Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

658 Giải pháp Marketing nhằm phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu Vinateximex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.26 KB, 67 trang )

trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa khoa học quản lý


chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài:
I MI HOT NG MARKETING CƠNG TY
CỔ PHẦN CAO SU SAO VÀNG

Sinh viªn thùc hiƯn

: inhVn Nam

Lớp

: Qun lý kinh t 46A

Giáo viên hớng dẫn : TS.Hồ Thị Bích Vân

1


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1. Các khái niệm có bản về mar
1.1. Khái niệm về Marketing.
Thoạt đầu Marketing xuất hiện qua những hành vi rời rạc gắn với những
tình huống trao đổi nhất định. Khi mới xuất hiện thì Marketing là cách thức
mà các thương gia, thợ thủ công giới thiệu sản phẩm. Nhưng đieu đó khơng
có nghĩa là Marketing xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của trao đổi. Thực
ra các hành vi Marketing chỉ xuất hiện khi trao đổi ở trong một trạng thái hay


tình huống nhất định. Hoặc là người bán phải tìm mọi cách để cố gắng bán
được hàng hoặc là khi người mua tìm mọi cách để mua được hàng. Có nghĩa
là tình huống trao tranh để mua. Như vậy nguyên nhân sâu sa làm xuất hiện
Marketing là cạnh tranh. Hành vi Marketing xuất hiện rõ nét từ khi nền đại
cơng nghiệp có khí phát triển, thúc đẩy sản xuất tăng lên nhanh chóng 3 áp
lực làm nâng cao vị thế của Marketing
Thứ nhất: là do cạnh tranh gay gắt, nguồn cung vượt cầu làm cho việc
tiêu thụ sản phẩm trở nên khó khăn.
Thứ hai: Có một sự đổi ngơi về vị thế trong tương quan trao đổi giữa bên
mua và bên bán.
Thứ ba: Sự độc quyền hoặc do tự nhiên hoặc do chính phủ tạo ra khơng
giúp được doanh nghiệp duy trì một cách lâu dài quyền lực này họ không thể
kinh doanh theo ý muốn chủ quan của mình Marketing ra đời đầu tiên là ở
nước Mĩ vào những năm đầu thế kỷ 20, sau đó lan sang châu Âu vào những
năm 50 và sau đó là sang Nhật Bản. Lý thuyết Marketing lúc đầu chỉ gắn với
những van đề của tiêu thụ, nhưng về sau nó ngày càng trở nên hồn chỉnh và
lý thuyết bao quát cả những hoạt động có trước tiêu thụ như: Nghiên cứu thị
2


trường, khách hàng, thiết kế và sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của
khách hàng, định giá về tổ chức hệ thống tiêu thụ. Tuy vậy, ở Việt Nam, cho
đến ngày nay nhiều người vẫn lầm tưởng Marketing, với việc chào hàng (tiếp
thị), bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Vì vậy họ quan niệm
Marketing chẳng qua là hệ thống các biện pháp mà người bán sử dụng cốt để
làm sao bán được hàng thu được tiền về cho họ. Thậm chí nhiều người cịn
đồng nhất Marketing với nghề đi chào hàng, giới thiệu dùng thử hàng. Thực
ra tiêu thụ và hoạt động tiếp thị chỉ là một trong những khâu của hoạt động
Mar. Hạn chế nữa, đó lại khơng phải là khâu quan trọng nhất ngồi chức năng
bán, Mar cịn có chức năng quản trị như: Nghiên cứu thị trường, tư vấn hoạch

định chính sách dài hạn. Hoạt động Mar luôn gắn lienè với các phạm trù như
nhu cầu, mong muốn, còn thị trường, giá trị, chi phí, sự thoả mãn, trao đổi, thị
trường. Vì vậy chúng ta chỉ có thể hiểu được đầy đủ bản chất của Mar khi
hiểu được bản chất các khái niệm cơ bản về Mar.
Người ra định nghĩa Mar hiện đại như sau: Mar là quá trình làm việc với
thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi nhằm thoả mãn những nhu cầu và
mong muốn của con người, cũng có thể hiểu Mar là một dạng hoạt động của
con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thoả mãn các nhu cầu và mong muốn
thông qua trao đổi.
1.2. Một số khái niệm liên quan
1.2.1. Nhu cau tự nhiên, ước muốn và cầu thị trường
Nhu cau tự nhiên, ước muốn và cầu thị trường là ba cấp độ để chúng ta
hiểu được sự vận động của cầu thị trường và những chức năng của Mar trong
sự vận động này. Nó giúp chúng ta giải thích được nguồn gốc về tính khách
quan của các luận điểm về Mar.
1.2.1.1. Nhu cầu tự nhiên
Đây là một trạng thái cảm giác thiếu hụt về một cái gì đó của con người.
3


