Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dưới thời tổng thống George W Bush

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Nguyễn Lan Hương


SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA
KỲ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG GEORGE W. BUSH



Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ



Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn





Hà Nội – tháng 4 năm 2008





1
MỤC LỤC

MỤC LỤC
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
4
MỞ ĐẦU
5
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TỔNG THỐNG
GEORGE W. BUSH
14
1.1. Bối cảnh của việc Tổng thống G. W. Bush điều chỉnh chính sách đối ngoại
14
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
14
1.1.1.1. Tình hình kinh tế, chính trị thế giới
14
1.1.1.2. Các xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế và quan hệ giữa các nước lớn
18
1.1.2. Bối cảnh nước Mỹ
26
1.1.2.1. Về kinh tế
26
1.1.2.2. Về chính trị
28
1.1.2.3. Về văn hoá - xã hội

31
1.1.2.4. Về quân sự
35
1.1.2.5. Về khoa học công nghệ
36
1.2. Giới thiệu sơ lƣợc về học thuyết Bush
37
1.2.1. Từ sự cạnh tranh giữa các cường quốc chuyển sang cuộc chiến chống khủng bố
40
1.2.2. Chính sách “rảnh tay” và học thuyết đánh đòn phủ đầu
42
CHƢƠNG 2. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TỔNG THỐNG
GEORGE W. BUSH
46
2.1. Điều chỉnh về mục tiêu và các ƣu tiên trong chính sách đối ngoại
46
2.1.1. Thay đổi thứ tự các ưu tiên
46
2.1.1.1. Ưu tiên của Tổng thống Clinton
46
2.1.1.2. Ưu tiên của Tổng thống G. Bush
47
2.1.1.3. Sự điều chỉnh các ưu tiên của Tổng thống G. Bush
49
2.1.2. Từ „mở rộng các nền dân chủ thị trường‟ của Tổng thống Clinton sang cuộc
chiến chống khủng bố toàn cầu của Tổng thống G. Bush
55
2.1.2.1. „Mở rộng các nền dân chủ thị trường‟ của Tổng thống Clinton
55


2
2.1.2.2. Tổng Thống G. Bush với vấn đề toàn cầu hoá và cuộc chiến chống khủng bố
57
2.1.2.3. Sự điều chỉnh của vấn đề hoà bình và thương mại quốc tế của Tổng thống G.
Bush
58
2.1.3 Những điều chỉnh trong vấn đề thúc đẩy dân chủ
56
2.1.3.1. Khái niệm „mở rộng dân chủ‟ của Tổng thống Clinton
59
2.1.3.2. Tổng thống G.W.Bush và vấn đề thúc đẩy dân chủ trong thời đại những tên
khủng bố, bạo chúa và vũ khí huỷ diệt hàng loạt
63
2.1.3.3 Sự điều chỉnh vấn đề thúc đẩy dân chủ của Tổng thống G. Bush
65
2.2. Điều chỉnh các phƣơng thức thực hiện chính sách đối ngoại
66
2.2.1. Điều chỉnh phương thức tập hợp lực lượng
66
2.2.2. Chủ nghĩa đơn phương và phương châm rảnh tay hành động
71
2.2.3. Chuyển từ chiến lược kiềm chế sang chiến lược đánh đòn phủ đầu
74
2.2.4. Điều chỉnh công cụ quân sự trong chính sách đối ngoại
76
2.2.4.1. Các khái niệm chiến lược quân sự của chính quyền Clinton
77
2.2.4.2. Một chiến lược mới cho cuộc chiến tranh mới của chính quyền G. W. Bush
79
2.2.4.3. Sự điều chỉnh công cụ quân sự của Tổng thống G. Bush

82
2.3. Cơ sở của sự điều chỉnh chính sách của Tổng thống G.W. Bush
85
2.3.1. Quan điểm của Tổng thống Clinton: đánh giá tình hình quốc tế và vai trò của
Hoa Kỳ
86
2.3.2. Quan điểm của Tổng thống G.W. Bush: đánh giá tình hình quốc tế và vai trò
của Hoa Kỳ
87
2.3.3. Những điều chỉnh trong quan điểm nhận thức của Tổng thống G.W. Bush
89
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TỔNG THỐNG G.W. BUSH ĐIỀU CHỈNH CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ VÀI NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
95
3.1. Tác động của những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Tổng thống G.W. Bush
95
3.1.1. Tác động tới thế giới
95
3.1.1.1. Tới nền kinh tế thế giới
95
3.1.1.2 . Tới an ninh quốc tế
101
3.1.2. Tác động tới khu vực Châu Á
104

3
3.1.3. Tác động tới Việt Nam
107
3.1.3.1. Lợi ích của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á
107

3.1.3.2. Tầm quan trọng của Việt Nam
108
3.1.3.3 Các vấn đề trong quan hệ hai nước
108
3.2. Vài nhận xét về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
111
3.2.1. Một số đặc điểm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Tổng thống G. Bush
114
3.2.2. Tương lai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
114
3.2.2.1. Tác động của chính quyền tới chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
114
3.2.2.2. Tác động của xã hội tới chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
115
3.2.2.3. Tác động của môi trường bên ngoài tới chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
119
3.2.2.4. Thế kỉ Mỹ thứ hai
122
KẾT LUẬN
124
TÀI LIỆU THAM KHẢO
127
PHỤ LỤC
134


4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

BTA: Hiệp định thương mại song phương
CSĐN: Chính sách đối ngoại
EU: Liên minh châu Âu
GDP: Tổng sản phẩm quốc dân
IMET: Chương trình Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
LHQ: Liên hợp quốc
MCA: Quỹ thách thức thiên niên kỷ
NATO: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
NDS: Chiến lược quốc phòng toàn dân
NSS: Chiến lược an ninh quốc gia
QDR: Tổng quan quốc phòng bốn năm một lần
WB: Ngân hàng thế giới
WMD: Vũ khí huỷ diệt hàng loạt
WTO: Tổ chức thương mại thế giới



5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều chỉnh chính sách đối ngoại là một hiện tượng dành được sự quan tâm
thích thú của nhiều nhà khoa học chính trị cũng như những người làm công tác thực
tiễn trong quan hệ quốc tế. Khi sự điều chỉnh chính sách đối ngoại diễn ra thường
kéo theo tác động lớn tới các chủ thể bên ngoài, nhất là khi sự điều chỉnh chính sách
đó lại là của một siêu cường như Hoa Kỳ.
Với tiềm lực kinh tế và chính trị của mình, Hoa Kỳ có vai trò rất quan trọng
trong việc định hình các mối quan hệ quốc tế. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi
xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia, việc hoạch định chính sách và điều chỉnh chính sách đối

ngoại của Hoa Kỳ sẽ có những ảnh hưởng to lớn đến các nước khác, cũng như đến
các mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Tình hình quốc tế phức tạp cộng với ưu thế vượt trội của Mỹ trên trường quốc
tế kết hợp với tình hình chính trị – xã hội biến động trong nội bộ nước Mỹ đánh dấu
bằng việc Tổng thống G.W. Bush lên nắm quyền với chiến thắng gây nhiều tranh
cãi đã báo hiệu trước một thời kì có nhiều chuyển biến trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ. Sự kiện 11/9 càng làm bộc lộ rõ hơn những định hình mới trong chính
sách đối ngoại đó. Các tuyên bố, văn kiện mới trong chính sách đối ngoại của
G.Bush đã làm dấy lên cuộc tranh luận sôi nổi trong giới học thuật về những điều
chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dưới thời tổng thống G. W. Bush.
Việc nghiên cứu Hoa Kỳ và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hiện nay vừa có
ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với việc phát triển của nước ta hiện
nay, chúng ta có thể tìm hiểu thực chất, nội dung của chính sách, điều chỉnh chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, những tác động của nó đến thế giới, khu vực và nước
ta, trên cơ sở đó, có thể có một số khuyến nghị bước đầu về quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Như vậy việc nghiên cứu đó hiện nay có ý nghĩa thời sự cấp bách, chính vì
vậy, được sự đồng ý của Khoa, người viết đã chọn đề tài ―Sự điều chỉnh chính

