Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phật giáo với việc củng cố liên kết cộng đồng làng - xã Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.65 KB, 80 trang )


MỤC LỤC
trang
Mở đầu 01
Chương 1
Khái niệm làng xã, làng ven đô và liên kết cộng đồng làng xã 06
1.1. Khái niệm làng xã 06
1.2. Khái niệm làng ven đô 11
1.3. Khái niệm liên kết cộng đồng làng xã 16
Chương 2
Vai trò của yếu tố Phật giáo đối với liên kết làng xã 21
2.1. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam 21
2.2. Chùa Phật giáo trong không gian văn hoá làng xã 26
2.3. Sự tác động của Phật giáo đến liên kết cộng đồng làng xã 38
Chương 3
Phật giáo với việc củng cố liên kết làng xã vùng ven đô hiện nay 52
3.1. Đô thị hoá vùng ven đô và sự tác động của nó đến liên kết làng xã vùng
ven đô: Thực trạng và vấn đề 52
3.2. Tác động của Phật giáo đến việc củng cố liên kết làng xã vùng ven đô55
3.3. Một số khuyến nghị phát huy vai trò của Phật giáo với việc củng cố liên
kết làng xã vùng ven đô hiện nay 63
Kết luận 70
Danh mục tài liệu tham khảo 72





5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


(1) Vấn đề làng xã Việt Nam từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của các
nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó phải kể đến những đóng
góp lớn của giới sử học, nhân học, xã hội học, văn hóa học và triết học với
chuyên ngành lịch sử tư tưởng Việt Nam. Những tranh luận và trao đổi học thuật
xung quanh chủ đề này hiện nay đã lắng xuống nhiều so với những thập kỷ 60-
80 của TK XX. Tuy nhiên điều đó không hề làm giảm ý nghĩa, tầm quan trọng
của những nghiên cứu liên quan đến vấn đề làng xã nói chung. Điều này được
thể hiện ít nhất trên những điểm sau đây: thứ nhất, làng hay làng xã Việt Nam là
thực thể xã hội nền tảng, trong đó hội tụ những điểm ưu trội giúp cho xã hội
Việt Nam có thể vượt qua những thách thức nghiệt ngã của lịch sử - thường
xuyên là đối tượng xâm lăng của các nước lớn; thiên nhiên khắc nghiệt. Sức
mạnh cộng đồng với cái nôi sinh trưởng, duy trì, dung dưỡng là làng xã được
xác định chính là nhân tố rất quan trọng. Thậm chí GS. Phan Ngọc đã dùng hình
ảnh “hằng số lịch sử” để diễn tả tầm ý nghĩa của hiện tượng làng xã. Thứ hai,
những thay đổi của xã hội Việt Nam, đặc biệt là xã hội nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và dưới sự tác động của toàn cầu hóa đang đặt ra
những thách thức to lớn với làng xã Việt Nam. Ở đây không chỉ là vấn đề mô tả
những biến đổi, mà sâu xa hơn, căn bản hơn là vấn đề xác định, củng cố cơ sở
xã hội cho sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại trước những thách thức
chưa từng có trong lịch sử. Với nghĩa đó chúng tôi cho việc tiếp tục nghiên cứu
về làng xã là vấn đề có giá trị thời sự hiện nay.
(2) Nếu làng xã là một thực thể xã hội truyền thống lưu giữ, tạo dựng sức
mạnh của xã hội Việt Nam thì vấn đề tính cộng đồng và liên kết cộng đồng làng
xã là cái thể hiện phương thức tạo lập nên đặc điểm và sức mạnh của cộng đồng
làng xã Việt Nam. Vì vậy, có thể xem đây là một trong số hệ vấn đề quan trọng
khi nghiên cứu sự vận động của mô hình làng xã Việt Nam, đặc biệt là trong
những biến chuyển hiện nay. Để thực hiện điều này, việc hướng vào nghiên cứu
các yếu tố tác động đến biến đổi liên kết cộng đồng làng xã là một trong những

6

hướng lựa chọn cho phép chúng ta hình dung rõ và có đối sách giải quyết những
vấn đề đang đặt ra.
(3) Trong lịch sử làng xã Việt Nam, sự hiện diện của Phật giáo ngoài vai
trò tôn giáo nói chung, nó còn là một trong những thành tố có lịch sử hàng ngàn
năm của văn hóa Việt Nam, nhất là văn hóa làng xã. Thực tế lịch sử Việt Nam
đã chỉ ra vai trò của Phật giáo trong xã hội nông thôn với tư cách là thành tố
quan trọng duy trì quan hệ cộng đồng, duy trì sự ổn định quan hệ giữa con người
với con người thông qua những hoạt động đa dạng của nó.
Với những lý do trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài: Phật giáo với việc
củng cố liên kết cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Hệ thống tư liệu, kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài này là rất lớn,
trong phạm vi của đề tài chúng tôi không thể thực hiện một tổng quan đủ phủ
toàn bộ, mà chỉ có thể đề cập đến một số nguồn giúp chúng tôi có những chỉ dẫn
về cứ liệu và ý tưởng trực tiếp. Vì vậy, các tài liệu sẽ được sắp xếp một cách
tương đối theo nhóm chủ đề:
(1) Chủ đề - Làng xã Việt Nam: Đây là nhóm có số tài liệu phong phú
nhất với những tên tuổi lớn. Ở đây chỉ xin kể đến: Từ Chi – “Cơ cấu tổ chức của
làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”; Vũ Ngọc Khánh – “Nghiên cứu văn hoá cổ
truyền Việt Nam”; Phan Đại Doãn – “Làng xã Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế
văn hoá xã hội”; Trần Quốc Vượng (Chủ biên) – “Cơ sở văn hoá Việt Nam” và
nhiều tác giả, tác phẩm khác. Ở nhóm chủ đề này cũng không thể không kể đến
công trình của nhà nghiên cứu người Pháp – GS. Dominic với công trình
“Không gian xã hội Đông Nam Á”. Những công trình trên đã cung cấp tri thức
quan trọng để có thể hiểu biết thực thể làng xã Việt Nam từ lý luận đến bức
tranh biến đổi của nó trong lịch sử.
(2) Chủ đề - Làng ven đô: Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những tư liệu
trực tiếp như: Ngô Văn Giá (chủ biên) – “Những biến đổi về giá trị văn hóa
truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kì đổi mới”; John Kleinen -
“Làng Việt - Đối diện tương lai hồi sinh quá khứ”; Lê Hồng Lý - Phạm Thuỷ


7
Chung – “Những sinh hoạt văn hoá dân gian ở một làng ven đô – Làng Đăm”;
Phạm Hùng Cường – “Làm mới lại cấu trúc làng Việt”; “Báo cáo của UBND
thành phố Hồ Chí Minh: Các vấn đề kinh tế xã hội đặt ra đối với vùng ven trong
đô thị hóa”; “Quyết định của Thủ tướng về việc phê duyệt quy hoạch vùng đô
thị Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn 2050” (Số 490/QĐ-TTg ngày 5 tháng 5 năm
2008).
Các tài liệu này không chỉ định dạng nội hàm khái niệm vùng ven đô, mà
còn tập trung phân tích điểm khác biệt và những thay đổi của vùng ven đô.
(3) Chủ đề - Liên kết cộng đồng làng xã: Những tác phẩm đề cập trực
tiếp, trọn vẹn về chủ đề này là khá hiếm. Điều này có thể giải thích bởi lẽ, vấn
đề tính cộng đồng hay liên kết cộng đồng vốn được thể hiện với tư cách là sự
định dạng đặc điểm và phương thức hoạt động, tồn tại của cộng đồng làng xã, vì
thế nó hầu như được xem xét, mô tả, phân tích trong các tác phẩm nghiên cứu
chung về làng xã. Ở đây có thể kể đến những tác giả như: Trần Văn Giàu, Đào
Duy Anh, Từ Chi, Phan Đại Doãn, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm.v.v.
Qua các tài liệu khảo cứu, chúng tôi thấy những nghiên cứu phân tích các yếu tố
tác động đến liên kết cộng đồng làng xã chiếm vị trí ưu trội.
(4) Chủ đề - Phật giáo và vai trò của yếu tố Phật giáo trong văn hóa làng
Việt Nam và làng ven đô: Có thể nói đây là hệ thống tài liệu khá phong phú, bao
gồm những tài liệu trực tiếp và những tài liệu gián tiếp về văn hóa làng. Các tài
liệu có điểm chung là đều nhìn Phật giáo như một thành tố quan trọng của văn
hóa làng Việt Nam, từ đó chỉ ra những tác động tích cực của yếu tố này đến việc
củng cố quan hệ cộng đồng làng xã.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích tổng quát: Nghiên cứu sự tác động của Phật giáo đến việc củng
cố liên kết cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hình thành các khái niệm công cụ cho đề tài luận văn: Khái niệm làng

xã; khái niệm làng ven đô; khái niệm liên kết cộng đồng làng xã.

