọng đối với chính trị - an ninh, kinh tế và xã hội của Mỹ. Như vậy,
dầu mỏ không những là “vàng đen” mà thực sự còn là “máu” của nền kinh tế Mỹ.
3.1.3. Sự cạnh tranh của Nga và Trung Quốc
Do vị trí địa chính trị cũng như nguồn tài nguyên năng lượng phong phú cho nên
Vịnh Pếc-xích không chỉ lọt vào tầm ngắm của Mỹ. Các cường quốc Nga, Trung Quốc
từ lâu đã đưa khu vực này vào vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình. Nên
Nga, Trung Quốc không thể đứng nhìn Mỹ tự do khai thác nguồn tài nguyên quý ở khu
vực này mà cũng đã ráo riết đẩy mạnh quan hệ với các nước trong khu vực.
Nga bảo vệ thế độc quyền
Nga đã đưa ra những lời chỉ trích các nước lớn phương Tây, đặc biệt là Mỹ,
tham gia khai thác dầu mỏ ở vùng Vịnh, cho rằng nguồn tài nguyên này là tài sản
chung của các quốc gia trong khu vực. Nga không bằng lòng với việc Mỹ mượn chiêu
bài khai thác dầu lửa để thâm nhập vào phạm vi thế lực truyền thống miền Nam của
Nga, khiến cho tình hình chiến lược biên cương miền Nam của Nga bị xấu đi.
Sau khi trữ lượng dầu mỏ ở Vịnh Pếc-xích được xác nhận, các quốc gia vùng
Vịnh và Mỹ đã phớt lờ lời chỉ trích và phản đối của Nga, tiếp tục khai thác với quy mô
lớn, đặt Nga vào tình thế bị động không có lợi.
Trên thực tế, Nga là nước xuất khẩu khí đốt thiên nhiên lớn nhất thế giới. Nếu
khống chế nguồn dầu lửa của Vịnh Pếc-xích thì Nga sẽ có lợi ích chính trị và hợp tác
kinh tế với các nước quanh vùng biến Caspi. Nga đã ký Hiệp định phân định vùng
biển và hợp tác khai thác năng lượng ở vùng biển Caspi với Kazakhstan và đẩy nhanh
tiến trình xây dựng đường ống dẫn dầu quanh biển Caspi nhằm củng cố vị trí chủ đạo
xuất khẩu dầu ở vùng biển Caspi.

Tháng 01/2001, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Turkmenistan
đã ký tuyên bố chung tại Matxcơva, kêu gọi Trung Đông và các nước vùng biển
Caspi xây dựng “Liên minh năng lượng Âu- Á”. “Ý đồ của Nga là giành quyền
khống chế nguồn dầu mỏ ở vùng biển Caspi và Vịnh Pếc-xích”.
Tháng 4/2003, Nga đã tiến hành một “cuộc đảo chính” lớn chống lại quyền lợi
của Mỹ với việc ký một thỏa thuận lớn với Turkmenistan- nước có một trữ lượng khí

20


đốt đã được xác định là lớn nhất thế giới để mua tất cả lượng khí đốt xuất khẩu của
nước này ở Trung Đông trong vòng 25 năm tới.
Ngày nay, Gazprom đã trở thành một phương tiên chính trị mới của Điện
Kremli. Là nhà cung cấp ¼ lượng khí đốt ở Châu Âu, Gazprom cũng bắt đầu cung cấp
cho Mỹ và có kế hoạch cung cấp cho Trung Quốc.
Với chiến lược “thêm bạn”, Nga biến đối thủ thành đối tác, biến “sân sau” của
Mỹ thành “mảnh vườn canh tác” của mình: Nga - Arập Xê út chẳng hạn. Nga - Iran
ký kết hợp tác dầu khí, bởi Iran là một quốc gia có nhiều nguồn tài nguyên năng lượng
quý giá ở khu vực Trung Đông. Việc Nga và Iran tăng cường hợp tác trong việc khai
thác năng lượng là một đòn giáng mạnh vào tham vọng của Mỹ muốn kiểm soát nguồn
dầu lửa phong phú của Iran nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của nước Mỹ
trong tương lai.
Trung Quốc tạo dựng lòng tin với các nước vùng Vịnh
Không có vị thế mang tính “độc quyền” như Nga, không rót tiền đầu tư một
cách ồ ạt như Mỹ, Trung Quốc chọn cách tăng cường hợp tác song phương, tạo dựng
lòng tin với các quốc gia Vịnh Pếc-xích để tìm chỗ đứng vững chắc trong ngành khai
thác dầu khí.
Năm 2007, một số chuyên gia Trung Quốc đề xuất chiến lược dầu lửa “hướng
Tây”, giúp tăng cường lòng tin giữa Trung Quốc và vùng Vịnh Pếc-xích, bảo đảm an
ninh vùng biên giới phía Tây của Trung Quốc.

