Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tìm hiểu thái độ của người dân Hà Nội với loại hình bảo hiểm nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VŨ THẾ THƯỜNG


Tìm hiểu thái độ của người dân Hà Nội với
loại hình bảo hiểm nhân thọ


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC


Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN HỮU THỤ






HÀ NỘI - 2003

5
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ở những nước có nền kinh tế phát triển thì loại hình Bảo hiểm nhân thọ
(BHNT) đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm và trở thành một hoạt động
không thể thiếu trong đời sống mỗi con người, mỗi gia đình và xã hội. Với
mỗi cá nhân, mỗi gia đình loại hình BHNT là một hình thức tiết kiệm thường


xuyên, có kế hoạch, có tính kỷ luật cao để tạo lập quỹ tài chính thực hiện các
dự định lớn trong cuộc sống (như mua nhà, mua xe, cho con học đại học, mở
rộng ngành nghề kinh doanh). Loại hình này còn giúp gia đình giảm bớt
những khó khăn về tài chính khi rủi ro xảy ra (tai nạn, bệnh tật ), hoặc đảm
bảo thu nhập ổn định khi hết tuổi lao động. Đối với xã hội, loại hình BHNT là
một kênh tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư, phát triển
kinh tế - xã hội. Đây là nguồn vốn trung và dài hạn rất quan trọng để đầu tư
phát triển, đặc biết với những nước có nền kinh tế đang phát triển như ở nước
ta. BHNT còn là một hình thức tạo quỹ phúc lợi xã hội, hỗ trợ tài chính cho
các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện và tạo việc làm cho người lao động.
Nhận thức được vai trò và ý nghĩa của loại hình BHNT, năm 1996,
Đảng và Nhà nước ta đã cho phép triển khai hoạt động kinh doanh BHNT.
Nếu như thời gian đầu chỉ có duy nhất Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam thì
đến nay (đầu năm 2003), trên thị trường BHNT nước ta chính thức có 5 doanh
nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này (có cả doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp nước ngoài, và doanh nghiệp liên doanh). Sau hơn 6 năm hoạt
động loại hình BHNT đã thu được những thành quả nhất định: tăng trưởng
khá, các sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng phục vụ ngày càng được
nâng cao. Nhưng theo con số thống kê của ngành bảo hiểm thì tính tới cuối
năm 2002 số người tham gia BHNT ở nước ta mới chỉ chiếm gần 2% dân số
và số người tham gia chủ yếu chỉ tập trung ở một số thành phố lớn là Hà Nội

6
và Thành phố Hồ Chí Minh. Tỷ lệ người dân tham gia BHNT, tỷ lệ doanh thu
phí BHNT ở nước ta thấp hơn nhiều so với những nước trong khu vực và thế
giới. Như năm 2002 vừa qua, tổng doanh thu phí BHNT ở nước ta mới chỉ
chiếm 0,97% GDP, trong khi tỷ lệ này ở Đài Loan là 6,9%, Xingapo là
5,52%, Thái Lan là 2,25%, Trung Quốc là 1,5%. Trung bình một người dân
Việt Nam năm 2002 đã tiêu dùng 4 USD/năm cho BHNT, trong khi đó ở
Trung Quốc là 10 USD, Thái Lan là 30 USD, Hàn Quốc là 903 USD.

Theo những chuyên gia trong lĩnh vực BHNT những thành quả đã đạt
được trong những năm vừa qua chưa tương xứng với tiềm năng thực sự của
thị trường BHNT nước ta. Vậy nguyên nhân nào đã làm cho người dân chưa
tham gia BHNT, trong khi loại hình này có những ý nghĩa to lớn với cuộc
sống của con người như vậy? Điều kiện cần và đủ để người dân tham gia
BHNT là:
- Có hiểu biết về loại hình BHNT.
- Có niềm tin vào loại hình BHNT.
- Là đối tượng của loại hình BHNT.
- Có khả năng tài chính nhất định.
Khái quát lại thì đó là hai yếu tố: thái độ của con người với loại hình
BHNT và vấn đề tài chính. Chúng tôi cho rằng loại hình BHNT cũng là một
sản phẩm tiêu dùng, hành vi tham gia BHNT cũng có cấu trúc tâm lý của
hành vi mua hàng, hành vi tiêu dùng sản phẩm. Hơn nữa, loại hình BHNT là
loại dịch vụ đặc biệt, là sản phẩm vô hình, vì vậy thái độ của người dân với
loại hình này có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi tham gia hay không tham gia
BHNT.
Với những những ý nghĩa đó chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Tìm
hiểu thái độ của ngƣời dân Hà Nội với loại hình Bảo hiểm nhân thọ”
2. Ý nghĩa của đề tài
2.1. Về mặt lý luận

7
Đóng góp phát triển lý thuyết về thái độ trong Tâm lý học nói chung và
Tâm lý học quản trị kinh doanh nói riêng.
Thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về khái
niệm, đặc điểm, cấu trúc, chức năng của thái độ trên bình diện tâm lý học.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định rõ vai trò của thái
độ đối với quyết định tham gia BHNT của người dân.
2.2. Về mặt thực tiễn

Nghiên cứu này tìm hiểu thực trạng thái độ của người dân Hà Nội đối
với loại hình BHNT đang được triển khai trên địa bàn Hà Nội nói riêng và
trên phạm vi cả nước nói chung.
Nhằm tìm ra những yếu tố tâm lý đã tạo nên thái độ tích cực, tin tưởng
của người dân với loại hình BHNT.
Nhằm tìm ra những yếu tố tâm lý đã tạo ra thái độ tiêu cực, hoài nghi
của người dân với loại hình BHNT
Từ đó đề xuất những kiến nghị giúp các nhà quản lý có những chiến
lược thúc đẩy nhiều người dân tự nguyện tham gia BHNT hơn nữa (cũng là
làm cho mọi người dân có một tương lai an toàn hơn). Những điều đó cũng
góp phần thúc đẩy ngành BHNT nước ta tăng trưởng, phát triển tương xứng
với những tiềm năng thực sự của thị trường. Tạo ra nguồn vốn quan trọng để
thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
3. Giả thuyết nghiên cứu
Phần lớn người dân Hà Nội có thái độ tích cực đối với loại hình BHNT.
Thái độ đối với loại hình BHNT bị quy định bởi rất nhiều các yếu tố khách
quan và tâm lý chủ quan nhưng các yếu tố tâm lý chủ quan đóng vai trò quyết
định (nhận thức niềm tin, nhu cầu, động cơ). Người dân Hà Nội cũng có thái
độ khác nhau đối với các doanh nghiệp BHNT khác nhau.
4. Mục tiêu nghiên cứu

