Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo ( 3- 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.85 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ MAI LINH






ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI
MẪU GIÁO (3-6 TUỔI)





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC







Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ MAI LINH





ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI
MẪU GIÁO (3-6 TUỔI)


Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trƣơng Khánh Hòa






Hà Nội - 2013

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM LỨA TUỔI
MẪU GIÁO 5
1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
1.1.1 Ở nước ngoài 5
1.1.2. Ở trong nước 7
1.2. Một số vấn đề lí luận về ngôn ngữ và hiểu từ trong ngôn ngữ 9
1.2.1. Khái niệm chung về ngữ ngôn và ngôn ngữ 9
1.2.2. Chức năng cơ bản của ngôn ngữ 10
1.2.3. Cấu trúc của ngôn ngữ 12
1.2.4. Ngôn ngữ và lời nói 13
1.2.5 Các vấn đề về từ và nghĩa của từ 14
1.2.6 Vấn đề hiểu từ trong ngôn ngữ 15
1.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 16
1.3.1 Các quy luật lĩnh hội tiếng mẹ đẻ của trẻ 18
1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 21
1.3.3 Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo 24
1.3.4 Khả năng hiểu từ của trẻ mẫu giáo(3-6 tuổi) 27
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến ngôn ngữ trẻ em mẫu giáo (3-6 tuổi) 31
1.4.1 Các yếu tố sinh lý thần kinh 31
1.4.2 Môi trường sống của trẻ em 32
1.4.3 Sự phát triển nhận thức của trẻ 33
1.4.4 Tính chủ động trong giao tiếp của trẻ 35
1.4.5 Các biện pháp giúp trẻ mẫu giáo hiểu từ 36
Chƣơng 2 TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 39
2.1 Tổ chức nghiên cứu 39
2.1.1 Đặc điểm địa bàn và khách thể 39
2.1.2 Tiến trình nghiên cứu 40
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 40

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 40
2.2.2. Phương pháp quan sát 40
2.2.3. Phương pháp trắc nghiệm 43
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm (Thử nghiệm tác động sư phạm) 46
2.2.5 Phương pháp điều tra, phỏng vấn 49
2.2.6. Phương pháp thống kê toán học 49
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 51
3.1. Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo 3-6 tuổi 51
3.1.2. Đặc điểm hiểu từ đúng và chưa đúng của trẻ em mẫu giáo (3-6) tuổi . 55
3.1.3 Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo theo độ tuổi. 63
3.1.4. Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo theo giới tính 68
3.1.5 Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo theo môi trường sống (3-6 tuổi) 74
3.2 Một số yếu tố ảnh hƣởng đến đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo (3-6) tuổi 83
3.2.1. Ảnh hưởng tính chủ động giao tiếp đến mức độ hiểu từ của trẻ mẫu
giáo (3-6 tuổi) 83
3.2.2 Ảnh hưởng của các biện pháp dạy trẻ hiểu từ 87
3.3. Kết quả thử nghiệm tác động biện pháp sƣ phạm nhằm nâng cao mức độ
hiểu từ của trẻ em mẫu giáo (3-6 tuổi) 89
3.3.1. Lý do lựa chọn biện pháp tác động 90
3.3.2. Mục đích thử nghiệm tác động 91
3.3.3. Nội dung và cách thức tác động 91
3.3.4. Kết quả thử nghiệm tác động biện pháp 91
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 2.1 Số lƣợng khách thể nghiên cứu 39
Bảng 3.1. Mức độ hiểu từ của trẻ em tuổi mẫu giáo (3-6) 51
Bảng 3.2: Tỷ lệ % hiểu đúng và hiểu chƣa đúng các từ của trẻ mẫu giáo 56
Bảng 3.3: Mức độ hiểu từ theo độ tuổi 63

Bảng 3. 4: Độ tuổi và mức độ hiểu từ đúng của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 64
Bảng 3.5 Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo theo giới tính 69
Bảng 3.6: Mức độ hiểu từ đúng của trẻ theo giới tính (Tính theo %) 70
Bảng 3.7: Môi trƣờng sống và đặc điểm hiểu từ của trẻ em mẫu giáo 3-6
tuổi 74
Bảng 3.8: Môi trƣờng sống và mức độ hiểu từ đúng của trẻ em mẫu giáo (3-6
tuổi) 76
Bảng 3.9: Mức độ phát triển tính chủ động trong giao tiếp của trẻ em mẫu
giáo 3-6 tuổi 83
Bảng 3.10. Ảnh hƣởng tính chủ động giao tiếp đến mức độ hiểu từ của trẻ
mẫu giáo 3-6 tuổi 86
Bảng 3.11 Các biện pháp dạy trẻ hiểu từ 87
Bảng 3.12 Mức độ hiểu từ của trẻ đo lần 1 92
Bảng 3.13: Mức độ hiểu từ của trẻ nhóm đối chứng và thực nghiệm đo lần
1, lần 2 94

DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 Mức độ hiểu từ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 51
Biểu đồ 3.2 Độ tuổi và mức độ hiểu từ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 63
Biểu đồ 3.3 Giới tính và mức độ hiểu từ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi) 69
Biểu đồ 3.4 Môi trƣờng sống và mức độ hiểu từ của trẻ mẫu giáo 75
Biểu đồ 3.5. Mức độ phát triển khả năng hiểu từ của nhóm trẻ đối chứng và
thực nghiệm sau hai lần đo 94