6
sách đối ngoại của Hoa Kỳ dƣới thời Tổng thống George W. Bush‖ làm đề tài
luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nước:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,
những công trình đó tập trung nghiên cứu nội dung chính sách đối ngoại chính sách
an ninh toàn cầu của Hoa Kỳ, vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới và khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương, ví dụ như cuốn Hoa Kỳ – Cam kết và mở rộng của Lê Bá Thuyên
(1998), Chiến lược đối ngoại Mỹ trong những năm 90 của Vụ Châu Mỹ - Bộ ngoại
giao (1995), Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau chiến tránh lạnh

của TS Lê Khương Thuỳ (2003) … Tuy nhiên còn ít công trình nghiên cứu chính
sách đối ngoại Mỹ tập trung giai đoạn sau khi G. Bush lên nắm quyền. Chỉ có một
số bài báo và tạp chí nghiên cứu về chính sách đối ngoại của G. Bush: Chính sách
đối ngoại cứng rắn của chính phủ Bush và những hệ luỵ của Vũ Văn Hoà (2002),
Một số suy nghĩ về chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời kỳ tổng thống G. W. Bush
của Nguyễn Thái Yên Hương (2001), Điều chỉnh chính sách của Mỹ một năm sau
sự kiện 11/9 của Lê Linh Lan (2002), Chính sách đối ngoại Mỹ dưới chính quyền
tổng thống G.W. Bush trước vụ khủng bố 11/9 của Trần Bá Khoa (2001)… Hầu hết
các công trình này mới chỉ phác thảo được những đường nét cơ bản trong chính
sách đối ngoại của tổng thống G. Bush mà chưa nghiên cứu sâu sắc và tập trung vào
vấn đề điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ của tổng
thống Bush, những tác động của nó đối với thế giới, khu vực và Việt Nam, đặc biệt
chưa làm bật được những nét điều chỉnh của tổng thống G. Bush so với B. Clinton.
Ngoài nước:
Có nhiều công trình nghiên cứu của cả các học giả trong và ngoài nước Mỹ
với nhiều quan điểm khác nhau về chính sách và điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ: chẳng hạn những công trình nghiên cứu về học thuyết Bush, nghiên
cứu so sánh chính sách đối ngoại của Bush trong lịch sử chính sách đối ngoại Hoa
Kỳ, tác động của chính sách của Hoa Kỳ đối với việc mở rộng NATO, sự phát triển

7
ở Nam Mỹ, Châu Phi và Trung Đông, các vấn đề Mỹ và Đông Á, các mối quan hệ
giữa các nước lớn Những công trình trên nghiên cứu khá toàn diện chính sách và
điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, tác động của nó đến đời sống chính trị
và quan hệ quốc tế; nhưng vẫn còn ít công trình đề cập trực tiếp đến sự tác động của
chính sách của Mỹ đến sự phát triển ở khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Dưới
đây chúng ta sẽ điểm qua một số công trình nổi bật nghiên cứu những điều chỉnh
CSĐN của tổng thống G. Bush:
Các học giả ủng hộ học thuyết Bush đưa ra giải thích 11/9 đánh dấu sự bắt đầu
thời kì mới trong lịch sử: đe doạ mới đòi hỏi chiến lược an ninh quốc gia mới nhằm

biện minh cho hành động của Hoa Kỳ từ Iraq tới Afghanistan…những người khác
thì cho là sứ mệnh của Hoa Kỳ là cải tạo thế giới và vì vậy nhằm bảo vệ hoà bình
thế giới. Họ tìm cánh biện giải cho học thuyết Bush bằng việc tìm ra liên kết của nó
trong lịch sử đối ngoại Mỹ, phóng đại cơ hội lịch sử, khác biệt đáng kể với những
người tiền nhiệm, nhất là với Wilson. Chẳng hạn nhà sử học David M. Kenedy trên
tờ Atlantic (tháng 3/2005) cho rằng các nguyên tắc chính sách đối ngoại của Bush là
được kế thừa từ Wilson, phù hợp với các mục tiêu đối ngoại Mỹ trong lịch sử, chỉ
có hành động tấn công trước là mới chưa từng thấy [63]. Nói chung Kenedy tập
trung vào mục tiêu hơn là vào biện pháp thực hiện của Bush và không giải thích
được cả hai đặc trưng này. Cũng giống như Kenedy, Melvyn P. Leffler trên tờ
Diplomatic History (2005) cũng khẳng định có sự liên tục hơn là thay đổi trong
chính sách của chính quyền Bush con và cũng nhấn mạnh vào tính liên tục về hệ tư
tuởng trong chính sách đối ngoại của Bush [69]. Nhưng Leffler tiến xa hơn so với
Kenedy khi chỉ rõ các đặc trưng phủ đầu, chủ nghĩa đơn phương và bá quyền không
phải là đặc trưng mới mà đã có từ thời Theodore Roosevelt tới Clinton, đặc biệt là
trong chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, Leffler đã phóng đại những cái mà ông cho là
tiền lệ trước đó, đặc biệt là với trường hợp của Clinton. Leffler bỏ qua khác biệt
giữa hành động tấn công phủ đầu chống lại ‗các cá nhân‘ của chính quyền Clinton
và cuộc tấn công tổng thể chống lại nước khác của chính quyền G. Bush. Leffler tập
trung vào cam kết hệ thúc đẩy tự do dân chủ nhằm nêu lên những khác biệt cơ bản

8
giữa Bush và các vị tổng thống trong thế kỉ XX, bao gồm cả Clinton trong thực tiễn.
Tuy nhiên Leffler không đánh giá được sự tương ứng đồng thời giữa mục tiêu Hoa
Kỳ theo đuổi sau 11/9 và biện pháp hợp lý được thông qua trong giới hạn quyền lực
trong chính sách đối ngoại của Bush. Ông cũng bỏ qua giữa sự không tương ứng
trong lời nói và hành động của chính quyền Bush.
Nhà sử học Arnold A. Offner phê phán cả mục tiêu và biện pháp trong chính
sách đối ngoại mới của Bush [79]. Ngược với Leffler Offner cho rằng chính sách
của Bush là sự lệch hướng hoàn toàn so với các nguyên tắc được chấp nhận và vì

