Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tóm tắt luận án nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của một số nhóm nhập cư đến thành phố vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.76 KB, 37 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN XUÂN PHỒN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA
MỘT SỐ NHÓM NHẬP CƯ ĐẾN THÀNH PHỐ VINH
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 62 22 02 40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học Xã hội
Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Vũ Kim Bảng
Phản biện 1: GS. TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 2: PGS. TS. Hà Quang Năng
Phản biện 3: PGS. TS. Trần Thị Trung Toàn
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học Viện họp
tại Học Viện Khoa Học Xã hội
Vào hồi …….giờ…….phút, ngày … tháng…… năm ………
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện :

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Phan Xuân Phồn: Vai trò của phương ngữ đối với việc giảng dạy từ ngữ ở trường phổ thông. (Phương ngữ miền
Trung- Tiếng Việt IV) (Bài báo đăng tải trên Ngữ học trẻ năm 1998 của Hội ngôn ngữ học Việt Nam, trang từ 71-
75).
2. Phan Xuân Phồn: Vận dụng trò chơi vào trong tiết dạy tiếng Việt cho học sinh cấp tiểu học. trang từ 87-89.( Bài báo
đăng tải trên Ngữ học trẻ năm 2000 ).
3. Phan Xuân Phồn (12/2008), “Phương thức cấu tạo từ trong phương ngữ Nghệ Tĩnh” Tạp chí giáo dục , số 12, tr54-
56.
4. Phan Xuân Phồn (11/2011), “Đặc điểm thanh điệu trong cách phát âm của người Nghi Lộc” Tạp chí giáo dục, số 12 ,
tr68-70.


5. Phan Xuân Phồn (12/2012), “Sự du nhập tiếng nói của các cư dân nơi khác vào thành phố Vinh - Bến Thuỷ trước
Cách mạng”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống , số 12, tr31-35.
6. Phan Xuân Phồn (03/2013), “Về các âm chính ɔ và o trong tiếng tiếng địa phương Nghệ Tĩnh (Qua khảo sát cư dân
thành phố Vinh và các vùng lân cận khác)”,Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống , số 03, tr17-19.

MỞ ĐẦU
1. Lý do mục đích chọn đề tài
1.1. Căn cứ vào lịch sử phát triển của thành phố cũng như vai trò, vị trí của nó trong khu vực, có thể nói Vinh là
địa phương đại diện cho sự hội tụ đầy đủ những nét đặc thù nhất của vùng Nghệ An nói riêng và của vùng Bắc Trung
Bộ nói chung, trong đó ngôn ngữ cũng không phải là một ngoại lệ.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thành phố trong thời kỳ hội nhập, Vinh trở thành trung tâm hội tụ của các cư dân
tập trung đến từ nhiều vùng miền khác nhau đến học tập, làm ăn, sinh sống. Điểm này đã làm cho phương ngữ Nghệ
Tĩnh nói chung và tiếng Vinh nói riêng không còn giữ được những nét cổ xưa mà ngày càng phong phú, đa dạng và
phức tạp.
1.2. Chuyển cư về các trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội, các cộng đồng chuyển cư phải tìm cách thích nghi với
môi trường sống mới. Sự thích nghi có lẽ sẽ diễn ra trên nhiều mặt và ngôn ngữ không phải là một ngoại lệ. Sự biến đổi
này phản ánh một khuynh hướng tất yếu trong những hành vi xã hội của con người để thích ứng với một môi trường
mới.
1.3. Để hòa nhập vào cộng đồng ngôn từ của cư dân Vinh, dù có ý thức hay không có ý thức về sự biến đổi thì
những người nhập cư vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng, thậm chí học theo những hình thái ngôn từ của cư dân Vinh.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của một số nhóm nhập cư từ Nghi
Lộc đến thành phố Vinh, nghiên cứu những mặt biểu hiện hoạt động của lời nói. Đề tài đặt ra vấn đề quan sát quá
trình biến đổi ngôn từ của cư dân Nghi Lộc về định cư và sinh sống ở Vinh, nhằm chỉ ra xu hướng bảo lưu và biến
đổi về mặt lời nói của nhóm chuyển cư do tác động của các nhân tố xã hội.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nằm trong vùng phương ngữ Trung, một vùng phương ngữ có vị trí quan trọng đối với nghiên cứu lịch sử
tiếng Việt. Bộ mặt phương ngữ Nghệ Tĩnh hiện lên qua những nét khái quát phác thảo trong công trình nghiên cứu:
"Tiếng Việt trên mọi miền đất nước" của Hoàng Thị Châu, qua "Một vài nhận xét bước đầu về ngữ âm và ngữ
nghĩa từ địa phương Nghệ Tĩnh" của M.B. Emeneau, hay "Thử tìm hiểu giọng nói chung cả nước" của Bùi Văn
Nguyên. Gần đây đã có một số công trình đi sâu nghiên cứu sự biến đổi của ngôn ngữ trong thời kỳ hội nhập;