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngôn ngữ là sự sáng tạo kỳ diệu của con ngƣời. Ngay từ khi hình
thành, ngôn ngữ đã trở thành phƣơng tiện giao tiếp cơ bản nhất, hữu hiệu nhất
của con ngƣời. Trong hoạt động nhận thức của con ngƣời, ngôn ngữ giữ vai
trò tổ chức và điều chỉnh các quá trình nhận thức. Nhờ có ngôn ngữ mà các
quá trình cảm giác, tri giác mang một chất lƣợng mới, với quá trình nhận thức
lý tính, ngôn ngữ đƣợc coi là phƣơng tiện của tƣ duy, là công cụ để biểu đạt
và cố định kết quả của tƣ duy. Nhƣ vậy, có thể nói ngôn ngữ và tƣ duy gắn bó
chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này đƣợc thể hiện trong nghĩa của từ. Từ là
biểu hiện của khái niệm và hiểu từ là hiểu khái niệm. Trong tƣ duy, hiểu từ là
rất quan trọng, bởi vì, có hiểu từ, con ngƣời mới có thể sử dụng ngôn ngữ nhƣ
một phƣơng tiện để tƣ duy, để nhận thức thế giới xung quanh.
Đối với mọi ngƣời nói chung, thì ngôn ngữ có vai trò quan trọng. Nhờ
có ngôn ngữ mà chúng ta có thể trao đổi thông tin với nhau một cách nhanh
nhất, nhiều nhất, đầy đủ nhất, có thể hiểu nhau, thông cảm, chia sẻ, hợp tác
với nhau trong quá trình lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên và cải tạo xã
hội. Mặt khác nhờ có ngôn ngữ mà con ngƣời từ khắp mọi miền tổ quốc, từ
quốc gia này đến quốc gia khác, từ khắp nơi trên thế giới, con ngƣời ở các
thời đại khác nhau, các thế hệ khác nhau đều có thể giao lƣu, tìm hiểu nhau,
học hỏi lẫn nhau, cùng nhau lĩnh hội kho tàng tri thức của nhân loại để hình
thành phát triển nhân cách, tâm lý…
Đối với trẻ em nói riêng thì ngôn ngữ lại có vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhà giáo dục K. D. Usinxki khi nói về vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát
triển tâm lý của trẻ em, cho rằng: “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển,
là vốn quý của mọi tri thức” [dẫn theo 13]. Nắm đƣợc ngôn ngữ ở mọi
phƣơng diện nhƣ từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp, hiểu đƣợc nghĩa của từ và sử

2
dụng chúng thành thạo trong hoạt động ngôn ngữ nói, nghe, đọc, viết… là
điều rất quan trọng. Một mặt, đó là điều kiện thiết yếu để trẻ tham gia tích cực
vào hoạt động, sinh hoạt hàng ngày, qua đó giúp trẻ hình thành, phát triển tâm

lý cho bản thân. Mặt khác, nắm đƣợc ngôn ngữ tức là trẻ em nắm đƣợc chìa
khoá của học vấn, của sự phát triển trí tuệ. Đúng nhƣ E. I. Tikheeva – nhà
giáo dục học ngƣời Nga, đã dành nhiều năm nghiên cứu và thực hành việc
giáo dục ngôn ngữ ở trƣờng mẫu giáo, khẳng định “Ngôn ngữ là công cụ để
tƣ duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức
của dân tộc, của nhân loại. Vì vậy việc giáo dục cho trẻ phải bắt đầu từ rất
sớm, từ khi các cháu chƣa cắp sách đến trƣờng” [dẫn theo 13]
Nhƣ vậy, việc phát triển ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng đối với hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là đối với giáo dục mầm
non. Chúng ta đều biết giáo dục mầm non là giai đoạn giáo dục đầu tiên, giai
đoạn tạo nền móng cơ sở vững chắc cho sự phát triển về mọi mặt của trẻ sau
này. Và một trong những nội dung mà trƣờng mầm non phải chuẩn bị cho trẻ
ngay từ những ngày đầu tiên đó là phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt tới mức độ
sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ.
Thông qua kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc
chúng ta nhận thấy rằng cùng với sự phát triển của các quá trình tâm lý khác,
ngôn ngữ trẻ mẫu giáo cũng phát triển rất nhanh. Nhu cầu trao đổi, trò chuyện
của trẻ với mọi ngƣời ngày càng trở nên bức thiết, nhƣng do khả năng hiểu từ
và khả năng diễn đạt chƣa tốt nên có nhiều trƣờng hợp trẻ dùng từ lộn xộn, sai
nghĩa Khó khăn này cũng ảnh hƣởng đến sự phát triển tƣ duy của trẻ nói
riêng và sự phát triển tâm lý của trẻ nói chung, đặc biệt là đối với trẻ mẫu giáo
lớn, khi mà ngôn ngữ đóng vai trò là phƣơng tiện quan trọng giúp trẻ chuyển
sang hoạt động học tập ở trƣờng phổ thông.

3
Xuất phát từ vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ đối với sự phát
triển tƣ duy và giao tiếp xã hội của trẻ, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
của mình là: "Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo (3-6 tuổi)".
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trẻ mẫu giáo 3 đến 6 tuổi và một số yếu

tố ảnh hƣởng, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu từ
của trẻ.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo.
3.2. Khách thể nghiên cứu
252 trẻ em ở ba độ tuổi (3-4; 4-5; 5-6), trong đó mỗi độ tuổi là 84 em,
tại hai trƣờng mầm non Ánh Sao, quận Cầu Giấy, Hà Nội và trƣờng mầm non
Thị Trấn, huyện Thanh Chƣơng, Nghệ An.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Ngôn ngữ bao gồm 3 bộ phận: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Do điều
kiện thời gian, điều kiện thực tế và dƣới góc độ tâm lý học, trong phạm vi
luận văn này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến đặc điểm hiểu từ của trẻ mẫu giáo.
Bởi vì hiểu từ là một bộ phận quan trọng trong ngôn ngữ. Chỉ khi trẻ hiểu
nghĩa của từ thì trẻ mới có thể hoạt động ngôn ngữ một cách tích cực và có
hiệu quả, từ đó thúc đẩy sự phát triển nhận thức, trí tuệ, đặc biệt là tƣ duy.
4.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Trƣờng mầm non Ánh Sao, quận Cầu Giấy, Hà nội và trƣờng mầm non
Thị Trấn Thanh Chƣơng, Nghệ An.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhằm
định hƣớng cho việc nghiên cứu thực tiễn.

4
- Nghiên cứu thực trạng khả năng hiểu từ của trẻ mẫu giáo ở 3 độ tuổi
(3 - 4), (4 - 5), (5 - 6), và một số yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng hiểu từ (tính
chủ động trong giao tiếp, cách dạy trẻ hiểu từ của cô giáo mầm non)
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng hiểu từ cho trẻ
mẫu giáo.