vậy gây nguy hiểm cho lợi ích và lí tưởng của Hoa Kỳ.
Ngược với Kenedy và Leffler, John B. Judis, biên tập viên cho tờ New
Republic coi học thuyết Bush đánh dấu một sự thay đổi triệt để so với chủ nghĩa
Wilson [62]. Theo Judis, trong khi Bush cha và Clinton theo đuổi hứa hẹn về hoà
bình và sự thịnh vượng trong một trật tự thế giới mới với hệ thống an ninh tập thể
và nền kinh tế mở toàn cầu thì Bush lại chuyển sang chủ nghĩa đế quốc Cộng hoà.
Ngược với Judis, John Lewis Gaddis phân biệt Bush với Wilson và di sản đối
ngoại của Hoa Kỳ từ thế kỉ XIX và XX. Trong cuốn Surprise, Security and the
American Experience (2004) ông phân tích sợi dây dẫn truyền thống này từ John
Quincy Adam tới Bush con [51, 52]. Dù đôi khi có chỉ trích Bush, Gaddis nói chung
ca ngợi NSS của Bush như sự tích hợp các truyền thống đối ngoại của Hoa Kỳ.
Giống như Kenedy, Gaddis tập trung vào mục tiêu hơn là biện pháp, ca ngợi các
mục tiêu do Bush đề ra mà không tính tới chi phí và khoảng cách giữa mong đợi và
kết quả thực tiễn. Gaddis bỏ qua những hậu quả nguy hiểm mà học thuyết Bush sẽ
mang lại. Gaddis cũng không giải thích tại sao những đe doạ sau 11/9 quá mới tới
mức cần từ bỏ chiến lược can dự và kiềm chế. Ông cũng không nhận thấy rằng lập
luận về sự kế thừa liên tục trong chính sách đối ngoại của Bush sẽ không phải là
luận điểm hợp lí để biện giải cho đại chiến lược mới của Bush, mà cần tìm ra sự
khác biệt giữa quá khứ và tương lai. Gaddis cũng không tìm ra được luận điểm biện
minh cho cuộc chiến tranh của G.W. Bush. Lôgic mà Gaddis tìm ra là sai lầm, lấy
người Mỹ làm trung tâm mà bỏ qua tác động với thế giới trong tương lai.

9
Về chủ nghĩa đơn phương và đa phương, cả Judis và Gaddis đều đúng khi cho
rằng Wilson theo thiên hướng chủ nghĩa đa phương còn Bush theo thiên hướng chủ
nghĩa đơn phương, nhưng Gaddis quên điều khác biệt quan trọng là Wilson kết hợp
cả chủ nghĩa đơn phương và đa phương trong khi Bush thích hành động một mình.
Robert A. Divine nhận thức được vấn đề tập trung vào mục tiêu trong khi hạ
thấp vai trò biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ [40]. Divine phê
phán Bush trong khi theo đuổi mục tiêu kiểu Wilson đã không tính tới những kết

quả không mong đợi, nhất là về mở rộng hoà bình dân chủ tại Trung Đông mà khởi
đầu là tại Iraq. Gaddis không làm rõ điều Bush nên làm là biến chiến thắng tại Iraq
thành giải pháp chính trị bền vững về hoà bình và dân chủ. Kenendy cũng không
giải quyết được vấn đề mà Divine nêu ra – nhiệm vụ xây dựng đất nước và gìn giữ
hoà bình sau chiến tranh. Cả Gaddis và Kenedy bỏ qua sự không tương ứng giữa
mục tiêu và biện pháp của học thuyết Bush.
Giống như Gaddis và Kenedy, Walter Russell Mead ca ngợi chiến lược phủ
đầu, đơn phương và bá quyền của Bush, và chỉ ra rằng nó bắt nguồn từ chủ nghĩa
Wilson và truyền thống đối ngoại Mỹ. Trong cuốn Special Providence (2002),
Mead xác định bốn trường phái chính sách đối ngoại Mỹ: Hamilton với đặc trưng
thúc đẩy chủ nghĩa tư bản dân tộc và toàn cầu hoá kinh tế, Wilson với đặc trưng mở
rộng dân chủ trong thế giới mới có trật tự luật pháp, nhân quyền và an ninh tập thể;
Jefferson với đặc trưng cô lập Mỹ tránh dính líu vào chiến tranh, bảo vệ tự do và
dân chủ của riêng Mỹ; Jackson với đặc trưng thêm lợi ích quốc gia theo cách quân
sự và chủ nghĩa dân tuý. Tuy nhiên, Mead đã không xác định được đúng các truyền
thống đối ngoại này. Ông cho rằng Wilson bảo vệ nhân quyền của người da mầu và
phụ nữ nhưng cũng lại thừa nhận vị trí tối thượng của đàn ông da trắng trong nước
và chính trị quốc tế. Không giống Gaddis, Mead xác định John Quincy Adams và
học thuyết Monroe ít gắn với trường phái kiểu Jefferson. Thêm vào đó, ông ta kiến
nghị cách tiếp cận mang tính sửa đổi có lợi cho chính sách đối ngoại của Bush cha
và Clinton, hai tổng thống kết hợp trường phái kiểu Hamilton và Wilson, và đôi khi
cách thức của trường phái Jackson trong theo đuổi kinh tế và toàn cầu hoá chính trị

10
trong những năm 1990. Mead cho rằng trường phái Jackson mang đặc trưng của chủ
nghĩa đơn phương và chiến tranh phủ đầu. Ông kiến nghị nên cân bằng giữa tính
hiếu chiến của trường phái Jackson và áp lực toàn cầu kiểu Wilson và Hamilton và
sự tự kiềm chế kiểu Jefferson và vì vậy hoan nghênh những người theo chủ nghĩa
phục hưng các truyền thống này. Theo Mead, chính quyền Bush áp dụng hệ tư
tưởng mang tính cách mạng của những người Mỹ phục hưng và áp dụng nó với

Iraq. Nó khai thác các biện pháp kiểu Jackson để hoàn thành các mục tiêu kiểu
Wilson. Đồng thời Mead lại hi vọng rằng chi phí sẽ tránh được và giống Leffler
rằng đánh giá tốt sẽ bù đắp cho khiếm khuyết cố hữu của CSĐN của chính quyền
Bush [76].
Mead và Lefler cổ vũ cho rằng những mục tiêu kiểu Wilson của Bush là đúng
đắn và việc sử dụng vũ lực không bị hạn chế bởi luật quốc tế, không có khả năng
nào thách thức được CSĐN của chính quyền Bush. Tự Mead đã rời bỏ luận điểm đã
từng đưa ra là ủng hộ tính kiềm chế kiểu Jefferson coi nó như sửa đổi có lợi cho
việc giành quyền lực quốc tế của Bush. Mead trở nên quá cực đoan về những gì mà
ông ta từng chỉ trích sẵn sàng lạm dụng vũ lực nhân danh các giá trị của nền văn
minh phương Tây.
McDougall thì hoàn toàn nhận thức được tính thuyết phục của chủ nghĩa lí
tưởng trong lịch sử Mỹ, đặc biệt là trong chính sách đối ngoại Mỹ, ông chống lại
việc ủng hộ học thuyết Bush sau 11/9. Ông không tin rằng Hoa Kỳ nên thúc đẩy dân
chủ hoá Iraq. Cân bằng giữa mục tiêu và biện pháp, Hoa Kỳ nên theo đuổi một mục
tiêu hiện thực trong khả năng có giới hạn của mình [75].
Dù vấn đề chính sách đối ngoại của tổng thống G.W. Bush có mang tính cách
mạng hay không vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi trong giới học thuật thì rõ ràng
chính sách đó chắc chắn mang trong mình dấu ấn của hoàn cảnh quốc tế mới, môi
trường nội bộ Hoa Kỳ đang thay đổi, thể hiện dấu ấn cá nhân của tổng thống G.
Bush và những xu hướng nhận thức của giới lãnh đạo chính quyền G. Bush khác so
với chính quyền Clinton. Hoàn cảnh thay đổi, con người thay đổi mang lại sự điều

