Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Công tác lưu trữ tài liệu nghe, nhìn ở các đài truyền hình - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ THÚY BÌNH




CÔNG TÁC LƯU TRỮ TÀI LIỆU NGHE, NHÌN Ở CÁC
ĐÀI TRUYỀN HÌNH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP




LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ







HÀ NỘI - 2002
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3


Chương 2: Thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền
hình 14
Chương 1 SỰ HÌNH THÀNH, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA 16
CỦA TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH 16
1.1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA TÀI LIỆU NGHE NHÌN 16
1.1.1. Khái niệm về tài liệu nghe nhìn và tài liệu lưu trữ nghe nhìn 16
1.1.2. Sự hình thành của các loại hình tài liệu nghe nhìn: 18
1.2. Đặc điểm của các loại hình tài liệu nghe nhìn ở các Đài truyền hình 22
1.2.1. Đặc điểm chung: 22
1.2.2. Đặc điểm riêng của từng loại hình tài liệu nghe nhìn 23
1.3. Ý nghĩa của tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình 31
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LƯU TRỮ TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI
TRUYỀN HÌNH 36
2.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Đài Truyền hình Việt Nam: 36
2.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH ĐỊA
PHƯƠNG 39
2.2.1. Chức năng và nhiệm vụ: [30] 39
2.2.2. Cơ cấu tổ chức: Tuz theo tình hình tổ chức của từng địa phương, mà cơ cấu tổ chức của các
Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương có số lượng các phòng ban khác nhau. Song về cơ bản, các
Đài địa phương thường có các bộ phận sau: 40
2.3. THÀNH PHẦN VÀ NỘI DUNG TÀI LIỆU NGHE NHÌN CỦA CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH 41
2.3.1. Thành phần tài liệu nghe nhìn của các Đài Truyền hình 41
2.3.2. Nội dung tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình 45
2.4. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LƯU TRỮ TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH 47
2.4.1. Những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn dẫn về công tác lưu trữ ở các Đài Truyền hình 47
2.4.2. Thực trạng về tổ chức và cán bộ làm công tác lưu trữ ở các Đài Truyền hình: 49
2.4.3. Thực trạng tổ chức khoa học tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình 50
2.4.4. Công tác bảo quản tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình 69
2.4.5. Khai thác sử dụng tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình: 72
CHƯƠNG 3 NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC LƯU TRỮ TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở

CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH 77
3.1. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LƯU TRỮ TÀI LIỆU NGHE NHÌN
Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH: 78
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp l{ đối với công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài
Truyền hình: 78
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn nghiệp vụ lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền
hình 79
3.2. NHŨNG GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC – CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC LƯU TRỮ Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH
81
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC KHOA HỌC TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH 82
3.3.1. Các phương pháp xác định giá trị, thu thập, bổ sung tài liệu nghe nhìn vào lưu trữ của các Đài
Truyền hình 82
3.3.2. Xác định các đặc trưng phân loại tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình 86
3.3.3. Xây dựng hệ thống số ký hiệu lưu trữ tài liệu nghe nhìn 89
3.3.4. Xác định mục đích, yêu cầu và các yếu tố thông tin cho biên mục tài liệu nghe nhìn 91
3.3.5. Hoàn thiện hệ thống công cụ thống kê và tra cứu tài liệu nghe nhìn : 99
3.3.6. Xây dựng hệ thống CSDL trên máy tính: 111
3.4. HOÀN THIỆN CÁC PHƯƠNG THỨC VÀ PHƯƠNG TIỆN PHỤC VỤ KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI LIỆU Ở
CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH: 113
3.4.1. Hoàn thiện hệ thống các phương tiện theo dõi, quản lý khai thác sử dụng tài liệu nghe nhìn
113
3.4.2. Cải tiến phương thức phục vụ khai thác tài liệu nghe nhìn: 114
3.5. NHŨNG GIẢI PHÁP VỀ CHẾ ĐỘ BẢO QUẢN TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH: 115
3.5.1. Các yêu cầu về nhà kho bảo quản tài liệu nghe nhìn: 115
3.5.2. Trang thiết bị bảo quản tài liệu nghe nhìn: 115
3.5.3. Sắp xếp tài liệu nghe nhìn trong kho lưu trữ: 117
3.5.4. Các biện pháp kỹ thuật bảo quản tài liệu nghe nhìn 117
KẾT LUẬN 123




PHẦN MỞ ĐẦU

I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Tài liệu lưu trữ là phương tiện bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, sản
xuất và nghiên cứu khoa học. Chúng cần thiết cho mọi lĩnh vực hoạt động của xã
hội loài người, nhằm ghi lại những tri thức và kinh nghiệm trong quá trình sống,
làm việc và đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Tài liệu ngày càng gia tăng cùng
với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Điều đó đòi hỏi tài liệu lưu trữ phải
được tổ chức một cánh khoa học thì mới có thể " bảo quản an toàn và phục vụ khai
thác sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ quốc gia". [26,7] Song tài liệu lưu trữ
được sản sinh ra trong các cơ quan không chỉ khác nhau về nội dung mà còn khác
nhau cả về hình thức phản ánh. Nhu cầu khai thác thông tin tài liệu lưu trữ ở mỗi
cơ quan cũng rất khác nhau. Chính vì thế mà công tác lưu trữ mỗi loại hình tài liệu,
ở mỗi cơ quan, tổ chức cũng phải có những phương pháp và cách thức khác nhau.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngoài những tài liệu chữ viết
truyền thống, còn có nhiều loại hình tài liệu được sản sinh ra trong quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức xã hội. Một trong số những loại hình tài liệu đó là
tài liệu ảnh, phim điện ảnh, băng hình, đĩa hình, băng âm thanh, đĩa âm thanh ( từ
đây xin gọi tắt là tài liệu nghe, nhìn).
Tài liệu nghe, nhìn ban đầu mới chỉ đơn thuần là phương tiện ghi và làm tái
hiện lại máy móc hình người hoặc cảnh, âm thanh và tiếng nói, dần dần đã trở
thành một loại tài liệu mang tính nghệ thuật, thể hiện một cách chính xác và điển
hình tài liệu mang tính các sự kiện, hiện tượng trong thiên nhiên và xã hội [1, 8].
Những hình ảnh, tiếng nói này không chỉ phục vụ các mục đích trước mắt như
thông tin, tuyên truyền, mà còn lưu lại cho đời sau những khoảnh khắc không bao
giờ lặp lại, giúp cho thế hệ sau nhận thức được lịch sử rõ nét và chi tiết hơn. Tài
liệu nghe nhìn không chỉ mang tính bổ trợ, minh hoạ cho tài liệu chữ viết, mà còn
là nguồn sử liệu độc lập, độc đáo về mặt hình thức, nhiều khi không thể có ở các
loại tài liệu khác. Từ khi tài liệu nghe nhìn xuất hiện, đã làm cho các nguồn sử liệu