- Thử nghiệm tác động sƣ phạm nhằm nâng cao khả năng hiểu từ cho
trẻ mẫu giáo thông qua hình thức dạo chơi, tham quan.
6. Giả thuyết khoa học
Đặc điểm khả năng hiểu từ của trẻ mẫu giáo tăng dần theo độ tuổi, và
không đồng đều ở những trẻ khác nhau trong cùng độ tuổi. Đa số trẻ mẫu giáo
hiểu từ ở mức trung bình trở lên. Nếu sử dụng biện pháp dạy trẻ hiểu từ qua
dạo chơi, tham quan thì mức độ hiểu từ của trẻ có thể tăng lên.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu.
7.2. Phƣơng pháp quan sát.
7.3. Phƣơng pháp trắc nghiệm.
7.4. Phƣơng pháp thực nghiệm.
7.5. Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn
7.6. Phƣơng pháp thống kê toán học







5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÔN NGỮ CỦA TRẺ EM
LỨA TUỔI MẪU GIÁO

1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Ở nước ngoài
Ngôn ngữ là sự sáng tạo kỳ diệu của loài ngƣời, là phƣơng tiện giao
tiếp phổ biến và thuận lợi nhất. Nó gắn liền với sự phát triển tâm lý con

ngƣời, là chìa khoá để con ngƣời nhận thức và chiếm lĩnh kho tàng trí thức
của dân tộc và nhân loại.
Ngay từ thời cổ đại vấn đề ngôn ngữ đã đƣợc đề cập đến tuy nhiên thời
điểm đó ngƣời ta nghiên cứu ngôn ngữ không tách khỏi triết học và logic học.
Các nhà triết học cổ đại đã coi ngôn ngữ nhƣ là một hình thức biểu hiện bề
ngoài của cái bên trong là "logos", tinh thần, trí tuệ của con ngƣời. Trong
cuốn "Bàn về phƣơng pháp", Descartes đã chỉ ra những đặc tính chủ yếu của
ngôn ngữ và lấy đó làm tiêu chí phân biệt con ngƣời khác với động vật. Ông
đã nhấn mạnh tính chất của ngôn ngữ, cái tín hiệu duy nhất ấy chắc chắn là
của một tƣ duy tiềm tàng trong cơ thể và kết luận rằng "có thể lấy ngôn ngữ
làm chỗ khác nhau thực sự giữa con ngƣời và con vật". Chỉ đến giữa thế kỷ
XIX khuynh hƣớng tâm lý học mới nảy sinh trong ngôn ngữ học. Ngƣời đầu
tiên đề xuất hƣớng nghiên cứu tâm lý ngôn ngữ học là Shteintal (1823-1899).
Theo ông, ngôn ngữ học phải dựa vào tâm lý cá nhân khi nghiên cứu ngôn
ngữ cá nhân, và phải dựa vào tâm lý dân tộc khi nghiên cứu ngôn ngữ của dân
tộc [16]
V.Vunt (1832-1920) là đại biểu của thuyết tâm lý liên tƣởng, đã
nghiên cứu lý thuyết về dạng thức bên trong của từ, về các loại ý nghĩa
chuyển đổi của từ, về nghĩa hiện có của từ và câu, về mối quan hệ liên
tƣởng có tính ngữ đoạn.

6
Sau cách mạng tháng Mƣời Nga 1917, các nhà ngôn ngữ học, tâm lý
học Xô Viết đã vận dụng quan điểm của Mác - Lênin vào hoạt động nghiên
cứu ngôn ngữ đó là: xem xét ngôn ngữ với tƣ cách là một hiện tƣợng xã hội.
Ngôn ngữ thể hiện các mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời đƣợc quy
định bởi những điều kiện cụ thể của thời kỳ lịch sử nhất định. Ngôn ngữ là
hiện thực trực tiếp của tƣ duy và là phƣơng tiện giao tiếp chủ yếu nhất của
con ngƣời. Tiêu biểu cho quan điểm đó có thể kể đến L.X Vƣgôtxki; E.D.
Polivanov; K.N. Derzhavin;… họ đã nghiên cứu tính chất xã hội của ngôn

ngữ, về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy, sự phụ thuộc qua lại giữa các
thuộc tính của ngôn ngữ… [16]
L.X Vƣgôtxki trong cuốn "Tƣ duy và ngôn ngữ" đã lập luận rằng hoạt
động tinh thần của con ngƣời chính là kết quả học tập mang tính xã hội chứ
không phải chỉ là hoạt động học tập của một cá thể. Theo ông, khi trẻ em gặp
phải những khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào sự hợp tác của ngƣời
lớn và bạn bè có năng lực cao hơn, những ngƣời này giúp đỡ trẻ và khuyến
khích trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác này, quá trình tƣ duy trong một xã hội
nhất định đƣợc chuyển giao sang trẻ. Do ngôn ngữ là phƣơng thức đầu tiên
mà qua đó, con ngƣời trao đổi các giá trị xã hội, L.X Vƣgôtxki coi ngôn ngữ
là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tƣ duy [12].
Việc nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non (0-6 tuổi) cũng
đã đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhìn lại các công trình nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về ngôn ngữ ở giai đoạn này chúng ta có thể thấy các tác giả
đã nghiên cứu theo các xu hƣớng chủ yếu sau:
- Hƣớng nghiên cứu đầu tiên là nghiên cứu chức năng, vai trò của ngôn
ngữ trong sự phát triển và giáo dục của trẻ. Đây là hƣớng nghiên cứu nổi bật
đƣợc thể hiện trong các công trình khoa học của nhiều tác giả nhƣ:
E.I.Tikheeva, Ph.A. Sookhina, L.X.Vƣgôtxki, J.Piaget,… Các tác giả đều đi
đến nhận định, ngôn ngữ là công cụ nhận thức thế giới xung quanh của trẻ, là

7
phƣơng tiện giao tiếp, phƣơng tiện giúp trẻ chiếm lĩnh các giá trị đạo đức,
chuẩn mực xã hội. Đặc biệt các tác giả đều nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ
trong sự phát triển tƣ duy của trẻ.
- Hƣớng nghiên cứu thứ hai đƣợc các tác giả quan tâm là nghiên cứu
đặc điểm phát triển ngôn ngữ trẻ trƣớc tuổi học. Hƣớng nghiên cứu này
đƣợc phản ánh trong công trình của các tác giả: E. I . Tikheeva, Ph. A.
Sookhina, L.P. Phêdôrencô… Trong các công trình nghiên cứu của mình các
tác giả đã nghiên cứu từng nội dung cụ thể của việc phát triển ngôn ngữ nhƣ:

đặc điểm phát triển vốn từ, ngữ âm, ngữ pháp và phát triển lời nói mạch
lạc… ở từng độ tuổi khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm phát triển
ngôn ngữ của trẻ ở từng độ tuổi, các tác giả đã đƣa ra một số quy luật phát
triển ngôn ngữ của trẻ mà cho đến bây giờ vẫn còn có ý nghĩa quan trọng đối
với việc lựa chọn nội dung, phƣơng pháp, biện pháp dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ
trƣớc tuổi học.
- Hƣớng nghiên cứu thứ ba là nghiên cứu các điều kiện bảo đảm sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ. Hƣớng nghiên cứu này đƣợc phản ánh trong công
trình của các tác giả sau đây: E. I. Tikheeva, Ph. A. Sookhina, Helen Gloeb,
Kak- hainơdich… Trên cơ sở các đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ, các
tác giả đã nghiên cứu những điều kiện cần thiết cho sự phát triển ngôn ngữ
nhƣ: bộ máy phát âm hoàn chỉnh, môi trƣờng ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ
của những ngƣời lớn xung quanh…, từ đó xây dựng nội dung, phƣơng pháp,
biện pháp và các bài tập phát triển ngôn ngữ cho trẻ trƣớc tuổi học. Đây là
hƣớng nghiên cứu đang diễn ra mạnh mẽ ở các nƣớc trên thế giới, đặc biệt là
trong những năm gần đây.
1.1.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ em rất
phong phú:

8
- Các tác giả đã nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em theo từng
giai đoạn 12 -24 tháng, 24 - 36 tháng, 3 tuổi, 4 - 5 tuổi, 1 - 3 tuổi, 3 - 5 tuổi
nhƣ tác giả Lƣu Thị Lan (1986), Bùi Việt Anh (1989)…
- Nghiên cứu sự phát triển các thành phần ngôn ngữ (vốn từ, ngữ pháp,
hiểu từ, ngôn ngữ mạch lạc) của trẻ em các độ khác nhau có thể kể đến công
trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Minh Huệ (1989), Hồ Minh Tâm
(1989), Dƣơng Diệu Hoa (1985), Lƣu Thị Lan (1996), Nguyễn Thị Mai
(1998), Đỗ Thị Xuyến (2000) Nguyễn Thị Oanh (2000), Bùi Thị Thanh
(2005)…

- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng tới sự phát triển ngôn ngữ trẻ em
(môi trƣờng sống, sức khoẻ, giáo dục gia đình…) qua công trình nghiên cứu
của Lƣu Thị Lan (1989), Võ Phan Thu Hƣơng (2006)…
- Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em nhà trẻ - mẫu giáo qua
các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc nhƣ Nguyễn Gia Cầu
(1986), Hà Thị Dần (1986), Đỗ Thị Xuyến (2000), Nguyễn Thị Băng Tâm
(2000), Nguyễn Xuân Khoa (2004), Nguyễn Thị Yến (2004), Nguyễn Thị
Xuân (2005), Nguyễn Thị Hằng (2008)…
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ trẻ em với các lĩnh vực khoa
học: văn học, giao tiếp, tƣ duy… Với các công trình nghiên cứu của các tác
giả Đào Thị Minh Huyền (1989), Hồ Lam Hồng (1993), Nguyễn Thạc (1995),
Nguyễn Xuân Thức (1997)…
Nhìn chung vấn đề ngôn ngữ của trẻ em đƣợc các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, nhiều lứa tuổi khác nhau. Có nghiên cứu về cấu
trúc đặc biệt của ngôn ngữ, có nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng đến quá
trình hình thành, phát triển ngôn ngữ, một số nghiên cứu khác lại nghiên cứu
biện pháp phát triển ngôn ngữ… Tất cả những nghiên cứu này đều chứng tỏ
rằng ngôn ngữ là một điều kiện hết sức quan trọng để trẻ tiếp xúc với môi
trƣờng mới lạ ở phổ thông, giúp trẻ lĩnh hội đƣợc những kiến thức mang tính

9
chất khoa học của các môn học ở phổ thông… Vì vậy việc nghiên cứu ngôn
ngữ của trẻ mẫu giáo về vốn từ, ngữ âm ngữ điệu, ngữ pháp, ngôn ngữ mạch
lạc,… là rất cần thiết. Để từ đó chúng ta có thể giúp trẻ có sự phát triển ngôn
ngữ một cách đầy đủ về các mặt. Đó cũng là phƣơng tiện cơ bản nhất, quan
trọng nhất để trẻ tiếp thu tri thức không chỉ môn Tiếng Việt mà còn tất cả các
môn khoa học khác của chƣơng trình lớp 1.
1.2. Một số vấn đề lí luận về ngôn ngữ và hiểu từ trong ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm chung về ngữ ngôn và ngôn ngữ
Ngữ ngôn bao gồm hệ thống các ký hiệu từ ngữ và hệ thống các quy tắc

ngữ pháp có chức năng là một phƣơng tiện giao tiếp, một công cụ của tƣ duy.
Ngữ ngôn là một hiện tƣợng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần
của xã hội, là một hiện tƣợng của nền văn hoá tinh thần của loài ngƣời. Ngữ
ngôn là đối tƣợng của khoa học về tiếng. Ngữ ngôn gồm 2 bộ phận là từ
vựng, các ý nghĩa của từ và ngữ pháp - là một hệ thống các quy tắc quy định
sự ghép các từ thành câu.
Bất cứ một thứ ngữ ngôn nào cũng chứa đựng hai phạm trù: phạm trù
ngữ pháp - là một hệ thống các quy tắc quy định việc thành lập từ và câu,
phạm trù này đặc trƣng cho từng thứ tiếng (ngữ pháp tiếng Việt khác ngữ
pháp tiếng Anh) và phạm trù logic - là quy luật, phƣơng pháp tƣ duy đúng đắn
của con ngƣời, nó chung cho cả loài ngƣời. Vì vậy, tuy dùng các thứ tiếng
(ngữ ngôn) khác nhau, các dân tộc khác nhau vẫn hiểu đƣợc nhau.
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn để giao
tiếp, để truyền đạt, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội lịch sử hoặc để kế
hoạch hoá hoạt động của mình.
Ngôn ngữ đặc trƣng cho từng ngƣời. Sự khác biệt cá nhân về ngôn ngữ
thể hiện ở cách phát âm, cấu trúc của câu, sự lựa chọn từ.
Tuy ngôn ngữ và ngữ ngôn khác nhau nhƣng chúng lại có quan hệ mật
thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau: không có một thứ tiếng (ngữ ngôn)