1
Nghiên cứu sự biến đổi và bảo lưu ngôn từ của các cộng đồng cư dân từ các phương ngữ khác đến Hà Nội của tác
giả Trịnh Cẩm Lan; Nghiên cứu "Đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nghệ Tĩnh" của tác giả Nguyễn Hoài Nguyên
(luận án TS 2003); Nghiên cứu "Từ và ngữ nghĩa của từ trong phương ngữ Nghệ Tĩnh" - 2008 của tác giả Hoàng
Trọng Canh song nghiên cứu, tìm hiểu sự biến đổi ngôn ngữ của các cư dân nhập cư đến thành phố Vinh cho đến
nay chưa có một công trình nào đề cập tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của một số nhóm nhập cư từ Nghi Lộc
đến thành phố Vinh.
Chúng tôi chọn những cư dân huyện này vì: thứ nhất từ góc độ xã hội, cộng đồng cư dân huyện Nghi Lộc là
một cộng đồng lớn và có thể nói là lớn nhất so với các cư dân cộng đồng khác ở Vinh. Lý do thứ hai từ góc độ
ngôn ngữ, tiếng Nghi Lộc cho tới nay còn bảo lưu được nhiều yếu tố cổ trong các thổ ngữ tiếng Việt, sự khác biệt
giữa tiếng Nghi Lộc với tiếng Vinh nói riêng và ngôn ngữ phổ thông nói chung là rất dễ nhận thấy và khá điển
hình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu những đặc điểm ngữ âm trong hoạt động nói năng (bảo lưu hay biến đổi) của các nhóm
người Nghi Lộc đến cư trú tại Vinh bị những nhân tố xã hội khác nhau chi phối.
3.2.2. Sự biến đổi ngữ âm đó thể hiện ở các tiểu hệ thống:
- Hệ thống phụ âm đầu
- Hệ thống vần cái
- Hệ thống thanh điệu.
4. Mục đích nghiên cứu
4.1. Luận án là sự vận dụng những cơ sở lý thuyết và phương pháp của ngôn ngữ học xã hội để khảo sát sự
biến đổi ngôn ngữ, đặc biệt là sự biến đổi về mặt ngữ âm của cộng đồng cư dân Nghi Lộc nhập cư tới thành phố
Vinh theo những độ tuổi khác nhau.
2
4.2. Kết quả nghiên cứu của luận án là một minh chứng cho quá trình biến đổi, hội tụ và phân ly trong tiếng Việt
qua một vùng phương ngữ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa khung lý thuyết phục vụ cho luận án.
- Khảo sát các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến sự biến đổi ngôn ngữ của một số nhóm nhập cư đến thành phố
Vinh.
- Khảo sát sự biến đổi các yếu tố chiết đoạn (bảo lưu và biến đổi).
- Khảo sát sự biến đổi các yếu tố siêu đoạn ( bảo lưu và biến đổi).
- Cộng đồng cư dân Nghi Lộc đến định cư tại Vinh sử dụng các biến thể đó như thế nào trong lời nói? Loại
biến thể nào được sử dụng nhiều, loại nào được sử dụng ít
- Việc sử dụng đó có biến đổi gì so với khi họ chưa du nhập vào địa giới của Vinh? cái gì biến đổi, cái gì còn
giữ lại.
- Việc sử dụng các biến đổi ngôn ngữ có liên quan gì đến biến thể xã hội, đến trình độ văn hoá, tuổi tác, thời
gian định cư hay không ?
- Tiến hành phân tích, đánh giá để xác định mức độ biến đổi, mức độ ảnh hưởng.
6. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu
a, Phương pháp điều tra điền dã
b, Phương pháp miêu tả
c, Phương pháp so sánh đối chiếu
d, Phương pháp phân tích ngữ âm thực nghiệm
6.2.Tư liệu nghiên cứu
(1) Thu thập tư liệu các nhân tố xã hội (xem bảng hỏi)
(2) Thu thập tư liệu nói năng của các nhóm chuyển cư (xem bảng từ)
(3) Tư liệu ghi âm kín lời nói tự nhiên
3
(4)Tư liệu phỏng vấn trực tiếp bao gồm:
+ Tư liệu ghi âm giọng đọc của các CTV đối với các đoạn văn, các bảng từ được thiết kế sẵn theo định hướng
điều tra (4 bảng từ ở phần đầu luận án).
+ Tư liệu ghi âm những câu trả lời phỏng vấn trực tiếp theo định hướng điều tra.
(5) Tư liệu phỏng vấn gián tiếp gồm:
Để thu được các nguồn tư liệu này, chúng tôi đã chọn được 72 CTV thuộc cộng đồng NGL tại Vinh và 72
người gốc Nghi Lộc, hiện vẫn đang sống ở NGL để làm đối chứng.

7. Xử lý tư liệu
a, Tư liệu các nhân tố xã hội bằng phương pháp thống kê, phân loại
b, Tư liệu ngôn ngữ nói bằng phương pháp phân tích ngữ âm thực nghiệm.
c, Chương trình phân tích ngữ âm Praat2000:
d, Màn hình dưới hiển thị đường nét của tần số cở bản (F
0
) được vẽ bằng các đường nét khác nhau.
e, Nguồn tư liệu từ các máy ghi âm chuyên dụng được nghe đi nghe lại để thẩm nhận âm thanh (đối với những
âm vị siêu đoạn tính) và để xác định các biến thể được sử dụng đối với các âm vị đoạn tính.
f, Tất cả các tư liệu thu được (bao gồm cả tư liệu từ phiếu điều tra) được nhập vào chương trình phần mềm
phân tích dữ liệu để xử lý.