Thực tế, Trung Quốc đã bắt đầu mở rộng hợp tác năng lượng với các nước
vùng Vịnh. Tháng 9/2000, Trung Quốc và Iran đã ký hiệp định khai thác dầu, tổng
giá trị hợp đồng là 9,5 tỷ USD.
Điều đáng chú ý là trong cuộc chiến tranh giành quyền khai thác dầu mỏ ở
Vịnh Pếc-xích, Trung Quốc đã tỏ rõ năng lực của mình. Nhận thấy các quốc gia vùng
Vịnh rất thiếu vốn đầu tư cho việc khôi phục và phát triển công nghiệp năng lượng và
chính phủ các nước này đang ráo riết tìm kiếm nguồn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu
tư Trung Quốc đã nhanh chóng nắm bắt được thời cơ này. Trong cuộc cạnh tranh với
các công ty dầu mỏ lớn phương Tây, Trung Quốc đã giành được quyền khai thác mỏ
dầu “Yiuchinli mới” nằm ở phía Đông biển Caspi thuộc Kazakhstan.
Mối quan hệ Trung Quốc - Iran cũng được củng cố mạnh mẽ thông qua việc
hai nước tăng cường hợp tác với nhau trong vấn đề chính trị, chống chủ nghĩa Hồi
giáo cực đoan, chủ nghĩa khủng bố, trong lĩnh vực kinh tế đặc biệt là về năng lượng.
Trong hiện tại và tương lai gần, Vịnh Pếc-xích vẫn là thị trường nhập khẩu dầu
mỏ hàng đầu của Trung Quốc. Việc tăng cường mối quan hệ thân thiết với các quốc
gia vùng Vịnh có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển kinh tế Trung Quốc ở hiện
tại và trong tương lai gần.
Như vậy, Vịnh Pếc-xích hoàn toàn không phải là miếng bánh dễ ăn dành cho
Mỹ thực hiện những mưu đồ của mình (kế hoạch Đại Trung Đông nhằm thâu tóm
nguồn dầu lửa ở khu vực này). Để đạt được các lợi ích của mình trong lĩnh vực an
ninh, chính trị và đặc biệt là dầu lửa, Mỹ không ngừng chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ
phía hai nước lớn là Nga và Trung Quốc.

21


3.2. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với các quốc gia vùng Vịnh Pếc-xích
Giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh, Mỹ phát động chiến lược toàn cầu “cam kết và
mở rộng” với mục tiêu chủ đạo là duy trì vị thế lãnh đạo thế giới trên nền tảng sức
mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự. Chính vì vậy, Vịnh Pếc-xích từ lâu

đã là trung tâm trong các chiến lược an ninh quốc gia về quân sự - an ninh, chính trị
và dầu lửa của Mỹ.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng William Perry nói: “Tại Vịnh Pếc-xích, chúng ta
tập trung đạt được các mục tiêu bằng cách đảm bảo rằng Iran và Irắc tuân thủ luật lệ
quốc tế, củng cố các cơ sở thân thiện với Mỹ để bảo vệ những lợi ích chung và bày tỏ
cam kết lâu dài với an ninh vùng Vịnh. ”
Kiềm chế kép Irắc và Iran
Việc kiềm chế Iran và Irắc vừa là sự trừng trị của Mỹ đối với các chính quyền
không thân thiện này, vừa nhằm đảm bảo không một cường quốc nào có thể nổi lên ở
Vịnh Pếc-xích để thách thức của các đồng minh thân cận của Mỹ.
Giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh, Mỹ đã bố trí hạm đội có tàu sân bay và hàng
trăm máy bay hiện đại ở Vịnh Pếc-xích.
Với Iran, các nhà lãnh đạo Iran tiếp tục nghi kỵ Mỹ như một lực lượng thù địch với
cách mạng Hồi giáo. Quan hệ giữa Mỹ và Arập Xê út, nước có trữ lượng dầu lớn nhất thế
giới, bạn hàng thương mại lớn nhất của Mỹ ở Trung Đông diễn ra khá tốt.
Sách lược của Mỹ đối với các quốc qia Vịnh Pếc-xích:
Thứ nhất, đối với Iran: thông qua chương trình hạt nhân của Iran, Mỹ và
phương Tây muốn sử dụng con bài này để kiềm chế sức mạnh kinh tế, chính trị và
quân sự của Iran trong khu vực, không cho Iran sở hữu vũ khí hạt nhân.
Thông qua con bài dân chủ nhân quyền, dân tộc và tôn giáo để lật đỗ chế độ thần
quyền với các giáo sỹ lãnh đạo đất nước Iran, đưa Iran trở thành quốc gia theo hình mẫu
của phương Tây.
Thứ hai, đối với Irắc: Mỹ muốn duy trì nguyên trạng tình hình Irắc hiện nay.
Lợi ích của Mỹ ở Irắc vẫn được đảm bảo thông qua việc Mỹ duy trì một lực lượng
quân sự nhất định ở quốc gia này.
Đối với các nước vùng Vịnh còn lại, thì Mỹ vẫn duy trì nguyên trạng các
Chính phủ hiện hành thân Mỹ nhằm mục đích lợi ích kinh tế, chính trị, quân sự của
Mỹ ở các quốc gia này.
3.3. Phản ứng của các nƣớc
3.3.1. Phản ứng của các nước vùng Vịnh Pếc-xích

Đối với Iran, tiếp tục theo đuổi và phát triển chương trình hạt nhân của mình
bất chấp sự phản đối của Mỹ và phương Tây nhằm mục đích bảo đảm nguồn năng
lượng điện bị thiếu hụt và có được vũ khí hạt nhân để đảm bảo an ninh quốc gia trước
sức ép của Mỹ, phương Tây và Ixraen.
Phản ứng của Iran đối với chính sách năng lượng của Mỹ đối với các quốc gia
OPEC khi họ gây sức ép buộc các quốc gia OPEC phải tăng sản lượng phục vụ các
nhu cầu kinh tế của nước Mỹ.

×