ngày càng trở nên phong phú hơn. Những bức ảnh, những đoạn phim và tài liệu ghi
âm với hình ảnh, âm thanh rõ ràng, đã có sức thuyết phục cao.
Ngày nay tài liệu nghe nhìn đã trở thành một loại hình tài liệu lưu trữ đặc
biệt - một nhân chứng sống động của lịch sử không thể thiếu được trong thành
phần Phông lưu trữ Quốc gia. Điều này đã được khẳng định trong các văn bản
pháp quy của nhièu nước trên thế gới trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên so với tài liệu giấy, tài liệu nghe nhìn chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ
thứ 19 (bắt đầu từ tài liệu ảnh năm 1839), còn ở Việt Nam mãi đến năm 1869 hiệu
ảnh tiên mới được ra đời [25, 10]. Chính vì vậy việc lưu trữ, bảo quản loại hình tài
liệu này vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù trong các văn bản qui phạm pháp luật của
Nhà nước về công tác lưu trữ, tài liệu phim, ảnh, ghi âm vẫn luôn được ghi nhận là
thành phần của Phông lưu trữ Quốc gia cần phải được quản lý theo nguyên tắc tập
trung thống nhất. Song cho đến nay, loại hình tài liệu này vẫn còn đang được bảo
quản phân tán ở nhiều cơ quan. Cùng với sự phát triển của khoa học, tài liệu nghe
nhìn được sản sinh ra ngày càng nhiều, nhu cầu sử dụng chúng vào các mục đích
khác nhau của xã hội ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi các nhà lưu trữ phải quan tâm
nhiều hơn nữa đến việc lưu trữ loại hình tài liệu này. Một trong những dạng cơ
quan sản sinh ra nhiều loại hình tài liệu nghe nhìn hơn cả là hệ thống các Đài
Truyền hình từ Trung ương đến địa phương. Tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền
hình rất đa dạng và phong phú. Nhưng cho đến nay các Đài Truyền hình vẫn còn
lúng túng trong việc lưu trữ khối tài liệu này. Công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở
các Đài Truyền hình chưa được quan tâm đúng mức, chưa theo những quy định
thống nhất. Tình trạng thất thoát tài liệu nghe nhìn ở các Đài Phát thanh - Truyền
hình địa phương là phổ biến, bộ phận lưu trữ của các Đài hầu như không quản lý
được tài liệu của Đài. Là một cán bộ lưu trữ, được học tập, tham quan và nghiên
cứu về công tác lưu trữ của một số nước tiên tiến, trước thực trạng công tác lưu trữ
tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình còn nhiều tồn tại và chưa được quan tâm
đúng mức, tôi đã chọn vấn đề “ Công tác lưu trữ tài liệu nghe, nhìn ở các Đài
Truyền hình – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học
thuộc chuyên ngành Lưu trữ học và Tư liệu học.

II. Đóng góp của luận văn:
Từ kết quả nghiên cứu khảo sát thực tiễn công tác lưu trữ ở Đài Truyền hình
Việt Nam và các Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương (từ đây xin gọi tắt là
các Đài Truyền hình), tìm ra được những tồn tại cơ bản, từ đó có những giải pháp
để củng cố công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn của hệ thống các Đài Truyền hình từ
Trung ương đến địa phương.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp cho các cơ quan quản lý lưu trữ có cơ
sở để hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ cụ thể đối với tài liệu nghe nhìn nói chung và
tài liệu nghe nhìn của các Đài Truyền hình nói riêng, nhằm thu thập được những tài
liệu có giá trị, góp phần tối ưu hoá thành phần Phông lưu trữ Quốc gia.
Đối với các Đài truyền hình, kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho việc tổ chức,
quản lý tài liệu nghe nhìn được hiệu quả và thống nhất. Qua đó, giúp cho các Đài
ngay từ đầu đã có kế hoạch xử lý và bảo quản, không làm thất thoát những tài liệu
có ý nghĩa quan trọng để phục vụ cho các chương trình phát sóng của Đài, đồng
thời có thể bảo quản được những tài liệu có giá trị để đưa vào bảo quản vĩnh viễn
trong các Trung tâm lưu trữ Nhà nước và có thể loại đi những tài liệu không còn
giá trị để đỡ mất công bảo quản gây lãng phí không cần thiết.
Qua kết quả nghiên cứu khảo sát thực tế sẽ giúp các cán bộ lãnh đạo các Đài
Truyền hình thấy thực trạng của công tác lưu trữ nói chung và lưu trữ tài liệu nghe
nhìn nói riêng, để có phương hướng chỉ đậo sát thực hơn công tác này. Vì thực tế
là hiện nay phần lớn các cán bộ lãnh đạo của các Đài Truyền hình chưa thấy hết
tầm quan trọng của việc tổ chức quản lý và khai thác nguồn tài liệu lưu trữ của Đài.
Họ vẫn chỉ quan niệm rằng cán bộ lưu trữ chỉ là người giữ kho, nhập tài liệu vào và
xuất tài liệu ra. Mà không thấy được rằng: để có một hình ảnh, một bài hát phục vụ
nhanh chóng, kịp thời và thích hợp với từng chương trình phát sóng của Đài, các
cán bộ lưu trữ đã phải mất rất nhiều công sức, đầu tư từ khâu thu thập, bổ sung,
phân loại và xác định giá trị đến, biên mục và bảo quản giữ gìn tài liệu trong suốt
những năm tháng thầm lặng.
Đây là một vấn đề mới, mà từ trước đến nay chưa có đề tài nào đề cập tới.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

1. Mục tiêu:
Đặt vấn đề nghiên cứu trên, luận văn nhằm giải quyết hai mục tiêu sau:
- Khảo sát được thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở Đài Truyền
hình Việt Nam và các Đài Phát thanh -Truyền hình địa phương. Từ đó rút ra những
tồn tại của công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở hệ thống các Đài Truyền hình.
- Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố, tăng cường công tác lưu trữ tài liệu
nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
2. Nhiệm vụ:
Với mục tiêu đã nêu trên, luận văn có nhiệm vụ như sau:
- Khảo sát thực tế, đánh giá thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở
các Đài Truyền hình. Trong đó đánh giá về hệ thống các văn bản qui phạm pháp
luật, văn bản hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của ngành Lưu trữ cũng như của các
Đài Truyền hình về công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn và về thực trạng các nghiệp
vụ lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố, tăng cường công tác lưu trữ tài liệu
nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tài liệu nghe nhìn và thực trạng công
tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ đề cập đến tài liệu nghe nhìn và công tác lưu trữ tài liệu nghe
nhìn ở Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương. Ở
đây luận văn không đề cập đến tài liệu của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và
mảng tài liệu chữ viết của các Đài Truyền hình.
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn là vấn đề tương đối mới so với công tác
lưu trữ tài liệu chữ viết. Ở Việt Nam, vấn đề này cũng đã được nghiên cứu trong
những năm gần đây, nhưng chưa nhiều và phần lớn mới chỉ dừng ở mức độ giới
thiệu trong những bài viết ngắn trên báo , tạp chí, luận văn thạc sĩ, cử nhân.
1.Vấn đề tổ chức công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn

Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này và đã được công bố trên các tạp
chí. Ví dụ: trong các bài viết "Cần quan tâm hơn nữa đến công tác lưu trữ tài liệu
ảnh, phim điện ảnh và ghi âm", tạp chí Văn thư Lưu trữ ,số 02/1983; "Tài liệu lưu
trữ phim điện ảnh ở Việt Nam- Những bước phát triển", tạp chí Lưu trữ Việt Nam
số 02/ 1991 và “Vấn đề thu thập và tổ chức khoa học tài liệu kèm theo phim điện
ảnh”, Tạp chí Lưu trữ Việt Nam, số 01/2002 của tác giả Đào Xuân Chúc; " Cần
quan tâm hơn nữa đến việc quản lý tài liệu lưu trữ băng, đĩa ghi âm", tạp chí Văn
thư Lưu trữ, số 02/1985 của Đặng Anh Đào; ''Một số ý kiến về tổ chức lưu trữ tài
liệu phim, ảnh, ghi âm ở nước ta hiện nay", tạp chí Văn thư Lưu trữ, số 03/ 1986
và "Vài nét về quản lý tài liệu lưu trữ nghe nhìn", số 02/1998 của Nguyễn Lan
phương v.v Các bài viết mới chỉ bước đầu nêu lên thực trạng tổ chức công tác
lưu trữ tài liệu nghe nhìn nói chung. Chưa có một tác giả nào đề cập đến một cách
đầy đủ các vấn đề của công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
Gần đây nhất có luận văn cử nhân về " Vấn đề tổ chức khoa học tài liệu lưu
trữ nghe nhìn ở Trung tâm Tư liệu đài Truyền hình Việt Nam", năm 2001 của sinh
viên Trần Lệ Hường là đề cập cụ thể đến việc tổ chức, quản lý tài liệu nghe nhìn
của Đài Truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ dừng ở việc tổ chức
khoa học tài liệu nghe nhìn của Đài Truyền hình Việt Nam, mà không đề cập đến
toàn bộ nội dung của công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở Đài Truyền hình Việt
Nam. Hơn nữa, phạm vi của luận văn chỉ dừng ở tài liệu nghe nhìn ở Trung tâm
Tư liệu của Đài Truyền hình Việt Nam, không đề cập đến tài liệu nghe nhìn của
toàn bộ hệ thống các Đài Truyền hình từ Trung ương đến địa phương. Luận văn
chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể cho công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn
của các Đài Truyền hình.
2. Lịch sử hình thành, đặc điểm tài liệu nghe nhìn và vấn đề xác định giá
trị tài liệu
Về vấn đề này có rất nhiều tác giả đề cập đến, nhưng trước hết phải kể đến
luận văn cử nhân năm 1976 của tác giả Nguyễn Văn Quyền " Bước đầu tìm hiểu
lịch sử điện ảnh Việt Nam trước năm 1975". Sau đó là bài viết ''Vài nét về lịch sử
nhiếp ảnh Việt Nam " của Nguyễn Long đăng trên Tạp chí Nhiếp ảnh số 02/1989.

Cũng như cuốn sơ thảo về Lịch sử Nhiếp ảnh Việt Nam của Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh
Việt Nam, Hà Nội năm 1993…
Tuy nhiên, những bài viết trên mới chỉ giới thiệu quá trình hình thành, phát
triển của loại hình tài liệu ảnh, phim điện ảnh mà chưa đề cập đến các dạng tài liệu
nghe nhìn khác.
Trong tạp chí Văn thư Lưu trữ, tác giả Đào Xuân Chúc đã có các bài viết
như: Nguyên tắc và phương pháp đánh giá tài liệu ảnh trong công tác lưu trữ", số
03/1983; " Mấy vấn đề về cở phương pháp luận để xác định giá trị tài liệu lưu trữ
phim điện ảnh", số 03/1988; "Tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu ảnh lưu trữ", tạp
chí Lưu trữ Việt Nam ,số 03/ 1993….
Trong các bài viết trên, tác giả Đào Xuân Chúc chỉ nêu lên những nguyên
tắc, phương pháp và tiêu chuẩn xác định giá trị cho loại hình tài liệu ảnh, phim
điện ảnh nói chung, mà không đề cập đến vấn đề xác định giá trị tài liệu nghe nhìn
ở các Đài Truyền hình nói riêng.
Bên cạnh đó, một số tác giả khác cũng đã có những bài viết được đăng trên
tạp chí Nhiếp ảnh như: "Tính tài liệu và tính nghệ thuật" của A.Vartanốp, số
03/1994; "Ảnh phong cảnh và các loại ảnh phong cảnh" hoặc " Một vài suy nghĩ về
phóng sự ảnh" của Hoàng Ánh, số 03/1983 và số 04/1984; " Bản chất của ảnh"
của Nguyễn Long, số 01/1986; "Tính chất và nội dung thông tin của ảnh" của Chu
Chí Thành, số 24 và 25/1982; " Thể loại ảnh" của Chu Chí Thành - Hoàng Ánh-
Lê Hải, số 01, 02/1994 v.v
Những bài viết này mới chỉ đề cập về từng khía cạnh, từng đặc điểm của một
loại hình tài liệu nghe nhìn, đó là tài liệu ảnh nói chung.
Cũng cần phải kể đến sự đóng góp của các luận văn cử nhân của sinh viên
trong Khoa Lưu trữ và Quản trị văn phòng trong việc nghiên cứu đặc điểm, nguyên
tắc phương pháp để xác định giá trị tài liệu nghe nhìn. Tuy nhiên các luận văn này
mới chỉ dừng ở phạm vi tài liệu phim điện ảnh của Viện Nghệ thuật và Lưu trữ
điện ảnh Việt Nam mà không đề cập đến các loại hình tài liệu nghe nhìn khác. Ví
dụ như: Tác giả Hà Thị Tiêu với đề tài "Một số ý kiến đánh giá về xác định giá trị
tài liệu phim thời sự-tài liệu ở Viện Tư liệu Phim Việt Nam, luận văn cử nhân, năm

