Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội đến hành vi bán dâm ở gái mại dâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 153 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ HẢI



ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỐI QUAN HỀ
XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI BÁN DÂM Ở GÁI
MẠI DÂM


LUẬN VĂN THẠC SĨ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THỊ HÀ












Hà Nội - 2009
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN






TRN TH HI



ảNH HƯởNG CủA CáC MốI QUAN Hệ Xã HộI
ĐếN HàNH VI BáN DÂM ở GáI MạI DÂM


CHUYấN NGNH: TM Lí HC
M S: 60.31.80



LUN VN THC S



NGI HNG DN KHOA HC

TS. Lấ TH H






H NI - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mại dâm là một vấn đề xã hội phức tạp, khó giải quyết không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở các Quốc Gia trong khu vực và trên thế giới. Các nghiên cứu ở một
số nước trong khu vực từ năm 1993 đến 1994 cho thấy có khoảng 140.000 đến
230.000 người hành nghề mại dâm ở In-đô-nê-xi-a; khoảng 43.000 đến 142.000
người ở Ma-lai-xi-a; khoảng 400.000 đến 500.000 người ở Phi-lip- pin; và từ
150.000 đến 200.000 tại một thời điểm hoặc từ 200.000 đến 300.000 trong giai
đoạn một năm ở Thái Lan (và thêm 100.000 phụ nữ Thái hành nghề mại dâm ở các
nước khác) [19]. Ở Việt Nam, tệ nạn mại dâm có xu hướng chỉ giảm bề nổi, nhưng
lại chuyển sang hoạt động trá hình dưới nhiều hình thức tinh vi, nhiều thành phần
tham gia hơn, đặc biệt có sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại để điều hành
mại dâm liên kết với các loại tội phạm khác để hoạt động. Tình trạng mại dâm trẻ
em, buôn bán phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài vì mục đích mại dâm vẫn chưa giảm,
hình thành nhiều đường dây hoạt động mại dâm xuyên quốc gia. Tính đến nay
(2008), theo số liệu của Cục phòng chống tệ nạn xã hội số gái mại dâm ước tính
khoảng 30.904 người, trong đó số có hồ sơ quản lý là 15.316 người. Con số này
trên thực tế còn đang là ẩn số, hiện nay chúng ta mới nhìn thấy "bề nổi của tảng
băng chìm" mà thôi.
Tệ nạn mại dâm gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với cá nhân, gia đình
và toàn xã hội. Tệ nạn này làm xói mòn đạo đức, huỷ hoại truyền thống, gây mất
trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tới phát triển và tăng trưởng kinh tế, phát triển

giống nòi và nguồn lực lao động của đất nước trong tương lai. Tệ nạn mại dâm còn
là sự tiềm ẩn của nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh xã hội khác cho nhiều
người từ hoạt động tình dục không an toàn. Mặc dù Đảng và Nhà Nước đã có rất
nhiều biện pháp, mô hình hỗ trợ được đưa ra nhằm giúp đỡ những người phụ nữ lầm
lỡ như: dạy nghề, tạo điều kiện việc làm, để họ tái hoà nhập cộng đồng nhưng cho
đến nay tệ nạn mại dâm vẫn còn nhiều bức xúc. Một trong những nguyên nhân là do
nhiều phụ nữ mại dâm không dám đương đầu với những khó khăn sau khi bỏ nghề,
bao gồm cả những khó khăn tâm lý khi phải đối diện với sự kì thị của xã hội. Có
người sau khi ra khỏi Trung tâm đã không hoặc không dám trở về nhà, quê hương mà
lại theo nhóm bạn xấu, theo thói quen cũ, tiếp tục hoạt động mại dâm. Hiện tượng
tái “hành nghề” này có khi lặp lại đến vài ba lần. Từ đây đặt ra câu hỏi liệu có phải
chính các quan hệ với gia đình đã đẩy họ, hay các quan hệ với bạn bè xấu đã lôi kéo,
hoặc bản thân họ không thể vượt qua được những cám dỗ, khiến một số chị em
không thể trở lại với con đường hoàn lương, với cuộc sống bình thường?
1.2. Đã có nhiều những nghiên cứu về tệ nạn mại dâm, nhưng chủ yếu là
trong các lĩnh vực xã hội học, đạo đức học, Những nghiên cứu tâm lý học về tệ
nạn này thì còn ít, đặc biệt là nghiên cứu sâu về các quan hệ xã hội như quan hệ
với gia đình, bạn bè của gái mại dâm cho đến nay hầu như chưa có.
ây chính là những lí do khiến chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Ảnh hưởng
của các quan hệ xã hội đến hành vi bán dâm ở gái mại dâm”. Đặc điểm của những
quan hệ xã hội mà chủ yếu là mối quan hệ với gia đình, bạn bè của gái mại dâm là
gì? Sự tham gia của các quan hệ này có ảnh hưởng như thế nào đến hành vi bán
dâm của gái mại dâm. Quan hệ nào có thể lôi kéo họ đến, quay trở lại hoặc từ bỏ
hành vi bán dâm? Liệu có phải chính những quan hệ với cha mẹ hoặc với bạn bè đã
lôi kéo các cô gái vào hay còn một quan hệ nào khác khiến họ khó có thể từ bỏ con
đường này?
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
TÌM HIẢnh hưởng của quan hệ xã hội đến hành vi bán dâm của gái mại
dâm.

2.2. Phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu hai nhóm quan hệ xã hội
của gái mại dâm là:
+ Quan hệ với gia đình huyết thống: cha, mẹ, anh, chị,
+ Quan hệ với bạn bè.
2.2.2. Địa bàn nghiên cứu
Đây là nhóm đối tượng đặc thù, khó tiếp cận nên chúng tôi chủ yếu điều tra
trong một số Trung tâm chữa trị, giáo dục lao động xã hội ở Hà Nội và TP.Hồ Chí
Minh. Cụ thể là:
+ 157 gái mại dâm ở trung tâm chữa trị giáo dục lao động xã hội trong đó có
3 gái mại dâm bị nhiễm HIV/AIDS; 2 gái mại dâm có trình độ đại học.
+ 1 gái mại dâm hiện đã hoàn lương ở Hà Nội.
+ Một gia đình gái mại dâm ở Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định rõ sự ảnh hưởng của quan hệ gia đình và quan hệ bạn bè đến hành
vi bán dâm của gái mại dâm.
Đưa ra những kiến nghị về giải pháp giúp gái mại dâm có những quan hệ xã
hội tích cực, đương đầu với những khó khăn tâm lý, tránh tái phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.2.1. Nghiên cứu lí luận: xác định những cơ sở lí luận và phương pháp
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
3.2.2. Nghiên cứu thực tiễn
 Xác định rõ các quan hệ gia đình, bạn bè của gái mại dâm.
 Chỉ ra ảnh hưởng của các quan hệ xã hội này đến hành vi bán dâm.
3.2.3. Đưa ra những đề xuất và kiến nghị.
4. Giả thuyết khoa học
4.1. Mối quan hệ lỏng lẻo, thiếu sự yêu thương, chăm sóc giữa các quan hệ
trong gia đình huyết thống đã là một trong những nhân tố thúc đẩy gái mại dâm