8
Khái quát hoá những vấn đề lý luận, làm sáng tỏ một số khái niệm
trong phạm vi đề tài nghiên cứu (Thái độ, nhận thức, xúc cảm tình cảm, Bảo
hiểm nhân thọ).
Tìm hiểu thái độ với loại hình BHNT của người dân Hà Nội thông qua
nhận thức của họ về loại hình này.
Tìm hiểu thái độ với loại hình BHNT của người dân Hà Nội thông qua
xúc cảm, tình cảm của họ đối với loại hình này.
Tìm hiểu thái độ của người dân Hà Nội với loại hình BHNT biểu hiện

ở những hành vi của họ đối với loại hình này.
Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng tới thái độ của người dân với loại
hình BHNT
Tìm hiểu những nguồn thông tin chủ yếu giúp người dân Hà Nội có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn về loại hình BHNT.
Đề xuất những kiến nghị tạo cơ sở về mặt tâm lý học giúp các công ty
bảo hiểm có những chính sách, chiến lược tạo ra thái độ tích cực, tin tưởng
với loại hình BHNT.
5. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Thái độ với loại hình Bảo hiểm nhân thọ.
5.2 Khách thể nghiên cứu
Người dân đang sống trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số cán bộ
tư vấn BHNT.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên gần 400 khách thể trên địa bàn nội và
ngoại thành của thành phố Hà Nội. Chúng tôi đã lựa chọn khách thể ở 2 quận
nội thành là Thanh Xuân và Hai Bà Trưng, 2 huyện ngoại thành là Thanh Trì
và Đông Anh. Ở mỗi quận, huyện chúng tôi chọn 50 người đã tham gia (địa
chỉ do công ty bảo hiểm cung cấp) và 50 người chưa tham gia (chọn những

9
khách thể có điều kiện kinh tế). Trong gần 400 khách thể đó gồm: công nhân,
nông dân, trí thức, những người buôn bán, trong độ tuổi từ 20 - 60 (độ tuổi
này họ có khả năng về tài chính và tư cách pháp nhân để tham gia BHNT).
Chúng tôi còn tiến hành nghiên cứu trên hơn 100 khách thể phụ là
những cán bộ quản lý, cán bộ tư vấn thuộc Công ty Bảo Việt nhân thọ Hà Nội
và chi nhánh Công ty Prudental tại Hà Nội, với mục đích thu thập thông tin để
so sánh, đối chiếu, kiểm chứng những thông tin thu được từ phiếu trưng cầu ý
kiến và phỏng vấn người dân.

7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp quan sát
Chúng tôi sử dụng những phương pháp quan sát để có những định
hướng ban đầu về khách thể, kiểm tra giả thiết và chính xác hoá những kết
quả thu được bằng những phương pháp khác. Quan sát những hành động
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của khách thể kết hợp cùng với phương pháp
phỏng vấn và điều tra bằng bảng hỏi. Chúng tôi đã tiến hành quan sát hoạt
động nói, nội dung lời nói và các biểu hiện cử chỉ nét mặt của người dân khi
được cán bộ tư vấn tiếp xúc mời tham gia BHNT. Những quan sát này đều
được chúng tôi ghi chép lại.
7.2. Phương pháp phân tích tài liệu
Chúng tôi đã tham khảo các các tài liệu trong nước và nước ngoài có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai
nghiên cứu thực tiễn. Căn cứ vào các tài liệu tâm lý học, các tài liệu của các
công ty bảo hiểm, ngành bảo hiểm để tìm hiểu, đánh giá vấn đề thái độ của
người dân Hà Nội với loại hình BHNT. Cụ thể chúng tôi tiến hành đọc, phân
tích và khái quát hoá các quan điểm, lý thuyết cơ bản về thái độ và các công
trình nghiên cứu về thái độ trước đó. Mục đích nhằm phỏng đoán đưa ra giả
thiết khoa học, xác nhận về mặt lý thuyết các giả thuyết đã đặt ra không trái
với những kết luận đã được công bố về mặt lý thuyết. Xây dựng cơ sở lý luận

10
cho đề tài, tìm ra các phương án thích hợp cho bảng hỏi và kiểm tra các kết
quả thu được thông qua các phương pháp khác.
7.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được chúng tôi sử dụng nhằm làm phong
phú và làm rõ thêm các số liệu thu được từ các phương pháp khác từ đó tăng
độ tin cậy của các số liệu. Khai thác các thông tin cơ bản liên quan đến đề tài
bằng cách phỏng vấn một số người dân, một số cán bộ quản lý và một số cán
bộ tư vấn của các công ty BHNT ở Hà Nội. (Chúng tôi đã tiến hành phỏng

vấn một số trưởng phòng kinh doanh – Marketing, trưởng phòng dịch vụ
khách hàng, trưởng phòng quản lý nhân viên tư vấn).
7.4. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Phương pháp này được sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết
thông qua những câu hỏi được xây dựng cho phép đánh giá và xác định được
mối quan hệ, liên hệ của các mặt biểu hiện của thái độ là nhận thức, xúc cảm
tình cảm và hành vi.
Ngoài ra phương pháp này cũng được sử dụng nhằm chính xác thêm,
mở rộng thêm và kiểm tra những thông tin, số liệu đã thu được thông qua
những phương pháp khác.
Bảng hỏi gồm 24 câu được thiết kế như sau:
- Các câu hỏi làm rõ nhận thức, quan điểm, đánh giá của họ về loại hình
BHNT ( câu 1, câu 3, câu 4, câu 5, câu 6, câu 7, câu 8, câu 9, câu 10, câu 11)
- Các câu hỏi làm rõ những nguồn thông tin chủ yếu để họ có nhận thức
về loại hình BHNT (câu 2)
- Các câu hỏi làm rõ xúc cảm, tình cảm của họ đối với loại hình BHNT
(câu 12, câu 13, câu 14, câu 15, câu 21, câu 23)
- Các câu hỏi làm rõ về những hành vi, ứng xử của họ với loại hình
BHNT (câu 16, câu 17, câu 18, câu 19, câu 20, câu 22)

11
- Các câu hỏi về thông tin liên quan đến bản thân khách thể như giới
tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, tình trạng gia đình, thu nhập bình quân hàng tháng
(câu 24)
Trong các câu hỏi của phiếu trưng cầu ý kiến này, chúng tôi đã sử dụng
đan xen các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Trong một số câu hỏi đóng cũng có
phương án trả lời mở để người dân tự do nói lên những ý kiến, quan điểm
riêng và bộc lộ những xúc cảm, tình cảm chân thực của mình.
Chúng tôi còn lập ra một bảng hỏi dùng cho cán bộ quản lý, cán bộ tư
vấn của các công ty BHNT, nhằm kiểm chứng những thông tin thu được qua

điều tra những người dân. Cán bộ quản lý, cán bộ tư vấn đánh giá thái độ của
người dân Hà Nội với loại hình BHNT như thế nào. Đánh giá nguyên nhân
chính (động cơ) thúc đẩy người dân tham gia hoặc không tham gia. Nêu lên
những khó khăn họ gặp phải trong công việc mời người dân tham gia BHNT. Đề
xuất những ý kiến nhằm tạo ra thái độ tích cực với loại hình BHNT ở người dân.
7.5. Phương pháp sử dụng thống kê toán học trong nghiên cứu tâm
lý học
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thực hiện các bước trong việc
phân tích thống kê như : liệt kê dữ liệu, lập bảng số liệu, biểu đồ và các thống kê
suy luận. Mục đích nhằm minh chứng các giả thiết, các quan điểm về mặt định
lượng và trên cơ sở đó rút ra những kết luận về vấn đề nghiên cứu của mình.