1990; Tác giả Mai Thu Hiền với đề tài " Bước đầu vận dụng các nguyên tắc và tiêu
chuẩn của lưu trữ học để xác định giá trị tài liệu phim thời sự tài liệu tại Viện
Nghệ thuật và Lưu trữ Điện ảnh Việt Nam, luận văn cử nhân, năm 1995; Tác giả
Nguyễn Văn Xuyên với đề tài “ Xác định giá trị và thu thập tài liệu lưu trữ phim
điện ảnh để Nhà nước bảo quản”, luận văn thạc sĩ, năm 1998;…
3. Vấn đề thu thập tài liệu tài liệu nghe nhìn:
Về vấn đề này cũng đã có một số các tác giả nghiên cứu: "Mấy ý kiến bước
đầu về thu thập tài liệu phim điện ảnh của Viện Phim Việt Nam" của Nguyễn Thị
Phượng, luận văn cử nhân, năm 1985; "Bước đầu xác định những nguồn tài liệu
ảnh cần giao nộp vào Kho Lưu trữ Trung ương" của Nguyễn Thị Bích Di, luận
văn cử nhân, năm 1985; "Nguồn tài liệu phim điện ảnh về Chủ Tịch Hồ Chí Minh"
của Nguyễn Thị Hương, luận văn cử nhân, năm 1990; “Những cơ sở khoa học xác
định nguồn bổ sung và thành phần tài liệu ảnh để nhà nước quản lý ” của Lã Thị
Hồng, đề tài nghiên cứu khoa học, mã số 89-98-017.
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bước đầu đề ra được những cơ sở
khoa học cho việc xác định nguồn tài liệu phim điện ảnh, tài liệu ảnh, chứ chưa đề
xuất được nguồn thu thập tài liệu nghe nhìn nói chung vào Lưu trữ Nhà nước, càng
không đề xuất được thành phần tài liệu nghe nhìn của các Đài Truyền hình cần thu
thập vào Lưu trữ Nhà nuớc.
4. Biên mục và xây dựng công cụ tra cứu cho tài liệu nghe nhìn:
Về vấn đề này một số tác giả cũng đã đề cập đến như: Bài của Dương Viết Á
về "Ý nghĩa điển hình của lời chú thích trong ảnh thời sự", tạp chí Nhiếp ảnh, số
12/ 1980; Bài của Lã Thị Hồng về "Viết lời thuyết minh cho tài liệu ảnh", tạp chí
Văn thư Lưu trữ, số 01/ 1986; Bài của Nguyễn Lan Phương về " Viết thuyết minh
và biên mục, bảo quản tài liệu ảnh", tạp chí Lưu trữ việt Nam, số 03/1998; Nguyễn
Đức Hà với đề tài "Một số ý kiến về xây dựng bộ thẻ tra tìm ảnh cho phòng Tư liệu
ảnh của Thông tấn xã Việt Nam (1945 -1980)", luận văn cử nhân, năm 1980 ; Tác
giả Nguyễn Việt Thắng thì đề cập đến một công cụ phân loại, tra cứu tổng hợp hơn
cho tài liệu phim điện ảnh, đó là việc "Xây dựng khung phân loại thông tin tài liệu
phim điện ảnh và bộ thẻ hệ thống ở Phông lưu trữ tư liệu phim quân đội", luận văn

cử nhân, năm 1991…
Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập đến các yếu tố thông tin cần biên mục,
các loại hình công cụ tra cứu cho tất cả các thể loại của tài liệu nghe nhìn nói
chung và tài liệu nhe nhìn của các Đài Truyền hình nói riêng.
5. Khai thác sử dụng tài liệu nghe nhìn:
Về vấn đề này, phần lớn các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung giới
thiệu các nguồn sử liệu nghe nhìn về các chủ đề khác nhau. Chưa có một công
trình nào đề cập đến vấn đề chế độ khai thác sử dụng tài liệu nghe nhìn nói chung
cũng như tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình nói riêng. Ví dụ như: các bài
viết của tác giả Đào Xuân Chúc " Vài nét về hoạt động Điện ảnh ở Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám", tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 04/ 1981; "
Phương phương pháp nghiên cứu tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tài liệu
phim, ảnh, tạp chí Thông tin Khoa học - Xã hội, số 5/ 1993; đặc biệt gần đây, tiến
sĩ Đào Xuân Chúc đã giới thiệu cho bạn đọc và các nhà nghiên cứu lịch sử một
nguồn tư liệu quí giá về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta
"Nguồn tư liệu ảnh về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954)", nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2002.
Ngoài ra, các tác giả khác cũng đã có những công trình tổng hợp các tài liệu
lưu trữ nghe nhìn đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như "
Ảnh lưu trữ về các sự kiện lịch sử đã được công bố trên báo Quân đội nhân dân từ
1975- 1995" của Nguyễn Việt Hằng, luận văn cử nhân, năm 1998; Những tài liệu
ảnh về cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953- 1954 và chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ" của Nguyễn Liên Hương, luận văn cử nhân, năm 1984; "Nguồn tài
liệu điện ảnh về Chủ tịch Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thị Hương, luận văn cử nhân,
năm 1990.
Tuy nhiên tất cả các bài viết, luận văn mới chỉ dừng ở mức đề cập đến từng
khía cạnh của công tác lưu trữ cho từng loại hình tài liệu nghe nhìn, chưa có luận
văn, bài viết nào đề cập đến toàn diện các vấn đề của công tác lưu trữ tài liệu nghe
nhìn ở các Đài Truyền hình.
V. Nguồn tài liệu tham khảo:

- Các bài viết trên Tạp chí Lưu trữ Việt nam; Tạp chí Nhiếp ảnh; Tạp chí
Báo ảnh Việt Nam; Tạp chí truyền hình.
- Các luận văn Thạc sĩ, luận án tiến sĩ và khoá luận tốt nghiệp đại học của
sinh viên, tại Khoa Lưu trữ và Quản trị văn phòng.
- Các đề tài, báo cáo khoa học tại Cục Lưu trữ Nhà nước, các Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia, Khoa Lưu trữ và Quản trị văn phòng.
- Các kết quả khảo sát thực tế của tác giả tại các cơ sở có nhiều tài liệu phim,
ảnh, ghi âm như Thông tấn xã Việt Nam, Viện Nghệ thuật và Lưu trữ Điện ảnh
Việt Nam, Đài Truyền hình Trung ương. Một số Đài Phát thanh và Truyền hình
tỉnh.
- Tư liệu nghiệp vụ của nước ngoài hiện đang bảo quản tại Phòng Tư liệu
của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Lưu trữ- Cục Lưu trữ Nhà nước.
VI. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu, luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
1. Phương pháp biện chứng: Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê Nin,
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ ở các Đài Truyền hình, phân
tích đánh giá thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
Vận dụng triệt để và linh hoạt 3 nguyên tắc tính Đảng, tính lịch sử, tính toàn diện
và tổng hợp khi phân tích chức năng nhiệm vụ của Đài truyền hình, khi xem xét
thành phần, tính chất của tài liệu nghe nhìn từ đó đề xuất những giải pháp về công
tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn sao cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ và tình hình
tài liệu của hệ thống các Đài Truyền hình.
2. Phương pháp luận lưu trữ học: Trong đó vận dụng những cơ sở lý luận
của Lưu trữ học Mác Xít vào việc xác định giá trị, thu thập, bổ sung, phân loại ,
biên mục v.v…cho tài liệu lưu trữ nói chung để xem xét và đề xuất các giải pháp
cho công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu thực tế:
Trong quá trình nghiên cứu , luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tư