11
chỉnh chính sách đối ngoại mới. Ngay cả bản thân chính sách đối ngoại của tổng
thống G. Bush cũng đã có sự điều chỉnh trong quá trình triển khai trong thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ tác động tình hình quốc tế,
trong nước, nhận thức giới lãnh đạo Mỹ dưới chính quyền G. Bush tạo ra những
điều chỉnh chính sách đối ngoại của chính quyền G.W. Bush giống và khác gì so với

chính quyền Bill Clinton, tác động của những điều chỉnh đó tới thế giới, khu vực
nói chung và Việt Nam nói riêng như thế nào và đưa ra dự báo về một số chiều
hướng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời gian sắp tới.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:
 Phân tích bối cảnh quốc tế và bối cảnh nước Mỹ làm cơ sở cho sự ra hoạch
định chính sách đối ngoại của tổng thống G. W. Bush
 Phân tích một số điểm chính trong chính sách đối ngoại của tổng thống G.
Bush để từ đó làm cơ sở phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
tổng thống Bush so với tổng thống B. Clinton, làm rõ sự giống và khác
nhau qua sự điều chỉnh đó, cũng như giải thích tại sao có sự điều chỉnh đó.
 Những tác động của việc chính quyền G. Bush điều chỉnh chính sách đối
ngoại đối với quốc tế, khu vực và Việt Nam, đồng thời đưa ra một số dự
báo về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài của luận văn là ―Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ dưới
thời Tổng thống George W. Bush‖ nên người viết chỉ tập trung tìm hiểu những
điểm chính trong chính sách đối ngoại của chính quyền G. Bush để làm cơ sở phân
tích những điều chỉnh giống và khác nhau so với chính quyền Clinton, những điều
chỉnh đó tác động như thế nào tới tình hình quốc tế, khu vực và quan hệ hai nước
Việt Nam – Hoa Kỳ, dự báo chính sách đối ngoại Hoa Kỳ trong tương lai. Như vậy
về mặt thời gian luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu trong hai nhiệm kỳ của tổng
thống G. Bush (2001 tới nay).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

12
Luận văn áp dụng những phương pháp nghiên cứu hiện đại và phổ biến trong
nghiên cứu quan hệ quốc tế, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, đối
chiếu, thu thập dữ liệu định tính, tổng hợp và phân tích, và phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, Riêng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, luận văn sử
dụng một số cách tiếp cận từ góc độ các lý thuyết hiện thực, tự do, tân bảo thủ…



6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích thực trạng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai
đoạn hiện nay cũng như hệ thống hoá các luận điểm so sánh đối chiếu chính sách
đối ngoại của hai tổng thống G. Bush và B. Clinton. Luận văn đưa ra những giải
thích khoa học tại sao lại có những điều chỉnh đó trên cơ sở bối cảnh quốc tế, bối
cảnh nước Mỹ và nhận thức của giới lãnh đạo Mỹ dưới chính quyền Bush. Đây
cũng là căn cứ để đưa ra những dự báo về chiều hướng trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong thời gian tới, từ đó làm cơ sở đưa ra dự báo cho những tác động
của nó tới quốc tế và Việt Nam và đưa ra đối sách phù hợp. Luận văn đóng góp vào
việc nghiên cứu một hiện tượng đáng quan tâm trong quan hệ quốc tế - điều chỉnh
chính sách đối ngoại. Luận văn góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham
khảo phục vụ cho những độc giả quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, kết cấu
luận văn gồm các phần chính:
Chƣơng 1: Bối cảnh điều chỉnh chính sách đối ngoại của tổng thống
George W. Bush. Chương này sẽ đề cập tới bối cảnh quốc tế (những vấn đề về kinh
tế, chính trị thế giới, quan hệ quốc tế) và trong nước của Hoa Kỳ (những vấn đề
kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, quân sự, khoa học công nghệ) làm cơ sở nền tảng
cho sự ra đời chính sách đối ngoại của Bush. Đồng thời chương này cũng sẽ giới
thiệu về chính sách đối ngoại của Bush để tạo cơ sở tìm hiểu về sự điều chỉnh chính
sách đối ngoại của G. Bush so với B. Clinton

13
Chƣơng 2: Điều chỉnh chính sách đối ngoại của tổng thống George W.
Bush. Nội dung phần này tập trung vào những điều chỉnh của G. Bush so với B.
Clinton trên cơ sở các vấn đề: về các mục tiêu, ưu tiên (thứ tự các ưu tiên, vấn đề
dân chủ và cuộc chiến chống khủng bố, thúc đẩy dân chủ) cũng như phương thức

thực hiện chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ (tập hợp lực lượng, thay đổi chiến lược
kiềm chế sang tấn công phủ đầu, chủ nghĩa đơn phương và phương châm rảnh tay
hành động, và điều chỉnh chiến lược quân sự). Chương này còn có nhiệm vụ giải
thích tại sao lại có sự điều chỉnh như vậy trên cơ sở tập trung vào nhận thức khác
biệt của G. Bush so với B. Clinton.
Chƣơng 3: Tác động của việc G. Bush điều chỉnh và vài nhận xét về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ: Chương này tập trung vào những tác động của việc G.
Bush điều chỉnh chính sách đối ngoại trên ba cấp độ: tới kinh tế, chính trị và an ninh
quốc tế, khu vực và Việt Nam. Đồng thời một số dự báo chiều hướng chính sách đối
ngoại Hoa Kỳ trong tương lai gần và xa cũng được đề cập tới trong chương này.
Do đề tài nghiên cứu mang tính thời sự cao, nguồn tài liệu tuy phong phú
nhưng nhiều chiều cần được bổ sung và cập nhật thêm, với thời gian có hạn cùgn sự
hiểu biết và kinh nghiệm của người viết còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi
có những thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý của quý độc giả.


14
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
TỔNG THỐNG GEORGE W. BUSH
1.3. Bối cảnh của việc G. W. Bush điều chỉnh CSĐN
1.3.1. Bối cảnh quốc tế
Bối cảnh thay đổi của nền kinh tế chính trị thế giới đã khiến cho Hoa Kỳ có
những lựa chọn chiến lược chưa từng có kể từ sau năm 1945. Sức mạnh của Hoa Kỳ
chỉ được bộc lộ rõ ràng từ năm 1991 khi Hoa Kỳ tấn công Iraq mà không vấp phải
sự phản ứng nào của Nga. Sức mạnh ấy một lần nữa lại được thể hiện sau vài năm
khi Hoa Kỳ cầm đầu NATO can thiệp vào Kosovo năm 1999. Bối cảnh quốc tế
được biểu hiện thông qua những biến đổi của tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế
giới, những xu hướng của quan hệ quốc tế, quan hệ giữa các nước lớn.
1.3.1.1. Tình hình kinh tế, chính trị thế giới
Kinh tế thế giới

Kinh tế thế giới hiện nay có hai đặc điểm chính. Đặc điểm thứ nhất là sự
chuyển hóa nền kinh tế thế giới sang nền kinh tế tri thức. Đặc điểm này đã đưa đến
những hệ quả sau đây: (i) tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thay đổi về
chất kéo theo sự thay đổi về phương thức sản xuất, cung cách quản lý, làm ăn, cách
sống; (ii) thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc ngay cả khi nền kinh tế có sự xáo
trộn khó lường; (iii) không làm triệt tiêu quy luật phát triển không đồng đều, mà
ngược lại, còn làm tăng thêm rõ hơn, càng phức tạp hơn, đồng thời làm tăng khoảng
cách giữa nước phát triển và đang phát triển; (iv) tạo cơ hội cho các nước khắc phục
sự nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn khoảng cách phát triển, nhưng đồng thời cũng tạo ra
những thách thức lớn do sự thiếu vốn, tình trạng nghèo nàn lạc hậu của khoa học kĩ
thuật và còn do các vấn đề xã hội; (v) làm cuộc chạy đua kinh tế, khoa học công
nghệ giữa các nước diễn ra quyết liệt hơn, biến nó thành cuộc chạy đua nổi trội,
điều đó buộc tất cả các nước đều phải điều chỉnh chiến lược phát triển mà trọng tâm
là sự cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ và giáo dục
Đặc điểm thứ hai, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá có sự biến đổi về
chất, tăng cả về tốc độ, quy mô, về cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng, nhiều tầng