12
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. VẤN ĐỀ THÁI ĐỘ TRONG TÂM LÝ HỌC
1.1.1.Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề thái độ
Trong tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học xã hội vấn đề thái độ đã thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà tâm lý học, cả các nhà tâm lý học
phương Tây, các nhà tâm lý học Mỹ cũng như các nhà tâm lý học mácxit.
Năm 1985, nhà tâm lý học người Mỹ William McGuire đã tổng kết: “Thái độ
và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều
nhất trong tâm lý học xã hội”{8,318}. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề thái
độ cho đến nay đã xuất hiện nhiều trường phái, nhiều quan điểm khác nhau.
a) Nghiên cứu vấn đề thái độ trong tâm lý học phương Tây
Khi phân tích lịch sử nghiên cứu về vấn đề thái độ ở phương Tây, nhà
tâm lý học người Nga P.N. Shikhirev đã chia quá trình này thành 3 thời kỳ
[8,318]
* Thời kỳ thứ nhất: (từ khi khái niệm thái độ được sử dụng đầu tiên vào

năm 1918 đến trước chiến tranh thế giới thứ hai) đây là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ, với nhiều công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào định nghĩa,
cấu trúc, chức năng của thái độ và mối quan hệ giữa thái độ với hành vi.
* Thời kỳ thứ hai: (từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đến cuối những
năm 1950) vì lý do chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới, cùng với sự bế tắc
của quá trình lý giải các nghịch lý nảy sinh trên toàn thế giới, và những
nghịch lý nảy sinh trong khi nghiên cứu thái độ, nên trong thời kỳ này các
công trình nghiên cứu về thái độ giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng.
* Thời kỳ thứ ba: (từ cuối những năm 1950 trở lại đây) các nước
phương Tây phục hồi và phát triển trở lại sau chiến tranh, các công trình

13
nghiên cứu về thái độ cũng được tiếp tục với nhiều ý tưởng, quan điểm mới.
Tuy nhiên, thời gian này những nghiên cứu về thái độ cũng lâm vào tình trạng
khủng hoảng.
Năm 1918 hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I Thomas và F. Znaniecki
là người đầu tiên đã đưa ra và sử dụng khái niệm thái độ trong nghiên cứu
của mình về những người nông dân Ba Lan. Năm 1934 La Piere đã tiến hành
thí nghiệm và đưa ra kết luận đầy kinh ngạc: ông đã chứng minh những gì
chúng ta nói và những gì chúng ta làm (tức là thái độ và hành vi của cá nhân
trong cùng một trường hợp) đôi khi lại rất khác nhau. Sau này được gọi là
“Nghịch lý La Piere” khi nói tới không có quan hệ nhân quả giữa thái độ và
hành vi. Kết luận của La Piere và tác động của chiến tranh thế giới lần thứ hai
đã làm cho các nhà tâm lý học Phương tây hoài nghi từ đó làm giảm sự quan
tâm của họ đối với vấn đề thái độ. Nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai
nhiều nhà tâm lý học lại quan tâm nghiên cứu về thái độ, vào năm 1957 có
một nghiên cứu lý giải tại sao hành vi lại ảnh hưởng tới thái độ của con người
đó là thuyết “bất đồng nhận thức” của Leon Festinger. Các nhà tâm lý học
Mỹ và phương Tây còn nghiên cứu các khía cạnh khác của thái độ như vai
trò, chức năng, cấu trúc của thái độ đó là các nghiên cứu của M. Rokeach

(1968), T.M Ostrom (1969), Mc Guire (1969), I.J Rempell (1988). đến năm
1972 có một học thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi
con người đó là “thuyết tự nhận thức” của Daryl Bern. Hai học thuyết của L.
Festinger và Daryl Bern đã có ảnh hưởng lớn tới những nghiên cứu về thái độ
sau này ở Mỹ và phương Tây.
b) Nghiên cứu vấn đề thái độ ở Liên Xô (trước đây)
Trong tâm lý học Liên Xô (trước đây) có ba học thuyết có ảnh hưởng
rất lớn tới những nghiên cứu về vấn đề thái độ là: Thuyết tâm thế của D.N.
Uznatze, Thuyết định vị của V.A. Iadov và Thuyết thái độ nhân cách của
V.N. Miaxisev
* Thuyết tâm thế

14
Dựa vào cơ sở thực nghiệm, D.N. Uznatze đã đề ra “học thuyết tâm
thế”, khái niệm thái độ (được nhiều người dịch là tâm thế) trong học thuyết
của Uznatze được hiểu là sự biến dạng hoàn chỉnh của chủ thể. Theo ông tâm
thế là trạng thái trọn vẹn của khách thể sẵn sàng tri giác các sự kiện và thực
hiện các hành động theo một hưóng nhất định. Tâm thế là trạng thái sẵn sàng
hướng tới một hoạt động nhất định, là cơ sở của tính tích cực có chọn lọc, có
định hướng của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự “tiếp xúc” giữa nhu cầu
và các tình huống thoả mãn nhu cầu, giúp cá nhân thích ứng được với các
điều kiện của môi trường.
D.N Uznatze đã dùng khái niệm “tâm thế” với tư cách là khái niệm
trung tâm, nhằm khắc phục tính đơn giản và quan điểm cơ học trực tiếp của
hành vi trong tâm lý học truyền thống và tâm lý học hành vi và đưa ra phương
pháp củng cố và thay đổi tâm thế.
Tuy nhiên khái niệm tâm thế mà Uznatze sử dụng lại là cái vô thức để
giải thích hành vi con người. Ông chỉ mới đề cập đến quá trình hiện thực hoá
các nhu cầu sinh lý mà không tính đến các hình thức hoạt động phức tạp, cao
cấp khác của con người, không tính đến tác động của các yếu tố xã hội cũng

như vai trò của quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội tới việc quy định hành
vi của con người. Nhưng với những phát hiện mới “thuyết tâm thế” đã đóng
vai trò là phương pháp khoa học cụ thể cho nhiều lĩnh vực cụ thể của tâm lý
học.
* Thuyết định vị của V. A. Iadov
V. A. Iadov đã dựa vào và phát triển “Thuyết tâm thế” của D.N.
Uznatze để đưa ra “Thuyết định vị” của mình, V.A. Iadov cho rằng: Con
người có một hệ thống các định vị khác nhau, rất phức tạp và hành vi của con
người bị điều khiển bởi các tổ chức định vị này [8.324]. Theo V. A Iadov, tâm
thế của D. N Uznatze chỉ là các định vị ở bậc thấp nhất, nó chỉ được hình
thành khi có sự tiếp xúc giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng cần thoả mãn nhu
cầu đó, đây chỉ là các định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng của cá nhân trong