đến hành vi bán dâm.
4.2. Các quan hệ với bạn bè xấu là một nhân tố quan trọng góp phần tạo lập
và củng cố hành vi bán dâm khiến gái mại dâm khó từ bỏ được con đường mại
dâm.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu các tài liệu.
5.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu.
5.4. Phương pháp nghiên cứu câu chuyện cuộc đời (life story).
5.5. ương pháp thống kê toán học.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn đã hệ thống hoá một số lý luận về quan hệ, ảnh hưởng của các mối
quan hệ, làm rõ các khái niệm mại dâm, hành vi, quan hệ xã hội
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được những ảnh hưởng của các mối quan hệ xã
hội đến hành vi bán dâm ở gái mại dâm mà chủ yếu là các mối quan hệ với gia
đình huyết thống (với cha, mẹ, anh, ) và các mối quan hệ bạn bè. Trên cơ sở đó đã
đưa ra một số kiến nghị về giải pháp nhằm phòng ngừa và giúp đỡ gái mại dâm tái
hòa nhập cộng đồng.
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục bảng biểu, danh mục tài
liệu tham khảo và phần phụ lục, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Chương 1
:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ xã hội
Vấn đề “quan hệ xã hội” đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu, cụ thể là:

Karl Marx khi nói về con người đã khẳng định rằng: Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. “Marx đã vạch ra nền
tảng mối quan hệ cá nhân, mối quan hệ giữa người với người - đó là quan hệ xã
hội ” [16, tr.443]. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của các quan hệ xã hội đối
với nhân cách nói chung và với hành vi của con người nói riêng.
+ Phạm Minh Hạc cũng có quan điểm như K.Marx khi nói về con người.
Theo ông: “trong cuộc sống, bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác
động của các quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó,
góp phần củng cố phát triển các quan hệ đó. Toàn bộ tồn tại khách quan xung
quanh con người tác động vào con người thông qua các quan hệ xã hội hoặc dưới
hình thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con người. Chính trong quá trình
học tập, lao động, đó con người thiết lập nên các quan hệ xã hội ” [8, tr.19]. “Cá
nhân - một thành viên xã hội, kẻ mang tổng hoà các quan hệ xã hội, vừa chịu ảnh
hưởng của chúng, vừa góp phần tạo ra chúng ” [8, tr.14].
+ Lã Thu Thủy cho rằng: con người không phải là những cá thể biệt lập mà
luôn tồn tại trong các quan hệ ràng buộc tương tác với nhau [3, tr.349]. Theo tác
giả: các quan hệ tương tác xã hội của mỗi cá nhân sẽ đóng vai trò rất quan trọng
trong sự trau dồi và phát triển cái tôi, giúp cá nhân nhìn nhận và điều chỉnh hành
vi. [3, tr.340]. “ Còn nhỏ thì quan hệ với cha mẹ có ảnh hưởng lớn nhất. Khi lớn
hơn một chút, quan hệ bạn bè trở thành quan trọng. Và khi trở thành người lớn đi
làm, có kinh tế độc lập thì cha mẹ không còn có ảnh hưởng nhiều như trước mà lúc
này là quan hệ với thủ trưởng hoặc vợ (chồng) có ảnh hưởng lớn. Có sự thay đổi
vai trò của người tác động đến hành vi của cá nhân theo từng lứa tuổi ” [3,
tr.347]. Tác giả đã khẳng định “ con người xã hội là con người được nhìn nhận
dưới góc độ: hành vi cá nhân và hệ thống xã hội ”.
CQuan hệ xã hội có vai trò rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người, nên nó đã trở thành đối tượng của nhiều nhà nghiên cứu.
 + Theo Ryan, Krall và Hodges: thì môi trường xã hội có ảnh hưởng lớn
nhất đến hành vi của cá nhân, nhân cách. Giữa chúng có mối quan hệ khăng khít và
tác động qua lại lẫn nhau theo cả hai chiều hướng tốt và xấu [3, tr.342].

 + Sulivian và W.Jame đưa ra thuật ngữ “những người có ảnh hưởng nhất”
hoặc “những người quan trong nhất” dùng để chỉ một người hoặc một nhóm người
mà sự đánh giá của họ có ý nghĩa đặc biệt đối với mỗi cá nhân này. Những người
này có thể là cha mẹ, bạn bè, thầy cô [3, tr.352].
 + Barry. D. Smith và Harold. J. Vetter nói rằng: “ môi trường xã hội hoặc
môi trường con người có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi. Tương tác giữa
người với người vừa là một phần quan trọng của sự học hỏi góp phần phát triển
nhân cách vừa là tác nhân làm thay đổi cấu trúc và động lực của nhân cách ”. Và
“ cư xử của một cá nhân tại một thời điểm nào đó hoặc trong khoảng thời gian
dài, là chức năng của môi trường tâm lý (bao gồm những nhân tố nội tại và ngoại
tại) chung nơi họ sống. Môi trường tâm lý có khả năng ảnh hưởng đến cá nhân”
[19, tr.37].
 + Karen Horney(1937) cho rL.Seve coi “nhân cách là hệ thống sinh động
của những quan hệ xã hội giữa các phương thức hành vi”. Điều này cho thấy quan
hệ xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của con người, qua đó thể hiện nhân
cách của mỗi con người [8; tr.48].
 Karen Horney(1937) cho rằng: “ nhân cách phát triển theo nghĩa quan hệ
xã hội và phụ thuộc chủ yếu vào mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái ” [5, tr.481].
 Nhà tâm lý học Mỹ, Gordon Olport đã chứng minh được rằng quan hệ
giữa các thành viên trong nhóm có ảnh hưởng đến hành vi, tri giác và quan điểm
của các thành viên [9, tr.59].
 B.Ph.Lomov khẳng định “ Hoạt động và giao tiếp của các cá nhân (các
nhân cách) diễn ra trong hệ thống mối quan hệ xã hội toàn thể hệ thống mối
quan hệ xã hội sẵn có cả là quan hệ nền tảng cũng như thượng tầng kiến trúc, quy
đinh sự hình thành cộng đồng này hay cộng đồng khác và hành vi cá nhân - các
thành viên trong xã hội, đồng thời tạo ra những nhu cầu, động cơ, hoài bão, định
hướng giá trị, tình cảm, năng lực, của họ [16, tr.444]. Lomov viết “để hiểu nền
móng của các thuộc tính nhân cách khác nhau, cần phải xem xét đời sống cá nhân
trong xã hội, sự vận động của nó trong hệ thống quan hệ xã hội. Mối quan hệ này
thể hiện trước tiên ở chỗ các cộng đồng nào, do những nguyên nhân khách quan ra