15
nhiều lớp. Toàn cầu hoá và khu vực hoá là hai quá trình có quan hệ tương hỗ biện
chứng, vừa xung đột, vừa bổ trợ thúc đẩy lẫn nhau, phản ánh tính đa dạng trong sự
phát triển của thế giới. Điều này dẫn tới các hệ quả: (i) thúc đẩy nền kinh tế thế giới
chuyển sang mô hình kinh tế tri thức; (ii) thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra
trên nhiều lĩnh vực - chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục; (iii) làm tăng thêm sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các dân tộc, nhưng không làm triệt tiêu
mâu thuẫn và sự đấu tranh giữa các quốc gia; (iv) tạo ra sự thách thức to lớn đối với
các quốc gia, dân tộc, gây nguy cơ làm xói mòn chủ quyền quốc gia; (v) tác động
mạnh tới nền chính trị quốc tế, trước hết là tác động tới khái niệm quốc gia (chủ
quyền, sức mạnh, lợi ích…); (vi) tạo ra khả năng kiềm chế xung đột và làm giảm
nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt.
Kinh tế là cơ sở hạ tầng, là nền tảng cho quan hệ chính trị, kinh tế thay đổi kéo

theo sự thay đổi của thượng tầng. Kinh tế thế giới tiếp tục bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
sự biến động của địa chính trị – thế giới. Tuy nhiên, các quốc gia đều muốn có môi
trường hoà bình, ổn định để phát triển. Sự phát triển kinh tế là tiêu chí phấn đấu của
mọi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế sẽ diễn ra quyết liệt trong cơn lốc toàn cầu hoá mà
lực lượng chi phối vẫn là ba trung tâm tư bản chủ nghĩa và các nước lớn. Trong thập
niên tới, cuộc cạnh tranh giành giật tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là năng lượng)
và tài nguyên chất xám sẽ diễn ra gay gắt hơn. Các nhà chiến lược Mỹ đã đi trước
các cường quốc khác trong chiến lược giành giật tài nguyên thiên nhiên và trí tuệ
con người. Ngày nay, các nước lớn giàu có, nắm giữ và chi phối nhiều tổ chức kinh
tế, tài chính thế giới và khu vực, đặc biệt là WB, IMF, WTO. Thực tế một số nước
lớn đang nắm giữ sự vận hành của nền kinh tế thế giới và chi phối việc hoạch định
CSĐN của nhiều nước.
Tình hình chính trị và an ninh thế giới
Tình hình chính trị và an ninh quốc tế có những nét lớn chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, sự so sánh lực lượng tiếp tục đang ở thế có lợi cho Hoa Kỳ, nhưng
các đối tác của Mỹ (Nhật, EU, Nga, Trung Quốc…) vẫn tiếp tục gia tăng sự cạnh
tranh vươn lên để khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Mỹ đang bị EU,

16
Nhật Bản cạnh tranh quyết liệt về kinh tế (các cuộc chiến tranh kinh tế giữa ba trung
tâm kinh tế TBCN diễn ra liên tục). EU đang là một siêu cường kinh tế. Họ không
thua kém Mỹ về GDP, chỉ số xuất nhập khẩu… nhưng về vốn và nhiều mặt quan
trọng khác, đặc biệt về khoa học – công nghệ, thì vẫn thua kém Mỹ. Trung Quốc
đang nổi lên thành đối thủ đe doạ sự bá quyền của Mỹ. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng chỉ trong vòng 10 – 15 năm nữa (2015 – 2020), Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ,
vượt xa Nhật Bản. Nhật Bản trong vài chục năm tới khó trở lại thời kì tăng trưởng
kinh tế cao như những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, nhưng vẫn là ―người khổng lồ‖
về kinh tế, vẫn là một trong ba trụ cột của kinh tế thế giới, có vai trò đặc biệt lớn
với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga tuy suy yếu về kinh tế, nhưng vẫn là
nước duy nhất có khả năng cạnh tranh được với Mỹ về quân sự, do có tiềm lực to

lớn về vũ khí hạt nhân chiến lược.
Thứ hai, việc tập hợp lực lượng: xuất phát từ lợi ích dân tộc, sự tăng cường
hợp tác của các nước có mục đích chung là tăng cường nội lực mà trước hết là để
phát triển kinh tế. Hình thức tập hợp lực lượng diễn ra gồm nhiều lớp đan cài, vừa
đấu tranh vừa hợp tác, vừa tranh thủ vừa kiềm chế trên quy mô toàn cầu. Hiện có
một số nét mới nổi trội - đó là sự cải thiện quan hệ trong tam giác Nga – Trung
Quốc – Ấn Độ. Tập hợp Nga – Trung Quốc được thực hiện thông qua Tổ chức Hợp
tác Thượng Hải. Tổ chức này có một cơ chế riêng, có Ban Thư ký và những thoả
thuận hợp tác cụ thể….Hiện nay thực tế đang hình thành tư tưởng thành lập khu vực
kinh tế Đông Á, bao gồm 10 nước Đông Nam Á cộng ba nước Đông Bắc Á là
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tập hợp Á - Âu diễn ra thông qua cơ chế
ASEM. Trên thế giới đang diễn ra sự tập hợp lực lượng với những quan hệ nhằng
nhịt qua lại, liên kết với nhau trong từng vấn đề, trong từng thời điểm, ở từng địa
bàn… Điều đáng chú ý là mọi tập hợp bao giờ cũng ―liếc‖ về phía bên kia bờ Đại
Tây Dương, mà chưa ngoảnh mặt đi với Mỹ, vẫn coi Mỹ là đối tác quan trọng hàng
đầu. Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Hoa Kỳ trong việc lựa chọn một
hình thức tập hợp lực lượng mới phù hợp với tình hình mới.