4
8. Những đóng góp mới của luận án
8.1. Luận án đã chứng minh được rằng các cư dân khi chuyển vùng phương ngữ thì ngôn từ của họ, qua thời
gian, sẽ biến đổi để thích nghi với môi trường mới
8.2. Luận án sẽ góp phần chứng minh tính đúng đắn trong lý thuyết về biến thể của ngôn ngữ học xã hội, đó là
các phương ngữ mạnh hay các yếu tố của phương ngữ mạnh thường có xu hướng lấn át các phương ngữ yếu hay
các yếu tố của phương ngữ yếu.
8.3. Luận án còn góp một phần nhỏ để giải quyết một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra hiện nay, đó là: cách
dùng ngôn từ trong giao tiếp, trong các văn bản, cách phát âm trong nhà trường; cách phát âm, cách đọc trên các
phương tiện thông tin đại chúng ở thổ ngữ Vinh.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm có 3 chương với các nội dung chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Sự biến đổi các yếu tố chiết đoạn của một số nhóm nhập cư từ Nghi Lộc tới thành phố Vinh
Chương 3: Sự biến đổi các yếu tố siêu đoạn của một số nhóm nhập cư từ Nghi Lộc tới thành phố Vinh
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Dẫn nhập
1.2. Phương ngữ - sự biểu hiện của tính đa dạng ngôn ngữ
* Với tư cách là biến thể của một ngôn ngữ, phương ngữ thường được dùng trong một phạm vi địa lí hay một
phạm vi xã hội nhất định. Có những phương ngữ được dùng trong phạm vi địa lý - xã hội.
* Một phương ngữ cụ thể nào đó không hoàn toàn độc lập mà phải được xem xét trong mối quan hệ giữa bản
thân nó với ngôn ngữ mà nó là biến thể và với cả những phương ngữ khác cùng là biến thể của ngôn ngữ chung đó.
5
* Về năng lực hành chức trong một xã hội nào đó thì chức năng của phương ngữ bao giờ cũng hẹp hơn ngôn
ngữ toàn dân.
1.3. Phương ngữ thành thị - một vài đặc điểm
1.3.1. Khái niệm thành thị
1. Thành thị như một tổ chức xã hội
2. Thành thị như một tệ nạn
3. Thành thị như một lối sống
1.3.2. Thành thị trong sự so sánh với nông thôn
Những khác biệt giữa hai loại hình không gian xã hội đó được xác định dựa trên: 1) Cơ cấu tổ chức xã hội; 2)
Trình độ phát triển; 3) Những đặc điểm về lối sống.
1.4. Về cách hiểu thuật ngữ ngôn ngữ thành thị (langue urbane)
Phương ngữ thành thị (urban dialect) là một thuật ngữ đã được sử dụng từ lâu trong phương ngữ học để gọi
biến thể của một ngôn ngữ nào đó ở khu vực thành thị.
Peter Trudgill (1974) trong “Những vấn đề ngôn ngữ học xã hội” cũng đề cập đến một số phạm vi nghiên cứu
của phương ngữ học.
Werner F. Leopold (1970) khi nói đến vấn đề tiếp xúc và hòa nhập giữa các phương ngữ, ông cũng đề cập đến
sự hòa nhập giữa phương ngữ thành thị và phương ngữ nông thôn nhờ yếu tố con người(chủ yếu là sự di dân).
Ở Canada, Wardhaugh (1990) khi bàn đến những vấn đề liên quan đến phương ngữ có đưa ra sự phân biệt giữa
hai thuật ngữ: Phương ngữ (dialect) và thổ ngữ (patois).
Keith Walter (1990), trong một chuyên luận về phương ngữ học [108] có riêng một phần lớn viết về phương
ngữ thành thị.
Ở Việt Nam, Hoàng Thị Châu cũng nói đến một vài đặc điểm của phương ngữ thành thị. Theo bà: “Ngôn ngữ
ở các thành phố, các thị xã thường là cái cầu nối giữa ngôn ngữ văn học với các phương ngữ.” Một thành phố bất

kỳ, dù lớn hay nhỏ, thì cũng là nơi hội tụ cư dân từ nhiều vùng khác nhau.
6
Như vậy, các nhà phương ngữ học trong và ngoài nước đều có chung một cách nhìn nhận về sự tồn tại phương
ngữ thành thị và đặc điểm của nó thường là một hình thái ngôn ngữ có nhiều đặc điểm gần với ngôn ngữ của toàn
dân tộc.
1.5. Cách tiếp cận phương ngữ thành thị
Phương ngữ học thành thị với đối tượng là các biến thể ngôn ngữ và xã hội ở khu vực thành thị - nơi hội tụ và
thu hút dân cư từ nhiều vùng miền khác nhau - cũng ra đời cùng với những thay đổi có tính chất cách mạng trong
ngôn ngữ học để tạo nên một trường phái mới, một cách tiếp cận mới với đối tượng chung là lời nói chứ không
phải ngôn ngữ nữa. Có thể nói, nếu phương ngữ học nông thôn nghiên cứu phương ngữ chủ yếu dưới góc độ địa lý
thì phương ngữ học thành thị nghiên cứu phương ngữ chủ yếu dưới góc độ xã hội.
7
1.6. Ngôn ngữ thành thị như một lối giao tiếp
Quan niệm về phương ngữ thành thị, nhìn chung các nhà nghiên cứu đã thống nhất ở một số đặc điểm nổi bật
sau :
- Là một hình thái cao có phương ngữ (H: hight) trong sự tương quan đối lập với hình thái thấp (L:low) là
phương ngữ nông thôn; gần với ngôn ngữ toàn dân, có thể coi là bán phương ngữ.
- Phương ngữ thành thị là cầu nối giữa ngôn ngữ văn học và phương ngữ.
- Phương ngữ thành thị thường tiến bộ hơn phương ngữ nông thôn.
- Phương ngữ thành thị góp phần vào việc đẩy mạnh quá trình thống nhất ngôn ngữ.
- Mọi sự tiến bộ, cách tân trong ngôn ngữ đều bắt đầu từ thành thị lớn rồi lan truyền đến thành thị nhỏ sau đó
mới đến nông thôn.
1.7. Một số khuynh hướng nghiên cứu
Ngôn ngữ thành thị đã được tập trung nghiên cứu theo 3 hướng sau đây:
1) Trước hết là đời sống ngôn ngữ ở các thành phố đa ngữ (chủ yếu ở các nước đang phát triển), với quan hệ
của các ngôn ngữ cùng vai trò, vị thế của chúng ở môi trường đa ngữ.
2) Tiếp đó là những nghiên cứu hướng vào việc tìm hiểu đặc trưng sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng xã hội
thành thị trong việc tổ chức không gian xã hội của các tiểu cộng đồng, các nhóm xã hội, và vấn đề thích nghi ngôn
ngữ trong quá trình giao tiếp trong bối cảnh thành thị (căn cứ trên việc phân tích diễn ngôn).
3) Một mảng đề tài nữa cũng rất được chú trọng đó là sử dụng ngôn từ của lớp trẻ ở thành phố và nông thôn.