8
- Phân tích sự tác động của yếu tố Phật giáo đến củng cố liên kết cộng
đồng làng xã, trong đó chú trọng đến loại hình làng ven đô.
- Khuyến nghị một số giải pháp khai thác yếu tố Phật giáo đối với củng cố
liên kết cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự tác động của yếu tố Phật giáo đến việc củng
cố liên kết cộng đồng làng xã Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Với tên đề tài, khái niệm làng xã Việt Nam hiện
nay có ngoại diên khá rộng, nó đòi hỏi người nghiên cứu hướng vào những vấn
đề chung, phổ quát cho tất cả các loại hình làng xã. Đó là một khó khăn không
nhỏ. Vả lại, một trong những đặc trưng rất quan trọng của Phật giáo là sự tụ hội
ở ngôi chùa với tư cách là thiết chế gắn chặt với những cộng đồng cư dân cụ thể,
và đó cũng chính là điểm mạnh của Phật giáo. Để khai thác những đặc điểm đó,
chúng tôi hướng nghiên cứu của mình vào mô hình làng ven đô, là mô hình đang
có những biến động lớn so với các làng thuần nông. Vì thế trong công trình này,
chúng tôi dành sự chú ý thích đáng đến loại hình làng ven đô.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài luận văn trên thực tế không bó hẹp trong khung
khổ của chỉ một lĩnh vực khoa học, vì vậy khi xác định cơ sở lý luận của luận
văn chúng tôi lựa chọn như sau:
+ Lý luận Triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng và Nhà nước về xã hội, sự phát triển xã hội.
+ Lý luận Tôn giáo học, trong đó chú trọng đến những công trình nghiên
cứu về Phật giáo.
+ Kế thừa những thành tựu nghiên cứu có liên quan đến đề tài từ các lĩnh
vực: Lịch sử Việt Nam, Dân tộc học, Văn hóa Việt Nam, lý luận về phát triển…
- Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu

chung như phân tích, so sánh, tổng hợp, lôgic – lịch sử. Đồng thời, tác giả sử
dụng những phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tôn giáo học…
6. Đóng góp của luận văn

9
Với đề tài rộng và khó, tác giả luận văn không kỳ vọng có những đóng
góp lớn về lý luận cho việc giải quyết đề tài. Bằng việc thực hiện tổng hợp, kế
thừa quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu đi trước, tác giả hy vọng luận văn có
thể có ích cho những người quan tâm đến vấn đề giải bài toán phát triển cộng
đồng ở nông thôn Việt Nam trước những thách thức lớn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.



10
Chương 1
KHÁI NIỆM LÀNG XÃ, LÀNG VEN ĐÔ VÀ LIÊN KẾT
CỘNG ĐỒNG LÀNG XÃ

1.1. Khái niệm Làng xã
Thuật ngữ “Làng xã” hay “làng” nguyên nghĩa thường được dùng để chỉ
một cộng đồng cư dân gắn bó, hoặc có gốc rễ, hoặc có mối liên hệ trước hết về
mặt đời sống kinh tế, văn hóa với hoạt động nông nghiệp. Vì vậy, xét về mặt
lịch sử tồn tại, phát triển của cộng đồng người, nó là mô hình cộng đồng tồn tại
rất sớm so với các đô thị. Cũng vì thế vai trò, ý nghĩa của yếu tố “làng xã” là rất
quan trọng theo phương diện hình thái học và động lực học của sự tiến bộ xã
hội. Tuy nhiên, đặc điểm, tính chất và vai trò của loại hình cộng cư này ngoài
một số điểm đồng nhất, thì những khác biệt, tính đặc thù của nó luôn thu hút sự

chú ý, tìm kiếm của các nhà nghiên cứu. Những khác biệt này không chỉ trong
phổ so sánh lớn như phương Đông – phương Tây, hoặc châu lục, mà thậm chí
trong những không gian địa lý tự nhiên gần như đồng nhất thì các cộng đồng
làng xã cũng có những đặc thù về phong tục, tập quán, lối sống, ngôn ngữ, tổ
chức… Đó thực sự là khó khăn cho việc nghiên cứu hiện tượng làng xã, và trả
lời câu hỏi “Làng xã là gì” chắc chắn là điều không dễ. Cũng vì vậy, việc tồn tại
cho đến nay những điểm khác biệt trong các kiến giải hoặc cách tiếp cận về khái
niệm “làng xã” cũng là điều thường gặp.
Trong di sản của các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác, vấn đề “làng xã”,
đặc biệt là về làng xã của các xã hội cổ truyền phương Đông được Mác đề cập
trực tiếp (và cũng không nhiều) trong những phát biểu của ông về “Xã hội Á
châu” hay về “Phương thức sản xuất châu Á”. Từ mẫu nghiên cứu chính là xã
hội Ấn Độ, Mác nêu luận điểm gợi ý quan trọng: “Một nhà nước Á châu được ra
đời do nhu cầu bức thiết phải kiến tạo những công trình thủy lợi qua sự điều
khiển của các kẻ thống trị, và sự tồn tại lâu dài của cái nhà nước này là nhờ sự
hiện hữu của tình trạng dân cư sống phân tán tụ tập thành những đơn vị xóm

11
làng tự cung tự cấp dựa trên cơ sở keo sơn giữa tiểu nông và thủ công gia
đình.”[35, tr.116]
Từ nhận định trên của Mác thì ở Châu Á, điểm chúng tôi chú ý ở đây về
vị trí của yếu tố làng xã chính là mệnh đề về vai trò của “làng xã” như là “đơn vị
cơ sở”. Dù ngữ cảnh của tác phẩm là để giải thích sự hình thành nhà nước,
nhưng có thể hiểu rộng hơn, đó là yếu tố rất đáng chú ý với nghĩa nó chứa đựng
trong đó những “ẩn số” giúp giải mã “bí mật” về sự vận động của các xã hội
phương Đông. Hàm nghĩa thứ hai này, theo chúng tôi là hướng nghiên cứu trong
nhiều thập kỷ qua về hiện tượng “làng xã” của nhiều công trình nghiên cứu về
Việt Nam. Một chỉ dẫn khác cũng rất quan trọng từ phương diện kinh điển cho
các nghiên cứu về làng xã, đó là những công trình của Lênin về nông dân và tâm
lý tiểu nông