Nó chính là những địi hỏi của hoạt động tâm sinh lý của con người. Thoả
mãn nhu cầu là cách thức để con người tồn tại trong môi trường sống. Sự xuất
hiện của nhu cầu và muốn thoả mãn nhu cáa có tính khách quan. Chúng là
sản phẩm của qui luật sống của con người. Nó tồn tại trong mỗi cá nhân và nó
thuộc về bản thể của con người. Trạng thái ý thức thiếu hụt đó phát sinh có
thể do địi hỏi của sinh lý, của mơi trường giao tiếp xã hội hoặc do cá nhân
con người về vốn tri thức và tự thể hiện. Sự thiếu hụt càng được cảm nhận gia
tăng thì sự khao khát được thoả mãn càng lớn và cơ hội kinh doanh càng hấp
dẫn. Mar cho rằng điều quan trọng nhất để hieuẻ hành động của con người là
biết họ muốn điều gì. Với kinh doanh việc phát hiện ra nhu caùa chưa được

thoả mãn đồng nghĩa với việc phát hiện được cơ hội kinh doanh tiềm ẩn. Nắm
bắt được nhu cầu là bước khởi đầu của những ý tưởng để đề xuất các giải
pháp xử lý và thay đổi hành vi của họ. Trong kinh doanh những sản phẩm
hoặc dịch vụ có khả năng thoả mãn được nhu cầu chắc chắn sẽ được con
người ưa chuộng và họ sẽ dành cho nó những thiện cảm tốt đẹp. Ngược lại
những gì cản trở, khơng thoả mãn được nhu cầu xấu. Như vậy Mar không tạo
ra nhu caùa nhưng cả phát hiện nhu cầu chưa được thoả mãn, thúc đẩy chúng
thành ham muốn và tìm cách thoả mãn nhu caùa là chức năng của Marketing.
1.2.1.2. Ước muốn (Mong muốn)
Ước muốn là những nhu cầu tự nhiên có dạng đặc thù, địi hỏi được đập
lại bằng một hình thức đặc thù phù hợp với trình độ văn hố tính cách cá nhân
của con người.
Sự khác biệt lớn nhất giữa nhu cầu tự nhiên và ước muốn đó là: Nhu cầu
tự nhiên phản ánh sự địi hỏi về mọi chủng loại sản phẩm.
Mong muốn phản ánh sự đòi hỏi về một dạng cụ thể trong chủng loại sản
phẩm ấy. Những lực lượng chính để biến mong muốn thành nhu cầu là: văn
hố, các đặc tính cá nhân, trình độ phát triển kinih tế, chính trị, xã hội. Mar có
4


thể làm nảy sinh và thay đổi được mong muốn. Như vậy chỉ có phát hiện ra
mong muốn của từng người hoặc tập hợp người, người ta mới tạo ra những
thuộc tính đặc thù của cùng một loại sản phẩm, nhờ vậy mà tăng khả năng
thích ứng và cạnh tranh trên thị trường và nâng cao hiệu quả kinh doanh dựa
vào nhu cầu tự nhiên của con người, nhà kinh doanh sẽ xác định được một
chủng loại sản phẩm để đáp ứng một loại nhu cầu. Nhưng dựa vào mong
muốn của con người thì nhà kinh doanh mới có thể xác định được các thơng
số và đặc tính của sản phẩm, từ đó quyết định sản xuất mặt hàng cụ thể mà
con người và thị trường cần. Nhờ vậy mới có thể tạo ra sản phẩm tiến bộ và
nâng cao khả năng cạnh tranh của nhãn hiệu sản phẩm do họ sản xuất ra.