sao mà trong quá trình sống một cá nhân này hay một cá nhân khác tham dự vào
Việc tham gia của cá nhân vào các cộng đồng nhất định tạo nên nội dung, tính chất
các hoạt động mà cá nhân cần thực hiện, phạm vi và các cách giao tiếp với người
khác, nghĩa là các đặc điểm tồn tại xã hội, lối sống của cá nhân đó. Điều đó có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của cá nhân (ví dụ như trong một tập thể tốt) hoặc kìm
hãm và làm nhân cách bị què quặt (ví dụ trong các băng đảng) [16, tr.446].
 Theo A.N.Lêônchiep thì: “nhân cách được tạo ra bởi những hoàn cảnh
khách quan, nhưng không phải bằng cách nào khác ngoài cách thông qua toàn bộ
hoạt động của cá nhân thực hiện các quan hệ của nó với thế giới” [15, tr.256].
Nghĩa là mỗi cá nhân bằng chính các hoạt động của bản thân đã xây dựng cho
mình các quan hệ với thế giới, để từ đó hình thành và phát triển nhân cách của
mình.
 Còn Vưgôtxki cho rằng chính các mối quan hệ xã hội mà các cá nhân tham
gia vào đã tạo nên môi trường xã hội riêng phát triển nhân cách người đó. Môi
trường xã hội riêng này không giống với môi trường xã hội chung nhờ sự khác biệt
khi người này tham gia vào các mối quan hệ A,B trong khi người kia lại có các
mối quan hệ C,D mặc dù họ học trong cùng một lớp, một nhóm, Tính đặc thù của
mối quan hệ ở từng lứa tuổi trong môi trường chung mà nó qui định môi trường
riêng. Cá nhân tham gia vào mối quan hệ nào bằng hoạt động và giao lưu thì nó qui
định môi trường phát triển riêng của từng người. [26, tr.325-331]
 Cũng trong những nghiên cứu về mối quan hệ giữa các thành viên trong
nhóm, các nhà tâm lý học xã hội đã chỉ ra rằng: “nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
hành vi của mỗi cá nhân là thành viên của nhóm, dù rằng đó là thành viên của
nhóm đơn giản nhất” [14, tr.93]. “ Hành vi của cá nhân khi họ ở một mình có khi
rất khác với hành vi của chính họ khi có mặt của những người khác ” [14, tr.97].
 Nhà nghiên cứu Tong Xin đã chứng minh được rằng: giáo dục gia đình
mất cân đối và quan hệ gia đình lạnh nhạt có ảnh hưởng rất lớn tới tội phạm nữ.
Tác giả đã chỉ ra rằng về mặt quan hệ gia đình, trong số nữ phạm nhân dưới 25 tuổi
được nghiên cứu có 19,5% gia đình thường cãi lộn; 14,4% số gia đình không hề
trưng cầu ý kiến của con cái khi có các quyết định quan trọng trong gia đình; có

21,6% gia đình trong đó quan hệ giữa cha mẹ và con cái không hoàn toàn mật
thiết; và 9,6% chủ gia đình rất ít được con cái tín nhiệm. Có thể thấy sự yếu đi của
các quan hệ mật thiết trong gia đình các nữ phạm nhân, và điều này sẽ trực tiếp ảnh
hưởng tới hành vi phạm tội của họ.
Đặc biệt, đồng sự, bạn bè, bạn học và láng giềng hay giao du với nữ tội phạm
có ảnh hưởng rất quan trọng tới sự hình thành quan niệm giá trị của họ.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng cho thấy các nhóm tội phạm kiểu
lỏng lẻo, kết hợp tạm thời, lúc hợp lúc tan có xu hướng giảm, mà kết nối bằng các
quan hệ thân thích, bạn bè, bạn học, gắn bó mật thiết, tương đối cố định tăng dần
lên [21, tr.240-243].
Như vậy, quan hệ xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi. Tương tác giữa
người với người vừa là một phần quan trọng của sự học hỏi, góp phần phát triển
nhân cách (theo nhiều chiều hướng: tích cực, tiêu cực) vừa là tác nhân làm thay đổi
cấu trúc của nhân cách. Tác động của các quan hệ khác nhau đến cá nhân là không
giống nhau. Có những quan hệ xã hội có ảnh hưởng rất lớn, lại có những quan hệ
ảnh hưởng không nhiều đến cá nhân.
1.1.2. Các quan hệ xã hội của gái mại dâm.
Các quan hệ xã hội của gái mại dâm không chỉ phức tạp mà còn rất đặc
biệt.
+ Li Yinhe qua điều tra của mình đã cho thấy: gái mại dâm trở thành nạn
nhân của sự ngược đãi nhục thể và ngược đãi giới tính, người có hành vi bạo lực
gồm cảnh sát, khách làng chơi, chủ chứa, và cả người lạ. Như vậy theo tác giả này
thì rõ ràng gái mại dâm là "nạn nhân" trong các mối quan hệ xã hội của chính mình
[21, tr.211].
+ Tác giả Tong Xin đã nói về mối quan hệ giữa gái mại dâm và các tổ chức
xã hội đen như sau: xã hội đen coi gái điếm là cái cây hái ra tiền, đồng thời xã hội
đó lại làm cái ô che cho họ, lúc thường thì dắt khách cho họ, khi xảy ra chuyện
"không ngờ" thì xúm đến dùng vũ lực giải quyết vấn đề, có lúc còn tiến hành vòi
vĩnh, hạch sách. Qua đây cũng cho thấy quan hệ giữa gái mại dâm và xã hội đen
cũng không hề tốt. Mà ngược lại, đối với gái mại dâm lại còn phải chịu nhiều thiệt