15
các tình huống đơn giản nhất. Ở bậc cao hơn các định vị phức tạp hơn, được
hình thành trên cơ sở các hoạt động, giao tiếp của con người trong nhóm
nhỏ. Trên cấp bậc này là các định vị được hình thành trên cơ sở cũng như
những định hướng, sở thích được hình thành trên cơ sở cũng như những định
hướng, sở thích được hình thành trong các lĩnh vực xã hội cụ thể. Còn cấp bậc
cao nhất của định vị, theo V.A Iadov đã tạo nên sự định hướng giá trị của
nhân cách, có tác dụng điều chỉnh hành vi và hoạt động trong những tình
huống mà tính tích cực có giá trị nhất đối với nhân cách. Như vậy, có thể thấy
hệ thống “định vị” có thứ bậc từ thấp đến cao, điều chỉnh hành vi của cá nhân
trong các điều kiện xã hội ngày càng mở rộng và ổn định hơn. Từ hệ thống
định vị chúng ta có thể lý giải một cách hợp lý hành vi xã hội của cá nhân.
“Thuyết định vị” đã nghiên cứu thái độ ở một góc nhìn hoàn toàn mới, nó đã
thiết lập được mối liên hệ giữa những cách tiếp cận hành vi của nhân cách từ
các góc độ khác nhau như tâm lý học đại cương, tâm lý học xã hội.
Tuy nhiên, thiếu sót chủ yếu của V.A. Iadov là đã không làm rõ khái
niệm “định vị” là gì, đồng thời cũng không chỉ ra được cơ chế điều chỉnh

hành vi bằng các “định vị” trong những tình huống xã hội cụ thể.
* Thuyết thái độ nhân cách
Thuyết “Thái độ nhân cách” của V. N. Miaxisev cho rằng nhân cách là
một hệ thống thái độ. Theo ông phản xạ có điều kiện chính là cơ sở sinh lý
học của thái độ có ý thức của con người với hiện thực. V.N. Miaxisev chia
thái độ ra làm hai loại: tích cực và tiêu cực. Cùng với các quá trình, các trạng
thái, các thuộc tính tâm lý, thái độ là một trong những hình thức thể hiện tâm
lý người. Tuy nhiên, ông lại cho rằng các quá trình tâm lý, nhu cầu, thị hiếu,
hứng thú, tình cảm, ý chí… đều là thái độ. Có thể thấy việc xếp ngang hàng
các quan hệ xã hội với thái độ là chưa thoả đáng, cũng như coi các thuộc tính
tâm lý của nhân cách là thái độ cũng chưa có cơ sở. Tuy vậy, V.N. Miaxisev
vẫn là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học theo quan điểm
mácxit.

16
Tóm lại, khi nghiên cứu các vấn đề của thái độ, các nhà tâm lý học Xô
viết đã vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách, gắn thái độ với nhu
cầu, với điều kiện hoạt động, với nhân cách, coi thái độ như là một hệ thống,
từ đó đưa ra cách lý giải hợp lý và khoa học về sự hình thành thái độ, vị trí và
chức năng của thái độ trong quá trình điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá
nhân.
c) Một số nghiên cứu về vấn đề thái độ ở Việt Nam
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thái độ thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà tâm lý học. Nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
và khoá luận tốt nghiệp cử nhân tâm lý học đã nghiên cứu vấn đề thái độ. Các
tác giả đã nghiên cứu về thái độ của con người với những sự kiện, hiện tượng
cụ thể trong cuộc sống như: thái độ với lao động, thái độ với học tập, thái độ
với ca nhạc, thái độ với vấn đề ma tuý… Chúng tôi đưa ra một số nghiên cứu
tiêu biểu :
Chu Quang Lưu: “Thái độ của người công nhân đối với công việc và

xí nghiệp” Đại học KHXH& NV Hà Nội, 1997.
Nguyễn Đức Hưởng: “Nghiên cứu thái độ học tập của sinh viên Đại
học An ninh nhân dân”. Luận văn thạc sĩ tâm lý học, năm 2001
Nguyễn Thị Hoà: “Thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh
lớp 3 ở một số trường phổ thông Biên Hoà đối với nội dung giáo dục dân số”.
Luận văn thạc sĩ tâm lý học.
Nguyễn Thị Huệ: “Nghiên cứu thái độ với việc rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm của sinh viên trường Cao đẳng mầm non Thanh Hoá”. Luận văn thạc sĩ
tâm lý học
Lê Thị Bừng: “Tự đánh giá thái độ học tập của sinh viên sư phạm
trong điều kiện có phân cấp học bổng”. Kỷ yếu hộ thảo khoa học nhân dịp 30
năm thành lập khoa Tâm lý – giáo dục ĐHSP Hà Nội, 2001.

17
Nguyễn Ngọc Bảo: “Tính tích cực của nhận thức là thái độ” . Kỷ yếu
hộ thảo khoa học nhân dịp 30 năm thành lập khoa Tâm lý – giáo dục ĐHSP
Hà Nội, 2001.
Nguyễn Lệ Hằng: “Thái độ của người dân với hành vi vứt rác bừa
bãi”. Luận văn thạc sĩ tâm lý học, Đại học KHXH& NV Hà Nội, 2003.
1.1.2. Các định nghĩa về thái độ
Từ khi khái niệm thái độ được đưa ra lần đầu tiên năm 1918, cùng với
rất nhiều nghiên cứu khác nhau về vấn đề thái độ, thì đồng thời cũng xuất
hiện những định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về thái độ. Mỗi định
nghĩa lại bàn tới một khía cạnh riêng của thái độ - thể hiện sự sâu rộng trong
việc nghiên cứu về thái độ.
Trước khi đề cập tới các định nghĩa thái độ trong tâm lý học, chúng ta
hãy tìm hiểu khái niệm thái độ trong một số từ điển. Trong từ điển tiếng Việt
thái độ được hiểu là cách nhìn nhận hoạt động của cá nhân theo một hướng
nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những
biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm của cá nhân đối với con người

hay một sự việc nào đó [17,894]. Trong từ điển Anh –Việt, thái độ được viết là
“Attitude” và được dịch nghĩa là cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân.
Trong từ điển “Các thuật ngữ tâm lý và phân tâm học” xuất bản ở New York
năm 1996 thì cho rằng: thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu
được từ bên ngoài, hướng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một
nhóm đối tượng nhất định, không phải như bản thân chúng ra sao mà chúng
được nhận thức ra sao. Một thái độ được nhận biết ở sự nhất quán của những
phản ứng đối với một nhóm đối tượng. Trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng
trực tiếp lên cảm xúc và hoạt động có liên quan đến đối tượng.
Khái niệm thái độ đã được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918, của hai
nhà tâm lý học người Mỹ là W.I. Thomas và F. Znaniecki. Hai ông cho rằng:
Thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân đối với một giá trị này hay một