Tuy nhiên phát hiện ra nhu cầu tự nhiên thường dễ dàng, khám phá ra
mong muốn về từng khía cạnh của nhu cầu lại là cơng việc khó khăn hơn địi
hỏi phải nghiên cứu thật tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Đôi khi mong muốn của con người
tồn tại dưới dạng tiềm ẩn mà chính họ cũng khơng nhận thức được. Tuy nhiên
nếu được nhà kinh doanh hoặc một yếu tố mơi trường nào đó gợi mở thì nó
lại bùng phát nhanh và biến con người là vơ hạn, nhà kinh doanh không chỉ
phát hiện và sản xuất ra sản phẩm để thích ứng với chúng như là những thứ
cho không mà phải thông qua trao đổi để việc thoả mãn lợi ích của người tiêu
dùng, vừa thoả mãn mục đích của nhà kinh doanh. Vì vậy trong khi đáp ứng
lại nhu cầu thị trường và mong muốn của con người nhà kinh doanh cịn phải
tính đến một khía cạnh khác. Đó là nhu cáa có khả năng thanh tốn.
1.2.1.3. Nhu cầu có khả năng thanh tốn (cầu thị trường)
Là những nhu cầu và ước muốn có khả năng thực hiện những trao đổi và
giao dịch để thoả mãn nhu cầu.
Nói đến cầu có khả năng thanh tốn thì phải gắn nó với hàng hố dịch vụ
cụ thể với những thị trường cụ thể. Có hai điều kiện để hình thành được cầu
thị trường. Đó là phải có những mong muốn của khách hàng về sản phẩm,
5


dịch vụ và họ có khả năng thanh tốn thiếu một trong hai đieuè kiện thì chưa
hình thành được cầu thị trường lượng hoá được cầu là đieuè kiện kiên quyết
của sự thành cơng mọi dự đốn sai về câu đều làm giảm hiệu quả kinh doanh
với Mar người ta coi thoả mãn cầu thị trường và làm thay đổi nội dung của
chức năng riêng là: Mar có chức năng của Mar trạng thái hiện có của cầu về
trạng thái có lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Giá trị, chi phí và sự thoả mãn
1.2.2.1. Giá trị.
Giá trị tiêu dùng của một sản phẩm là sự đánh giá của người tiêu dùng về
khả năng của nó trong việc thoả mãn nhu cầu đối với họ.

Như vậy đối với cùng một loại sản phẩm mỗi người tiêu dùng có thể
đánh giá cho nó một giá trị tiêu dùng khác nhau. Sản phẩm nào được nhiều
người đánh giá giá trị cao thì cơ hội thị trường đối với hàng hố đó càng lớn.
Việc đánh giá giá trị tiêu dùng đối với hàng hố là suy nghĩ đáa tiên của
người tiêu dùng hướng đến với hàng hoá. Giá trị gồm hai bộ phận:
Thứ nhất: Giá trị sản phẩm, là những lợi ích thơng dụng của sản phẩm
trong việc thoả mãn nhu cầu.
Thứ hai: Giá trị dịch vụ: Đó là những lợi ích mà khách hàng nhận được
từ các dịch vụ hỗ trợ của người cung ứng. Nó thường nằm ngồi sản phẩm
nhưng nó làm tăng giá trị sản phẩm.
1.2.2.2. Chi phí
Chi phí là tồn bộ những hao tổn mà người tiêu dùng phải bỏ ra để có
thể sở hữu và sử dụng sản phẩm trong việc thoả mãn nhu cầu. Nó bao gồm
tồn bộ chi phí mua sắm, tiêu dùng và loại bỏ sản phẩm vào dịch vụ.
Chi phí được chia làm các bộ phận:
- Các chi phí bằng tiền: là tồn bộ phí tổn được cho rằng tiền tệ.

6


- Chi phí về cơng sức: Đây là những hao tổn khơng tính bằng tienè mà
tính bằng năng lượng trong mua sắm, tiêu dùng và loại bỏ sản phẩm.
- Phí tổn về mặt tinh thần: là những rào cản về mặt tâm lý, tinh thần mà
người tiêu dùng phải loại bỏ liên quan đến việc mua sắm tiêu dùng và loại bỏ
sản phẩm.
Như vậy chi phí ở đây là những chi phí liên quan đến việc bỏ ra của
người tiêu dùng, khơng đồng nghĩa với chi phí sản xuất sản phẩm và do người
tiêu dùng đánh giá. Nếu giá trị là những lợi ích mà khách hàng nhận được
trong thoả mãn nhu cầu thì chi phí lại là những gì mà khách hàng mất để nhận
được giá trị đó. Điều đó có nghĩa là chi phí cao là rào cản để người tiêu dùng

tiếp cận và tiêu dùng sản phẩm. Giảm chi phí ta giải pháp tốt để thu hút khách
hàng khi nghiên cứu cơ cấu của chi phí cho chúng ta thấy giảm giá thành hay
giảm chi phí sản xuất sản phẩm không phải là giải pháp duy nhất để giảm chi
phí cho khách hàng.
1.2.2.3. Sự thoả mãn
Sự thoả mãn là mức độ trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt
nguồn từ việc so sánh kết quả thu được do tiêu dùng sản phẩm với những kỳ
vọng của họ.
Sự thoả mãn được biểu hiện ở một trong ba hình thức.
+ Khơng thoả mãn:

Kỳ vọng > Kết quả thực tế

+ Thoả mãn:

Kỳ vọng = Kết quả thực tế

+ Rất thoả mãn:

Kỳ vọng < Kết quả thực tế

Như vậy sự thoả mãn là trạng thái cảm giác, là những cảm xúc để hình
thành nên thái độ, quan điểm của người tiêu dùng về sản phẩm. Nếu người
tiêu dùng đạt được sự thoả mãn thì họ có thái độ tốt về sản phẩm và ngược lại
nếu không đạt được sự thoả mãn thì họ sẽ có ấn tượng khơng tốt về sản phẩm,
các trạng thái, thái độ của họ sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới hành vi mua tiếp theo
7


và cao hơn là sự tuyên truyền của họ về sản phẩm và dịch vụ. Nó cảnh báo

cho những người làm Mar không trung thực rằng họ sẽ phải chịu những hệ
luỵ ở hành vi mua tiếp theo. Đồng thời nó cũng gợi ý cho những người làm
Mar. Hoạt động Mar cần phải tiếp tục ngay cả khi sản phẩm đã tiêu thụ xong
và dịch vụ hậu mãi.
1.2.3. Trao đổi
Marketing xuất hiện khi người ta quyết định thoả mãn nhu cầu và mong
muốn thông qua trao đổi.
Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người
nào đó bằng cách đưa cho họ một thứ khác.
Trao đổi là khái niệm căn bản nhất tạo nền móng cho hoạt động Mar
nhưng để tiến tới trao đổi cần phải có 5 điều kiện sau:
- Ít nhất phải có 2 bên.
- Mỗi bên cần phải có một thứ gì đó có giá trị đối với bên kia.
- Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao thứ mình có.
- Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay từ chối đề nghị của bên kia.
- Mỗi bên tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Như vậy phải xem trao đổi như là một q trình chứ khơng phải là một
sự việc nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho các bên trao đổi. Những điều kiện đều
phải đầy đủ thì mới có khả năng trao đổi, thiếu một thì khơng diễn ra trao đổi
được. Hơn nữa những điều kiện này chỉ tạo nên những trao đổi tiềm ẩn. Muốn
có trao đổi hiện thực thì các bên tham gia trao đổi phải thoả thuận về những
điều kiện có lợi cho cả hai bên khi một hoạt động trao đổi được thực hiện hay
các bên tham gia trao đổi thương lượng và đạt được một thoả thuận có nghĩa
là một giao dịch đã diễn ra. Giao dịch là những đoơ vị cơ bản của trao đổi. Nó
có chức năng chuyển giao là những đơn vị cơ bản của trao đổi. Nó có chức
năng chuyển giao lợi ích giữa các bên trao đổi. Những thoả thuận này có thể
8


được thể hiện trong cam kết hoặc hợp đồng giữa hai bên, trên cơ sở một hệ

thống luật pháp buộc mỗi bên phải thực hiện cam kết của mình. Khi thực hiện
các giao dịch hai bên rất dễ phát sinh mâu thuẫn do hiểu lầm. Vì vậy việc giao
dịch lần đầu hoặc với những khách hàng mới thường rất khó khăn. Những
công ty thành công thường cố gắng thiết lập mối quan hệ bền vững lâu dài và
tin cậy với tất cả các đối tượng giao dịch thương mại có liên quan trên cơ sở
triết lý về Mar quan hệ.
1.2.4. Thị trường
Khái niệm trao đổi, giao dịch dẫn ta đến khái niệm thị trường. Dưới góc
độ Mar thì khái niệm thị trường được phát triển là: thị trường bao gồm tất cả
những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn
sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn
đó.
Như vậy quy mơ thị trường sẽ tuỳ thuộc vào số lượng có cùng nhu cầu
và mong muốn và lượng thu nhập, lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để
mua sắm hàng hoá thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó. Qui mơ thị trường
khơng phụ thuộc vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số
người có nhu cầu và mong muốn khác nhau. Mặc dù tham gia thị trường phải
có cả người mua và người bán nhưng người làm Mar lại coi người bán hợp
thành ngành sản xuất – cung ứng còn người mua mới họp thành thị trường.
Bởi vậy họ thường dùng thuật ngữ thị trường để cứu chỉ một nhóm khách
hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định. Do đó được thoả mãn bằng một
loại sản phẩm cụ thể. Họ có đặc điểm giưói tính hay tâm sinh lý nhất định, độ
tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể.
1.3. Quản trị Marketing
Để thực tiễn đựoc q trình trao đổi địi hỏi phải tốn rất nhiều cơng sức
và có trình độ nghiệp vụ chun mơn - Quản trị Mar diễn ra khi ít nhất có một
9