thòi: bị vòi vĩnh, đánh đập, [21, tr.224].
+ Balazs Gabrielle khi nghiên cứu về các quan hệ của gái mại dâm đã cho
rằng: Khách hàng là những người “cần những hoạt động tình dục bổ sung và giải
trí. Và thế là họ tìm đến với gái mại dâm ” [21, tr.97]. Như vậy có thể thấy quan
hệ giữa gái mại dâm (người bán dâm) với khách hàng (người mua dâm) chỉ là quan
hệ trao đổi giữa người mua và người bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.
Mối quan hệ của gái mại dâm với bọn ma cô là khá đặc biệt: “Theo những
hồ sơ được xem xét thì hầu như một nửa trường hợp, người dắt mối là bạn, người
tình hay là chồng của gái mại dâm Đặc biệt anh ta tương đương với một người
quản lý hay một ông bầu: anh ta dẫn người gái điếm đi và dắt về, coi sóc sự an
toàn, đôi lúc là vệ sĩ, mua quần áo cho cô ta, đăng những thông báo và lo đến ngân
hàng ” [21, tr.99].
Quan hệ với bạn bè của gái mại dâm cũng rất khác: “Bạn bè, những người
bạn đã dạy cho các cô rằng thể xác của họ là một cái vốn Một nửa gái mại dâm
trong lần hành nghề đầu tiên đều đi cùng với bạn gái của họ ” [21, tr.101].
+ Theo tài liệu của Cục phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ lao động thương
binh và xã hội Việt Nam về "Cơ sở kinh tế - xã hội của tệ nạn mại dâm Đông Nam
á" đã chỉ ra rằng:
Gái mại dâm và trẻ em mại dâm thường phải chịu mối quan hệ bất bình
đẳng. Họ khó tự chủ và không có khả năng điều đình, thoả thuận với cha mẹ,
những thành viên khác trong gia đình, người chủ, dắt mối, Họ không biết nương
tựa vào đâu để bù đắp lại sự bất bình đẳng này.
Gái mại dâm còn có những mối quan hệ với các tài xế tắc-xi, xe ôm. Những
người này là một cầu nối quan trọng giữa gái mại dâm và khách hàng. Họ quảng bá
các dịch vụ mại dâm thông qua việc phân phát các thông tin cho khách về địa
điểm, luật lệ, giá cả, các loại hình dịch vụ, thậm chí họ còn làm nhiệm vụ đưa
đón và là trung gian thoả thuận của hai bên.
Những kẻ môi giới mại dâm hay các tú bà: những đối tượng này được trả
công hoặc thậm chí đôi khi tự trả công cho mình để làm nhiệm vụ dắt gái mại dâm
đến với khách hàng. Kẻ môi giới thường dùng điện thoại di động để dẫn "gái" cho

khách, thậm chí họ còn phân phát ảnh và một vài thông tin về "gái" cho các tài xế
tắc-xi hoặc những kẻ trung gian khác. Họ quản lý các mối quan hệ của gái mại dâm
với khách, đưa ra giá cả và cách thức chia tiền. Còn các tú bà thì quản lý nơi hành
nghề và chỉ thị cho các tên môi giới. Đôi khi các tú bà lại là đàn ông, nên người ta
còn gọi họ là chủ nhà chứa.
"Người mua" hay "khách hàng" không chỉ là dân địa phương thuộc mọi tầng
lớp với nhiều nghề nghiệp mà quan trọng hơn còn là những du khách nước ngoài,
lực lượng quân đội và các thủy thủ nước ngoài, Qua cò mồi, dắt gái, các tú bà,
họ trở thành "đối tác" của gái mại dâm.
Còn có nhiều người khác mà thu nhập của họ phần lớn dựa vào hoạt động
mại dâm như: người dọn phòng, những người giặt là trong các cơ sở mát-xa, nhân
viên bảo vệ khách sạn, Những người này đôi khi lại có những quan hệ rất mật
thiết với gái mại dâm. Nhân viên trong các khách sạn, vũ trường, hộp đêm không
phải phụ thuộc trực tiếp còn những kẻ cung cấp và duy trì các căn hộ "hành nghề"
như người dọn dẹp, bảo vệ, thì trực tiếp phụ thuộc vào những phụ nữ này để
kiếm sống.
Ngoài ra cũng có các nhân viên y tế hoạt động ngoài giờ thường xuyên thực
hiện các việc: khám sức khoẻ, nạo phá thai, cho các gái mại dâm [20].
+ Theo tác giả Lê Thị Hà thì: đối với cộng đồng dân cư gái mại dâm có quan
hệ xa lánh. Đối với cộng đồng gái mại dâm với nhau, mặc dù có những nghi kị,
hoặc tranh chấp khách, nhưng về cơ bản họ có quan hệ chặt chẽ, đoàn kết, hỗ trợ,
giúp nhau trong lúc khó khăn.
Trong các mối quan hệ thì quan hệ với bạn bè và những người xung quanh
của gái mại dâm giữ ở mức độ bình thường chiếm tỉ lệ cao nhất kể cả trước kia, khi
còn đang hành nghề và hiện nay: 81,5% và 69% (đối với bạn bè); 77,5% và 71%
(đối với người xung quanh). Tuy nhiên, mức độ quan hệ hiện nay cũng không còn
được bình thường so với trước kia. Đặc biệt, không có mối quan hệ phục tùng và
thân thiết mà ngày càng có sự xa lánh. Mức độ xa lánh ngày càng tăng(17,5%) so
với trước kia (9%). (Nghiên cứu trên tổng số 200 mẫu)
Quan hệ của gái mại dâm với chủ chứa không tốt đẹp, mà ngược lại phần lớn

bọn họ căm ghét chủ chứa. Số người căm ghét ngày càng tăng, chiếm tỉ lệ tới 77%
(trước kia) và 81,5% (hiện nay). Đối với bọn cò mồi, dắt gái, gái mại dâm vừa căm
ghét vừa xa lánh. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do sự bóc lột, ăn chặn những đồng
tiền nhơ bẩn từ hoạt động mại dâm, mà trong hoạt động này gái mại dâm là những
người thiệt thòi nhiều nhất, vừa mất phẩm giá, nhân phẩm vừa bị bệnh và ít có hy
vọng tìm được hạnh phúc của mình trong tương lai. Tuy nhiên số ít gái mại dâm
vẫn có quan hệ thân thiết (3,5%) và phục tùng (2,5%) chủ chứa cả trước và trong
khi ở trung tâm [6, tr.126-129].
Như vậy, thông qua những nghiên cứu trên các tác giả đã chỉ ra một số nét
đặc trưng về quan hệ xã hội của gái mại dâm. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa
thật đầy đủ và cũng chưa chỉ ra được các ảnh hưởng của quan hệ xã hội này đến
hành vi bán dâm của gái mại dâm. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi đặt tiền
đề nghiên cứu sâu hơn ảnh hưởng của các quan hệ xã hội chủ yếu sau:
+ Quan hệ với gia đình huyết thống: bố, mẹ, anh, chị,
+ Quan hệ với bạn bè.
1.1.3. Ảnh hưởng của các quan hệ xã hội tới hành vi bán dâm của gái mại
dâm
Các quan hệ xã hội có tác động rất lớn đến hành vi bán dâm của gái mại
dâm.
1.1.3.1. Ảnh hưởng của giáo dục gia đình
Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, giáo dục và là chỗ dựa vững chắc cho mỗi
người. Thế nhưng không phải ai cũng may mắn được sống trong một gia đình đầm
ấm, hạnh phúc và đầy đủ.
Theo số liệu điều tra của tác giả V.M.Kôrơmosikôv cho thấy, trong các gia
đình của người chưa thành niên phạm tội thì gia đình có cuộc cãi cọ, va chạm
chiếm tỷ lệ 39% và 1/4 trong số đó là các trường hợp cãi nhau đi đến đánh nhau.
Các nhà tâm lý học Margot Prior (2000), Rutter Giller (1983) và Sarnecki (1985)
cho rằng sự không quản lý chặt chẽ con cái của cha mẹ là một trong những nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Một nghiên
cứu ở Anh đối với gần 400 em trai sống cùng với gia đình lớn cho thấy việc phạm