10
nào lại tồn tại và phát triển bên ngoài quá trình ngôn ngữ. Ngƣợc lại, quá trình
ngôn ngữ không thể có đƣợc nếu không dựa vào một thứ ngữ ngôn nhất định.
Ngôn ngữ của cá nhân làm phong phú ngữ ngôn của dân tộc. [16]
1.2.2. Chức năng cơ bản của ngôn ngữ
Ngôn ngữ có ba chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, ngôn ngữ là phƣơng tiện truyền đạt và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của loài ngƣời.
Kinh nghiệm lịch sử xã hội loài ngƣời đƣợc cố định lại và lƣu truyền
đƣợc từ đời này sang đờ khác phần lớn dƣới dạng ngôn ngữ. Thế hệ đi

trƣớc, thế hệ đi sau lĩnh hội những kinh nghiệm quý báu ấy biến thành vốn
liếng riêng cho bản thân cũng đều phải sử dụng ngôn ngữ làm phƣơng tiện
cơ bản nhất.
Chúng ta biết rằng, đầu tiên đứa trẻ không tự nhận thức đƣợc thế giới
xung quanh. Để thoả mãn nhu cầu nhận thức, trẻ đặt ra nhiều câu hỏi cho
ngƣời lớn và những ngƣời xung quanh. Và nhờ những câu trả lời đó mà trẻ
mở rộng dần về nhận thức những vấn đề tự nhiên, xã hội và con ngƣời. Về
phía ngƣời lớn, nếu muốn dạy trẻ điều gì đều phải sử dụng lời nói để giải
thích, hƣớng dẫn kèm theo hành động mẫu của ngƣời. Nếu không, hành động
của trẻ chỉ là bắt chƣớc mà không hiểu đƣợc tại sao phải nhƣ vậy.
Nhƣ vậy, nhờ có ngôn ngữ mà con ngƣời lĩnh hội đƣợc tri thức, kinh
nghiệm sống trong nền văn hoá nhân loại để tồn tại và phát triển.
Thứ hai, ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp cơ bản nhất của con ngƣời.
Ngƣời ta nói rằng, ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà con ngƣời
mới phát hiện ra cũng dùng ngôn ngữ để giao tiếp. Điều đó nói lên rằng, trong
giao tiếp mặc dù con ngƣời còn sử dụng các phƣơng tiện khác nhƣ các hành
động, cử chỉ, các dấu hiệu, ký hiệu khác nhau, kết hợp các âm thanh của âm
nhạc, kết hợp màu sắc của hội hoạ… nhƣng ngôn ngữ vẫn là phƣơng tiện giao
tiếp cơ bản nhất của con ngƣời.

11
So với ngôn ngữ nói thì ngôn ngữ cử chỉ nghèo nàn và hạn chế hơn.
Bởi lẽ có những cử chỉ, chỉ một số ngƣời hiểu với nhau, ý nghĩa của cử chỉ
nhiều khi không rõ ràng, dẫn đến chỗ ngƣời tạo ra cử chỉ với nghĩa này thì
ngƣời giao tiếp lại hiểu theo nghĩa khác. Những ký hiệu và dấu hiệu khác
nhau nhƣ tín hiệu đèn giao thông, tín hiệu hàng hải, chỉ đƣợc áp dụng trong
những phạm vi hạn chế chứ không phải là phƣơng tiện giao tiếp toàn xã hội.
Bản thân các dấu hiệu, ký hiệu đó muốn trở thành phƣơng tiện giao tiếp phải
dùng đến phƣơng tiện ngôn ngữ để giải thích. Ngay cả âm nhạc, hội hoạ, điêu
khắc cũng là những phƣơng tiện giao tiếp sinh động nhƣng vẫn bị hạn chế và

có tính phiến diện so với ngôn ngữ. Nó không thể truyền đạt khái niệm, quan
điểm mà chỉ khêu gợi đƣợc những hình ảnh, cảm xúc nhất định ở ngƣời nghe,
ngƣời xem. Còn ngôn ngữ có thể truyền đạt những thông tin, tƣ tƣởng, tình
cảm chính xác, rõ ràng và hoàn toàn xác định. Vì thế, không thể dùng những
phƣơng tiện trên làm phƣơng tiện giao tiếp cơ bản thay thế hoàn toàn cho
ngôn ngữ.
Nhờ có ngôn ngữ mà trong lao động, trong sinh hoạt con ngƣời có thể
dùng chúng làm phƣơng tiện để diễn đạt, làm cho ngƣời khác hiểu đƣợc tƣ
tƣởng, tình cảm, trạng thái, mong muốn, nguyện vọng của mình… Nhờ đó mà
con ngƣời hiểu biết lẫn nhau, có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên
nhiên, chinh phục xã hội, làm cho đời sống con ngƣời ngày càng phát triển.
Thứ ba, ngôn ngữ là phƣơng tiện của tƣ duy
Đã có quan điểm đồng nhất tƣ duy và ngôn ngữ, có ngƣời nói rằng: ý
tƣởng là ngôn ngữ không có âm thanh. Cũng có quan điểm tách rời tƣ duy và
ngôn ngữ, coi tƣ duy và ngôn ngữ hoàn toàn độc lập nhau. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác, tƣ duy và ngôn ngữ thống nhất với nhau. Sự khác nhau
giữa tƣ duy và ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: ngôn ngữ là vật chất còn tƣ duy là
tinh thần. Tất cả các đơn vị của ngôn ngữ nhƣ từ, âm, câu… đều là âm thanh
có cái thuộc tính vật chất nhƣ độ cao, độ dài.

12
Chức năng thể hiện tƣ duy của ngôn ngữ biểu hiện ở hai khía cạnh:
- Khía cạnh thứ nhất: Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ tƣởng,
không có từ nào, câu nào mà không biểu hiện một ý nghĩ, một tƣ tƣởng, một
khái niệm. Ngƣợc lại, không có ý nghĩ, tƣ tƣởng nào lại không tồn tại dƣới
dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tƣ tƣởng.
- Khía cạnh thứ hai: Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình
thành tƣ tƣởng. Mọi ý nghĩa, tƣ tƣởng chỉ trở nên rõ ràng khi đƣợc biểu hiện
bằng ngôn ngữ.
Nói tóm lại, ngôn ngữ và tƣ duy thống nhất nhƣng không đồng nhất với

nhau. Chức năng ban đầu của ngôn ngữ là giao tiếp, là phƣơng tiện truyền đạt,
lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử loài ngƣời. Đồng thời, ngôn ngữ còn có
chức năng của tƣ duy, ngôn ngữ là công cụ để biểu đạt kết quả của tƣ duy và
ngôn ngữ cũng tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành các tƣ tƣởng trong
quá trình tƣ duy. [12]
1.2.3. Cấu trúc của ngôn ngữ
Ngôn ngữ đƣợc cấu thành từ ba bộ phận cơ bản: từ vựng, ngữ âm và
ngữ pháp.
- Từ: là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức,
là vật liệu xây dựng không thể thiếu đƣợc của ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung
tâm của hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa.
Xu hƣớng hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận là hệ thống từ loại
tiếng việt có thể sắp xếp thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Gồm các từ loại danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.
Nhóm 2: Gồm các từ loại định từ, phó từ, kết từ, tình thái từ.
- Ngữ âm: là mặt âm thanh, phát âm của ngôn ngữ. Ngữ âm có mặt tự
nhiên và xã hội của nó.