Thành phố vừa được coi là thị trường ngôn ngữ, vừa là nơi sản sinh ngôn từ, cũng đồng thời là lò “ngốn” ngôn từ.
1.8. Các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến sự biến đổi ngôn ngữ của một số nhóm nhập cư Nghi Lộc tới
thành phố Vinh
1.8.1. Tuổi tác
Đối tượng nghiên cứu của luận án này sẽ được hiểu theo hai điệu: Thứ nhất là tuổi với nghĩa “tuổi đời” của một
con người, và thứ hai là tuổi với nghĩa “tuổi đến thành phố Vinh”.
1.8.2. Thời gian định cư
8
Thời gian đó dài hay ngắn tùy thuộc vào khả năng thích nghi cũng như hoàn cảnh sống của từng người.
1.8.3. Trình độ văn hóa
Cộng đồng NGL đến thành phố Vinh chiếm số lượng nhiều nhất và chủ yếu để học tập, công tác, làm ăn, buôn
bán.
1.8.4. Trình độ ngoại ngữ
Do tương quan giữa hai nhân tố xã hội này mà số lượng người biết ngoại ngữ trong số CTV của chúng tôi rất
lớn:
- Biết ngoại ngữ: 47 người, chiếm 75,81%
- Không biết ngoại ngữ: 15 người, chiếm 24,19%
1.8.5. Giới tính
Vấn đề giới được bàn đến từ hai góc độ. Thứ nhất là ngôn ngữ để nói về mỗi giới, đó là sự khác biệt giữa những
phạm vi, những phương tiện ngôn ngữ chỉ có thể dùng cho giới này mà không thể dùng cho giới khác. Thứ hai là
ngôn ngữ mà mỗi giới sử dụng, đó là sự khác nhau về cách diễn đạt, cách sử dụng ngôn ngữ của mỗi giới để biểu
hiện cùng một vấn đề. Trong luận án này, giới được chúng tôi xem xét từ góc độ thứ hai.
1.8.6. Mô hình hôn nhân
Theo tiêu chí về mô hình hôn nhân, có thể phân loại các CTV thành các nhóm sau đây:
- Nhóm chưa có gia đình: 24 người, chiếm 34,9%
- Nhóm đã có gia đình: 48 người, trong đó:
+ Vợ (hoặc chồng) cùng Nghi Lộc: 23 người, chiếm 32,8%
+ Vợ (hoặc chồng) quê ở một vùng thuộc phương ngữ khác: 26 người, chiếm 32,3%.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
(1)Từ những kết quả nghiên cứu, khảo sát trong và ngoài nước, cũng như thông qua những đánh giá, phân tích

về tình hình và xu hướng nghiên cứu có thể thấy, ngôn ngữ thành thị đã trở thành đối tượng nghiên cứu thực thụ
của chuyên ngành NNHXH.
9
(2) Ảnh hưởng đến sự biến đổi trên đây là hàng loạt những nhân tố xã hội, tâm lý khác nhau của chủ thể giao
tiếp như giới tính, tuổi đời, tuổi đến thành phố Vinh, thời gian định cư ở thành phố Vinh, rồi trình độ văn hóa, khả
năng ngoại ngữ, mô hình hôn nhân. Mức độ ảnh hưởng của những nhân tố này không giống nhau, có nhân tố không
ảnh hưởng quyết định, có nhân tố có ảnh hưởng quan trọng và cũng có những nhân tố không ảnh hưởng quyết định
nhưng góp phần tạo nên kết quả biến đổi.
(3) Qua những gì đã khảo sát, chúng tôi nhận thấy sự biến đổi phát âm theo hướng nhích lại gần cách phát âm
thành phố Vinh của cộng động Nghi Lộc là một hiện thực. Quy luật này phản ánh một xu hướng hội tụ và tích hợp
những yếu tốt có lợi cho hoạt động giao tiếp.

10
Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI CÁC YẾU TỐ CHIẾT ĐOẠN
CỦA MỘT SỐ NHÓM NHẬP CƯ TỪ NGHI LỘC TỚI
THÀNH PHỐ VINH
2.1. Vài nét về lịch sử, địa lý huyện Nghi Lộc
2.2.Đặc điểm hệ thống phụ âm đầu giọng Nghi Lộc
- Âm [b] trong tiếng phổ thông được ghi nhận là một âm môi – môi, tắc và hữu thanh. Tuy nhiên người Nghi
Lộc phát âm có khác biệt: trước khi chuẩn bị phát âm có hiện tượng tắc thanh hầu và có sự rung nhẹ của hai dây
thanh, tiếp đến là động tác khép môi chặt rồi bật ra.
- Âm [d] trong tiếng phổ thông là một phụ âm đầu lưỡi – lợi tiếp ngạc, tắc và hữu thanh. Nhưng ở tiếng Nghi
Lộc thì [d] được phát âm như một âm đầu lưỡi răng, trước khi phát âm có hiện tượng tắc thanh hầu nhẹ, hai dây
thanh chạm nhẹ trước khi làm cho [d] ở đây trầm và tối hơn [d] ở tiếng phổ thông
- Âm [m] Nghi Lộc tương ứng với các âm [b] và [v] trong tiếng phổ thông. Chẳng hạn như: me [m
ε
]
- Âm [l] ở âm [l] ở Nghi Lộc có tương ứng với các âm: [ɲ], [c], [t’],[t] chẳng hạn như các trường hợp: lặt [lăt
6