1
.
Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể lấy mốc từ sau 1975 – cả nước
thống nhất và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên phạm vi
toàn quốc. Quá trình trên đã tác động và tạo ra những biến động không nhỏ đối
với xã hội Việt Nam. Nếu so về lịch sử tồn tại của làng xã cổ truyền ở Việt Nam
thì giai đoạn trên vẫn còn là khá ngắn, mặc dù để đo sự biến đổi của một xã hội
không thể chỉ lấy tiêu chí thời gian. Trên thực tế chúng ta thấy dấu ấn của quan
hệ, tập quán, thói quen, nếp nghĩ, cách ứng xử gắn với tính từ “làng xã” vẫn khá
đậm nét trong những ngõ ngách của xã hội Việt Nam hiện đại.
Là người tu hành Phật giáo, gần như toàn bộ hoạt động và cuộc sống gắn
bó với các cư dân làng xã, nhưng khi tiếp cận khái niệm làng xã chúng tôi mới
cảm nhận rõ sự phức tạp của nó. Trước hết điều đó thể hiện ở sự tồn tại của rất
nhiều định nghĩa, quan niệm về làng xã.
Để minh chứng cho điều này, xin dẫn ra ở đây một số định nghĩa về “làng
xã” Việt Nam:
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh vào tính chất của làng xã
truyền thống mà đưa ra định nghĩa về làng: “Làng là điểm tập hợp cuộc sống


1
Có thể tóm tắt luận điểm chính của Lênin về làng tiểu nông như sau: 1/ Nó mang nặng tính chất sản xuất nhỏ,
tự túc tự cấp; 2/ Kỹ thuật lạc hậu, nên về cơ bản vẫn là lao động thủ công; 3/ Nhiều thiết chế cổ truyền vẫn được
duy trì, ví dụ “tổ chức thân tộc”; 4/ Tàn dư tâm lý cũ (tâm lý tiểu nông) còn tồn tại ở mức độ đậm đặc do sự bảo
tồn những nhân tố thuộc thiết chế cũ.

12
cộng đồng của mọi người, cuộc sống đa dạng và phong phú, vừa có tính đẳng
cấp phong kiến vừa có tính cộng đồng rất đáng quý.”[7, tr.23]
GS. Phan Đại Doãn xuất phát từ cấu trúc của làng xã truyền thống đưa ra

quan niệm làng xã như sau: “Cộng đồng làng là sự hợp thành một hệ thống có
gia đình cá thể, có họ hàng, có phường hội, có xóm giáp và những mối liên kết
vật chất và tinh thần như tộc ước, phường lệ, hương ước và tín ngưỡng tôn giáo,
hội hè, đình đám… Làng là tích hợp của những thành tố trên.”[5, tr.127] Nhằm
làm rõ hơn khái niệm về làng, GS. Phan Đại Doãn còn đưa ra sự phân biệt giữa
làng và xã: “Làng là cộng đồng dân cư tự nhiên tập hợp theo quan hệ huyết
thống, quan hệ địa vực, quan hệ nghề nghiệp…còn xã là cộng đồng dân cư theo
tổ chức hành chính. Trước năm 1945, ở đồng bằng Bắc Bộ nhìn chung làng cũng
là xã.”[5, tr.18-19]
GS.TS Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra một định nghĩa về làng xã trên cơ sở
nhấn mạnh nguồn gốc lịch sử: “Xét về nguồn cội, làng thời phong kiến tồn tại
cho tới hiện tại là sự phát triển mở rộng của một gia đình, gia tộc từ thủa khởi
đầu, mà gần đây trên cơ sở những cứ liệu điều tra quan hệ thân tộc giữa các gia
đình trong một làng cho thấy, hầu như mỗi làng đều từ một họ gốc, một họ lớn
nhất… Dần dần cùng với quá trình tăng trưởng dân số, xáo trộn dân cư, quan hệ
hôn nhân, các làng từ quan hệ thân tộc là chính trở thành quan hệ láng
giềng.”[42, tr.315]
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa Làng (hay làng xã) gồm 2 lớp nghĩa: “1.
Khối cư dân ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt,
và là một đơn vị hành chính cấp thấp nhất thời phong kiến; 2. Những người
cùng một nghề, một việc nào đó (làng báo, làng thơ).”[55, tr.542] Như vậy với
định nghĩa này, nghĩa thứ nhất của quan niệm được dẫn trên phù hợp với khung
khổ vấn đề được đề cập của đề tài. Khái niệm làng xã gắn với “khối cư dân nông
thôn” là điểm nhấn chính của định nghĩa này.
Hoặc tác giả Hữu Ngọc đưa ra quan niệm làng (Làng xã) trên cơ sở nhấn
mạnh đặc điểm tổ chức tụ cư: Làng là “Đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn
người Việt. Nhỏ hơn làng là xóm… Từng nhóm cư nông đã quần tụ thành từng

13
cư điểm ngoài trời. Những cư điểm này thường được thiết lập trên những gò, đồi

thấp, chân núi, doi đất giữa vùng đất trũng, bên những dòng sông đầm hồ… Các
cư điểm có quy mô rất khác nhau, có cư điểm rộng hàng vạn mét vuông và tồn
tại hàng ngàn năm. Các cư điểm này thường rào giậu rất chắc chắn để chống thú
dữ hoặc giặc dã…”[31, tr.401]
Những định nghĩa được nêu ra ở trên dù chưa thật phản ánh đầy đủ sự đa
dạng và những khác biệt nào đó về khái niệm làng xã, nhưng trong chừng mực
nhất định, nó cũng đủ để thấy đây là đối tượng nghiên cứu phức tạp. Điểm mạnh
của các định nghĩa được nêu trên chính là chỉ ra những góc nhìn khác nhau và
rất hữu ích cho việc nghiên cứu về làng xã. Cũng vì thế, việc lựa chọn một quan
niệm cung cấp bộ khung lý thuyết có thể phân tích tổng thể các yếu tố của nó sẽ
là cần thiết cho đề tài. Theo chúng tôi, một quan niệm như vậy cần được dựa
trên nền tảng phương pháp luận của triết học Mác về xã hội, cụ thể ở đây là của
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Từ những phân tích trên, quan niệm làng xã
chúng tôi lựa chọn
2
cho đề tài nghiên cứu của luận văn bao gồm những nội hàm
chính sau đây:
Thứ nhất, Làng xã (hay làng) đó là cộng đồng cư trú cơ bản của người
Việt, có nguồn gốc từ rất sớm và có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử
dựng nước, giữ nước của dân tộc ta.
Thứ hai, Làng vừa là một cộng đồng kinh tế, vừa là cộng đồng văn hóa,
vừa là một đơn vị hành chính (trước cách mạng). Các yếu tố trên trong những
tương tác tổng thể của làng có xu hướng nổi trội ở tính độc lập, đóng kín của các
xã hội tiểu nông.
Về kinh tế, điểm nổi bật của làng Việt truyền thống là hoạt động kinh tế
thường gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của
quá trình phân công lao động, ở các làng xuất hiện sự đan xen sản xuất thủ công
và buôn bán, hoặc có những làng chuyên về nghề thủ công hoặc buôn bán. Về
ruộng đất, các nhà nghiên cứu về làng xã Việt Nam truyền thống đã khái quát,
về đại thể có các loại ruộng chính sau: ruộng công (ruộng làng, ruộng họ) và



2
Để hình thành quan niệm này, chúng tôi dựa nhiều trên những kết quả nghiên cứu của Từ Chi.