17
Thứ ba, nguy cơ chiến tranh huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, cục
bộ, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo gia tăng. Trong chiến tranh lạnh, trung bình
mỗi năm xảy ra khoảng 4 – 5 cuộc xung đột vũ trang, nhưng từ sau chiến tranh lạnh
tới nay, con số này đã tăng lên 34,5 cuộc. Số quốc gia có vũ khí hạt nhân hiện nay
khoảng 10 nước và có khoảng 30 quốc gia có công nghệ hạt nhân. Thông thường
các cuộc xung đột này thường xảy ra tại các quốc gia vùng xám. Vùng xám, vùng
bất ổn là khái niệm mới xuất hiện trong bối cảnh mới của các mối quan hệ quốc tế,
vì nó mang tính rộng rãi, phổ quát. Những vấn đề của vùng xám có sự giao thoa
giữa những vấn đề lớn của thế giới, giữa chiến tranh, xung đột và an ninh. Hiện vấn
đề này đang được đặt vào trọng tâm trong nghiên cứu lý thuyết quan hệ quốc tế.
Thứ tư, các vấn đề toàn cầu: môi trường, dịch bệnh, đói nghèo… trở thành sự

quan tâm của toàn thế giới, chi phối mọi quốc gia, đe doạ sự tồn tại của cả loài
người. Hệ quả của điều này là: thứ nhất, làm tăng quan hệ hợp tác và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước. Thứ hai, làm tăng vai trò, vị trí của các diễn đàn, khu vực hợp
tác trên thế giới. Thứ ba, làm tăng vai trò hoạt động ngoại giao đa phương. Các vấn
đề toàn cầu đang dẫn tới vô số các cuộc khủng hoảng, mà bất cứ cuộc khủng hoảng
nào cũng có thể là nguy cơ gây bất ổn định kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường…
đe doạ cuộc sống nhân loại. Một số vấn đề toàn cầu hiện nay đang là nguy cơ gây
xung đột trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là vấn đề làm chủ các nguồn tài nguyên
(nước, nhiên liệu…). Việc làm chủ được công cuộc khai thác các nguồn tài nguyên
là một trong những yếu tố quyết định trong quan hệ kinh tế và ngoại giao quốc tế,
có tác dụng trong việc giải quyết nhiều cuộc xung đột và trong việc hoạch định
chính sách viện trợ phát triển. Các vấn đề toàn cầu có thể tạo mảnh đất cho cuộc
đấu tranh giành quyền lực và của cải trong quan hệ quốc tế. Sự liên kết giữa hợp tác
và xung đột quốc tế có vẻ sẽ chủ yếu bị quyết định bởi sự tăng cường các mối đe
doạ mang tính toàn cầu. Bên cạnh đó, các vấn đề toàn cầu còn tác động tới số lượng
chủ thể tham gia quan hệ quốc tế, tác động tới các dạng quan hệ trong quan hệ giữa
các chủ thể, tạo môi trường hoạt động cho chủ thể trong quan hệ quốc tế. Đồng thời
các vấn đề toàn cầu cũng tác động tới nhận thức lợi ích của các chủ thể, tác động tới

18
động cơ, mục tiêu hành động và chính sách của các chủ thể trong quan hệ quốc tế.
Những thay đổi về lợi ích, chủ thể, quan hệ… tất yếu sẽ làm nảy sinh những vấn đề
mới về tính hệ thống, trật tự, thiết chế, nguyên tắc hoạt động của hệ thống quan hệ
quốc tế. Trong bất kì trường hợp nào, thì cũng sẽ hoàn toàn hợp lý nếu giả định tình
hình chính trị thế giới và quan hệ quốc tế trong thế kỉ 21 sẽ bị chi phối, thúc đẩy và
tập trung chủ yếu vào các vấn đề này.
Thứ sáu, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động,
nhưng còn tồn tại nhiều yếu tố bất ổn, trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng của
nhiều nước lớn. Đây là khu vực địa chiến lược quan trọng, có nhiều nền kinh tế lớn,
nhưng tồn tại các điểm xung đột nóng như tại bán đảo Triều Tiên hay eo biển Đài

Loan. Sau vụ tấn công khủng bố 11/9, Mỹ càng quan tâm hơn tới khu vực này do
tồn tại các vấn đề liên quan tới người Hồi giáo và các nhóm khủng bố được cho là
có quan hệ với Al Qaeda.
1.3.1.2. Các xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế và quan hệ giữa các nước lớn
Chính những đặc điểm lớn về kinh tế, chính trị, an ninh trên đã tác động đến
sự hình thành các xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh một số xu thế
chính được hình thành sau chiến tranh lạnh, các xu thế sau đây vẫn tiếp tục phát
triển: Xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác; Xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
sự cùng tồn tại hoà bình; Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá trong lĩnh vực kinh tế và
đời sống; Ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt và
can thiệp từ bên ngoài của các dân tộc được nâng cao. Điều này làm tăng tính dân
chủ hoá trong quan hệ quốc tế…hiện nay. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, một
số xu thế nổi trội trong quan hệ quốc tế như sau:
Thứ nhất quan hệ quốc tế tiếp tục có xu hướng mở rộng và ngày càng phức
tạp. Xu hướng này được định hình là vì những yếu tố tác động chủ yếu tới quan hệ
quốc tế trong giai đoạn tới đều mạnh lên. Quan hệ quốc tế được định hình và phát
triển dựa trên hai nhóm nhân tố: nhóm nhân tố điều kiện và nhóm nhân tố tác động.
Nhóm nhân tố điều kiện gồm có: (i) Sự thừa nhận của các quốc gia về việc mở
rộng quan hệ quốc tế là hữu ích và cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mỗi

19
quốc gia; (ii) Những thể chế quốc tế, những tập quán quốc tế đã hình thành đủ điều
kiện cho việc phát triển quan hệ quốc tế; (iii) Hạ tầng cơ sở kỹ thuật cho việc mở
rộng quan hệ quốc tế như: thông tin, giao thông vận tải phát triển vượt bậc.
Nhóm nhân tố tác động gồm có: (i) Sự chủ động của các công ty tư bản mở
rộng hoạt động ra toàn thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Xu hướng mở rộng này đã
tiến tới một cao trào được gọi là toàn cầu hoá từ sau chiến tranh lạnh; (ii) Chính
sách đối ngoại thúc đẩy sự thiết lập một trật tự thế giới mới của Mỹ đang được triển
khai tích cực; (iii) Chính sách cạnh tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc khác
như Tây Âu, Trung Quốc cũng được thể hiện quyết liệt; (iv) Chính sách mở rộng

quan quốc tế để tìm kiếm thêm những nguồn lực bên ngoài cho công cuộc công
nghiệp hoá và hiện đại hoá được thực hiện ở tất cả những nước đang phát triển dù
theo bất cứ chế độ xã hội nào; (v) Những lực lượng chống lại sự bá quyền của Mỹ,
đặc biệt là lực lượng Hồi giáo cực đoan, nổi lên mạnh mẽ; (vi) Lực lượng bảo vệ
môi trường cũng hoạt động tích cực; (vii)Các lực lượng tội phạm như lực lượng
buôn bán ma tuý….cũng không ngừng gia tăng.
Những năm 90 của thế kỉ XX đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều lý thuyết
và lập luận mới nhằm giải thích cho sự phát triển năng động của hệ thống thế giới
trong giai đoạn này, chẳng hạn như Samuel Huntington đã xác định các nền văn
minh hay văn hoá như yếu tố chi phối hệ thống thế giới và là nguyên nhân cơ bản
gây xung đột trong môi trường toàn cầu. Một số học giả khác lại cho rằng sự khan
hiếm nguồn lực là nguyên nhân gây xung đột. Trong những năm 1990, thế giới
chứng kiến nỗi kinh hoàng về nạn diệt chủng ở Rwanda và cuộc xung đột sắc tộc
đẫm máu tại Balkans. Để giải thích cho những vấn đề này, một trường phái lý
thuyết mới nổi lên – chủ nghĩa hiện thực mới. Trường phái này có quan điểm ảm
đạm về thế giới – tin rằng hệ thống thế giới đang rơi vào tình trạng vô chính phủ, kẻ
mạnh thắng, kẻ yếu bị khuất phục. Chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng Hoa Kỳ nên
áp dụng cách tiếp cận cơ bắp hơn, hiếu chiến hơn – một quan điểm ảnh hưởng tới
những chính sách an ninh và đối ngoại của chính quyền G. Bush.