13
+ Mặt tự nhiên của ngữ âm: là những thuộc tính về âm học (cao độ,
trƣờng độ…) và những thuộc tính về cấu âm (hoạt động của bộ máy hô hấp và
chuyển động của các cơ quan phát âm nhƣ môi, lƣỡi tạo ra một âm nào đó).
+ Mặt xã hội của ngữ âm: hay còn gọi là chức năng của ngữ âm là
những quy định, những giá trị mà cộng đồng ngƣời sử dụng chung một ngôn
ngữ gán cho các đặc trƣng âm thanh.
- Ngữ pháp: là hình thức biến đổi từ, các mô hình kết hợp từ, hay nói
cách khác: ngữ pháp chính là cách thức và phƣơng tiện cấu tạo từ thành câu.
Ngữ pháp bao gồm có từ pháp và cú pháp. Từ pháp là các quy tắc biến
hình của từ, các phƣơng thức cấu tạo từ và các đặc tính ngữ pháp của từ loại.
Còn cú pháp chỉ những quy tắc kết hợp từ, nhóm từ thành các kết cấu cú

pháp, để ngôn ngữ trở thành phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất, cơ bản
nhất của loài ngƣời. [12]
Tóm lại, ba bộ phận của ngôn ngữ là từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp có
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên ngôn ngữ của con ngƣời. Phát triển ngôn
ngữ là phát triển đồng thời cả ba bộ phận cấu thành trên.
1.2.4. Ngôn ngữ và lời nói
Trong tâm lý học, ngôn ngữ đƣợc hiểu là một hệ thống ký hiệu từ ngữ
đặc biệt đƣợc dùng làm phƣơng tiện giao tiếp và là công cụ của tƣ duy. So với
các hệ thống ký hiệu khác, ngôn ngữ đƣợc coi là một hệ thống ký hiệu đặc
biệt, bởi các đối tƣợng trong hiện thực khách quan muốn trở thành hệ thống
ký hiệu phải đƣợc hệ thống ký hiệu từ ngữ tiếp sức. Với số lƣợng âm vị nhất
định trong hệ thống ký hiệu, từ ngữ đã tạo cho con ngƣời hàng triệu lời nói
khác nhau.
Hoạt động lời nói là quá trình con ngƣời sử dụng ngôn ngữ để truyền
đạt và tiếp cận kinh nghiệm xã hội lịch sử, hay thiết lập sự giao tiếp, thiết lập
kế hoạch hành động.

14
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói là mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng. Nếu ngôn ngữ đƣợc coi là sản phẩm, là ký hiệu chung cho cả một
cộng đồng thì lời nói là sản phẩm riêng biệt trong sự phát triển của một cá
nhân. Ngôn ngữ có tính chất khái quát, ổn định trong một thời gian dài còn lời
nói luôn có tính chất cụ thể, nhất thời, và luôn luôn thay đổi. Nếu ngôn ngữ là
hệ thống cấu trúc thì lời nói là sự vận dụng, sử dụng hệ thống cấu trúc vào
hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. [19]
Tuy ngôn ngữ và lời nói có khác nhau song chúng có quan hệ chặt chẽ,
không tách rời nhau. Không có ngôn ngữ thì không có lời nói. Ngƣợc lại, lời
nói là điều kiện để ngôn ngữ đƣợc xác lập, đƣợc phát triển. Không có lời nói
thì ngôn ngữ luôn là cái gì đó trừu tƣợng, trống rỗng.
1.2.5 Các vấn đề về từ và nghĩa của từ

1.2.5.1 Từ là gì?
Từ là đơn vị của ngôn ngữ. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ.
Dƣới góc độ ngữ pháp học thì từ đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
“Từ” là một đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa, có tính độc lập tự do xuất hiện
trong lời nói và có chức năng cú pháp là thành phần của câu hay là câu của
một thành phần.
Từ là một tín hiệu ngôn ngữ bao gồm các phần âm thanh và ý nghĩa.
Hai phần này có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau để biểu hiện ý nghĩa
của con ngƣời.
Từ không chỉ biểu thị các sự vật hiện tƣợng riêng lẻ mà biểu thị cả một
nhóm sự vật hiện tƣợng tập hợp lại theo một dấu hiệu nhất định. Do đó từ có
tính chất khái quát. [20]
1.2.5.2 Nghĩa của từ
Nghĩa của từ là mặt bên trong của từ, là cái mấu chốt nhất của tƣ duy
ngôn ngữ. Nếu từ mà không có nghĩa thì không phải là từ mà chỉ là âm
thanh trống rỗng. Ý nghĩa của từ là mối quan hệ của từ với ý thức của con

15
ngƣời về các sự vật và hiện tƣợng. Cơ sở để xây dựng ý nghĩa của từ là
biểu tƣợng và khái niệm, đó là hình thức phản ánh của con ngƣời về sự vật
hiện tƣợng xung quanh.
Đối với từng ngƣời từ có nghĩa và ý. Ý của từ là quan hệ của từ với
từng ngƣời hoặc nhóm ngƣời nào đó. Ý của từ phản ánh động cơ và mục đích
hoạt động của họ. Ý cùng với nghĩa của từ phản ánh lối sống, phản ánh mức
độ phát triển nhân cách của con ngƣời. Ở từng ngƣời, nghĩa của từ phát triển
tƣơng ứng với trình độ học vấn của ngƣời đó.
Nghĩa của từ chỉ thể hiện khi sử dụng các từ trong lời nói, nó không có
tính ổn định, vì bản thân mối quan hệ của từ với các sự vật, hiện tƣợng có thể
thay đổi tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể. [20]
Nhƣ vậy, có thể nói rằng: Từ chỉ có giá trị khi nó có nghĩa, một từ