14
ruộng tư (chủ yếu của địa chủ, của tầng lớp trung nông, tuy nhiên sự phân bổ và
quy mô tích tụ ruộng đất tùy thuộc từng thời kỳ và chịu sự tác động của nhiều
nhân tố).
Về văn hóa, làng xã do tính chất ổn định, chặt chẽ của nó đã đóng vai trò
là yếu tố căn bản định hình, lưu giữ, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa
làng xã không chỉ phản ánh, mà còn có quan hệ nhân – quả với đặc điểm sinh
hoạt và lịch sử cộng đồng làng. Về đại thể, nó thể hiện rõ trong các hương ước,
tập quán, các sinh hoạt văn hóa – lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo của
cộng đồng làng.
Thứ ba, về cư dân có cấu trúc khá phức tạp. Những người có cùng một họ
(hoặc nhiều dòng họ) có tổ tiên đầu tiên đến cư trú hoặc khai hoang hợp thành
bộ phận chính của làng. Còn bộ phận khác, đó là những người từ nơi khác đến
cư trú trong lãnh thổ làng, có thể trở thành hoặc cư dân chính thức hoặc dân ngụ
cư của làng.
Thứ tư, về cấu trúc tổ chức làng gồm ba loại chính: 1/ phân chia theo nơi
ở (xóm, ngõ); 2/ theo huyết thống (họ); 3/ theo lứa tuổi (giáp). Tuy nhiên, ranh
giới giữa các cấu trúc tổ chức trên của làng xã cũng chỉ có tính tương đối.
Tuy làng xã là thiết chế tổ chức có tính ổn định, tính bền vững cao trong
lịch sử nhưng điều đó không có nghĩa nó là thực thể bất biến. Nói cách khác, nó
cũng có sự vận động, phát triển, biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội.
Nhưng dù vậy, đối với người Việt, làng là một ý niệm sâu sắc và thiêng liêng
bởi nó gắn liền với biểu tượng quê cha đất tổ, với sự khẳng định diện mạo, địa
vị, danh vọng của mỗi con người. Và cũng vì vậy, trải qua những biến động lớn
của lịch sử nhưng dường như ý thức, tâm lý làng xã với tư cách là ý thức cộng

đồng ở người Việt vẫn không mất đi.
1.2. Khái niệm làng ven đô
Khác với khái niệm làng xã, khái niệm làng ven đô chắc chắn có lịch sử
gần đây hơn, bởi lẽ loại cộng đồng cư dân này là hiện tượng gắn với sự xuất
hiện của các đô thị, hay nói một cách khác, nó là sản phẩm của quá trình đô thị
hóa.

15
Nhìn về lịch sử đô thị hóa ở Việt Nam, một số tài liệu sử học cho rằng,
quá trình này đã xuất hiện ở thời kỳ trung đại dưới hình thái các đô thị phong
kiến. Tuy nhiên, do những lý do lịch sử, sự hình thành đô thị phong kiến ở nước
ta diễn ra với tốc độ chậm chạp, với chức năng chính là các trung tâm chính trị -
hành chính. Một chiều nhìn khác cho thấy, đặc điểm hiện diện của các nguyên
nhân, mô hình kinh tế của quá trình đô thị hóa là giới hạn rất căn bản cho những
tác động của nó đến những chuyển biến lớn trong xã hội nông thôn truyền thống
Việt Nam. Nghiên cứu các quá trình liên quan đến hiện tượng đô thị hóa ở Việt
Nam thế kỷ XIX, GS. Phan Đại Doãn viết: “Tổ chức hành chính và xây dựng cơ
bản của thành thị đều do chính quyền chi phối. Các phường ở Thăng Long và
Huế do triều đình lập ra hoàn toàn không có loại hình công xã thành thị tự do
(như thành thị ở Châu Âu). Biên chế dân cư của thành thị cũng bị chính quyền
chi phối. Trước hết có quý tộc, quan lại, sỹ phu, thương nhân, các tầng lớp lao
động là nông dân, thợ thủ công và một ít nhà sư Thợ thủ công và thương nhân
trong các phố phường Thăng Long đa số từ nhiều nơi khác tới, nhưng họ không
cắt đứt với làng quê cũ. Một số không ít chỉ cư trú tạm thời, coi kinh đô là nơi
kiếm ăn theo các mùa theo tháng mà thôi. Tại Thăng Long, họ tái lập hình thức
sinh hoạt và kiểu cư trú theo làng cũ. Và nếu định cư, họ lại lập xóm giáp, xây
đình chùa và nhà thờ họ.”[5, tr.70-71]
“Quá trình phát triển của Châu Âu tiền TBCN là thành thị tách biệt nông
thôn, hai khu vực kinh tế xã hội khác nhau. Thành thị là những công xã tự do
của người sản xuất hàng hoá mà nông thôn là những lãnh địa phong kiến. Ở Việt

Nam, thành thị không phải khu vực kinh tế xã hội riêng biệt mà lại kết hợp với
nông thôn thành một thể thống nhất. Có chăng, điểm phân biệt với nông thôn ở
chỗ, thành thị là đầu não của chính quyền quân chủ nên thành thị chi phối nông
thôn về chính trị.”[5, tr.72]
Nhìn từ chiều cạnh biến đổi kinh tế, nhận định trên của GS. Phan Đại
Doãn nhấn mạnh đặc điểm rất đáng lưu ý của quá trình đô thị hóa và đương
nhiên trong đó có cấu trúc làng ven đô: “Chợ làng và phường hội tồn tại phổ
biến trong nông thôn khiến nông nghiệp và kinh tế hàng hoá nhỏ, giản đơn hoà

16
lẫn vào nhau thành một thể thống nhất. Đây là điểm đặc biệt khá ổn định trong
kết cấu tiền TBCN của nông thôn nước ta. Sự hoà tan thành thị trong “nông
thôn” (dưới nhiều hình thức khác nhau) là nhân tố rất quan trọng kìm hãm bước
tiến của xã hội nước ta và nhiều nước châu Á… Trong lịch sử Việt Nam, quá
trình đô thị hoá theo kiểu như Châu Âu diễn ra yếu ớt ở đồng bằng sông Hồng.
TK XVII-XVIII có những đô thị lớn như Thăng Long, Phố Hiến song sang TK
XIX, Thăng Long suy giảm, Phố Hiến biến mất. Những đô thị như Hội An, Sài
Gòn, Mỹ Tho… có sức sống lâu dài hơn song vẫn chưa tách rời về kinh tế xã hội
với nông thôn và chính quyền phong kiến, chưa trở thành khu vực kinh tế xã hội
có tính chất tự trị riêng biệt (trừ Hội An).”[5, tr.22-23] Sự thiếu vắng tính chất
“tự trị riêng biệt” hay nói chính xác hơn là sự thiếu vắng loại hình hoạt động
kinh tế với phương thức sản xuất cao hơn so với mô hình sản xuất nông nghiệp
phong kiến của quá trình đô thị là đường dẫn lý giải hiện tượng mà GS. Phan
Đại Doãn gọi là “Sự hoà tan thành thị trong “nông thôn”.
Từ góc nhìn về vị trí địa lý, GS. Vũ Ngọc Khánh đã mô tả về loại hình
làng ven thành (cũng chính là làng ven đô): “Có những kiểu làng có thể gọi là
dạng làng ven thành. Hoặc làng bao quanh đồi…Những loại làng ven thành này,
có những làng gần như đảm nhận vai trò làm cửa ngõ đi vào các thành phố, tỉnh
lỵ lớn nhỏ…Có làng lại được bài trí theo hoàn cảnh cụ thể của thiên nhiên: xóm
thôn chỗ này thì đi theo các vệt đường, vệt sông rõ rệt, chỗ kia lại khuất hẳn tầm

nhìn, không theo thứ tự gì.” [20, tr.427]
Giai đoạn chứa đựng những biến đổi lớn của quá trình đô thị hóa, từ đó
hình thành nên những dáng dấp và đặc điểm mới của làng ven đô ở nước ta chắc
chắn gắn chặt với những biến đổi kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị từ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX trở lại đây: Thực dân Pháp thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa với điểm căn bản là vơ vét tài nguyên và khai thác lợi thế kinh tế
nông nghiệp. Cùng với quá trình này đã hình thành một khu vực phụ cận đô thị,
bắt đầu chuyển hướng dần từ mô hình kinh tế tiểu nông, tiền tư bản truyền thống
với việc đáp ứng nhu cầu tự túc của mình hoặc rộng hơn là cộng đồng làng là
chính, sang cung ứng những sản phẩm phục vụ cư dân đô thị ngày càng trở nên