18
giá trị khác, làm cho cá nhân có hành động này hay hành động khác mà được
xã hội chấp nhận. Như vậy hai ông đã đồng nhất thái độ với định hướng giá
trị của cá nhân. Và nhà tâm lý học người Mỹ G. W. Allport vào năm 1935, đã
đưa ra định nghĩa về thái độ như sau: thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt
tinh thần và thần kinh, được hình thành thông qua kinh nghiệm, có khả năng
điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân đến các
tình huống và khách thể mà nó có thiết lập mối quan hệ {27,810]. G.W Allport
định nghĩa thái độ trên khía cạnh điều chỉnh hành vi. Ông coi thái độ như
trạng thái tâm lý, thần kinh ảnh hưởng đến hoạt động. Ở một cá nhân khi sắp
sửa có một hành động diễn ra, thì sẽ xuất hiện thái độ nhằm chuẩn bị và điều
chỉnh những hoạt động đó. Có thể thấy G.W Allport đã trả lời được câu hỏi
thái độ là gì và đề cập tới nguồn gốc, vai trò, chức năng của thái độ. Tuy
nhiên, ông đã chưa lưu ý tới ảnh hưởng của môi trường, nhu cầu, động cơ của
cá nhân đối với quá trình hình thành thái độ.
Cũng vào năm 1935, H. Fillmore đã đưa ra một định nghĩa về thái độ:
Thái độ là phản ứng sẵn sàng tích cực hay tiêu cực, đối với một đối tượng hay

một biểu tượng trong môi trường[30,540]. Ông còn khẳng định Thái độ chính
là sự định hướng của cá nhân tới các khía cạnh khác nhau của môi trường, và
thái độ là một cấu trúc mang tính động cơ {30,540].
Năm 1971, nhà tâm lý học người Mỹ H.C. Triandis đã đưa ra định
nghĩa về thái độ như sau: Thái độ là những tư tưởng được tạo nên bởi các xúc
cảm, tình cảm. Nó gây tác động đến hành vi nhất định, ở một giai cấp nhất
định, trong những tình huống xã hội nhất định. thái độ của con người bao
gồm những điều mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối tượng, cũng như cách xử
sự của họ với đối tượng đó. Còn gần đây Jame. W. Kalat đưa ra định nghĩa
“Thái độ là sự thích hay không thích một sự vật hoặc một người nào đó của
cá nhân, từ đó ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi ứng xử với sự vật hay
con người đó”[36,299]. Nhà tâm lý học John Traver cũng định nghĩa “Thái độ

19
là cách cảm xúc, tư duy và hành động tương đối lâu dài đối với sự việc hay
con người nào đó”[35,300].
Trong khi đó, cũng nghiên cứu về thái độ nhưng nhà tâm lý học Xô viết
D.N Uznatze không sử dụng khái niệm “thái độ” mà lại dùng thuật ngữ tương
đương là “tâm thế”. D.N Uznatze cho rằng: Tâm thế không phải là một nội
dung cục bộ của ý thức, không phải là nội dung tâm lý bị tách rời, đối lập lại
với trạng thái tâm lý khác của ý thức và ở trong mối quan hệ qua lại với nó,
mà nó là một trạng thái toàn vẹn, xác định của chủ thể… Tính khuynh hướng
năng động của tâm thế là một yếu tố theo hướng toàn vẹn theo một hướng
nhất định nhằm một hướng năng động nhất định. Đó là sự phản ánh cơ bản,
đầu tiên đối với tác động của tình huống, mà trong đó chủ thể phải đặt ra và
giải quyết nhiệm vụ[8,321]. Còn các nhà tâm lý học xã hội Leningrat (Liên Xô)
lại quan niệm thái độ là những cơ cấu tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng
phó của cá nhân.
Hầu hết các định nghĩa đều giải thích “thái độ” dưới góc độ chức năng
của nó. Thái độ định hướng hành vi, ứng xử của con người. Nó thúc đẩy, tăng

cường tính sẵn sàng của hành vi, phản ứng của con người tới đối tượng có
liên quan. Chính Nâyzơ khi nghiên cứu thái độ đã đưa ra các đặc điểm chung
này của các định nghĩa về thái độ, ý kiến của Nâyzơ đã được H. Hipso và M.
Phorvec đồng tác giả của cuốn “Nhập môn tâm lý học xã hội macxit” công
nhận. Hai ông đã chỉ ra “điểm chung” khi nghiên cứu khái niệm thái độ trong
lý luận của tâm lý học nói chung và tâm lý học macxit nói riêng một cách cụ
thể và chính xác cần phải chọn tiêu điểm chức năng làm điểm tựa, trong tâm
lý học macxit đó là chức năng của thái độ trong hoạt động hợp tác[9,172].
Những quan niệm về thái độ cũng được phản ánh trong quan điểm của
các nhà tâm lý học Việt Nam đó là quan niệm cho rằng Thái độ là một bộ
phận cấu thành, đồng thời là thuộc tính cơ bản của ý thức[23,48] hay Thái độ
về mặt cấu trúc bao hàm cả mặt nhận thức, mặt xúc cảm và mặt hành vi
[17,894].

20
Trong tâm lý học xã hội hiện đại của Mỹ, khi định nghĩa về thái độ một
số tác giả thường đề cập nhiều đến khía cạnh nhận thức hơn là về mặt chức
năng của thái độ, như Davis Myers đã coi “thái độ” là phản ứng có thiện chí
hay không có thiện chí về một điều gì đó, hay một người nào đó, được thể
hiện trong niềm tin cảm xúc hay hành vi có chủ định[31,39]. Hay như nhà tâm
lý học W. J. Mc.Guire thì cho rằng thái độ là bất cứ sự thể hiện nào về mặt
nhận thức, tổng kết sự đánh giá của chúng ta về đối tượng của thái độ, về bản
thân, về những người khác, về đồ vật, về hành động, sự kiện hay tư tưởng.
Tóm lại, thông qua quá trình xem xét và phân tích các định nghĩa về
thái độ vừa đề cập ở trên chúng ta có thể khái quát bằng một khái niệm chung
nhất về thái độ như sau: Thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc tính
trọn vẹn của ý thức, tạo ra trạng thái tâm lý sẵn sàng hành động của con
người với đối tượng theo một hướng nhất định, được bộc lộ ra bên ngoài
thông qua nhận thức, tình cảm và hành vi, (gồm cử chỉ, nét mặt, lời nói) của
người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể.