liệu, điều tra khảo sát, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu qua thực tế tình hình
tài liệu và công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở Đài Truyền hình Việt Nam và một
số Đài Phát thanh và Truyền hình địa phương như Đài Phát thanh và Truyền hình
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Bắc v.v
VII. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Sự hình thành, đặc điểmvà ý nghĩa của tài liệu nghe nhìn ở các
Đài Truyền hình.
Trong chương này, luận văn trình bầy khái quát về sự hình thành của các
loại hình tài liệu nghe nhìn. Qua đó, luận văn đi sâu phân tích đặc điểm chung và
đặc điểm riêng của của từng loại hình tài liệu nghe nhìn trong sự so sánh với tài
liệu chữ viết. Tiếp theo luận văn nêu lên những ý nghĩa cơ bản của tài liệu nghe
nhìn trong đời sống kinh tế và xã hội.
Chương 2: Thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài
Truyền hình
Trong chương này luận văn nêu khái quát về chức năng, nhiệm vụ thành
phần, nội dung tài liệu nghe nhìn của Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh -
Truyền hình địa phương.
Để có cơ sở cho những đề xuất của chương 3, luận văn tiếp tục nghiên cứu,
khảo sát thực trạng công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình về các
vấn đề : Cơ sở pháp lý, tổ chức- cán bộ, tổ chức khoa học, bảo quản và khai thác
sử dụng tài liệu nghe nhìn. Từ đó nêu ra những tồn tại của công tác lưu trữ tài liệu
nghe nhìn ở các Đài Truyền hình, để làm cơ sở cho những giải pháp về công tác
lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở chương 3.
Những số liệu và thông tin khảo sát trong luận văn chủ yếu được lấy từ thực
tế của Đài Truyền hình Việt Nam, một số Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương
như Hà Nội, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Bắc, Thanh Hoá, Hải Phòng, Thành phố Hồ
Chí Minh, Cần Thơ v.v.
Chương 3: Những giải pháp về công tác lưu trữ tài liệu nghe nhìn ở các
Đài Truyền hình

Trên cơ sở các thông tin khảo sát, phân tích ở các chương 1 và 2, trong
chương 3 luận văn đưa ra những giải pháp cụ thể cho công tác lưu trữ tài liệu lưu
trữ nghe nhìn của hệ thống Đài Truyền hình. Đó là những giải pháp về các vấn đề:
- Xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ vè công tác lưu trữ tài
liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức- cán bộ làm công tác lưu trữ ở các Đài Truyền
hình.
- Tổ chức khoa học tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
- Bảo quản tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
- Khai thác sử dụng tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
Kết luận: Dựa trên những kết quả khảo sát và nghiên cứu thực tế công tác
lưu trữ ở các Đài Truyền hình, luận văn đưa ra một số nhận xét và kiến nghị đối
với các cấp lãnh đạo của các cơ quan hữu quan, các nhà nghiên cứu, cần có sự đầu
tư và biện pháp tích cực hơn nữa trong việc tổ chức, quản lý, bảo quản khối tài liệu
nghe nhìn đang hàng ngày, hàng giờ hình thành trong các hoạt động của xã hội.
Nhằm bảo quản an toàn và sử dụng có hiệu quả khối tài liệu này trong thành phần
Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam.
Để làm sáng tỏ thêm những vấn đề đã trình bày, luận văn còn có thêm phần
phụ lục gồm:
- Phụ lục I: Các biểu mẫu biên mục, công cục tra cứu tài liệu nghe nhìn hiện
có ở các Đài Truyền hình.
- Phụ lục II: Các biểu mẫu biên mục, công cụ tra cứu do luận văn đề xuất để
sử dụng cho tài liệu nghe nhìn ở các Đài Truyền hình.
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự cố gắng của bản thân, tác giả còn nhận
được sự giúp đỡ quý báu của các Giáo sư, Tiến sĩ, các cán bộ nghiên cứu và đặc
biệt là những nơi tác giả đến khai thác, sưu tầm tư liệu v.v
Nhân đây cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Tiến sĩ Đào
Xuân Chúc- người thầy đã tận tình chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình triển khai và
thực hiện luận văn này. Cũng nhân dịp này, cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn đến
sự động viên, đóng góp của tập thể các Giáo sư, Tiến sĩ trong Khoa Lưu trữ học và

Quản trị Văn phòng, Lãnh đạo Cục Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học Lưu trữ, cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận
văn này.
Những vấn đề mà luận văn đặt ra đã được tác giả cố gắng thực hiện. Song do
những hạn chế về trình độ bản thân và thời gian, địa bàn khảo sát, nên chắc chắn
luận văn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp, chỉ giáo của các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
Hà Nội, tháng 10 năm 2002














Chƣơng 1
SỰ HÌNH THÀNH, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA
CỦA TÀI LIỆU NGHE NHÌN Ở CÁC ĐÀI TRUYỀN HÌNH
1.1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA TÀI LIỆU NGHE NHÌN
1.1.1. Khái niệm về tài liệu nghe nhìn và tài liệu lƣu trữ nghe nhìn
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nền khoa học kỹ thuật có những bước phát
triển nhảy vọt, làm thay đổi bộ mặt xã hội ở tất cả các nước trên toàn thế giới.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các loại hình tài liệu ngày