không có nghĩa thì đó là một âm trơ.
1.2.6 Vấn đề hiểu từ trong ngôn ngữ
Để có thể hoạt động và giao tiếp một cách chủ động trong môi trƣờng
xã hội, con ngƣời phải có một vốn từ nhất định, nắm vững ngữ âm và các qui
tắc ngữ pháp. Do vậy việc hiểu nghĩa của từ vô cùng quan trọng và là hoạt
động cơ bản trong hoạt động ngôn ngữ. Hiểu đƣợc từ giúp chúng ta lĩnh hội
đƣợc các tri thức của nhân loại, biểu đạt những suy nghĩ, tình cảm của mình
trong giao tiếp, qua đó để hiểu biết lẫn nhau.
Hiểu từ là quá trình lĩnh hội khái niệm trong từ, đƣa cái mới, cái chi tiết
vào trong vốn kinh nghiệm.
Mức độ hiểu từ có thể khác nhau, tùy theo mức độ phức tạp của hệ
thống các mối liện hệ dùng làm cơ sở để hiểu, có thể chia làm bốn mức độ
hiểu từ.
Mức độ 1: Với mức độ này mới chỉ gọi đƣợc tên của sự vật, hiện
tƣợng; nêu đƣợc dấu hiệu bên ngoài nhƣng không vạch ra đƣợc dấu hiệu bản
chất. Ví dụ: Ngƣời lớn đƣa bức tranh vẽ các con vật và hỏi trẻ: “Cháu chỉ cho

16
cô đâu là con chó”. Cháu chỉ vào con chó trong tranh. Ngƣời lớn hỏi tiếp:
“Con chó nó nhƣ thế nào?”. Cháu trả lời: “ Nó có cái đuôi dài và hai mắt tròn
xoe”… Nhìn chung ở mức độ 1 là mức độ thấp, trẻ chỉ lặp lại các mối liên hệ
đã đƣợc thành lập nhƣng chỉ là các mối liên hệ bên ngoài, ngẫu nhiên, không
nêu đƣợc các dấu hiệu bản chất. Ở mức độ này trẻ mới chỉ gọi tên của sự vật,
hiện tƣợng và chỉ hình ảnh của sự vật, hiện tƣợng đúng với tên gọi của chúng.
Mức độ 2: Hiểu từ ở mức độ này đã đi vào thuộc tính bản chất nhƣng
chƣa đúng với những nét bản chất của từ vì vậy dẫn đến hiểu từ ở mức quá
rộng hoặc quá hẹp. Từ đó dễ dẫn đến vận dụng sai lầm hoặc chƣa biết vận
dụng. Ví dụ: Con chó là con vật nhƣ thế nào? Trẻ trả lời: con chó nhà cháu nó
có chân, có tai, có đuôi, hay ăn vụng thức ăn…(chƣa nêu đƣợc thuộc tính bản
chất nhất của đối tƣợng, sự vật đƣợc nêu trong từ)

Mức độ 3: Hiểu những thuộc tính bản chất của đối tƣợng đƣợc nêu
trong từ nhƣng dựa trên tài liệu cảm tính phong phú, do đó mới hiểu một cách
chung chung, trừu tƣợng. Ví dụ, trẻ trả lời câu hỏi: Chó là gì? Chó là loài
động vật
Mức độ 4: Hiểu sâu sắc toàn diện và có hệ thống thể hiện ở chỗ: Xác
lập đƣợc mối liên hệ giữa tri thức mới với tri thức đã có. Ở mực độ này cá
nhân đã hiểu đƣợc dấu hiệu bản chất nhất, nắm đƣợc các biểu hiện đa dạng
của khái niệm và vận dụng thành thạo. Ví dụ: bút có nhiều loại, ngoài loại để
viết ra còn có loại để vẽ bằng lông, bút dạ, bút xóa, bút viến lên bản gỗ… [20]
1.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3-6 tuổi)
Trong quá trình bồi dƣỡng giáo dục thế hệ mầm non tƣơng lai thì một
trong những việc làm cần thiết đầu tiên là giúp trẻ nắm vững và sử dụng thành
thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phƣơng tiện quan
trọng nhất giúp trẻ lĩnh hội nền văn hoá dân tộc, giúp trẻ tƣ duy, phát triển ý
thức và giao lƣu với mọi ngƣời xung quanh. Từ 3 tuổi đến 5 tuổi là khoảng
thời gian không dài, nhƣng đối với sự phát triển ngôn ngữ lại có thay đổi rất

17
quan trọng, bởi đây là thời kỳ phát cảm của sự phát triển ngôn ngữ. Do đó sự
phát triển ngôn ngữ ở thời kỳ này diễn ra với tốc độ nhanh, cƣờng độ mạnh,
nhịp độ đều. Vì vậy mà đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ em đã sử dụng ngôn ngữ
(tiếng mẹ đẻ), một cách thành thạo trong hoạt động nhận thức thế giới xung
quanh, trong giao tiếp với mọi ngƣời, trong điều chỉnh hành vi về nhận thức,
tình cảm, hành vi, phục vụ cho mục đích giáo dục mầm non ở nƣớc ta. Trong
những năm gần đây, vấn đề ngôn ngữ trẻ em đã đƣợc quan tâm. Nhiều công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả đã đƣa ra các số liệu, nhận xét, kết luận
khoa học đáng quý trên nhiều mặt khác nhau về sự hình thành và đặc điểm
phát triển ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo. Nhìn chung sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ em đƣợc phát triển theo các hƣớng từ vựng, ngữ âm, ngữ
pháp và phƣơng pháp thực dụng (đƣợc hiểu là khả năng sử dụng ngôn ngữ

một cách thích hợp trong các tình huống giao tiếp xã hội của trẻ em với mọi
ngƣời trong xã hội).
Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ em mẫu giáo, đƣợc phát triển trên
cơ sở các thành tựu phát triển ngôn ngữ của trẻ tuổi nhà trẻ (1-3 tuổi). Chính
tính tích cực và hứng thú trong hoạt động với đồ vật, cùng việc mở rộng giao
tiếp với mọi ngƣời xung quanh bằng ngôn ngữ đã quyết định quá trình hình
thành phát triển ngôn ngữ của trẻ lên 3. Cuối 3 tuổi, trẻ em đã nghe và hiểu
lời nói của ngƣời lớn vƣợt ra khỏi tình huống cụ thể. Lúc này trẻ đã biết sử
dụng ngôn ngữ nhƣ là phƣơng tiện cơ bản để nhận thức thế giới xung quanh.
Đồng thời, trẻ cũng đã phần nào nắm đƣợc mặt ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ.
Tuy vậy, ở giai đoạn lứa tuổi này, việc phát âm, hiểu nghĩa của từ và lĩnh hội
cấu trúc ngữ pháp, cũng nhƣ việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp hoàn cảnh giao
tiếp cụ thể của trẻ vẫn chƣa thực sự hoàn chỉnh. Chúng sẽ đƣợc tiếp tục hoàn
thiện qua giai đoạn lứa tuổi trẻ em mẫu giáo (3-6 tuổi). [20]
Ở lứa tuổi mẫu giáo, do nhu cầu giao tiếp của trẻ ngày càng phát triển
mạnh, phạm vi giao tiếp của trẻ đƣợc mở rộng cho nên trẻ em trở nên độc lập