17
đông đảo hơn. Những liên kết kinh tế đó chắc chắn tạo ra những khác biệt nhất
định giữa khu vực ven đô với khu vực thuần nông truyền thống. Nhưng về căn
bản là do chính sách của thực dân Pháp, tập trung khai thác chứ không lựa chọn
các mục tiêu tạo nền tảng cho chuyển biến văn minh của các xã hội thuộc địa.
Từ chiều nhìn những biến đổi quan trọng về cấu trúc, đặc điểm kinh tế,
văn hóa, xã hội của khu vực ven đô hiện nay, có thể khẳng định: đó là kết quả
trực tiếp, lớn lao của quá trình thực hiện chiến lược, chủ trương Công nghiệp
hóa, Hiện đại hóa, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Từ những khái quát, dù sơ lược như trên, và đặc biệt là từ những biến đổi
của làng ven đô trong những năm gần đây, có thể hình dung khái niệm này như
sau: Làng ven đô là một loại hình tổ chức cộng đồng với tư cách là tập con của
khái niệm “vùng ven đô”. Trong các văn bản quy hoạch, vùng ven đô được định
nghĩa là tất cả các xã, phường, thị trấn có phần lãnh thổ tiếp giáp khu vực nội
thành
3
. Cụ thể hơn, Phạm Sĩ Liên trong bài “Làng ven đô, làng nội đô và nông
nghiệp đô thị” (tạp chí Người xây dựng của Viện Nghiên cứu đô thị và phát
triển hạ tầng) giải thích khái niệm này như sau: Làng trong vùng ven đô vốn là

làng nông nghiệp ngoại thành bình thường nhưng vì đô thị mở rộng nhanh mà
trở nên gần gũi với nội đô, do đó đời sống kinh tế của làng bị đảo lộn để thích
ứng với tình thế mới, kéo theo những biến đổi sâu sắc về lối sống và đời sống
tinh thần của người dân. Làng ven đô cấu thành vùng ven đô. Bề rộng vùng ven
đô phụ thuộc chủ yếu vào tầm ảnh hưởng của nội đô, thời gian để đi từ nơi xa
nhất vào mép nội thành thường vào khoảng 20~30 phút. Khi phương tiện giao
thông còn thô sơ, bề rộng đó vào khoảng 2~5 km, còn ngày nay phương tiện cơ
giới nhiều hơn nên có thể đến 10~15 km hay hơn nữa. Bề rộng khu vực ven đô
có thể bị hạn chế bởi chướng ngại tự nhiên như sông hồ, núi đồi.
Tận dụng lợi thế ở cạnh nội đô, nông dân chuyển từ sản xuất lương thực
sang sản xuất thực phẩm như rau quả, thịt cá và trồng hoa để đáp ứng nhu cầu
nội đô, đẩy mạnh thâm canh vì đất canh tác giảm nhanh do nhiều người nội


3
Xem: Quyết định về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng thủ đô Hà Nội đến năm 2020 tầm nhìn 2050 của
Thủ tướng Chính phủ, số: 490/ QĐ-TTg, ngày 5/5/2008; Báo cáo tổng hợp các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra đối
với vùng ven trong quá trình đô thị hóa của UBND TP. HCM tháng 12 năm 2005; Phạm Sĩ Liên: Làng ven đô,
làng nội đô và nông nghiệp đô thị, tạp chí Người xây dựng của Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng.

18
thành ra mua đất có giá rẻ hơn để xây nhà ở. Nhiều dân làng vào nội thành kiếm
việc làm theo kiểu sáng đi tối về. Giá trị đất đai tăng lên và quá trình đô thị hóa
tự phát lặng lẽ xảy ra dù khu vực đó có nằm trong quy hoạch hay không. Tình
trạng này khác với hiện tượng “vòi bạch tuộc” (sprawl) tại các nước phát triển,
khi nhiều người giàu vì chán ở trong trung tâm đô thị ồn ào, ô nhiễm và tắc
nghẽn giao thông, nên bỏ ra ven đô mua đất làm nhà ven đường.
Từ những gợi ý trên có thể hình dung một số đặc trưng chính của khái
niệm làng ven đô hiện nay:
(1) Làng ven đô là đơn vị cư trú nông thôn với thành phần chủ yếu là

làng nông nghiệp có địa giới tiếp giáp với khu vực nội đô. Đây là khu vực đang
diễn ra quá trình đô thị hóa rất mạnh.
(2) Về kinh tế: Đặc điểm điển hình là sự chuyển đổi từ xã hội thuần
nông sang sản xuất hàng hóa thương phẩm phục vụ chủ yếu cho nhu cầu đô thị.
Đây có thể xem là đặc điểm rất quan trọng, định hình không chỉ sự khác biệt về
mô hình kinh tế mà còn về các chuyển biến xã hội khác của các làng ven đô so
với các làng thuần nông, hoặc xa hơn nữa là so với làng xã truyền thống cả trên
phương diện lợi thế và điểm yếu.
(3) Về cơ cấu dân cư: Đặc điểm dễ nhận thấy đó là cấu trúc trở nên phức
tạp hơn so với mẫu làng truyền thống đã mô tả ở mục 1.1. với sự hiện diện của
các cơ cấu di cư: dân làng tham gia vào thị trường lao động đô thị làm cho đặc
điểm làng xã gần như là môi trường “đóng khung” toàn bộ diễn trình của đời
người trong các xã hội truyền thống bị phá vỡ; hiện tượng di dân của một bộ
phận cư dân thành thị về cư trú ở làng; hiện tượng di cư cơ học gắn liền với sự
phát triển của các khu công nghiệp.v.v. Điều đó không chỉ làm đa dạng hóa cơ
cấu dân cư, mà có lẽ quan trọng hơn là nó đã tác động rất mạnh đến cấu trúc văn
hóa và các mối quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng của các làng ven đô.
(4) Từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá đến các làng ven đô cùng
với sự phát triển hạ tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng,
tăng cường quan hệ làm ăn, buôn bán giữa các vùng miền đã làm cho diện
mạo làng ven đô và đời sống tinh thần của cư dân của nó ngày càng phong phú,

19
đa dạng hơn. Ở đó đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị mới mẻ, hiện đại;
sự truyền bá các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị;
sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ làm cho
văn hoá làng quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ hưởng thụ
và tham gia sáng tạo văn hoá của nông dân các vùng đô thị hoá, nhìn trên tổng
thể, được nâng lên.
Tuy nhiên, tác động của quá trình đô thị hóa cũng đang tạo ra cho các

làng ven đô những sức ép, nguy cơ lớn có thể đưa đến những xung đột, những
biến dạng khó lường, từ đó phá vỡ đặc điểm vốn là thế mạnh của làng xã với tư
cách là cái nôi lưu giữ, chuyển dẫn bản sắc văn hóa cộng đồng người Việt, một
trong những giá trị, yếu tố giúp dân tộc ta đứng vững trước bao thách thức của
lịch sử, của tự nhiên trong hàng ngàn năm tồn tại, phát triển của mình.
1.3. Khái niệm liên kết cộng đồng làng xã
Ở mục 1.1. Làng xã được xem xét với tư cách là tổ chức cộng đồng truyền
thống của người Việt. Khi bàn đến khái niệm liên kết làng xã, một khía cạnh
khác của khái niệm cộng đồng là tính cộng đồng lại hiện diện với tư cách là khái
niệm cùng cấp và có quan hệ mật thiết để giải thích thế nào là liên kết làng xã.
Bởi vì đích đến của các bài toán tăng cường liên kết làng xã là hướng đến xác
lập tính cộng đồng (hay mức độ gắn bó của các thành viên hợp thành nhóm xã
hội nhất định) của các cấu trúc làng xã.
Cộng đồng, theo John J. Macionis trong cuốn Sociology, là khái niệm
dùng để chỉ tập thể xã hội “có mức độ nhận biết chung và tương tác với nhau
thường xuyên.”[18, tr.219] Nội hàm căn bản của khái niệm cộng đồng thể hiện ở
sự cố kết của các thành viên với nhau dựa trên cơ sở những giá trị chung được
tạo lập không chỉ bằng những quy tắc rõ ràng, những luật thành văn, mà còn bởi
những mối liên hệ tầng sâu như huyết thống, truyền thống… Tuy cộng đồng
luôn hiện diện với những hình thức và những nhận dạng xã hội hết sức phong
phú (chẳng hạn ta luôn nhận thấy sự khác biệt giữa cộng đồng người trồng lúa
với người đánh cá), nhưng nếu phân sẻ về cấu trúc cộng đồng để tìm những yếu
tố đồng dạng, có thể thấy một bên là cái ta (cá nhân) và một bên là cái chúng ta