20
Những năm 1990 cũng chứng kiến cuộc cách mạng công nghệ được tạo ra do
mạng lưới internet và máy tính cá nhân, càng hỗ trợ cho sự thúc đẩy quá trình toàn
cầu hoá vốn ngày càng trở thành một thế lực đầy quyền lực trong sự hình thành hệ
thống quốc tế. Việc gia tăng tốc độ tương tác giữa các nhà nước, các chủ thể phi nhà
nước, và các cá nhân đã làm phức tạp thêm việc dự đoán hành vi của các chủ thể
tham gia hệ thống quốc tế. Toàn cầu hoá làm giảm vai trò của các đường biên giới
cứng giữa các nhà nước. Trong khi khoảng cách địa lý ngăn cách giữa các chủ thể
ngày càng giảm vai trò quan trọng, liên kết toàn cầu đang tạo ra những không gian
và mạng lưới ba chiều mới càng làm phức tạp thêm hệ thống thế giới. Những không

gian mới này đang được các chủ thể phi nhà nước sử dụng với nhiều mục đích khác
nhau, trong đó có cả mục đích tốt và xấu. Đáng chú ý là các phong trào khủng bố sử
dụng rất nhiều website để tuyển mộ nhân lực và tuyên truyền.
Cho dù có những thay đổi sâu sắc như vậy trong hệ thống thế giới, song việc
bảo vệ và kiểm soát các không gian địa lý có vẻ vẫn tiếp tục là những động cơ nổi
bật của các nhà nước. Các nhà nước vẫn tồn tại trong các không gian vật lý và tiếp
tục chịu trách nhiệm bảo vệ chúng khỏi các mối đe doạ từ bên trong và bên ngoài.
Các nhà nước thực hiện việc bảo vệ các không gian này theo nhiều cách khác nhau,
phụ thuộc vào việc nhận thức mối đe doạ, các phương tiện bảo vệ sẵn có, và những
đánh giá của họ về môi trường an ninh nói chung. Sau khi Liên Xô tan rã, các nước
công nghiệp hoá nhanh chóng xác định lại môi trường an ninh và có những bước đi
cẩn trọng nhằm củng cố và cơ cấu tổ chức lại bên trong để giải quyết tốt hơn các
mối đe doạ mới nổi lên.
Các chủ thể phi nhà nước cũng phát triển với những tổ chức khủng bố có cơ
cấu tổ chức toàn cầu, đổi mới sự tuyên truyền, tăng ngân sách ngày càng nhiều dành
cho công nghệ và thậm chí chúng áp dụng cả những công nghệ mới nhằm tăng khả
năng giết hại con người, làm tăng hiệu quả trong cơ cấu tổ chức của chúng. Một số
tổ chức khủng bố hiện có khả năng giết hại dân thường hàng loạt và gây ra sự đổ vỡ
chiến lược.

21
Thứ hai, sự chi phối của nhân tố Mỹ và quan hệ nước lớn. Hiện nhân tố Mỹ
đang chi phối quan hệ quốc tế. Mặc dù sự chi phối này không tuyệt đối song vẫn đạt
tới mức định hình quan hệ quốc tế. Đặc điểm này hình thành từ điều kiện thuận lợi
cũng như CSĐN của Mỹ. Chính sách đối ngoại của Mỹ có những điểm mới, song
về cơ bản vẫn duy trì hai mục tiêu, mà mục tiêu bao trùm thứ nhất là xác lập địa vị
thống trị thế giới, thứ hai là không để cho một quốc gia nào hiện nay cũng như
trong tương lai gần có thể tranh chấp địa vị thống trị số 1 của Mỹ. Về phương cách,
Mỹ sử dụng ba trụ cột chính là: sức mạnh quân sự, thị trường tự do và cái gọi là dân
chủ, nhân quyền để thống trị thế giới.

Trong một bài báo trên tờ tuần báo ―Thời đại‖ của Cộng hoà Liên Bang Đức
ra ngày 29 tháng 9 năm 2002 có đoạn viết: ―Nước Mỹ bước vào thế kỷ XXI với tư
cách là quyền lực thực sự duy nhất của thế giới. Cánh tay quân sự của Mỹ vươn tới
bất cứ điểm nào của địa cầu. Ưu thế kinh tế của Mỹ là chất xúc tác cho toàn bộ nền
kinh tế thế giới. Sự thống trị về mặt chính trị của Mỹ đã làm cho Mỹ trở thành một
dân tộc mà người ta không thể từ bỏ. Còn ảnh hưởng về mặt văn hoá của Mỹ thì lớn
tới mức trên khắp thế giới nhiều người coi toàn cầu hoá là một quá trình Mỹ hoá.
Ưu thế đa chiều này đã làm cho quyền lực Mỹ trở thành duy nhất‖. Sự tác động rất
mạnh mẽ của nhân tố này khiến cho sự chi phối của nhiều trung tâm ở mức độ khác
nhau đã hình thành trước đó nay bị rỡ bỏ, mà thay vào đó là sự gia tăng mức độ chi
phối của nhân tố Mỹ. Sự chi phối của nhân tố Mỹ ở đây có thể thấy rõ ở tất cả các
khu vực.
Sự chi phối của Mỹ là có thực tuy ở mức độ khác nhau, song không hoàn toàn
do áp đặt của Mỹ mà ở chừng mực nào đó là do sự chấp nhận của các đối tác của
Mỹ. Ngay các quốc gia lớn như Trung Quốc và Nga, vì so sánh lực lượng yếu hơn,
vì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế, mong muốn khai thác thị trường vốn, khoa
học công nghệ phương Tây, thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước này mà họ đều
phải có sự nhượng bộ đối với Mỹ.
Bước sang thế kỉ XXI, quan hệ giữa các nước lớn đã có sự thay đổi, trở nên
căng thẳng, bắt nguồn từ các sự kiện : Mỹ – Anh không kích Iraq (tháng 12/1998);

22
78 ngày đêm Mỹ và NATO tấn công Nam Tư (1999); Mỹ phản đối hoạt động của
Nga tại Chesnia; Mỹ đòi sửa đổi, thậm chí đe doạ đơn phương rút khỏi Hiệp ước
giới hạn vũ khí phòng thủ chiến lược ABM đã ký với Liên Xô năm 1972 để tiến
hành xây dựng Hệ thống phòng thủ chống tên lửa quốc gia (NMD); bất đồng quan
điểm Mỹ – Tây Âu về kế hoạch triển khai Hệ thống phòng thủ chống tên lửa quốc
gia của Mỹ; Mỹ và Nhật Bản kí kết triển khai Hệ thống phòng thủ chống tên lửa
chiến trường (TMD) ở vùng Viễn Đông. Quan hệ Mỹ – Trung cũng đang căng
thẳng nhất là về vấn đề Đài Loan cùng những tuyên bố và hành động cứng rắn của