càng trở nên phong phú, đa dạng. Một trong những loại hình tài liệu đó phải kể
đến tài liệu ảnh, phim điện ảnh và tài liệu ghi âm (tài liệu nghe nhìn). Đây là loại
hình tài liệu dùng hình tượng, âm thanh để phản ánh các mặt hoạt động của đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của đất nước. Tài liệu nghe nhìn từ chỗ
chỉ làm phương tiện tái hiện, ghi lại máy móc hình người hoặc cảnh, tiếng nói, dần
dần đã trở thành một loại hình nghệ thuật, thể hiện một cách điển hình những sự
kiện, hiện tượng trong thiên nhiên và xã hội. Những hình ảnh, tiếng nói này là sản
phẩm của con người, được ghi lại không chỉ để dùng cho các mục đích trước mắt,
mà còn lưu lại cho đời sau những khoảnh khắc không bao giờ lặp lại, giúp cho thế
hệ sau nhận thức được lịch sử rõ nét và chi tiết hơn. Từ khi tài liệu nghe nhìn xuất
hiện, các nguồn sử liệu trở nên phong phú hơn. Những đoạn văn mô tả dài dòng
được thay thế bằng những bức ảnh rõ ràng, cụ thể có sức thuyết phục cao.
Trong Quyết định số 168/HĐBT ngày 26/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng
về việc thành lập Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam có ghi rõ: "Phông lưu trữ quốc
gia Việt Nam là khối toàn bộ tài liệu có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa
học, xã hội, lịch sử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không kể
thời gian, văn tự, chế độ xã hội, xuất xứ nơi bảo quản, phương pháp và kỹ thuật
làm ra "[16, 379]. Thành phần Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam được quy định:"
Thành phần phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam bao gồm
bản chính (hoặc bản sao có giá trị như bản chính) của các văn kiện; tài liệu khoa
học kỹ thuật (dự án, đồ án, thiết kế, bản vẽ, bản đồ, công trình nghiên cứu…); tài
liệu chuyên môn (sổ sách, thống kê, biểu báo, hồ sơ nhân sự….); bản thảo, bản
nháp các tác phẩm văn học, nghệ thuật âm bản và dương bản các bộ phim, các bức
ảnh, microphim; tài liệu ghi âm; khuôn đúc đĩa; sổ công tác; nhật ký; hồi ký; tranh
vẽ hoặc in, tài liệu viết tay để tuyên truyền, cổ động, kêu gọi; sách báo nội bộ và
tài liệu khác….hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, đoàn thể, tổ
chức, trong các thời kỳ lịch sử của xã hội Việt Nam… ”[16, 379]. Điều này cũng
một lần nữa được khẳng định trong Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001: “ Tài
liệu lưu trữ quốc gia phải là bản chính, bản gốc của tài liệu được ghi trên giấy,
phim, ảnh, băng hình, đĩa hình, băng âm thanh, đĩa âm thanh hoặc các vật mang tin

khác….” [30, 8]. Như vậy là những bộ phim, những bức ảnh, băng ghi âm, ghi
hình có giá trị về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và các ý nghĩa khác
được sản sinh ra trong các hoạt động của cơ quan văn hoá, thông tin, tuyên truyền,
các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan nghiên cứu khoa học và những cá nhân
quay phim, chụp ảnh và ghi âm, ghi hình đều là những tài liệu lưu trữ. Tài liệu
nghe nhìn là kết quả của sự hình thành văn kiện, trong đó các hiện tượng khách
quan được thể hiện bằng hình ảnh và âm thanh.
Vậy có thể định nghĩa về tài liệu lưu trữ nghe nhìn như sau: Tài liệu ảnh,
phim điện ảnh, ghi âm và ghi hình được sản sinh ra trong quá trình hoạt động của
các cơ quan văn hoá, thông tin, tuyên truyền, các cơ quan quản lý nhà nước, các
cơ quan nghiên cứu khoa học và những người chụp ảnh, quay phim và ghi âm, ghi
hình nghiệp dư có giá trị khoa học, lịch sử và thực tiễn không kể không gian, địa
điểm sản sinh và những vật liệu gì mà nó mang tin, được nộp vào các kho, viện lưu
trữ Nhà nước theo các chế độ nhất định thì gọi là tài liệu lưu trữ ảnh, phim điện
ảnh và ghi âm, ghi hình (tài liệu lưu trữ nghe nhìn) [2, 1].
Để làm được điều đó trước tiên phải hiểu được quá trình hình thành và đặc
điểm của loại hình tài liệu đặc biệt này.
1.1.2. Sự hình thành của các loại hình tài liệu nghe nhìn:
1.1.2.1. Sự hình thành của tài liệu phim, ảnh:
Các yếu tố kỹ thuật cần thiết để có một bức ảnh là ánh sáng, vật liệu và kỹ thuật
đặc biệt của nhiếp ảnh. Trong đó ánh sáng cần thiết để tạo nên hình ảnh ẩn trên phim
khi chụp. Các vật liệu để tạo nên hình ảnh gồm có: máy ảnh, phim ảnh, (hoặc kính
ảnh), giấy ảnh, các hoá chất tạo và giữ hình ảnh.
Có thể tóm tắt quy trình kỹ thuật tạo ra một bức ảnh như sau: [2, 6]
- Bước 1: Phim sau khi được chụp (đã lộ sáng), trên phim diễn ra quá trình
phản ứng quang học, tạo thành hình ảnh ẩn mà mắt thường không nhìn thấy được.
- Bước 2: Phim được đưa qua thuốc hiện hình trong một thời gian nhất định,
thì hình ảnh của đối tượng chụp sẽ dần dần hiện ra. Để giữ cho hình ảnh không bị
đen và mất hình, phải ngâm qua thuốc hãm hình (giữ hình). Lúc này, những hạt
muối bạc không được dùng để tạo thành hình ảnh, sẽ hoà tan và bị loại bỏ sau khi