20
(cộng đồng). Ở đây “cái chúng ta” (theo thuyết tâm lý học giao tiếp của Lomov)
chính là cơ sở cho các cá nhân của cộng đồng hình thành nên các cảm nhận và
tương tác chung với tư cách là cơ sở của những liên kết cộng đồng xã hội.
Có thể có nhiều quan niệm khác nhau về tính cộng đồng, nhưng chúng tôi
cho quan niệm trên là điểm tựa cần thiết để xem xét khái niệm liên kết cộng

đồng làng xã sẽ được bàn đến.
Để giải thích nội hàm khái niệm liên kết cộng đồng, chúng ta không thể
không, dù chỉ ở mức độ sơ lược, đề cập đến khái niệm có quan hệ gần gũi có
chức năng mô tả kiểu loại, cách thức con người cố kết lại với nhau thành những
nhóm xã hội. Như chúng ta biết, trong Triết học xã hội của chủ nghĩa Mác, khái
niệm “quan hệ xã hội” có vị trí rất quan trọng trong việc nhận diện bản chất của
con người. Một trong những hàm nghĩa của khái niệm này là sự khẳng định: đặc
trưng căn bản của con người là sống thành xã hội, nghĩa là nó tồn tại và phát
triển như một thực thể xã hội. Chính vì điều này, những quan hệ xã hội, liên hệ
xã hội luôn là nền tảng của cuộc sống con người, bởi vì mọi cá nhân với tư cách
là con người đều có mối quan hệ (Chữ Relation (tiếng anh) chuyển nghĩa tiếng
việt có các nghĩa: quan hệ, liên hệ, tương quan, liên kết với người khác (Bố, mẹ,
anh, em, các thể chế xã hội, các nhóm xã hội ) bằng một cách nào đó và trong
một cấu trúc xã hội phức tạp bao quanh nó nhằm tới định hướng cho hoạt động
của nó. Đương nhiên với quan điểm biện chứng duy vật, những mối quan hệ,
liên kết đó không phải là bất biến mà thay đổi, phát triển theo sự thay đổi, phát
triển của con người và bối cảnh xã hội của nó. Sự cắt nghĩa trên có thể coi là nền
tảng để đi vào khái niệm liên kết cộng đồng, liên kết xã hội.
Mặc dù có sự tương đồng quan trọng với khái niệm quan hệ xã hội, thuật
ngữ liên kết thiên về mô tả cách thức và các nhân tố gắn con người lại với nhau
thành cộng đồng với nghĩa: tạo nên ở chúng những cảm nhận và tương tác
chung của các thành viên cộng đồng. Nói cách khác, thuật ngữ này theo một
nghĩa nào đó hàm chứa khía cạnh chức năng luận.

21
Giải nội hàm khái niệm liên kết xã hội hay cộng đồng, trong các nghiên
cứu của John J. Macionis (trong cuốn Sociology đã được nhắc đến ở trên) gợi sự
chú ý đến những phương diện sau đây:
Về chức năng liên kết xã hội gồm 2 quá trình căn bản sau: sự gắn bó và
xã hội hóa. Sự gắn bó trước hết được thể hiện là những quan hệ tình cảm nối

những con người trong cộng đồng với nhau. Những quan hệ tình cảm đó là cơ sở
rất quan trọng trong suốt quá trình tồn tại của mỗi con người, chẳng hạn tình
cảm gia đình, dòng tộc, làng nước Xã hội hóa được hiểu là quá trình hòa nhập
vào cộng đồng thông qua những tương tác giữa các cá nhân với những người
xung quanh và với cộng đồng xã hội của nó.
Các loại hình liên kết xã hội hay cộng đồng rất đa dạng. Về đại thể có thể
hình dung một số kiểu loại sau đây: liên kết cá nhân; liên kết có tính tổ chức hay
theo chuẩn mực; liên kết theo những khác biệt xã hội, dân tộc, lứa tuổi, địa bàn
cư trú, nghề nghiệp… Với mỗi loại liên kết này thường hình thành được những
mô thức, nguyên tắc giao tiếp xã hội đặc trưng.
Bất cứ liên kết cộng đồng nào cũng hình thành trong những khung cảnh
lịch sử, gắn liền với những biến cố và những sự lựa chọn của nó trước hoàn cảnh
sống. Nghiên cứu các nhân tố tác động, chi phối, quy định các liên kết cộng
đồng giúp chúng ta không chỉ nhận diện đặc điểm, mà còn cả khuynh hướng
biến đổi của chúng. Nhưng đó là những nhân tố loại nào? Câu trả lời trước hết
phụ thuộc ở mô hình lý thuyết được lựa chọn. Xuất phát từ sự chỉ dẫn phương
pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta có thể khu biệt
phạm vi xem xét của chủ đề vào những nhân tố: Kinh tế (phương thức sản xuất);
chính trị (mô hình tổ chức hành chính của cộng đồng, thiết chế chính trị…); văn
hóa (tập quán, phong tục, sinh hoạt văn hóa, tôn giáo); xã hội (biến động của cơ
cấu tổ chức, sự hình thành các nhóm xã hội…)…
Từ nội hàm trên của khái niệm liên kết cộng đồng, chúng tôi trong chừng
mực nhất định gắng tiếp cận khái niệm liên kết cộng đồng làng xã với tư cách là
khái niệm dùng và được khái quát từ thực thể làng xã và lịch sử riêng của Việt
Nam. Đây là công việc khó khăn mà biết bao thế hệ các nhà nghiên cứu, đặc biệt

22
của giới sử học và dân tộc học đã thực hiện suốt nhiều thập kỷ qua, nhưng vấn
đề vẫn còn đó với không ít những tranh cãi, những khác biệt. Vì vậy, cái chúng
tôi có thể làm ở đây chỉ là phác qua những yếu tố tác động đến sự vận động của

liên kết cộng đồng làng xã, làm chỗ dựa cho những suy nghĩ, lý giải liên quan
đến đề tài nghiên cứu của luận văn.
Thứ nhất, qua các tài liệu sử học, tâm lý học, xã hội học, lịch sử tư tưởng
Việt Nam, chúng tôi lựa chọn luận điểm của GS. Phan Đại Doãn – coi tính cộng
đồng (với tư cách là cái chúng ta) là hạt nhân cơ bản tạo nên liên kết cộng đồng
làng xã: “Điều nổi bật là cái cộng đồng - một giá trị được tạo lập, duy trì và củng
cố qua nhiều thế hệ, là sức mạnh truyền thống vừa có tính chất quốc gia vừa có
tính địa phương, được sản sinh từ làng xã.”[5, tr.7]
Thứ hai, để nghiên cứu liên kết làng xã phải đặt các quan hệ cộng đồng
trong khung cơ cấu tổ chức của làng, với sự tồn tại của nhiều lớp quan hệ chằng
chịt, phức tạp như: ngõ xóm, dòng họ, phe, hội, phường, giáp…
Thứ ba, Về nguyên tắc và cơ cấu dân cư: Dân chính cư và ngụ cư, sự phân
loại các hạng dân (Chức sắc (đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban); chức dịch (có
chức vụ trong bộ máy hành chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai đinh, trẻ
con…).
Thứ tư, Về kinh tế:
+ Cơ cấu nghề nghiệp: Ở những làng thuần nông, do yêu cầu của sản xuất
nông nghiệp là hoạt động của tập thể, cộng đồng, tính liên kết trong làng xã cao.
Còn ở những làng tồn tại song song cả những ngành nghề nông nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, dân cư chia thành các hạng: nông dân; thợ thủ công; thương nhân
thì đương nhiên tính liên kết trong cộng đồng cũng giảm sút. Song nhìn chung,
do tính chất tự cung tự cấp của nông thôn xưa nên nền kinh tế hàng hoá của làng
xã mang tính chất nhỏ lẻ, thương nhân buôn bán nhỏ, thợ thủ công cũng làm
việc thời vụ và cả hai đều không từ bỏ ruộng đất. Nghĩa là ở làng xã xưa, thương
nhân, thợ thủ công cũng đồng thời là nông dân.
+ “Ruộng công và chế độ quân điền đã ràng buộc người nông dân vào
làng xã. Khi mất mùa đói kém, họ có thể đi nơi khác nhưng trước sau vẫn trở về