bên trong vụ trao đổi tiềm ẩn suy tính về những mục tiêu và phương tiện để

đạt được những phản ứng mong muốn từ phía bên kia. Ta sẽ sử dụng định
nghĩa sau đây về Quản trị Mar đã được hiệp hội Mar Mỹ chấp nhận năm
1985: Quản trị Mar là quá trình lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đó, định
giá, khuyến mãi và phân phối hàng hố, dịch vụ ý tưởng để tạo ra sự trao đổi
với các nhóm mục tiêu, thoả mãn những mục tiêu của khách hàng và tổ chức.
Định nghĩa này thừa nhận quản trị Mar là một q trình bao gồm việc phân
tích, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và kiểm soát. Nó liên quan đến hàng
hố, dịch vụ và ý tưởng, và dựa trên ý niệm về trao đổi, mục đích của nó là
tạo ra sự thoả mãn cho các bên hữu quan. Trong một tổ chức quản trị Mar có
thể liên quan đến mọi thị trường. Ta hãy xét một hãng sản xuất ơtơ. Phó chủ
tịch phụ trách cung ứng liên quan đến thị trường nguyên liệu và phó phụ trách
tài chính liene quan đến tị trường tiền tệ. Họ phải đề ra những mục tiêu và
hoạch định những chiến lược để đạt được các truyền thống thì các cạn bộ điều
hành nói trên khơng được gọi là những người làm Mar. Khá lắm thì họ cũng
chỉ là những người làm Mar bán thời gian. Đáng lẽ ra là như vậy, nhưng xưa
nay quản trị Mar được đồng nhất với những nhiệm vụ và con người liên quan
đến thị trường khách hàng. Ta sẽ theo thông lệ này, mặc dù những điều ta bàn
về Mar đều có thể áp dụng cho tất cả các thị trường.
Công việc Mar trên thị trường khách hàng chính thức là do những nười
quản lý tiêu thụ, nhân viên bán hàng, những người quản lý quảng cáo và
khuyến mại, những người nghiên cứu Mar, những người quản lý dịch vụ
khách hàng, những người quản lý sản phẩm và nhãn hiệu,những người quản
lý thị trường và ngành và phó chủ tịch phụ trách Mar thực hiện. Mỗi cơng
việc đều có những nhiệm vụ và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Trong số
những công việc này có rất nhiều cơng việc liên quan đến việc quản lý những
tài nguyên Mar cụ thể như quảng cáo, nhân viên bán hàng hay nhân viên
10