tội của trẻ có mối quan hệ mật thiết với sự quản lý lỏng lẻo của cha mẹ khi trẻ ở
lứa tuổi 10. Nghiên cứu tình trạng phạm tội của người chưa thành niên, các nhà
tâm lý học cho rằng, phương pháp giáo dục không đúng của cha mẹ đối với con cái
có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các tác giả
Rumani cho rằng sự bất đồng ý kiến giữa cha mẹ về phương pháp giáo dục của
mỗi người có tác dụng thúc đẩy sự phát sinh hành vi chống đối xã hội của trẻ. Theo
các tác giả Balan, việc áp dụng các biện pháp sai lầm thường dẫn đến sự xuất hiện
ở đứa trẻ những tình cảm bực dọc, tâm trạng căng thẳng dần dần chuyển sang trạng
thái thô bạo và chống lại uy quyền của cha mẹ. Từ đó, giữa trẻ và cha mẹ thường
nảy sinh những xung đột gay gắt, tình cảm của cha mẹ với các con ngày càng trở
nên lạnh nhạt, kết quả là các em bỏ nhà đi lang thang và thậm chí bước vào con
đường phạm tội [17,tr.17-19]
Tong Xin đã chỉ ra trong nghiên cứu của mình rằng có tới 22,5% số tội
phạm thanh thiếu niên gái có thành viên gia đình hoặc người thân thuộc gần gũi
từng phạm tội. Qua một điều tra nữ tù nhân ở Thiên Tân (1991) tác giả đã cho
thấy, giáo dục gia đình mất cân đối và quan hệ gia đình lạnh nhạt có ảnh hưởng rất
lớn tới tội phạm nữ. Những điều này là vô cùng quan trọng vì nó tạo ra một môi
trường không lành mạnh cho việc học tập những hành vi tội phạm [21, tr.240-241].
Balazs Gabrielle trong bài viết của mình về thị trường mại dâm đã nói rằng:
"ngay trước cuộc sống mại dâm, họ đã có rất nhiều kinh nghiệm về sự cưỡng hiếp
thể xác và sự ngược đãi với những người bà con thô bạo Nhiều người phụ nữ là
gái điếm vì họ đã mất đi lòng kính trọng đối với đàn ông, như tôi đối với bố tôi"
[21, tr.96].
Theo Belsey thì "cho dù bị đẩy vào hay tự nguyện tham gia mại dâm, nhiều
em cảm thấy chúng đã hoàn thành nghĩa vụ trả công chăm sóc, nuôi nấng và bảo
vệ của bố mẹ. Thậm chí các em bị bán làm gái mại dâm còn cảm thấy vinh dự khi
trở về nhà vì chúng đã mang tiền, đồ đạc và cả sự đảm bảo giành cho gia đình". Rõ
ràng các em đã phải khoác lên vai mình một gánh nặng quá lớn về việc trả ơn bố
mẹ, và lo cho gia đình [20, tr.18].
Tác giả Phạm Minh Hạc đã đưa ra các kết quả khi nghiên cứu về quan hệ với

gia đình của trẻ em phạm pháp rằng: “khoảng 20 - 30% các em này thuộc gia đình
bất hạnh (có bố mẹ li dị, con chồng ở với dì ghẻ hoặc là người thân trong gia đình
phạm pháp phải đi cải tạo). Nhưng vốn hoàn cảnh ấy không phải là nguyên nhân
trực tiếp sinh ra những sản phẩm đau thương mà thường là từ hoàn cảnh đó dẫn
đến chỗ không quan tâm tới việc giáo dục con cái. Hơn nữa, luôn luôn có những
kiểu phản ứng kiểu “giận cá chém thớt”, và một cách vô ý thức, ngày càng dùng
nhiều phương pháp giáo dục sai lầm, thô bạo. Trong số các em được hỏi miệng có
tới 3/4 em đã từng phải chịu đựng cảnh xiềng xích tại nhà, roi vọt, thậm chí cả tra
tấn điện. Thái độ thờ ơ, không quan tâm, vùi dập, chà đạp, đã phá hủy tất cả
những tình cảm tích cực mà nhiều khi người ta tưởng như là vốn có và phải có
trong gia đình. Thay vào đó là một thứ gì đó mà ta tạm gọi là tình cảm tiêu cực
(chống đối), hay ít nhất cũng là một loại thái độ “trung tính” - thờ ơ Những cảnh
tượng ấy, những mối quan hệ ấy làm cho trẻ xa gia đình, tách khỏi mối quan hệ
được thiết lập tự nhiên trong “vi môi trường” ấy. Tình hình ấy đẩy trẻ vào một “vi
môi trường” khác. “Vi môi trường” thứ hai này thường là “vi môi trường” xấu. Thế
là con đường dẫn tới hành vi phạm pháp đã mở ra.” [7, tr.304].
Qua nNghiên cứu của Lê Thị Hà cho thấy mối liên hệ giữa các thành viên
trong gia đình ảnh hưởng đến hành vi bán dâm của gái mại dâm: có tới 62% gái
mại dâm sống trong bầu không khí gia đình không có sự hoà thuận, mà có xung đột
âm ỉ, thậm chí xung đột mạnh. Đây là những gia đình luôn có những mâu thuẫn,
tranh cãi giữa cha và mẹ, giữa cha mẹ và các con. Hầu hết, các gia đình của gái
mại dâm đều có vấn đề. Những gia đình đó hoặc có người liên quan tới mại dâm
(22,5%), người nghiện ma tuý (21,5%), có tiền án tiền sự (17,5%) hoặc dính líu
đến các tệ nạn xã hội khác. Đặc biệt trong gia đình có bố, mẹ hoặc anh em đã, đang
làm cò mồi, dắt gái, chủ chứa hoặc bán dâm thì khó có thể tạo ra môi trường cho cá
nhân phát triển lành mạnh và có hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Thậm chí
đôi khi gia đình còn trở thành gánh nặng quá lớn. Nhiều gái mại dâm phải nuôi
dưỡng bố mẹ già, anh chị em, con cái và ngay cả người chồng nghiện ngập, rượu
chè, cờ bạc [6, tr.140].
Chính những điều này là một trong những lí do làm cho nhiều phụ nữ bị xô