23
làng cũ vì làng cũ vẫn chia ruộng đất cho họ. Sự ràng buộc này từ quan hệ kinh

tế dần dần thành phong tục tập quán, tâm lý tình cảm.”[5, tr.43]
Riêng làng Việt ở đồng bằng sông Cửu Long có tính liên kết kém hơn hẳn
so với làng Bắc bộ và Trung bộ. Làng thường quy tập dân cư phiêu tán ở nhiều
nơi nên không có những hình thức tổ chức mang tính chất ràng buộc (phe, hội,
giáp), không có quy chế chặt chẽ, không có hương ước, lệ làng và tộc ước như
các làng miền Bắc và miền Trung. Làng ở đây cũng không có sự phân biệt sâu
sắc giữa chính cư và ngụ cư. Do đó, tính liên kết trong các làng miền Nam cũng
kém bền vững hơn.
Thứ năm, Về văn hoá: Các thiết chế văn hoá (đình, chùa, am, miếu, nơi
sinh hoạt cộng đồng) và các thể chế văn hoá (hương ước, lệ làng, phong tục tập
quán,…). Các thiết chế và thể chế này góp phần tạo ra sự liên kết trong đời sống
tinh thần của làng xã cổ truyền. Trong không gian văn hoá làng xã, vai trò của
các thiết chế chung càng lớn, ảnh hưởng của các thể chế càng mạnh thì tính liên
kết trong cộng đồng càng bền vững.
Thay cho lời kết về sự phức tạp và ý nghĩa của vấn đề, chúng tôi xin dẫn
lời khẳng định của GS. Hà Văn Tấn: “Sức sống của nó (làng cổ truyền – ND)
trong lịch sử thật kì lạ, thậm chí có lúc phải bị phá nát ra thì sau đó nó lại tái
sinh, y như con thủy tức.”[39, tr.50]







Chương 2
VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI
LIÊN KẾT LÀNG XÃ
2.1. Khái quát về Phật Giáo


24
Đạo Phật ra đời tại đất nước Ấn Độ, vào TK VI trước Tây lịch. Xã hội Ấn
Độ khi đó là một xã hội đang bị chia rẽ sâu sắc bởi chế độ phân biệt đẳng cấp
cha truyền con nối của Bà la môn giáo: tầng lớp tăng lữ, vua chúa, quý tộc đời
đời được hưởng mọi đặc quyền đặc lợi và toàn bộ của cải của xã hội trong khi
tầng lớp bình dân và tiện dân (nô tì, nô lệ) thì truyền đời truyền kiếp bị dìm
xuống tận đáy của lao động khổ nhọc và đói nghèo.
Đức Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai Trịnh Phạn Vương
(Suddhodana) vua nước Trịnh Phạn, nằm ở phía Bắc Ấn Độ, nay thuộc nước
Nêpan. Ngài sinh khoảng năm 623 trước Tây lịch. Theo truyền thuyết, ngài vừa
lọt lòng mẹ đã thốt ra lời tiên định cho số phận mình: “Đây là kiếp cuối cùng
của ta, từ nay ta sẽ không phải luân hồi một kiếp nào nữa”. Ngài sinh ra trong
tầng lớp giàu sang quyền quý bậc nhất, có người vợ là công chúa Yashodhara
kiều diễm và một người con trai khôi ngô tuấn tú. Song đời sống tột cùng vương
giả hạnh phúc trọn vẹn ấy không khiến Thái tử thanh thản. Bởi ngài đã nhìn thấy
rõ cuộc đời đau khổ lầm than của chúng sinh quanh mình. Đó là những nỗi đau
khổ của nhân sinh: xuất phát từ xã hội bất công, từ tôn giáo (Bà la môn giáo) hà
khắc, từ con người mê muội với những tham sân si ái và cũng là những đau
khổ của tạo hoá: từ vòng luân hồi sinh lão bệnh tử. Nhận ra hiện thực buồn thảm
đó quanh mình, năm 29 tuổi, Thái tử đã quyết định rời bỏ Hoàng cung và những
người thân thiết, dấn thân vào cuộc đời tu hành để tìm kiếm một con đường giải
thoát khỏi mọi đau khổ trần thế đó cho chúng sinh. Suốt sáu năm trường tu khổ
hạnh theo các tu sĩ Bà la môn, ngài vẫn chưa ngộ ra được chân lý của sự Giải
thoát. Trên con đường hành khất đơn độc, một ngày, ngài gặp cây Bồ đề và
dừng chân lại. Suốt 49 ngày sau đó, ngài ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề với
một tâm niệm sắt đá: sẽ không đứng dậy cho đến khi tìm ra nguồn gốc của mọi
nỗi đau khổ và con đường giải thoát cho chúng sinh. Trong thời gian ngài tu tập
thiền định, quỷ ma thường xuyên đến phá hoại song không làm lay chuyển được
ý chí kiên định của ngài. Cuối cùng, đến ngày thứ 49, ngài đã ngộ ra không
những đời sống từ những kiếp trước của mình, những quy luật của vũ trụ nhân

sinh mà còn cả chân lý minh triết về nguyên nhân của đau khổ và cách thức giải

25
thoát khỏi mọi đau khổ cho thế gian. Ngài đã hoàn toàn giác ngộ và từ đó trở
thành Buddha (Đấng Giác ngộ). Sau đó, ngài còn ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm
bảy ngày để suy ngẫm về những chân lý diệu kì mình đã khám phá ra. 45 năm
tiếp theo, cho đến tận khi nhập diệt, Đức Phật đã dành trọn đời mình để cùng với
tăng đoàn của mình - gồm các vị tỳ kheo nam nữ truyền bá đạo pháp trong
chúng sinh. Cốt tuỷ của đạo pháp đó là Khổ và Diệt Khổ. Câu nói cuối cùng
Đức Phật căn dặn lại các môn đồ tăng chúng chính là mong họ tiếp tục thay ngài
hoằng pháp sâu rộng trong nhân gian: “Này các tỳ kheo, Như Lai khuyên chư vị
rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm.”
Căn bản của Đạo Phật nằm trong Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế) và con
đường trung dung (Trung đạo). Bốn sự thật đó là:
(1) Sự thật về Khổ (Khổ đế): Đây là sự thật về các vấn đề của đời sống mà
con người ngộ nhận là nguồn gốc của đau khổ. Mọi nỗi đau khổ trên đời đều
khởi phát từ vô minh. Đời sống có vô số điều bất toại nảy sinh song mọi sự đều
là vô thường, ngay cả những mầm mống của khổ đau và bất hạnh thực chất cũng
chỉ là những hiện thực nhất thời, tạm bợ, giả tạo. Con người muốn thoát khỏi
sầu khổ cần phải thoát khỏi “vô minh” để nhận thức bản chất của mọi sự vật,
hiện tượng, từ đó không còn chấp nhặt vào chúng nữa.
(2) Sự thật về Nguồn gốc của Khổ (Tập đế): Trong sự thật này, Đức Phật
chỉ ra căn nguyên của mọi khổ đau. Đó là Luật Nhân quả và Duyên nghiệp
(Thập nhị nhân duyên). Đây là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời
gian của vạn vật, bao trùm lên toàn bộ thế giới, tạo nên một vũ trụ hoà hợp và
biến đổi không ngừng. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt và Nhân nào thì
Quả nấy. Do không biết rõ bản chất “vô thường” đó của vạn vật nên con người
ta mới mắc vào vòng xoáy của tham sân si ái, tạo ra các nghiệp: khẩu nghiệp,
hành nghiệp, ý nghiệp gây ra đau khổ cho người khác và chính bản thân mình,
làm cho thế gian chất chồng sự lầm than.