1.1.3. Đối tƣợng và đặc điểm của thái độ
a) Đối tượng của thái độ
Thái độ bao giờ cũng hướng tới đối tượng nhất định, đối tượng của thái
độ có thể là tất cả các sự kiện, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất và
tinh thần mà con người đang sống. Tuy nhiên, đối tượng thái độ của mỗi cá
nhân lại có giới hạn, cá nhân chỉ có thái độ đối với các đối tượng có tồn tại
trong thế giới tâm lý của mình thôi. Chẳng hạn một người không thể có thái
độ với vấn đề ma tuý, HIV/AIDS khi mà anh ta không biết gì về những vấn
đề đó.
b) Đặc điểm của thái độ
Năm 1957, G.V.Allport[27,810] dựa trên 17 định nghĩa thái độ mà ông
đã liệt kê và đưa ra 5 đặc điểm chung của thái bao gồm:
- Thái độ là trạng thái nhất định của tinh thần và hệ thần kinh.

21
- Thái độ thể hiện sự sẵn sàng phản ứng.
- Thái độ là trạng thái có tổ chức.
- Thái độ dựa trên kinh nghiệm được tiếp thu từ trước.
- Thái độ có ảnh hưởng, tác động và điều khiển hành vi.
Ngoài các đặc điểm chung trên, thái độ còn có những đặc điểm khác
quan trọng và chính những đặc điểm này đã tạo nên thái độ khác nhau của
mỗi người, trong mỗi tình huống cụ thể. Những đặc điểm đó là:
- Trị số (tính phân cực) bất kỳ một thái độ nào cũng thể hiện hoặc là
tích cực hay tiêu cực, sự ủng hộ hay phản đối.
- Cường độ: là sự thể hiện mạnh hay yếu của thái độ.
- Mức độ: đó là thái độ thể hiện nhiều hay ít cùng một tính chất nhưng
mức độ thể hiện có thể không như nhau.
- Tính ổn định: thời gian tồn tại của thái độ, mối quan hệ giữa 3 thành
tố của thái độ (nhận thức, xúc cảm tình cảm và hành vi).
1.1.4. Cấu trúc thái độ

Trong ngành tâm lý học hiện nay đang tồn tại hai quan điểm lý thuyết
chính về cấu trúc của thái độ. Mỗi quan điểm nhìn nhận về các thành phần cụ
thể của thái độ là khác nhau và mối quan hệ giữa các thành phần của thái độ
cũng khác nhau. Một quan điểm cho rằng thái độ gồm ba thành phần: nhận
thức, xúc cảm tình cảm và hành vi và ba thành phần này có mối quan hệ chặt
chẽ, thống nhất với nhau. Quan điểm thứ hai lại cho rằng ba thành phần đó
của thái độ thể hiện một cách riêng biệt, tách biệt và phụ thuộc vào những
hoàn cảnh cụ thể.
a) Quan điểm ba thành phần có mối quan hệ chặt chẽ
Đại diện cho quan điểm này là nhà tâm lý học M. J. Rosenberg, trong
một cuốn sách viết năm 1956, M. J. Rosenberg [33,367-372] đã đưa ra mô hình
3 thành tố, hình thành nên cấu trúc thái độ. Ba thành tố đó là: nhận thức, xúc

22
cảm hành vi. Cấu trúc này của Rosenberg được phần lớn các nhà tâm lý học
tán thành.
- Thành tố nhận thức thể hiện sự nhìn nhận, quan điểm , đánh giá của
cá nhân đối với đối tượng có liên quan.
- Thành tố xúc cảm thể hiện ở sự rung động, quan tâm , chú ý đến đối
tượng.
- Thành tố hành vi gồm những phản ứng, ứng xử của cá nhân, xu
hướng hành động với đối tượng
Các thành tố trên tuỳ theo từng đối tượng và tình huống sẽ có một vai
trò chỉ đạo và chi phối thái độ của cá nhân một cách khác nhau và các thành
tố này mang tính thống nhất cao, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
b) Quan điểm các thành tố cuar thái độ riêng biệt
Đây là quan điểm lý thuyết mới xuất hiện về cấu trúc thái độ, quan
điểm này cho rằng ba thành phần trên của thái độ được thể hiện một cách
riêng biệt, các thành phần này có thể không liên quan với nhau, điều này phụ
thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể. Đại diện cho quan điểm này là hai nhà tâm

lý học Fishbein và Ajzen, cho rằng khái niệm thái độ liên quan nhiều đến khía
cạnh tình cảm đối với việc tán thành hay không tán thành đối tượng và cho
rằng không nhất thiết phải có sự phù hợp giữa niềm tin, thái độ và xu hướng
hành vi.
Theo chúng tôi một nguyên tắc quyết định luận quan trọng của tâm lý
học macxit là sự thống nhất giữa ý thức và hành vi, vì vậy trong công trình
nghiên cứu này chúng tôi phân tích thái độ theo cấu trúc ba thành phần có
mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Tuy trong cuộc sống có những
lúc, những tình huống chúng ta “nói một đằng làm một nẻo” nhưng đó là
những trường hợp cá biệt, xét trong cả một quá trình và bản chất chung nhất
(bản thể luận) thì giữa những gì chúng ta nghĩ và những gì chúng ta làm cơ
bản là thống nhất với nhau.