đẩy vào con đường mại dâm.
Tuy nhiên không phải gái mại dâm nào cũng xuất thân trong những gia đình
không bình thường (như thiếu hụt cha, mẹ, gia đình có người phạm pháp, ). Mà
ngay cả khi được sống trong một gia đình có đầy đủ cả cha lẫn mẹ, có điều kiện kinh
tế đảm bảo cho đời sống gia đình, nhưng họ vẫn trở thành gái mại dâm.Trong trường
hợp này thì một trong những lí do là từ cách giáo dục của gia đình. Grolnick và
Ryan (1989) đã chỉ ra rằng “sự quan tâm của cha mẹ đối với các con có liên quan
đến năng lực đánh giá và kết quả học tập của trẻ. Cha mẹ quan tâm đến con sẽ giúp
cho chúng đồng nhất và tiếp thu các giá trị xã hội một cách thuận lợi” [11]. “Có
những bậc cha mẹ vì quá thương yêu con, luôn chăm sóc cho con từng li từng tí, lúc
nào cũng xem như các con còn bé bỏng và cần được che chở, bảo vệ. Trong hoàn
cảnh đó nhiều em thấy khó chịu vì có cảm giác bị bó buộc, mất tự do, đôi khi còn
thấy hổ thẹn với bạn bè. Vì thế có những em đã lừa dối bố mẹ, gia đình để đi tìm sự
tự do, thoải mái và muốn thử sức mình. Những lúc đó các em rất dễ có những hành
vi ngang tàng phá phách gây ra những hậu quả khó lường. Sống trong hoàn cảnh
được gia đình quan tâm chăm sóc quá đầy đủ, nhiều em hình thành thói quen dựa
dẫm vào bạn bè, gia đình, thiếu độc lập tự chủ, yếu đuối, thiếu tự tin vào bản thân,
lúng túng trong việc giải quyết vấn đề. Đôi khi bố mẹ cần nghiêm khắc hơn, kiên
quyết hơn. Có khi con cái chỉ muốn thử bố mẹ bằng cách kết giao với một ai đó mà
chúng biết sẽ bị phản đối, sẽ khiến bố mẹ tức giận. Nhiều khi bố mẹ đã phản ứng
bằng cách lờ đi, cố che giấu đi sự giận giữ đang cuồn cuộn chảy. Nhưng nhiều người
đã tỏ ra nóng giận quá mức quát tháo, chửi bới, mắng mỏ bằng những lời lẽ xúc
phạm thậm tệ. Và tất nhiên con cái sẽ phản ứng lại có thể là gay gắt, thậm chí là
quyết liệt” [11]. “Với đứa trẻ chỉ có một mình thì việc làm quen với tình bạn và
những thú vui của tình bạn phụ thuộc phần nào vào cung cách quan hệ của nó với bố
mẹ trước đó. Nếu cả hai biết nhân nhượng lẫn nhau, nó sẽ có cung cách quan hệ ấy
với những đứa trẻ khác. Nhưng nếu bố mẹ coi nó như ông trời con, luôn phục tùng
mọi ý kiến của con, thì con sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận với những quan hệ đơn
giản, vô tư hào hiệp thường có giữa hai đứa trẻ với nhau” [11]. “Lại có những cha
mẹ thờ ơ, không quan tâm đến các con, họ để mặc con mình giao lưu, kết bạn với ai

mà chúng muốn. Nếu bạn bè tốt thì không có nhiều điều để bàn luận, nhưng nếu là
chúng bạn xấu thì sẽ có nhiều chuyện tồi tệ xảy ra” [11].
1.1.3.2. Ảnh hưởng của quan hệ bạn bè:
Không ai sinh ra đã là gái mại dâm, và sau cái nôi gia đình thì nhóm bạn bè
chính là một môi trường thuận lợi để học các hành vi xấu.
Trong những công trình nghiên cứu của mình các tác giả A.B.Sakharov;
T.M.Milzo; Phạm Minh Hạc (1981); D.E.Papalia, S.W.Olds (1996); Schickedanz
J.A; Schickedanz D.I; Forsth G.A (1998); Mara Brendgen, Frank Vitaro,
William.M.Bukowski (2000); Dennis. V.Ary, Tery E.Duncan, Susan C.Duncan,
Hyman Hops (1999) đã khẳng định rằng: các hành vi phạm pháp của người chưa
thành niên hầu hết được thực hiện trong nhóm và nhóm bạn tiêu cực là môi trường
trực tiếp của những hành vi phạm pháp” [11].
Các tác giả Dishion T.S, Andrew D.W, Crowby.L (1995); Jesso. R, Jesso.
S (1997; Margot Prior (2000) đã đưa ra một mô hình của hành vi có vấn đề ở trẻ
vị thành niên. Họ khẳng định rằng: “ bạn bè xấu là một trong bốn nhân tố trực
tiếp dẫn đến hành vi chống đối của trẻ ”. Tuy nhiên việc không được bạn bè
chấp nhận hoặc không có bạn cũng có ảnh hưởng xấu đến trẻ. Theo Barclay
(1996) và Ullman (1957) thì những học sinh không được bạn chấp nhận ở tuổi
thiếu niên sẽ gặp khó khăn trong học tập, hay trốn tiết và có nguy cơ bỏ học.
Những học sinh bị bạn bè tẩy chay sẽ có nguy cơ lưu ban từ 2 đến 7 lần những
học sinh được các bạn chấp nhận, là những người hung hãn hơn và có những vấn
đề đạo đức (Ollendick, Borden, Coren 1992). Những học sinh có khó khăn trong
quan hệ với bạn có nhiều khả năng bỏ học hơn các học sinh khác (Parker và
Asher 1987, Ollendick và đồng nghiệp 1992). Cairns và đồng nghiệp (1989) đã
tìm thấy mối tương quan giữa khó khăn trong quan hệ bạn bè với tính hung hăng,
khó khăn trong học tập và có sự bỏ học sau này [11].
Các tác giả Bungari sau khi nghiên cứu các nhóm chống đối xã hội của
người chưa thành niên đã đưa ra nhận xét: thứ nhất, trong rất ít các trường hợp các
nhóm tiêu cực hình thành để nhằm mục đích phạm tội và lúc đầu chúng thường tồn
tại như các nhóm chơi bời lêu lổng. Thứ hai, hệ thống các quy định của nhóm đã