]
– nhặt [ɲăt
6
],
- Âm [X] trong tiếng phổ thông là một âm gốc lưỡi, xát và vô thanh, tuy nhiên ở tầng lớp người trung niên và cao
tuổi ở Nghi Lộc, âm [X] được phát âm như là một âm tắc, bật hơi [X’], ví dụ: khun [X’unɻ] (khôn).
- Âm [v] trong tiếng phổ thông là một âm xát, môi – môi và hữu thanh. Tuy nhiên trong tiếng Nghi Lộc âm [v]
lại được thể hiện thành một phụ âm môi – môi, tắc và hữu thanh gần giống như [b], ví dụ: vấp [bɤp1], vui [buiɻ].
2.3. Nguyên âm tiếng Nghi Lộc
Về cơ bản các nguyên âm trong tiếng Nghi Lộc không có gì khác nhiều so với các nguyên âm trong tiếng Việt
phổ thông, ngoại trừ thêm âm /o/ trong một số ít các âm tiết kiểu: lôông (trồng), gôộc (gốc), nhôông (chồng), mà
thực ra chỉ là /o/ bình thường, có điều trước /ɳ, k/ không bị ngắn lại như trong tiếng Bắc; cũng vì lý do /εˇ, ɔ/
không tồn tại trong những vần như anh/ach, ong/oc; còn lại vẫn đủ 9 nguyên âm dài / i, e, ɛ, ɯ, ɤ, a, u, o, ɔ/; 2
11
nguyên âm ngắn / ɤ, ă / và 3 nguyên âm đôi / ie, ɯɤ, uo/. Tuy nhiên chúng cũng có một số kiểu biến âm khác như
sau:
- [i] đôi khi được phát âm thành một nguyên âm chuyển sắc [
e
i], ví dụ: chi [c
e
iɻ]. [i] ở Nghi Lộc có sự tương
ứng với [ɤ] và [ă] trong tiếng phổ thông. Đó là các trường hợp như: chí [ciɻ] – chấy [cɤj ɻ ], mi [miɻ] – mày [măjɻ].
- [e] đôi khi cũng được thể hiện thành nguyên âm chuyển sắc [
ε
e]; lưỡi khi ban đầu cấu âm nâng thấp như cấu
âm [ε], sau đó lưỡi nâng lên mức vừa như cấu âm [e]. Ở Nghi Lộc tương ứng với [ε] và [ie] trong tiếng phổ thông,
ví dụ: mệ [meɻ] – mẹ [mεɻ], tề [teɻ] – kìa [kieɻ].
- [ɯ] ở Nghi Lộc có xu hướng được phát âm thành [ɤ]. Ở Nghi Lộc cùng tồn tại hai âm chính [ɯ] và [ɤ] trong
các cặp âm tiết kiểu như: thư/thơ, lừ/lờ, cớ/cứ, giừ/giờ, mự/mợ….
- [ɤ] ở Nghi Lộc thường được phát âm thành [a] trong tiếng phổ thông; ở Nghi Lộc tương ứng với [ɯ] và

[ɯɤ] trong tiếng phổ thông: ví dụ thơ [tɤɻ] – thư [tɯɻ], nhợ [ɲɤɻ] – nhựa [ɲɯɤɻ].
- [a] ở Nghi Lộc có xu hướng được phát âm thành [ɐ] có sự dịch chuyển từ không tròn môi thành tròn môi và
có sự kéo dài trường độ. Khi đó người Nghi Lộc phát âm: bà ta [baɻ taɻ] > [bɐɻtɐɻ]. [a] ở đây có sự tương ứng duy
nhất với nguyên âm đôi [ɯɤ], lả [laɻ] – lửa [lɯ ɤɻ].
2.4. Vài nét về lịch sử, địa lý và cư dân thành phố Vinh
2.4.1. Vài nét về lịch sử, địa lý thành phố Vinh
Thành phố Vinh thuộc vùng kẻ Vang hoặc kẻ Vịnh ngày xưa. Sau đó, lần lượt đổi thành Kẻ Vinh, Vinh Giang,
Vinh Doanh, Vinh Thi. Cuối cùng, tên chính thức của thành phố được rút gọn lại thành một tiếng là Vinh và tồn tại
mãi cho đến tận bây giờ.
2.4.2. Vài nét về cư dân thành phố Vinh
2.4.2.1. Tăng tự nhiên
2.4.2.2. Tăng cơ học
Định chung về số liệu tăng trưởng dân số của toàn Thành phố Vinh

Năm 1997 2000 2005 2007 2008 2009 2011 2013
12
Tỷ lệ tăng
chung
2,30% 1,96% 1,89% 1,79% 1,91% 2,01% 2,33% 2,38%
Tỷ lệ tăng tự
nhiên
16,15‰ 13,09‰ 11,80‰ 11,96‰ 12,09‰ 15,3% 18,03% 18,8%
Tỷ lệ tăng cơ
học
6,85‰ 6,51‰ 7,1‰ 5,94‰ 7,01‰ 7,01‰ 7,3‰ 7,36‰
Bảng 2.1. Số liệu tăng trưởng dân số của toàn Thành phố Vinh tính đến năm 2013

13
2.4.3. Sự tiếp xúc giữa các tiếng địa phương ở thành phố Vinh
2.5. Đặc điểm hệ thống phụ âm đầu tiếng Vinh

Kết quả điều tra và khảo sát cho thấy: hệ thống phụ âm đầu tiếng Vinh có số lượng khá đầy đủ.
Bảng 2.2. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Vinh
-
- Âm [b-]
,
được thể hiện trong phát âm là âm môi, tắc, hữu thanh. Trong cách phát âm của cư dân Vinh, âm /b/
được phát âm bắt đầu bằng động tác hai môi khép chặt. Luồng hơi từ phổi đi ra được dồn đầy ở khoang miệng, làm
bật mở hai môi để không khí thọát ra ngoài, tạo nên một tiếng nổ nhẹ. Ví dụ: [?bɔk
6
] (trăm) bạc
- Âm [b] trong tiếng Vinh còn tướng ứng với các phụ âm đầu [s]
,
[d], [m] trong TVVH.
Tương ứng [b] - [d] [bo
4
] - [do
4
] bổ - đổ
Tương ứng [b] - [m] [buk
6
] [muk
6
] bục - mục
- Âm [f-], là âm môi - môi, xát, vô thanh. Trong tiếng Vinh âm này đựợc thể hiện thành âm môi - răng. Cách
phát âm [f-] như đã miêu tả thể hiện ở cư dân Vinh, những người có trình độ văn hoá và tầng lớp thanh thiếu niên
của cư dân Vinh.
- Âm [V-] là phụ âm xát, môi - môi, hữu thanh. Trong tiếng Vinh, [v-] được thể hiện thành âm môi - răng. Ví dụ: [vɔ
2
]
14