23
1.1.5. Chức năng của thái độ
Con người có khả năng ứng xử linh hoạt theo từng tình huống khác
nhau nhờ có các khuôn mẫu thái độ xã hội xác định. Điều này luôn giữ một
vai trò to lớn trong đời sống tâm lý con người. Thái độ có một số chức năng
chủ yếu quan trọng sau đây:
Chức năng thích nghi: thái độ hướng con người tới các đối tượng có thể
giúp họ đạt được mục đích đề ra. Nếu các cá nhân có thái độ được mọi người
chấp nhận, ủng hộ thì cá nhân đó dễ dàng đạt được mục đích của mình hơn,
dễ được thưởng và tránh bị phạt hơn.
Chức năng kiến thức: Thái độ giúp chúng ta hiểu được thế giới chúng
ta đang sống và tạo ra những cảm nhận về những gì đang xảy ra xung quanh.
Thái độ làm rõ và giải thích cho chúng ta về ý nghĩa các sự kiện. Nhờ có các
khuôn mẫu thái độ xã hội sẵn có, cá nhân chỉ việc thực hiện rập khuôn theo
một cách hết sức giản đơn, đồng thời tiết kiệm được thời gian, sức lực.
Chức năng thể hiện: Biểu hiện giá trị giúp cho cá nhân củng cố ý thức
về cá tính của mình, thông qua thái độ cá nhân biểu lộ nhận thức, xúc cảm và

hành vi của mình tới đối tượng.
Chức năng tự vệ: Thái độ giúp chúng ta nâng cao lòng tự trọng và bảo
vệ chúng ta chống lại những căng thẳng của cuộc sống. Khi một cá nhân có sự
xung đột có thể là giữa hứng thú và nhu cầu, giữa nhận thức và hành vi… cá
nhân thường biện minh, tự lý giải hệ quả là hình thành một thái độ mới tương
ứng giảm bớt và loại bỏ những bất đồng nội tâm.
Chức năng tác động điều chỉnh hành vi: đây là một chức năng quan
trọng được xem xét nhiều hơn cả nhằm tìm hiểu sự ảnh hưởng của thái độ tới
hành vi của cá nhân như thế nào.
1.1.6 Sự hình thành thái độ
a) Các yếu tố hình thành thái độ

24
Chúng ta biết rằng không phải mọi thái độ được hình thành từ những
nguồn gốc giống nhau. Thái độ gồm ba thành phần vì vậy thái độ có thể được
hình thành từ một trong ba thành phần trên. Đa số các nhà tâm lý học xã hội
đều cho rằng thái độ được hình thành trong quá trình phát triển của cá nhân,
và chịu sự quyết định của các yếu tố như: nhu cầu cá nhân, thông tin, giao tiếp
nhóm và nhân cách của cá nhân. Nhà tâm lý học R. Marten cho rằng thái độ
được hình thành từ kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân, nó có tính ổn định và
tuỳ theo từng tình huống, thái độ sẽ thay đổi phù hợp với từng tình huống đó.
Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu, theo hướng
sau: hình thành thái độ tích cực đối với những khách thể có lợi cho con đường
đạt được mục đích nào đó để thoả mãn các nhu cầu của mình và hình thành
thái độ tiêu cực đối với những khách thể có hại cho việc đạt mục đích để thoả
mãn nhu cầu của mình. Một thái độ có thể phục vụ nhiều mục đích khác nhau
và mặt khác các nhu cầu khác nhau có thể hình thành nên một thái độ.
Thái độ hình thành bởi các thông tin: con người không thể có thái độ
với một sự kiện hiện thượng nào đó trong cuộc sống khi mà anh ta chẳng biết
tí gì về vấn đề đó cả, mà chỉ khi được tiếp xúc với những nguồn thông tin về

vấn đề đó thì mới có thể có thái độ về vấn đề đó được. Ở đây chúng ta thấy
thái độ phụ thuộc vào nguồn thông tin, thông tin có thể đúng, có thể lệch lạc
do đó hình thành nên thái độ tương ứng.
Giao tiếp nhóm: là một yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành
thái độ: Mỗi cá nhân thường là thành viên của những nhóm khác nhau, thái độ
của anh ta thường phản ánh giá trị, niềm tin, chuẩn mục của nhóm mà anh ta
là thành viên. Chuẩn mực nhóm không chỉ xác định hành vi nào đúng, hành vi
nào sai mà còn xác định thái độ nào đúng, thái độ nào sai nữa, thông qua cơ
chế thưởng- phạt của nhóm tạo nên một áp lực, ép cá nhân phải tuân theo.
Thưởng (bằng vật chất hoặc tinh thần) với những cá nhân có hành vi, thái độ
đúng và trừng phạt những cá nhân có thái độ sai với chuẩn mực nhóm.

25
Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ: cá nhân có thể tiếp thu thái
độ của nhóm một cách có lựa chọn và mức độ tuỳ thuộc vào nhân cách của
mỗi cá nhân. Cá nhân có xu hướng tiếp nhận những thái độ phù hợp với nhân
cách của mình và cũng có thể tiếp nhận những thái độ mâu thuẫn lẫn nhau
bởi sự giáo dục khác nhau.
Thái độ được hình thành từ hành vi: trong cuộc sống con người có
những vai trò mới cần phải làm quen và thực hiện nó một cách tốt nhất, để
thực hiện được các vai trò mới, con người cần phải có các hành vi, hoạt động
mới, và chính các “hành vi mới này sẽ làm nảy sinh thái độ mới”[33,369]. Khi
xuất hiện, thái độ mới đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến hành vi, hoạt động, thúc
đẩy quá trình thực hiện hành vi. Có nhiều nhà tâm lý học đã nghiên cứu mối
quan hệ này như thuyết “bất đồng nhận thức” của Leon Festinger thuyết “tự
tri giác” của Daryl Bern. Các nghiên cứu cho thấy hành vi ban đầu có ảnh
hưởng đến thái độ của hành vi tiếp theo nó, còn thái độ lại ảnh hưởng đến
chính hành vi tạo ra nó.
Như vậy, thái độ được hình thành chủ yếu bởi các yếu tố xã hội. Sau
đây chúng ta tìm hiểu cơ chế hình thành thái độ.

b) Các cơ chế hình thành thái độ
Các định nghĩa về thái độ mà chúng ta vừa đề cập ở phần trên, khi bàn
về thái độ hầu như ít đề cập đến cơ chế hình thành thái độ của cá nhân. Vào
năm 1968, hai nhà tâm lý học người Đức là H. Hipso và M. Phorvec cũng đã
quan tâm đến vấn đề này khi đưa ra ý kiến Người ta có thể nói, các thái độ
được tiếp nhận thông qua 4 cơ chế tâm lý xã hội khác nhau, đó là: bắt chước,
đồng nhất hoá, giảng dạy và chỉ dẫn[9,172].
Theo hai ông thì bắt chước tạo ra một quá trình hình thành thái độ của
con người. Trong quá trình này con người được học các phương thức hành vi,
phản ứng mà không cần phải sử dụng các kỹ thuật giáo dục và theo một
phương thức nào cả. Do đó, bắt chước là giáo dục một cách tự phát, hay nói
một cách khác đây là cách thức thấp nhất của quá trình hình thành thái độ.