18
hơn, vƣợt ra khỏi khuôn khổ những liên hệ gia đình chật hẹp và bắt đầu giao
lƣu rộng rãi hơn với những ngƣời khác, nhất là bạn cùng tuổi. Việc mở rộng
phạm vi giao tiếp và phức tạp của hoạt động đòi hỏi trẻ phải nhanh chóng
hoàn thiện các phƣơng tiện giao tiếp, trong đó ngôn ngữ là chủ yếu. Và một
điều dễ nhận thấy là giữa các độ tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ phát triển
khác biệt nhau về tính chất, vốn từ, ngữ pháp, ngữ âm cũng nhƣ khả năng
hiểu từ.
1.3.1 Các quy luật lĩnh hội tiếng mẹ đẻ của trẻ
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, chủ yếu là phát triển ngôn ngữ
nói (lời nói) – bao gồm phát triển về vốn từ, phát triển ngữ âm, ngữ pháp,…
Các tác giả trong và ngoài nƣớc đã nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của trẻ
trƣớc tuổi học và rút ra một số quy luật chung nhƣ sau:

Đối với trẻ trước tuổi học, ngôn ngữ nảy sinh và phát triển không phải
vì bản thân nó mà vì những nhu cầu khác. Đó là nhu cầu nhận thức thế giới
xung quanh để thích ứng với nó, nhu cầu tự khẳng định mình bằng cách bắt
chƣớc (tập làm) ngƣời lớn và nhu cầu tham gia vào các hoạt động… Việc
thỏa mãn các nhu cầu trên sẽ trở thành điều kiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Chính vì vậy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trƣớc tuổi học mang những nét
đặc thù riêng [13]
Chúng ta biết rằng, đứa trẻ bị điếc không thể học nói đƣợc và trẻ không
nghe ngƣời lớn nói thì cũng không thể học nói đƣợc. Trẻ học nói nhờ vào tai
nghe và khả năng bắt chước của mình [13]. Bằng chứng là trƣờng hợp những
đứa trẻ ở Ấn Độ bị thất lạc và sống trong rừng với sói, khi đƣợc tìm thấy thì
những đứa trẻ đó không biết nói. Trẻ em bắt chƣớc cách phát âm, bắt chƣớc
các hình thức khẩu ngữ của ngƣời lớn kể cả ngữ điệu giọng nói… Vì vậy mà
lời nói của trẻ ở mức độ nào đó phản ánh màu sắc ngôn ngữ của ngƣời lớn
sống xunh quanh trẻ. Lƣu Thị Lan nhận định rằng: “Những trẻ là con bác sĩ
thƣờng hay nói các từ ngữ bác sĩ hay nói nhƣ: sốt cao, viêm họng, tiêm,

19
khám… còn những đứa trẻ là con ngƣời bán hàng biết sớm hơn những đứa trẻ
khác các từ nhƣ: đắt, rẻ, ế, vốn…” [10]. Trẻ em cũng bắt chƣớc cả ngữ điệu
và sắc thái biểu… của lời nói. Nếu trong gia đình bố mẹ, ông bà, anh chị và
cô giáo của trẻ nói năng dịu dàng, nhẹ nhàng, tình cảm,… thì lời nói của trẻ
cũng trở nên tình cảm, nhẹ nhàng khi nói chuyện với mọi ngƣời. Ngƣợc lại,
nếu mọi ngƣời trong gia đình và những ngƣời xung quanh trẻ ăn nói cộc lốc,
bố bã, thiếu văn hóa, ngữ điệu gắt gỏng. không tình cảm… thì lời nói của trẻ
cũng mang những đặc điểm đó.
Nhƣ vậy ngôn ngữ của trẻ có đƣợc chính là bắt chƣớc từ ngôn ngữ của
ngƣời lớn. Do vậy ngôn ngữ của ngƣời lớn xung quanh có ảnh hƣởng lớn đến
ngôn ngữ của trẻ. Nó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển lời nói của
trẻ. Xuất phát từ đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mang quy luật này mà

một trong những nhiệm vụ phát triển lời nói cho trẻ đƣợc đặt ra là xây dựng
môi trƣờng ngôn ngữ mang tính sƣ phạm và chuẩn mực, đặc biệt là môi
trƣờng ngôn ngữ gia đình và ở trƣờng, lớp mẫu giáo. Tuy nhiên, cũng không
nên tuyệt đối hóa vai trò của việc trẻ bắt chƣớc ngôn ngữ ngƣời lớn đối với
quá trình chiếm lĩnh ngôn ngữ của trẻ. Trẻ bắt chƣớc ngƣời lớn để sử dụng
tiếng mẹ đẻ chứ trẻ chƣa có đủ khả năng để sử dụng tiếng mẹ đẻ nhƣ ngƣời
lớn đúng nhƣ Lƣu Thị Lan nhận định: “Trẻ bắt chƣớc ngôn ngữ của ngƣời lớn
là để đạt tới một cái gì đó cho sự phát triển khả năng ngôn ngữ của trẻ… Còn
yếu tố trung tâm của việc học nắm ngôn ngữ của trẻ là khả năng và các thao
tác tổng hợp hóa [10]
Khi bàn về sự tiếp thu tiếng mẹ đẻ ở trẻ em và việc dạy nói cho trẻ, tác
giả Lƣu Thị Lan cũng nhận định: “Quá trình học nói của trẻ được diễn ra
cùng với sự hoàn thiện dần của sự phát triển sinh lý và tâm lý trẻ”. Thật vậy,
sự phát triển đúng đắn và không chậm trễ cơ chế vận động ngôn ngữ có tác
dụng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Đứa trẻ nào sinh ra cũng có cơ
chế phát âm, nhƣng đó chƣa phải là điều kiện đủ để trẻ nói đƣợc. Muốn sử

×