trở thành nguyên nhân phát sinh tội phạm, còn bản thân các nhóm đó chỉ trở thành
các nhóm phạm tội trong những điều kiện nhất định. Các tác giả L.P.Nhicôlaieva,
G.M.Pôpôva cho rằng, những người chưa thành niên thường bị lôi cuốn vào các
nhóm tiêu cực là do hậu quả của hoàn cảnh gia đình không bình thường, một phần
đáng kể là do học hành không tốt ở trường, do đặc điểm của lứa tuổi này là hay bắt
chước. Các nhóm tiêu cực thường được hình thành theo nơi cư trú, các thành viên
của nhóm này có nghề nghiệp rất khác nhau như: học sinh của các trường, những
người đang làm việc ở các nơi khác nhau. Theo các tác giả thì thành phần “hỗn
hợp” như vậy của các nhóm những người chưa thành niên vi phạm pháp luật chiếm
tỷ lệ 58% các trường hợp nghiên cứu. Ngoài ra, các thành viên của nhóm tiêu cực
thường gắn bó với nhau trên cơ sở chúng cùng sử dụng thời gian rỗi giống nhau và
cũng không bị kiểm tra việc tiêu khiển thời gian đó. Khi đã trở thành thành viên
của nhóm tiêu cực, do có những đặc điểm tâm lý cá nhân hợp nhau, do hoàn cảnh
gia đình giống nhau, đã làm cho các em càng xích lại gần nhau và gắn bó với
nhau hơn. Giao tiếp với các thành viên trong nhóm tiêu cực, các em nhận được sự
cảm thông, chia sẻ, nhờ đó làm vơi đi nỗi lo lắng, buồn phiền do xung đột trong
quan hệ với gia đình và với nhà trường, đồng thời gây được lòng tin cậy của các
em. [17, tr.19-21]
“A.B.Sakharop (Liên Xô) đã lưu ý tới vai trò của nhóm quy chiếu, nhóm
không chính thức của bạn bè đã phạm pháp đối với quá trình suy thoái nhân cách
trẻ em. T.M.Maind (Mỹ) cũng cho rằng hành vi tội lỗi, phạm pháp, phá chuẩn
mực, luật lệ chung là hiện tượng nhóm” [7, tr.303].
Balazs Gabrielle nói về ảnh hưởng của bạn bè đến hành vi mại dâm: "Những
người bạn đem lại cho họ cảm giác phụ thuộc vào một nhóm hay một môi trường
mà ở đó mọi người cũng như mình" [21, tr.102]. (Nghiên cứu trên tổng số 200
mẫu)
Tong Xin thì viết: "Nhiều gái mại dâm lúc đầu cũng tiếp xúc với văn hoá
mại dâm rồi sau đó bắt đầu bán dâm: qua những người đồng hương hoặc bạn bè đã
tham gia hoạt động mại dâm, họ nắm bắt được đủ thứ "hay ho" của hoạt động này.
Họ không ngừng gia tăng hoạt động và kiểm nghiệm sự phản ánh của người khác

với hoạt động của mình. Rồi khi khắc phục được cảm giác hổ thẹn, họ sẽ có được
cảm thụ mới " [21, tr.242].
Những tài liệu của Cục phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội còn khẳng định: gái mại dâm thường có xu hướng sát nhập thành
nhóm dựa trên cơ sở cùng quê hoặc cùng xuất xứ. Những nhóm như thế này có ảnh
hưởng lớn đến hành vi và là chỗ dựa quan trọng cho gái mại dâm. Trong thời điểm
gặp khó khăn, những nhóm này sẽ hỗ trợ lẫn nhau, hoặc xa hơn, hỗ trợ nhau lúc
ốm đau, thai nghén hay bị khủng hoảng về gia đình, để giúp nhau "hành nghề"
tốt hơn [20].
Phạm Minh Hạc khi nghiên cứu về trẻ em phạm pháp đã viết rằng: “giao tiếp
nhóm (có quan hệ trong một nhóm bạn bè) có thể là một trong những nguyên nhân
cơ bản và rất trực tiếp đưa trẻ tới hành vi phạm pháp. Với những trẻ này, giao tiếp
nhóm không hướng vào hoạt động học tập, mà hướng trẻ vào hoạt động chủ yếu
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất” [7, tr.303]. Trong đó “nhu cầu vật chất giữ vai
trò chủ đạo trong việc kiến lập và vận hành các quan hệ nhóm và thúc đẩy hành
động thuộc về một loại hoạt động sơ đẳng, kiểu như một sự thỏa mãn thuần túy của
cơ thể” [7, tr.307]. “Động cơ của hoạt động giao tiếp nhóm ở trẻ phạm pháp là kiến
tạo, vận hành, chiếm lĩnh các quan hệ nhóm nhằm làm ngược lại các quy định của
xã hội, phá hủy các thể chế xã hội, chống lại các chuẩn mực đạo đức, tức là phá bỏ
những gì tốt đẹp đã được hình thành và tiếp thụ những điều tiêu cực” [7, tr.306].
“Quan hệ với bạn bè xấu là một khâu quyết định khá trực tiếp đưa trẻ tới chỗ phá
vỡ những nét tính cách tốt đẹp được truyền thụ trước đó, cũng như theo con đường
hình thành, phát triển những hành vi phản xã hội, vi phạm chuẩn mực đạo đức và
pháp luật. Các thống kê cho thấy, về mặt các mối quan hệ giữa trẻ phạm pháp với
gia đình, nhà trường và bạn bè, thì quan hệ bạn bè là gắn bó hơn cả. Đây là các
quan hệ thiện cảm, gần gũi, ủng hộ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, gọi là quan hệ (+).
Trong số các em đã được điều tra, có đến 83% có quan hệ (+) với bạn bè, 40% có
quan hệ (+) với những người ruột thịt trong gia đình. Quan hệ bạn bè ở đây bao
gồm những em ở gần nhau, thân nhau một cách “tự nhiên”. Rồi đến thời kỳ bắt đầu
có điều trắc trở trong cuộc sống và trong học tập, bạn của các em này thường là

những em không tốt, chơi bời lêu lổng, thích làm những việc không hay (như bỏ
học, ăn cắp, ). Các mối quan hệ này dần dần thay thế cho các mối quan hệ tốt
trước đó đã được thiết lập trong gia đình. Kết quả cho thấy có 40% các em có quan
hệ (-) với những người ruột thịt (bố, mẹ, anh, chị, ). Đời sống tình cảm của các
em có những thay đổi ghê gớm trong thời kì suy thoái nhân cách, thời kì chuyển từ
guồng tích cực sang guồng tiêu cực. Trong số các em này có không ít em có thái
độ lãnh đạm (quan hệ “0”) với bạn mình, với giáo viên và cả với người ruột thịt.”
[7, tr.305].
Tác giả Lê Thị Hoa trong luận án của mình đã đưa ra nhận định: nhóm bạn
không chính thức tiêu cực có ảnh hưởng trực tiếp đối với hành vi vi phạm pháp
luật của các em. Tuy nhiên, nhiều hình thức ảnh hưởng không mang tính chủ định
(ảnh hưởng được thực hiện bởi hiệu ứng “ủng hộ xã hội” và hiệu ứng „ỉ lại xã hội”,
ảnh hưởng do sự đua đòi, bắt chước lẫn nhau) chiếm tỷ lệ lớn hơn. Chuẩn mực của
nhóm chỉ có những quy định về cách thức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và
ràng buộc các em với nhóm. Các em càng có quan hệ lâu, càng gắn bó với nhóm
thì mức độ ảnh hưởng của nhóm càng lớn, việc tách các em ra khỏi nhóm càng khó
khăn, phức tạp. [17, tr.23]
Trong nghiên cứu của Lê Thị Hà đã đưa ra kết luận rằng: đối với gái mại
dâm, áp lực của nhóm thường là một nguyên nhân dẫn họ bước vào con đường lầm
lạc và chính nhóm bạn xấu cũng làm cho họ tái hoạt động mại dâm. Gái mại dâm
thường vẫn giữ quan hệ mật thiết với bạn bè có chung sở thích (82,39%) hoặc bạn
bè từ thời niên thiếu. Mặc dù đôi lúc trong nhóm bạn bè của gái mại dâm có sự
nghi kỵ, tranh chấp khách của nhau, nhưng nhìn chung họ có quan hệ chặt chẽ, cởi
mở, chân thành, đoàn kết, hỗ trợ nhau lúc gặp khó khăn, thông cảm, chia sẻ với
nhau những niềm vui, nỗi buồn. Do đó bạn bè luôn chiếm vị trí quan trọng trong
cuộc sống của gái mại dâm. Mối quan hệ với bạn bè đã chi phối gái mại dâm rất
nhiều. Một số gái mại dâm dường như coi bạn bè là chỗ dựa mặt tình cảm. Sự gần
gũi với bạn bè về mặt tâm lý được thể hiện trong sự hiểu biết lẫn nhau, bù đắp
những thiếu hụt về tình cảm cho nhau [6].
Nhưng cũng chính vì vậy mà môi trường bạn bè đã tạo cho gái mại dâm dễ