(cái) vò; [vit
6
] vật (nhau)
- Âm [t-], tiếng Vinh khi phát âm [t], đầu lưỡi nâng lên chạm vào chân răng tiếp giáp với lợi, đồng thời cuống
lưỡi có xu hướng nhích lên phía ngạc mềm là cho lưỡi kéo dịch về phía trong khoang miệng.
Ví dụ: [tui
5
] tối (rồi) [tɔm
s
] tóm (gầy)
Âm [t-] trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [z], [z] [d], [k] trong TVVH.
- Âm [t’-], Nét bật hơi của [t'] cư dân Vinh được thể hiện mạnh hơn so với [t'] của thổ ngữ Nghi Lộc và
TVVH
- Ví dụ: [t'em
2
] thềm (nhà)
Trong tiếng Vinh, âm [t'-] còn tương ứng với các phụ âm đầu [z], [v], [s], [t] của TVVH
- Âm [d-], trong cách phát ậm của cư dân Vinh, đầu lưỡi nâng lên chạm vào phần tiếp giáp giữa lợi và ngạc
cứng, đầu lưỡi có xu hướng uốn lên phần ngoài của ngạc cứng, toàn thân lưỡi chuyển địch vể phía trong khoang
miệng.
7. Ví dụ: [dɣ
s
] (hòn) đá, [dom
1
dom
5
] đom đóm
- Âm [n-], trong cách phát âm của người Vinh [n] được thể hiện bằng cách cho lưỡi uốn lên áp sát chỗ tiếp
giáp giữa lợi và ngạc cứng. Luồng hơi đi ra bị chặn lại ở khoang miệng buộc phải thoát ra ngoài qua khoang mũi.
Ví dụ: [nɔ

1
] (ăn) no, [ nom
2
] (gió) nồm
Ngọài nét ngữ âm trên, âm [n-] tiếng Vinh còn tương ứng với các âm [k], [z] trong TVVH.
- Âm [z-], trong cách phát âm của cư dân Vinh, âm [z-] được phát âm bằng hai biến thể địa phương
Ví dụ: [djau
1
] đao, [dja
1
djɛ
1
] da dẻ
- Âm [1-] trong tiếng Vinh tương ứng với các âin đầu [k], [t'], [ʐ] trong TVVH.
- Âm [ş-], trong tiếng Vinh, [ʂ-] là phụ âm quật lưỡi, có mặt ở tất cả các thổ ngữ. Đặc điểm cấu âm quặt lưỡi
thể hiện khá rõ trong cách phát âm của lớp người già và trung niên.
15
Ví dụ: [şuɳ
1
] (quả) sung, [şuon
1
şε
4
] suôn sẻ
Âm [ş-] trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [t’], [s], [x] trong TVVH
- Âm [c-], là phụ âm mặt lưỡỉ, tắc, vô thanh. Quan sát cách phát âm của cư dân Vinh, chúng tôi thấy, khi phát
âm [c], mặt lưỡi nâng lên tiếp xúc với ngạc. Luồng hơi thoát ra ngoài tạo một tiếng nổ nhẹ.
Ví dụ: [cim
1
] (con) chim, [cap

6
] (tháng) chạp
- Âm [c-] trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [z], [v] trong TVVH.
- Âm [ɲ-] trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [c], [k], [ʐ] trong TVVH.
- Âm [k-], là phụ âm cuối lưỡi, tắc, vô thanh. Khi phát âm cuống lưỡi nâng lên gần sát phía cuối ngạc cứng,
thân lưỡi nhích vào phía trong khoang miệng. Luồng hơi đi ra tạo thành một tiếng nổ nhẹ.
Ví dụ: [kam
5
] cám (lợn); [ki
3
kaŋ
2
] kỹ càng
Âm [k] trong tiếng Vinh còn tượng ứng với các phụ âm đầu [ɣ, [x], [t] trong TVVH.
- Âm [ŋ] là phụ âm cuối lưỡi, tắc, mũi, hữu thanh. Khi phát âm cuống lưỡi nâng lên sát với phía sau ngạ c
cứng, thân lưỡi dịch lùi về phía trong khoang miệng, luồng hơi đi ra bị bít lại ở khoang miệng phải thoát ra ngoài
qua khoang mũi.
Ví dụ: [ŋo
1
] (cây) ngô, [ŋɔn
6
] ngọn (cây)
- Âm [x-] trong TVVH là phu âm cuối lưỡi, xát, vô thanh. Trong cách phát âm của tầng lớp thanh thiếu niên và
những người có trình độ văn hoá, âm [x-] được thể hiện là một phụ âm xát như TVVH.
Ví dụ: [xo
1
] khô (khan); [xat
5
] khát (nước)
Trong cách phát âm của lớp người già và trung niên tiếng Vinh, âm [x-] được thể hiện thành một âm tắc, bật hơi