rửa sạch bằng nước lã. Như vậy, ta có phim âm bản (negative).
- Bước 3: Muốn có dương bản (positive), phải cho một chùm ánh sáng
xuyên qua âm bản (negative) xuống bề mặt cảm quang của giấy ảnh. Sau khi thực
hiện quá trình hiện hình và hãm hình như đối với âm bản, sẽ thu được một tấm ảnh
dương bản đúng như hình ảnh của đối tượng được chụp trước ống kính.
1.1.2.2. Sự hình thành phim điện ảnh:
Ngày 28 tháng 12 năm 1895 hai anh em người Pháp Lummiere tổ chức
buổi trình chiếu phim đầu tiên tại một quán cà phê ở Paris. Sự kiện này đánh dấu
sự ra đời của điện ảnh thế giới. Ở Việt Nam, năm 1899 những thước phim đầu tiên
mới được chiếu tại Sài Gòn. Phim điện ảnh là loại tài liệu hình ảnh động, hay còn
gọi là phim chiếu bóng, chứa thông tin dưới dạng hình ảnh và âm thanh dựa trên cơ
sở sự tiếp nối liên tục những hình ảnh động trên một dải băng nhựa đục lỗ. Khi
phim được chiếu (khoảng 24 hình/giây), những hình ảnh này sẽ xuất hiện dưới
dạng một chuyển động liên tục. Hiện nay hầu hết các phim đều là phim mầu, tuy
nhiên cũng có phim đen trắng được sử dụng vì lý do nghệ thuật hoặc dùng cho mục
đích khoa học. Phim thường được cuộn trên những lõi quấn (bô bin) và được lưu
giữ trong các hộp hình tròn dẹt. Khổ phim thường đựợc tiêu chuẩn hoá là 35mm và
16mm. Tuy nhiên cũng có loại phim 8mm và super 8mm. [28, 20].
Có thể khái quát quy trình sản xuất một bộ phim như sau:[2, 7]
- Bước 1: Viết kịch bản đối với phim truyện, hoặc đề cương quay phim đối
với phim thời sự. Kịch bản phim là một tác phẩm văn học, được xây dựng bằng thủ
pháp nghệ thuật, bằng ngôn ngữ và đặc trưng điện ảnh.
- Bước 2: Đạo diễn viết ra kịch bản phân cảnh trên cơ sở kịch bản. Kịch bản
phân cảnh là bản đề cương để quay phim. Nó bao gồm các cảnh riêng biệt được
sắp xếp liên tục với nhau. Mỗi cảnh đều được qui định rõ về độ dài và quay trong
các điều kiện cụ thể. Các cảnh được xác định theo 5 loại sau: Đặc tả, cận cảnh,
trung cảnh, toàn cảnh, và viễn cảnh.
- Bước 3: Căn cứ vào kịch bản phân cảnh, người quay phim sẽ xác định bố
cục của khuôn hình để quay làm sao thể hiện tốt nhất nội dung của kịch bản.
- Bước 4: Phim sau khi quay xong, được đưa về xưởng in tráng để hiện hình

và giữ hình.
- Bước 5: Sau khi các cảnh đã quay xong, công việc cuối cùng là dựng phim
và thu âm.
Sau khi bộ phim được duyệt, bản đầu cùng với âm bản gốc hình và tiếng
cùng các tài liệu kèm theo khác được chuyển tới Xí nghiệp in tráng phim, ở đó sẽ
sản xuất theo yêu cầu của cơ quan phát hành số lượng dương bản nhất định. Những
bản này gọi là bản sao (bản copy).
Những âm bản gốc hình, âm bản gốc tiếng và bản đầu theo quy định phải được
đưa vào bảo quản trong lưu trữ.
1.1.2.3. Sự hình thành tài liệu ghi âm: [2, 8]
a.Ghi âm cơ giới: Ngày 12 tháng 8 năm 1877, Edison-nhà phát minh người
Mỹ đã tạo ra được một dụng cụ hoạt động nhờ một tay quay và đăng ký phát
minh vào ngày 17/2/1878. Phát minh này đánh dấu sự ra đời của kỹ thuật ghi
âm.
Các đĩa ghi âm cơ học hiện nay thường có đường kính khoảng 250-300 mm
và bước rãnh từ 0,075 mm đến 0,2 mm. Ngoài các loại đầu ghi âm có tốc độ quay
là 78 vòng/phút, 45 vòng/phút, còn có tốc độ quay 33 :1/3 vòng /phút, 16:2/3 vòng
/phút và 8: 1/3 vòng phút. Thông thường tốc độ ghi là bao nhiêu thì tốc độ quay lại
cũng sẽ là bấy nhiêu. Nếu làm thay đổi tốc độ, thì âm thanh sẽ không giống như
khi phát, có thể bị rè hoặc trở thành méo tiếng.
b. Ghi âm quang học: Ghi âm quang học là dùng phương pháp chụp ảnh để
chụp các dao động âm thanh trên phim nhựa và làm tái hiện chúng bằng hệ thống
quang học. Ghi âm quang học được dùng cho phim điện ảnh.
c. Ghi âm từ tính: Ghi âm từ tính được O.Smith người Anh phát triển về mặt
lý thuyết năm 1888. Đây là phương pháp làm cho độ từ hoá của băng từ thay đổi
tương ứng với sự thay đổi của tín hiệu âm thanh cần ghi. Cấu tạo của băng từ tính
gồm 2 lớp: một lớp đế bằng nhựa và được phủ lên mặt một lớp ô-xít sắt.
d. Ghi âm lazer (CD): Kỹ thuật ggi âm này được hãng Philips Hà Lan bvà
hãng Sony Nhật Bản phát minh vào năm 1979. Phương pháp ghi và đọc đĩa CD có
những điểm khác cơ bản so với các phương pháp ghi âm cơ học, quang học hay từ

tính. Cách ghi và đọc đĩa CD không cần tiếp xúc giữa đĩa và đầu ghi hay đầu đọc
âm thanh. Các tín hiệu âm thanh được xử lý và ghi vào đĩa theo kỹ thuật số. Trong
hệ CD sử dụng phương pháp ghi âm quang học nhờ một nguồn tia lazer bán dẫn
cực nhỏ. Các tia lazer sau khi hội tụ có thể làm nóng chảy các vật liệu dễ nóng
chảy, được dùng làm đĩa.
1.1.2.4. Sự hình thành tài liệu video (audiovisual): [2, 10]
Từ "video" theo tiếng Latinh là "nhìn thấy" và từ "audio" từ chữ latinh có
nghĩa là "nghe thấy" dùng để chỉ những âm thanh đi kèm việc trình bày hình ảnh.
Dụng cụ ghi hình đen trắng đầu tiên là của Mincom, một chi nhánh của hãng
3M/Scoth, được giới thiệu vào năm 1951 ở Mỹ và đến năm 1956 băng ghi hình
đầu tiên được bán ra ở Mỹ. Ghi tín hiệu hình (tín hiệu video) lên băng từ nguyên
lý cơ bản giống như ghi âm từ tính, song khác với tín hiệu âm thanh có dải (Mdlz,
Mega hert) tần số từ 30 Hz đến gần 20 MHz (khoảng 9 Octave) tín hiệu có hình
dải tần rộng hơn nhiều, chiếm từ 0 đến MHz (đạt tới 18 Octave). Điều đó dẫn đến
sự khác biệt về nguyên lý làm việc cũng như kết cấu của máy ghi hình so với máy
ghi âm. Để có tài liệu ghi hình (video) cần có các thiết bị điện tử như: Máy quay
(camera), đầu phát (video cassetle recorder (VCR), màn hình (T.V).
Tương ứng với mỗi kỹ thuật ghi, thiết bị ghi là một loại hình tài liệu như:
- Máy ghi hình Cassete- VCR, được hãng Philips Hà Lan đưa ra năm 1970.
- Máy Beta-max, được hãng Sony, Sanyo đưa vào sử dụng năm 1976.
- Máy Cassete VHS ra đời năm 1977 do hãng JVC của Nhật sản xuất……
1.2. Đặc điểm của các loại hình tài liệu nghe nhìn ở các Đài truyền hình
1.2.1. Đặc điểm chung:
Tài liệu nghe nhìn về bản chất khác rất nhiều so với tài liệu giấy:
1. Tài liệu nghe nhìn được chế tạo trên những vật mang tin khác nhau, về kỹ
thuật chế tác và khả năng phản ánh, chứa đựng thông tin cũng như điều kiện bảo
quản cũng khác nhau.
2. Tài liệu nghe nhìn không chỉ có khả năng cung cấp thông tin như tài liệu
trên giấy, mà còn có khả năng làm tái hiện được các sự kiện, hiện tượng đúng như
nó đã xẩy ra trong quá khứ. Đây là đặc trưng ưu việt mà tài liệu trên giấy không