bị ảnh hưởng tiêu cực của nhóm bạn xấu. Sự học đòi, bắt chước những thói hư tật
xấu của bạn bè ngày càng làm cho gái mại dâm lấn sâu hơn vào con đường lầm lạc.
1.1.3.3. Ảnh hưởng của các quan hệ xã hội khác
Các quan hệ của gái mại dâm với bọn chủ chứa, ma cô, cò mồi, dắt gái, tài
xế tắc-xi, lái xe ôm, cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến hành vi mại dâm của gái
mại dâm. Chính những kẻ này đã tiếp tay cho hoạt động của gái mại dâm bằng
cách giúp cho gái mại dâm tìm, đến được với khách hàng. Mặc dù trong các quan
hệ này thì chỉ có bọn chủ chứa, cò mồi, là hoàn toàn được hưởng lợi trên thân
xác người khác, còn những cô gái mại dâm đôi khi lại còn chịu những oan ức, thiệt
thòi thậm chí là bị bóc lột, hành hạ tàn nhẫn. Nhưng nói chung đây là một mối
quan hệ mà đôi bên cùng cùng có lợi.
Cũng chính bởi vì được hưởng một nguồn lợi lớn mà không phải mất gì
nhiều, nên những kẻ trung gian này thường phải sử dụng rất nhiều thủ đoạn để dụ
dỗ những cô gái trẻ, ngây thơ đi vào con đường mại dâm và lôi kéo họ quay trở lại
khi họ có ý định từ bỏ.
Qua những nghiên cứu của các tác giả chúng ta có thể nhận thấy các quan hệ
xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi bán dâm của gái mại dâm. Trong đó, các
quan hệ với nhóm gia đình và nhóm bạn bè là có tác động nhiều nhất. Đây là cơ sở
để chúng tôi nghiên cứu về đặc điểm của hai nhóm quan hệ xã hội này và những
chiều hướng tác động của chúng.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Quan hệ xã hội
1.2.1.1. Khái niệm quan hệ xã hội
+ Trong từ điển xã hội học của G.Endruweit và G.Trommdorff (2001) thì
quan hệ xã hội được hiểu là tương tác và cấu trúc ảnh hưởng tồn tại giữa người với
người và giữa người với nhóm.
+ V.G.Krưxcô (2001) cho rằng theo nghĩa rộng quan hệ là thuộc tính của bất
kì một liên hệ nào của con người với thế giới bên ngoài và với những người khác.
Thông qua quan hệ, hệ thống nhu cầu, động cơ, hứng thú của con người được xác
định. Tóm lại có thể nói quan hệ xã hội là mối liên hệ xã hội hóa bản chất tâm lý

bên trong và bên ngoài của con người, là mối liên hệ của con người với tác động
bên ngoài và với ý thức.
+ Trong từ điển tâm lý của Corsini R.J (1999): thì quan hệ người - người
được xem là các tương tác giữa hai hoặc nhiều người, đặc biệt là các mối quan hệ
có ý nghĩa về mặt xã hội và cảm xúc.
+ Theo thuật ngữ Mác xít thì quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người
trong xã hội, được xác lập trong quá trình cùng nhau hoạt động vật chất và tinh
thần [24].
Lomov cho rằng: mối quan hệ xã hội quy định quyền lợi và nghĩa vụ mỗi
người trong số họ, cho phép phát huy các thuộc tính của họ hay ngược lại, tạo ra
những nhân cách phiến diện, khiếm khuyết, què quặt [16, tr.444].
+ Theo Trần Thu Hương thì: quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người
trong xã hội được xác định bởi quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của
các cá nhân trong quá trình cùng nhau hoạt động vật chất và tinh thần [13].
Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: quan
hệ xã hội là quan hệ giữa người với người trong xã hội được xác định bởi quyền
lợi, nghĩa vụ của các cá nhân trong quá trình hoạt động và giao lưu. Đó là các hình
thức tác động khác nhau của con người thông qua phương tiện chính là giao tiếp,
đồng thời ảnh hưởng đến các cách ứng xử của cá nhân.
1.2.1.2. Cấu trúc phát triển của những mối quan hệ
ấu trúc phát triển ngày nay tin rằng trong khi lớn lên cá nhân hấp thụ những
khuôn mẫu quan hệ với những người khác. Có hai biến đổi chính trong quan điểm
này: một nhấn mạnh đến sự liên tục và ổn định, và một đề cao sự ngắt quãng và
thay đổi của những mối quan hệ xuyên suốt cuộc đời.
Quan điểm liên tục nhấn mạnh rằng mối quan hệ cha mẹ - con cái lúc ban
đầu có vai trò xây dựng nền tảng cơ bản cho mối liên kết giữa họ trong suốt cuộc
đời. Từ mối quan hệ đó ảnh hưởng tới sự phát triển của tất cả những mối quan hệ
phát sinh sau này. Mối quan hệ gần gũi với cha mẹ cũng rất quan trọng với sự phát
triển của trẻ vị thành niên, bởi vì nó làm hình mẫu hay tấm gương ảnh hưởng lâu
dài đến sự thiết lập những mối quan hệ mới. Những mối quan hệ gia đình hồi bé đã

ủng hộ, nâng đỡ trẻ đi vào thế giới những mối quan hệ bạn bè mở rộng và phức tạp
hơn. [27]
Quan điểm ngắt quãng nhấn mạnh đến sự thay đổi và lớn lên trong những
mối quan hệ kéo dài. Mỗi loại mối quan hệ đều có cấu trúc khác nhau. Cứ mỗi loại
mối quan hệ mới là cá nhân lại tiếp cận với những mẫu quan hệ mới. Quan hệ của

×