(3) Sự thật về Diệt Khổ (Diệt đế): Đó là sự thật về mục đích của những
người con Phật (Phật tử). Khi đã nhận thức được bản chất vô thường của các sự
vật hiện tượng, thoát khỏi vô minh hoàn toàn giác ngộ là lúc con người ta đạt tới

26
Niết bàn - trạng thái của an lạc tối hậu. Trong quá trình đi dần tới sự giác ngộ,
con người sẽ dần từ bỏ những tham sân si ái trong lòng, hướng tới một đời sống
từ bi và minh triết, giải trừ dần những khổ đau phiền não cho chính mình và
những người xung quanh.
(4) Sự thật về con đường đưa tới tận diệt Khổ đau (Đạo đế): Đây là sự thật
về con đường hành đạo của mọi Phật tử, là đường hướng tu tập và thực hành để
đạt tới cảnh giới Niết Bàn - tận diệt mọi khổ đau, hướng tới an lạc vĩnh hằng.
Con đường này gọi là con đường với Tám điều chân chính (Bát chánh đạo) chia
thành 3 nhóm:
- Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng);
- Định (Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định);
- Tuệ (Chánh kiến, Chánh tư duy)
tương ứng với 3 yếu tố: Giữ gìn giới hạnh, Tu tập tâm ý và Khai phát trí tuệ.
Con đường Bát chính đạo này còn được gọi là Trung đạo vì đây là đường lối
trung dung, không có sự cực đoan của sự hành xác hay buông thả theo dục vọng.
Muốn theo con đường duy nhất dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn này, cần phải có
phương pháp, đó là thực hiện “Ngũ giới” (Năm điều cấm) và “Lục độ” (Sáu
phép tu).
- “Ngũ giới” gồm:
1. Không sát sinh,
2. Không tà dâm,
3. Không uống rượu,
4. Không nói dối,
5. Không trộm cắp.
- “Lục độ” gồm:

1. Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải chân thành thực tâm giúp đỡ
người khác mà không cầu lợi hoặc ban ơn.
2. Trì giới: Kiên trì tu luyện, thực hành giáo pháp.
3. Nhẫn nhục: Kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ bản thân.
4. Tinh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.

27
5. Thiền định: Tư tưởng tập trung vào điều ngay, không để cái vô minh
lấn át.
6. Bát nhã: Trí tuệ thấu suốt mọi chuyện thế gian.
Phật giáo đã chỉ cho chúng sinh thấy con đường trí tuệ giác ngộ để thoát
khỏi mọi đau khổ trầm luân, ra khỏi vòng sinh tử luân hồi và đạt tới một cõi giới
khác của sự giải thoát toàn diện. Trải qua hơn 2500 năm, lớp lớp thế hệ môn đồ
của đức Phật đã không ngừng tinh tấn để truyền bá chánh pháp của ngài. Cho
đến nay đạo Phật với ba yếu tố: Phật - Đức Phật, người khai sáng đạo; Pháp -
những lời dạy của ngài và Tăng, cộng đồng các tỳ kheo nam nữ còn gọi là giới
tăng ni – đã lập thành Tam Bảo, cũng là Tam Quy Y, ba chốn nương tựa để
hướng dẫn Phật tử trên con đường cầu niệm an lạc và sự giải thoát vĩnh viễn.
Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần và tư tưởng biện chứng khoa
học về nguồn gốc của vạn vật. Về xã hội, Phật giáo có tư tưởng giải phóng con
người, đối lập với chế độ phân biệt đẳng cấp, định giá con người duy nhất bằng
phẩm hạnh của họ đã góp phần tạo dựng một xã hội nhân văn, công bằng, dân
chủ. Tuy nhiên hạn chế của Phật giáo thời kì này là tư tưởng duy tâm trong quan
niệm muốn thay đổi hiện thực xã hội chỉ bằng cách cải tạo tâm linh, thuyết phục
con người cải ác tùng thiện theo hệ thống giáo lý Phật pháp. Trong quá trình du
nhập sang các nước khác, Phật giáo đã từng bước tiếp thu văn hóa bản địa và
thâm nhập sâu rộng vào đời sống của các cư dân bản địa, ngày càng trở nên một
tôn giáo nhập thế sinh động. Cho đến nay, Phật giáo là một trong những tôn giáo
có ảnh hưởng nhất thế giới và Đức Phật được tôn kính là một trong bốn vĩ nhân
lớn nhất trong lịch sử cổ đại cùng với nhà triết học Socrate, Khổng Tử và Đức

chúa Giêsu.
2.2. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ nguyên đầu Tây lịch, rồi
tồn tại, phát triển và chan hòa với dân tộc cho đến tận hôm nay. Theo cách nói
của nhà sử học Trần Quốc Vượng: "Về văn hóa Tôn giáo, xưa Phật là "cột cái",
Nho-Lão là hai "cột quân" của kiến trúc Tôn giáo Đại Việt.”[57, tr.18-19] Điều
này cho thấy vị trí, vai trò to lớn của Phật giáo trong lịch sử Việt Nam. Trong

28
quá trình hội nhập văn hóa, sự ảnh hưởng của văn hoá bản địa đã tác động và tạo
cho Phật Giáo Việt Nam có những nét đặc thù sau đây:
(1) Tinh thần dung hoà và khai phóng
- Với tín ngưỡng dân gian: Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã
tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa: tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín
ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng thờ các vị anh hùng danh nhân văn hoá và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Phật giáo đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này.
Biểu tượng chùa Tứ Pháp đã dung hòa tín ngưỡng vạn vật hữu linh, là những
đền miếu thờ các vị thần tự nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Trong các
ngôi chùa Việt Nam thường có bàn thờ Mẫu tức nữ thần Mẹ trong tín ngưỡng
dân gian. Nhiều chùa miền Bắc thờ cả tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu Thượng ngàn
(nữ thần núi), Mẫu Thoải (nữ thần nước), Mẫu Địa phủ (nữ thần đất). Thánh
mẫu Liễu Hạnh, một trong Tứ bất tử của Việt Nam cũng được thờ trong chùa.
Chùa Mía có bàn thờ Thánh Mẫu ở ngay nhà tiền đường. Các vị cao tăng, có
phép thần thông biến hoá như các thiền sư Đạo Hạnh, Minh Không, Không Lộ
đều được “phong thánh” và được thờ như các vị thần trong chùa. Các vị anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hoá cũng có thể được phối thờ cùng thần Phật.
Chẳng hạn Chùa Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) thờ Mạc Đĩnh Chi, trạng
nguyên thời Trần; Chùa Trăm Gian (Chương Mỹ - Hà Nội) thờ Đặng Tiến
Đông, danh tướng thời Tây Sơn. Đặc biệt trong chùa còn có hình thức thờ
“hậu”, tức là thờ cúng sau khi chết, thay cho những người “hậu tự” – con cháu.

Đây là sự mở rộng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Những người
không có con cháu để thờ cúng có thể cúng tiền hay ruộng đất cho chùa để sau
khi mất, được nhà chùa dựng bia và hàng năm cúng lễ.
- Với các tôn giáo khác: Trong nhiều chùa có thể gặp tượng các vị thần
Đạo giáo như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào Bắc
Đẩu. Chính vì đặc tính dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã
vượt qua sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội để trở thành tín ngưỡng
chung của dân tộc. Phật Giáo Việt Nam đã tiếp thu lấy tính Thiện của Nho giáo
và tính Mỹ của Đạo giáo, rồi bằng con đường trí tuệ giác ngộ, đạt tới chỗ nhất

×