[k
!
]. Khi phát âm, cuống lưỡi nâng lên sát phần sau ngạc cứng, luồng hơi đi ra tạo thành một tiếng nổ mạnh.
Ví dụ: [k
'
ăn
1
] (cái) khăn, [k'o
4
] khổ (cực)
- Âm [ɣ-], trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [k], [s] trong TVVH.
- Âm [h-], trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [t'], [ŋ] trong TVVH
*Âm [?], trong tiếng Vinh còn tương ứng với các phụ âm đầu [ʐ], [c] trong TVVH.
16
Nhận xét: Sự hiện thực hóa hệ thống âm vị phụ âm đầu trong tiếng Vinh hết sức đa dạng và phức tạp.
Ngoài việc thể hiện khá đầy đủ các nét khu biệt âm vị học của các phụ âm đầụ như trong TVVH, hệ thống
phụ âm đầu trong tiếng Vinh còn được thể hiện bằng các nét đặc hữu địa phương. Qua mô tả ở trên, chúng
tôi nhận thấy trong cách phát âm của cư dân Vinh, các phụ âm đầu [m], [n], [r|]
,
[k-], [h-] là không có sự
khác biệt đáng kể so với TVVH nhưng lại có sự khác biệt với thổ ngữ Nghi Lộc.
So với TVVH và các phương ngữ khác, hệ thống phụ âm đầu trong tiếng Vinh có 2 nét ngữ âm phổ biến, có
mặt hầu hết các thổ ngữ.
+ Cách cấu âm của các phụ âm trong tiếng Vinh có sự chuyển dịch bộ vị cấu âm ở hầu hết các phụ âm đầu.
Các phụ âm môi - môi [f], [v] được thể hiện thành môi - răng. Hàng loạt các phụ âm đầu lưỡi - răng [t], [t'], [s], [z],
[d], [n], [1], [ʐ] đều được thể hiện thành các phụ âm đầu lưỡi - lợi tiếp ngạc tương ứng.
+ Trong thực tế phát âm trong tiếng Vinh có đầy đủ dãy các phụ âm bật hơi [p
'
], [t'], [k
'

]. Âm [t'] tương ứng
với [t
1
] TVVH nhưng tính chất bật hơi mạnh hơn. Âm [p
'
] trong tiếng Vinh tương ứng với [f] và [v] của TVVH.
Âm [k'] tiếng Vinh tương ứng với [x] và [ɣ] TVVH. Cách cấu âm bật hơi của [p’], [k
'
] thể hiện khá ổn định trong
phát âm của lớp người già và trung niên.
2.6. Sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội
2.6.1. Tuổi
(a) Tuổi đời:
(b) Tuổi đến Vinh:
2.6.2. Giới tính:
2.6.3. Mô hình hôn nhân:
2.6.4. Trình độ ngoại ngữ
2.7. Sự biến đổi vần cái trong tiếng Vinh
2.7.1. Một vài đặc điểm vần cái trong tiếng Vinh
2.7.2. Miêu tả ngữ âm hệ thống vần cái trong tiếng Vinh .
a,Vần mở:
17
a.1. Các vần nguyên âm dòng trước:
- Vần [ε], trong tiếng Vinh tương ứng với vần [e] tiếng Việt văn hoá.
Ví dụ: [mε
1
]- [be
1
] (con) me - (con) bê
- Vần [ɯ], vần [ɯ] được thể hiện như vần [ɯ] tiếng Việt văn hoá. Riêng cư dân Nghi Lộc vần [ɯ] được thể

hiện thành [ɤ]. Ở đây có sự khác nhau về độ nâng: từ độ nâng cao [ɯ] sang độ nâng vừa [ɤ].
Ví dụ: [ɲɤ
2
] nhừ (tử)
- Vần [ɤ], vần [ɤ] được phát âm giống vần [ɤ] TVVH, ở thổ ngữ Nghi Lộc, vần [ɤ] được phát âm thành [a].
Ví dụ: [ca
6
] chợ; [ma
1
] mợ
- Vần [a], ở thổ ngữ Nghi Lộc vần [a] được phát âm thành [ɔ] Ở đây có sự chuyển dịch giữa các nguyên âm
cùng dòng nhưng khác nhau về dáng môi, từ không tròn môi thành tròn môi, có hiện tượng kéo dài trường độ.
Ví dụ: [ɣɔ
1
] (con) gà [bɔ
2
] (ông) bà.
Vần [a] trong tiếng Vinh còn tương ứng với vần [ɯɤ] trong TVVH.
Ví dụ: [la
4
] - [lɯɤ
4
]lả - lửa, [ɲa
5
] - [ɲɯɤ
5
] ngá- ngứa
a.2. Các vần nguyên âm dòng sau -tròn môi
- Vần [u], trong trong tiếng Vinh, vần [u] còn tương ứng với vần [ɤu] TVVH.
Ví dụ: [bu

2
] - [bɤu
2
] (quả) bù - (quả) bầu
- Vần [0], cư dân Nghi Lộc phát âm vần [o] được thể hiện thành [ɔ].
Ví dụ: [hɔ
2
] (đồng) hồ, [kɔ
4
] (xe) cộ
Vần [0] trong tiếng Vinh còn tương ứng với vần [u] tiếng Việt vặn hoá.
Ví dụ: [mo
4
] - [mu
4
] mổ (chuối) - mủ (chuối)
[ko
4
] - [ku
4
] cổ (chuối) - củ (chuối)
18
[ko
6
] - [ku
3
] (áo) cộ - (áo) cũ.
b. Vần nửa mở
b.1.Các vần nửa mở có kết âm [iu]
- [eu], trong tiếng Vinh còn tương ứng với vần [ɛu] TVVH.