26
Đồng nhất hoá cũng tương tự như bắt chước, sự khác biệt thể hiện ở
chỗ đồng nhất hoá là sự bắt chước có chọn lọc, có ý muốn chủ quan của cá
nhân, hay có thể coi đồng nhất hoá là một dạng bắt chước có ý thức. Chính sự
khác biệt này tạo cho đồng nhất hoá một vị trí cao hơn bắt chước trong cấu
trúc của quá trình hình thành thái độ.
Giảng dạy là một hình thức hình thành thái độ trong đó cá nhân được
người khác trực tiếp chỉ dẫn, thông báo, truyền thụ những thông tin, những
phương thức cần thiết theo mục tiêu. Đây là một hình thức truyền đạt thông
tin đặc biệt. Trái với ba quá trình trên, chỉ dẫn đòi hỏi chủ thể phải hoạt động
một cách tích cực trong quá trình tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình
giảng dạy cá nhân bị động trong việc tiếp thu tri thức còn trong chỉ dẫn cá
nhân chủ động tích cực trong lĩnh hội tri thức, tự làm giàu thêm kinh nghiệm
bản thân.
Mặc dù có sự khác nhau, nhưng tất cả cơ chế tâm lý nói trên đều có ảnh
hưởng tới sự hình thành, củng cố, hay thay đổi thái độ ở con người.
1.1.7 Sự thay đổi thái độ

Sự thay đổi thái độ của con người đã thu hút nhiều nhà tâm lý học quan
tâm nghiên cứu, vì sự thay đổi thái độ thường biểu hiện trong những hoàn
cảnh, sự kiện cụ thể mang dấu ấn riêng của con người như: những biến đổi
tôn giáo, thương thuyết chính trị, các cuộc vận động quảng cáo, những thay
đổi trong thành kiến cá nhân. Thái độ của cá nhân hình thành được thì cũng
có thể thay đổi được, thật ra sự hình thành và thay đổi thái độ không tách biệt
nhau - đó là hai giai đoạn liên tục của quá trình phát triển thái độ. Thay đổi
thái độ có thể chia làm hai loại;
- Thay đổi ngược chiều: từ thái độ tích cực (+) sang thái độ tiêu cực (-),
hoặc ngược lại từ (-) sang (+).
- Thay đổi cùng chiều: chiều vẫn giữ nguyên nhưng mức độ tiêu cực
hay tích cực thay đổi.

27
Khả năng thay đổi của thái độ phụ thuộc vào đặc tính của hệ thống thái
độ, của giao tiếp nhóm và đặc điểm nhân cách cá nhân.
Đặc tính thái độ và khả năng thay đổi thái độ: các thái độ cực đoan hơn
có khả năng thay đổi thấp hơn các thái độ ít cực đoan. Hệ thống thái độ phù
hợp bền vững thường ổn định bởi các thành tố nhận thức, tình cảm, hành vi
hỗ trợ cho nhau, thái độ không phù hợp thường kém ổn định do có sự mâu
thuẫn giữa các thành tố nên dễ thay đổi theo hướng tăng độ bền vững.
Đặc điểm nhân cách và khả năng thay đổi thái độ: các yếu tố như đặc
điểm thể chất, tài năng, ý chí, phong cách, đạo đức…đều có mối liên hệ nhất
định trong quá trình thay đổi thái độ
Giao tiếp nhóm và khả năng thay đổi thái độ: những thái độ của cá
nhân được sự ủng hộ về mặt xã hội thông qua nhóm mà cá nhân giao tiếp thì
ít có sự thay đổi. Hoàn cảnh sống thay đổi cũng làm cá nhân thay đổi thái độ.
1.1.8. Biểu hiện của thái độ
Thái độ của con người về đối tượng nào đó được biểu hiện ra bên ngoài
bằng hành động cụ thể với đối tượng đã được nhận thức đó. Giữa thái độ và

hành vi có mối liên hệ với nhau mà các nhà nghiên cứu về thái độ luôn quan
tâm, xem xét. Trong những tình huống nhất định thái độ quy định hành vi
đồng thời thái độ cũng chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, ở đó cá
nhân có xu thế biểu hiện những gì mà cá nhân đó cho rằng người khác muốn
như vậy.
Thái độ quy định hành vi được biểu hiện ở chỗ khi mỗi cá nhân ý thức
được rõ ràng thái độ của mình trong cuộc sống, trong các “vai” khác nhau cá
nhân quen dần với các vai của mình, thực hiện nó một cách thoải mái tự
nhiên, không còn gượng ép, ngượng ngùng nữa. Con người ở mỗi vị trí, mỗi
xã hội khác nhau sẽ có những hành động, cách ứng xử phù hợp với địa vị của
mình.

28
1.1.9. Mối quan hệ giữa thái độ và các hiện tƣợng tâm lý khác
Khi xem xét bản chất của thái độ, các học giả thường đặt nó trong mối
quan hệ với các hiện tượng tâm lý khác hoặc trong các khái niệm khác bao
quát hơn như nhân cách, xúc cảm và hoạt động.
a)Thái độ và ý thức cá nhân
Ý thức về phương diện tâm lý học là hình thức phản ánh tâm lý bậc
cao, là đặc trưng của loài người, là năng lực của nhận thức được cái phổ biến
và cái bản chất trong hiện thực khách quan, đồng thời là năng lực định hướng
điều khiển một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với hoàn
cảnh tự nhiên, xã hội. Cấu trúc của ý thức bao gồm bốn thành tố cơ bản là;
Nhận thức về thế giới (thế giới quan); tri thức về bản thân; khả năng lập trình
cho hành động; hệ thống thái độ với xung quanh. Như vậy, thái độ là một
thành phần, một hình thức của ý thức biểu hiện tính tích cực, mối quan hệ
ngược của ý thức với hiện thực. Mối quan hệ giữa thái độ và ý thức là mối
quan hệ giữa cái bộ phận và cái tổng thể.
b) Thái độ và nhu cầu
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người cần phải thoả mãn để phát

triển, là động lực đầu tiên thúc đẩy hoạt động. Nhu cầu có thể hiểu là điều
kiện bên trong - một yếu tố bắt buộc phải có của hoạt động và đó là cái hướng
dẫn điều khiển hoạt động chủ quan của chủ thể trong thế giới khách quan.
Nhu cầu có vai trò nòng cốt, quyết định quá trình hình thành, phát triển nhân
cách là nền tảng của động cơ, mục đích hoạt động, nguồn gốc của tính tích
cực cá nhân, kích thích cá nhân hoạt động đồng thời là quá trình hình thành sự
sẵn sàng hành động (hình thành, củng cố thái độ của cá nhân đối với sự vật,
hiện tượng)
Thông qua việc thoả mãn nhu cầu, cá nhân củng cố các thành phần của
thái độ như quan điểm, nhận thức, cảm xúc cũng như cách cư xử với đối
tượng thoả mãn nhu cầu. Thái độ của cá nhân được hình thành trên cơ sở có
sự gặp gỡ giữa nhu cầu và tình huống thoả mãn nhu cầu. Do vậy, nhu cầu là

×