chính phủ Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc và Nga. Tuy nhiên, xung đột giữa các
cường quốc vẫn còn nằm trong giới hạn, khó xảy ra đổ vỡ lớn vì cả Nga, Trung
Quốc và Mỹ đều không muốn đối đầu trực tiếp với nhau. Nga và Trung Quốc cần
tranh thủ Mỹ, còn Mỹ tuy có phần lấn át, song cũng cần sự hỗ trợ của Nga và Trung
Quốc trong một số vấn đề quốc tế.
Những thay đổi và tính phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn bị chi phối
bởi nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật nhất là do tương quan lực lượng giữa các
nước lớn đang thay đổi. Mỹ tuy ở thế mạnh hơn các đối thủ khác, nhưng cũng có
mặt hạn chế, khó có thể áp đặt sức mạnh của mình. Quan trọng hơn là Mỹ chưa chịu
từ bỏ ý đồ thiết lập bá quyền lãnh đạo thế giới, và để thực hiện ý đồ này, Mỹ luôn
thay đổi chiến lược cũng như sách lược Nhiều sự kiện cho thấy những bất ổn trong
quan hệ Mỹ – Nga, Mỹ – Trung đều bắt nguồn hoặc có nguyên nhân sâu xa từ sự
thay dổi trong chính sách của Mỹ. Nhiều xung đột, điểm nóng trên thế giới đều có
bàn tay can thiệp hoặc dính líu của Mỹ. Điều đó làm Nga và Trung Quốc lo ngại,
phản ứng lại Mỹ.
Trong quan hệ tứ giác Trung – Mỹ – Nga – EU cũng có những chiều hướng
thay đổi. EU (nhất là Pháp và Đức) thể hiện tính độc lập hơn với Mỹ, nhưng không
đối đầu với Mỹ, đồng thời vừa kiềm chế vừa tranh thủ Nga và Trung Quốc; ngược
lại, Nga và Trung Quốc cũng tranh thủ EU. Nga vừa đấu tranh chống lại mưu toan
của Mỹ và Tây Âu lấn át Nga ở Đông Âu và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ,
vừa tìm cách hội nhập vào châu Âu và hợp tác với NATO. Sự điều chỉnh chiến lược

23
của các nước lớn đã tạo ra thế cân bằng mới trong quan hệ Nga – Mỹ, Mỹ – Trung,
Mỹ – Nhật – EU, Trung – Nhật…Quan hệ giữa các nước lớn luôn chuyển động,
biến đổi, thăng trầm, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh nhau, tất cả chỉ vì lợi ích
của riêng mỗi nước.
Trong tương lai gần, chắc chắn Mỹ vẫn còn giữ được vị trí siêu cường và chưa
thể có nước nào vượt qua được. Tuy vậy, tương quan lực lượng thay đổi ngày càng
sâu sắc do tác động của qui luật phát triển không đồng đều trong điều kiện ngày nay

và do đó những biện pháp và chính sách này đã và đang gây ra các phản ứng khi âm
ỉ, khi gay gắt giữa các trung tâm này nói riêng cũng như giữa họ với các nước khác
trên thế giới.
Chính sách đơn phương và bá quyền của Hoa Kỳ ở mức độ nhất định đã gây
ra phản ứng chống Mỹ ở một số nơi trên thế giới. Nga và Trung Quốc không chỉ
không thoải mái với sự bá quyền của Hoa Kỳ mà còn muốn chống lại trật tự một
cực do Hoa Kỳ đang cố sức tạo ra. Đồng thời, một nhóm các quốc gia cũng cảm
thấy bị đe doạ về các giá trị và hệ tư tưởng song hành cùng bá quyền của Mỹ (cùng
việc Mỹ liệt kê họ vào hàng ngũ phi dân chủ, đặc biệt là các nước bị coi là bất hảo).
Sự kiềm chế các quốc gia bất hảo, những nước bị Hoa Kỳ coi là có vũ khí WMD và
hỗ trợ khủng bố đã trở thành bộ phận quan trọng trong chính sách quân sự và đối
ngoại của Hoa Kỳ kể từ cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991. Xung đột giữa Hoa Kỳ
với các nước bất hảo bị Hoa Kỳ biến thành xung đột giữa các nước dân chủ và các
nước phi dân chủ.
Bên cạnh đó, bắt nguồn từ sức mạnh bá quyền và tự mệnh danh tính hợp pháp
trong việc thúc đẩy nhân quyền và tự do, Hoa Kỳ dành quyền can thiệp (dưới danh
nghĩa cộng đồng quốc tế) vào các cuộc xung đột nội bộ các nước với lí do vi phạm
nhân quyền dẫn tới làm gia tăng bạo lực và thảm hoạ nhân đạo mà điển hình là vụ
không kích Nam Tư của NATO nhằm ngăn chặn sự thanh trừ sắc tộc tại Kosovo
năm 1999. Lí do can thiệp nhân đạo ở mức độ lớn trùng với yêu cầu ngăn sự quốc tế
hoá các cuộc xung đột bên trong. Về khía cạnh này, các vụ can thiệp vào cái gọi là
các nhà nước thất bại nơi chính quyền trung ương hiếm khi hoặc không kiểm soát

24
được toàn bộ lãnh thổ dẫn tới các vụ vi phạm nhân quyền, cũng như gây mất ổn
định khu vực. Bosnia, Somalia và Sierra Lêon là những ví dụ nổi bật nhất cuối thế
kỉ XX. Thất bại ở Somalia khiến Hoa Kỳ không can thiệp vào các cuộc xung đột
kiểu này, đặc biệt là nếu sự ổn định khu vực không trực tiếp đe doạ tới lợi ích của
Hoa Kỳ. Học thuyết Clinton được đưa ra năm 1994 về lí luận ngăn cản đã đẩy Hoa
Kỳ dính vào các cuộc xung đột như vậy. Kết quả là, các nhà nước khác sẽ phải đảm

nhiệm chức năng này (ví dụ Anh ở Sierra Lêon, Úc ở Đông Timor), điều này chứng
tỏ sự có lựa chọn trong việc sử dụng sức mạnh bá quyền của Hoa Kỳ.
Bản chất thay đổi của các cuộc xung đột và bản chất thay đổi của các chủ thể
trong môi trường quốc tế đang làm thay đổi môi trường an ninh quốc tế. Trong khi
xung đột vũ trang giữa các cường quốc không nổ ra thì sự mất ổn định kinh niên
dưới các hình thức xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo, phe phái lại tăng lên. Sự
phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, sự tồn tại của những nhà nước có các hành vi
nằm ngoài tiêu chuẩn hành vi, sự nổi lên của mạng lưới khủng bố toàn cầu là những
điểm được đặc biệt nhấn mạnh trong một loạt các văn kiện của chính quyền Bush.
Khía cạnh đa chiều của các cuộc xung đột quốc tế không tránh khỏi tạo ra sự
lỏng lẻo và mơ hồ, khiến khó tạo ra các ưu tiên chính sách, tính phức tạp của thế
giới sau chiến tranh lạnh và những chiều hướng quan hệ quốc tế. Đặc biệt với Hoa
Kỳ, nó nêu lên một số vấn đề về bản chất chính sách bá quyền Hoa Kỳ nên thế nào,
liệu thời khắc một cực kéo dài bao lâu, các lợi ích quốc gia và ưu tiên của Hoa Kỳ
nằm ở đâu và những mối đe doạ nào gây ảnh hưởng cho các lợi ích quốc gia và ưu
tiên đó. Kết quả là, chính sách của Hoa Kỳ thiếu sự cố kết và trong nhiều trường
hợp mang tính phản ứng lại hơn là đi tiên phong thực hiện. Đặc trưng nổi bật của
việc Hoa Kỳ miễn cưỡng và can dự có lựa chọn vào quan hệ quốc tế liên tục làm gia
tăng mối lo ngại giữa các đồng minh của Mỹ về khả năng quyền lực lớn của Mỹ cho
phép Mỹ lui về tình trạng biệt lập nhằm giảm chi phí của việc trở thành bá quyền,
đồng thời tìm kiếm và áp đặt đơn phương các giải pháp một khi các lợi ích sống còn
của Hoa Kỳ bị đe doạ. Chính sách của chính quyền Bush mới càng làm tăng thêm

×