Ví dụ: [neu
1
] - [nɛu
1
] (mỏ) nêu - (mỏ) neo
[xeu
2
] - [xwɛu
2
] khều - khoèo
- Vần [ɯu], trong tiếng Vinh được phát âm không có gì khác với vần TVVH tương ứng. Trong cách phát âm
của người Nghi Lộc, vần [ɯu] phát âm thành [ɤu]
Ví dụ: [hɤu
1
] (về).hưu, [lɤu
6
] (quả) lựu
- Vần [ɯɤu]. Vần [ɯɤu] phát âm không có gì khác biệt so với vần TVVH tương ứng. Riêng ở thổ ngữ Nghi
Lộc, vần [ɯɤu] đựợc phát âm thành [ɤu], [ău].
Ví dụ:[hɤu
1
] (con) hươu [ʐɤu
6
] (chai) rượu [kău
6
] cậu
b.2. Các vần nửa mở có kết âm [-i]
- Vần [ɯi]. Trong cách phát âm của tiếng Vinh, vần [ɯi]được phát âm thành [ɯɤi].
Ví dụ: [cɯɤi
4

] chưởi (mắng)
- Vần [ɯɤi]. Ngoài cách phát âm như vần tiếng Việt văn hoá tương ứng, vần [ɯɤi] được thổ Nghi Lộc phát
âm thành vần [ɤi].
Ví dụ: [ʐɤi
6
] mát (rượi), [kɤi
2
] cười (nói)
- Vần [ăi]. Vần [ăi] trong tiếng Vinh phát âm không có sự khác biệt so với vần TVVH tương ứng.
Ở thổ ngữ Nghi Lộc vần [ăi] phát âm thành [ai].
19
Ví dụ: [ŋai
2
] ngày, [mai
5
baị
1
] máy bay
- Vần [aị], trong tiếng Vinh được phát âm không có sự khác biệt so với vần TVVH tương ứng.
+ Ở thổ ngữ Nghi Lộc, vần [aị], phát âm thành [ɔi]. Đỉnh vần là nguyên âm dòng sau, tròn môi, độ mở hẹp
hơn. Giữa đỉnh vần và kết vần không tròn môi cóđộ chạm lỏng.
Ví dụ: [tɔi
1
] (lỗ) tai [vɔi
1
] (hai) vai
- Vần [ui], vần [ui] phát âm giống vần TVVH tương ứng.
Trong thổ ngữ Nghi Lộc vần [ui] phát âm thành [oi].
Ví dụ: [tui
5

] - [toi
5
] (buổi) túi - (buổi) tối
[mui
1
] - [moi
1
] mui (răng) - môi (răng)
- Vần [oj]. Vần [oj] phát âm giống vần TVVH tương ứng.
+ Ở thổ ngữ Nghi Lộc, vần [oj] lại được phát âm thành [uoi].
Ví dụ: [ʐuoij
2
] (đi) rồi; [vuoj
6
] vội (vàng).
Qua thống kê và miêu tả, có thể hình dung các cách thể hiện hệ thống vần nửa mở của thổ ngữ Vinh bằng sơ
đồ sau:
* Nhận xét
Từ việc khảo sát và phân tích phần vần thổ ngữ Vinh, chúng tôi thấy đây là khu vực thể hiện sự biến đổi đa
dạng và phức tạp. Hầu hết các vần cái thổ ngữ Nghi Lộc khi đi vào thổ ngữ Vinh đều thể hiện bằng những biến thể
trong tiếng Vinh . Các biến thể địa phương vừa được thể hiện trong thực tế phát âm vừa được ghi nhận ở một bộ
phận từ vựng, Các biến thể địa phương trong sự tương ứng kiểu 1-1 nhưng trong nhiều trường hợp có sự tương ứng
1/hơn 1, chẳng hạn: (con) gái > gấy, gói, ghí.
Khác với các phương ngữ khác, phần vần trong thổ ngữ Vinh gần như giữ được trọn vẹn các yếu tố phụ âm
tính ở kết vần. Các yếu tố phụ âm tính làm nhiệm vụ kết vần trong sự kết hợp với các yếu tố nguyên âm tính không
chịu một sự tác động chặt chẽ như ở PNB hay một phần như ở PNN mà chúng vẫn còn là một sự sao phỏng không
20
hoàn toàn các phụ âm có ở phần đầu âm tiết. Do đó, nếu trong trong thổ ngữ Vinh và các thổ ngữ khác số lượng
vần có trong thực tế ít hơn rất nhiều so với sự hình dung lí thuyết thì vần thổ ngữ NGL có số lượng tối đa.
Xét từ phía đỉnh vần, có thể nhận thấy các nguyên âm đỉnh vần trong tiếng Vinh có độ nâng lưỡi cao thì

thổ ngữ NGL có độ nâng lưỡi thấp (đôi khi có hiện tượng ngược lại). Như vậy, khẩu độ của nguyên âm đỉnh vần
trong PNNGL theo hướng mở và trầm, kể cả các nguyên âm chuyển sắc. Nếu có các tiếp hợp giữa đỉnh vần và kết
vần thì tiếng NGL có xu hướng tiếp hợp lỏng.
2.8. Sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội
2.8.1. Giới tính
2.8.2. Tuổi tác
(a) Tuổi đời:
(b) Tuổi đến Vinh:
2.8.3. Mô hình hôn nhân
2.8.4. Trình độ ngoại ngữ
Tiểu kết chương 2
(1) Qua phân tích sự biến đổi các âm đầu và nguyên âm trên, việc bảo lưu cách dùng biến thể địa phương NGL
diễn ra rất mạnh. Vì cách phát âm các biến thể địa phương NGL của các biến được xét trong chương này vốn là
cách phát âm đúng với chính tả của tiếng Việt hiện đại nên sự bảo lưu ở đây là sự bảo lưu cái đúng. Hơn nữa, khác
với sự bảo lưu biến thể địa phương NGL của các phụ âm và nguyên âm nói trên hoàn toàn không gây trở ngại gì
cho giao tiếp của cộng đồng NGL tại Vinh nên họ không có cả động lực lẫn áp lực để thay đổi từ biến thể NGL
sang biến thể Vinh:
(2) Trên tổng thể của sự biến đổi không lấy gì làm mạnh mẽ đối với biến ngôn ngữ (phụ âm đầu và nguyên âm
và vần) trên đây, vẫn có thể nhận thấy những mối tương quan nhất định giữa các biến ngôn ngữ và các biến xã hội,
có thể tìm thấy trong các tương quan đó một vài ý nghĩa sau đây:
21

×