thể có được [4, 12]. Ví dụ một trang giấy có thể ghi lại nội dung bài phát biểu của
Bộ trưởng, nhưng một băng Video, một cuộn phim, những bức ảnh hoặc một cuốn
băng ghi âm có thể cho chúng ta biết ông ta đã thực sự nói gì?, âm điệu của diễn
giả, vẻ bề ngoài, sự biểu hiện về nét mặt cũng như các điệu bộ cử chỉ khác. Tài liệu
nghe nhìn đặc biệt hay được sử dụng trong các dịp lễ hội, ghi lại những sự kiện
quan trọng, vì những tài liệu này có thể cho chúng ta biết con người, địa điểm và
những điều mà chúng ta không được tận mắt chứng kiến.
3. Tài liệu nghe nhìn không chỉ cung cấp những thông tin đơn thuần, mà nó
còn là loại hình tài liệu mang tính nghệ thuật cao.
4. Khác với tài liệu chữ viết, tài liệu nghe nhìn không phản ánh trực tiếp các
hoạt động của người quay, người chụp hoặc của cơ quan làm ra tài liệu. Vì vậy, giá
trị của tài liệu nghe nhìn phụ thuộc vào ý nghĩa của các sự kiện, hiện tượng mà
chúng phản ánh.[5,14].
5. Tài liệu nghe nhìn không được sản sinh ra ở mọi cơ quan như tài liệu chữ
viết. Đối với tài liệu nghe nhìn không có khái niệm tài liệu của cơ quan cấp dưới bị
bao hàm bởi tài liệu của cơ quan cấp trên. Giá trị của tài liệu nghe nhìn không phụ
thuộc vào vị trí của cơ quan sản sinh ra nó, vì nó không chỉ phản ánh hoạt động của
cơ quan đó, mà còn phản ánh gần như mọi mặt hoạt động của xã hội.
6. Tài liệu nghe nhìn có khả năng tuyên truyền, giáo dục hiệu quả hơn nhiều
so với tài liệu chữ viết. Bởi lẽ qua những hình ảnh, âm thanh sống động, đã đưa
đến cho người xem lượng thông tin gọn nhẹ, súc tích và mau chóng nhất. Vì hình
ảnh, âm thanh mang tính khách quan, tính sự thật một cách hiển nhiên nên nó dễ đi
vào lòng người, dễ thuyết phục và gây lòng tin mạnh mẽ đối với người xem [14,
9].
Tài liệu nghe nhìn được chứa đựng trên những vật mang tin khác nhau. Hiểu
được các vật mang tin đó, sẽ giúp chúng ta có thể sử dụng, bảo quản và quản lý
loại hình tài liệu này được hiệu quả.
1.2.2. Đặc điểm riêng của từng loại hình tài liệu nghe nhìn
a. Phim điện ảnh: Từ những đặc điểm chế tác trên, phim điện ảnh có những
đặc thù riêng như sau: [3, 16]

- Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt, được chế tác theo phương pháp kỹ
thuật riêng biệt so với tài liệu giấy, tài liệu ảnh, ghi âm v.v Chúng được sản xuất
từ những loại vật liệu đặc biệt: phim nitrat xenluylo, phim axetat xenluylo. Vì vậy,
điều kiện bảo quản, sử dụng chúng cũng khác với các loại hình tài liệu khác. Đây
cũng là một trong những lý do cần có kho lưu trữ chuyên dụng cho loại tài liệu
này.
- Song sự khác biệt về chất liệu chế tác chưa phải là cơ bản, mà phim điện
ảnh có phương thức chuyển tải thông tin khác nhiều so với các loại hình tài liệu
khác. Nội dung thông tin của tài liệu không phải kể về các sự vật hiện tượng bằng
các ký tự như tài liệu chữ viết, hoặc phản ánh, mô tả các sự kiện hiên tượng ở dạng
tĩnh như tài liệu ảnh, mà là thể hiện bản thân các sự vật hiện tượng hoặc một quá
trình trong không gian và thời gian nhất định, đúng như chúng đã xẩy ra trong thực
tế đời sống xã hội và tự nhiên bằng máy quay phim, tạo hình sắp xếp thứ tự các
hình ảnh và thông tin âm thanh (lời nói, tiếng động) ghi lại trên chất liệu phim.
Khả năng này được thể hiện nhiều nhất ở loại hình phim thời sự, tài liệu. Từ những
hình ảnh độc lập, riêng rẽ nhờ kỹ thuật dựng phim (Montarge) một hệ thống thông
tin âm thanh và hình ảnh của sự vật, sự kiện được tạo ra theo một chủ đề nhất định.
Như vậy, tài liệu phim điện ảnh gồm hai bộ phận chính là hình ảnh và âm thanh.
Nếu hình ảnh(bộ phận chính) thể hiện sự kiện thì âm thanh (gồm những âm thanh
thực hiện giọng nói con người, băng ghi âm đồng bộ, tiếng của người đọc thuyết
minh, lời bình và tiếng động, âm nhạc) cũng là bộ phận không thể thiếu được để
tạo thành một bộ phim hoàn chỉnh. Lời đọc trong phim có một vai trò quan trọng
trong bất cứ một phim thời sự, tài liệu nào vì nó bổ sung và làm cho hình ảnh càng
sâu đậm hơn. Do đó hệ thống tính chất hình ảnh - âm thanh truyền thông tin là đặc
điểm khác biệt của tài liệu phim điện ảnh [32, 18]. Đặc điểm này đòi hỏi khi bảo
quản cũng như khi xem xét tình trạng tài liệu phim điện ảnh phải chú ý đến cả chất
lượng hình và tiếng của tài liệu. Như vậy, tài liệu phim điện ảnh cũng giống như
các nguồn tài liệu khác là đều có tính thời sự của nó. Hơn nữa nó có thể dùng để
kiểm tra, minh hoạ, làm chính xác thông tin của các nguồn tài liệu khác. Vì lẽ đó
mà tài liệu phim điện ảnh đã trở thành một trong những nguồn sử liệu có giá trị để

nghiên cứu lịch sử dân tộc cũng như lịch sử ngành điện ảnh.

×