nghiên cứu Mar. Mặt khác, những người quản lý sản phẩm, những người quản

lý thị trường và phó chủ tịch phụ trách Mar thì quản lý các chương trình –
cơng việc của họ là phân tích, hoạch định và triển khai các chương trình nhằm
tạo ra mức độ và danh mục giao dịch mong muốn và các thị trường mục tiêu.
Người ta thường quan niệm người quản trị Mar và những người có
nhiệm vụ chủ yếu là kích thích nhu cáa có khả năng thanh tốn về những sản
phẩm của Cơng ty. Tuy nhiên đó chỉ là một quan niệm hết sức phiến diện về
những nhiệm vụ Mar rất đa dạng mà những người quản trị Mar phải thực
hiện. Quản trị Mar có nhiệm vụ tác động đến mức độ, thời điểm và cơ cấu của
nhu cầu có khả năng thanh tốn theo một cách nào đó để giúp cho tổ chức đạt
được những mục tiêu đã đề ra. Quản trị Mar thực chất là quản trị nhu cầu có
khả năng thanh tốn.
Tổ chức chắc chắn phải có một ý tưởng về mức độ giao dịch mong muốn
với thị trường mục tiêu. Trong khi đó mức độ thực tế của nhu cầu có khả năng
thanh tốn có thể thấp hơn, bằng hay cao hơn mức độ mong muốn của nó.
Nghĩa là có thể khơng có nhu cầu có khả năng thanh tốn, nhu cáa có khả
năng thanh tốn yếu, nhu cầu có khả năng thanh tốn tương xứng, nhu cáa
có khả năng thanh toán vượt mức. Và quản trị Mar phải nắm bắt được những
tình trạng khác nhau đó. Để đảm đương tốt những nhiệm vụ đó các nhà quản
trị Mar phải tiến hành nghiên cứu Mar, lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra.
Trong phần lập kế hoạch, những người làm Mar phải thông qua những quyết
định về thị trường mục tiêu, xác định vị trí trên thị trường, phát triển sản
phẩm định giá, các kênh phân phối, phân phối vật chất, thông tin liên lạc và
khuyến mãi.
Để hiểu rõ hơn về quản trị Mar, ta có hiểu rõ tình trạng của nhu cầu có
khả năng thanh tốn và những nhiệm vụ Mar:

11


- Nhu cầu có khả năng thanh tốn âm: Thị trờng ở tình trạng nhu cầu có

khả năng thanh tốn khi phần lớn thị trường khơng thích sản phẩm đó và thậm
chí có thể chi tiền để có thể thốt khỏi được nó. Người ta có nhu cầu có khả
năng thanh toán âm về việc tiêm chủng, nhổ răng, cất ống dẫn tinh và mổ túi
mật. Người chủ cảm thấy có nhu cáa có khả năng thanh tốn âm về việc thuê
những người đã bị đi tù và những người nghiện rượu. Nhiệ vụ của Mar là phải
phân tích tại sao thị trường lại khơng ưu sản phẩm đó và liệu có thể thay đổi
được quan niệm và thái độ của thị trường đó bằng một chương trình Mar với
nội dung thiết kế lại sản phẩm, định giá thấp hơn và khuyến mãi tích cực hơn
khơng.
- Nhu cầu có khả năng thanh tốn bằng khơng: Những người tiêu dùng
mục tiêu có thể khơng quan tâm hay bàng quan với sản phẩm đó. Chẳng hạn
như các chủ nơng trại khơng quan tâm đến một phương pháp canh tác mới và
sinh viên đại học có thể khơng quan tâm đến các mơn ngoại ngữ. Nhiệm vụ
của Mar là phải tìm cách gắn những lợi ích của sản phẩm đó với nhu cầu và
sự thích thú tự nhiên của con người.
- Nhu cầu có khả năng thanh tốn tiềm ẩn. Nhiều người tiêu dùng có thể
cùng có một nhu cáa bức bách mà mọi sản phẩm hiện có khơng thể thoả mãn
được. Ví dụ có nhu cầu có khả năng thanh tốn tiềm ẩn lớn về thuốc lá không
độc hại, khu vực xung quanh nơi ở an toàn hơn và về những chiếc xe tích
kiệm nhiên liệu hơn. Nhiệm vụ của Mar là lượng định qui mơ của thị trường
tiềm ẩn đó và phát trienẻ những hàng hoá và dịch vụ thoả mãn được nhu cầu
này.
- Nhu cầu có khả năng thanh tốn giảm sút. Mọi tổ chức sớm hay muộn
cũng đều phải đương đầu với tình trạng nhu cáa có khả năng thanh toán
giảm sút đối với một hay nhiều sản phẩm của mình Nhà thờ đã phải chứng
kiến số con chiên giảm sút, các trường Đại học tư đã thấy số người nộp đonư
12


theo học ít đi. Những người làm Mar phải phân tích những nguyên nhân làm

cho thị trường giảm sút và xác định xem việc có thể kích thích nhu cầu có khả
năng thanh tốn trở lại bằng cách tìm kiếm những thị trường mục tiêu mới,
thay đổi tính năng của sản phẩm hay triển khai công tác truyền thông hữu
hiệu hơn không. Nhiệm vụ của Mar là phải phục hồi lại nhu cầu có khả năng
thanh tốn đã giảm sút thông qua việc tiến hành Mar lại một cách sáng tạo về
sản phẩm đó.
- Nhu cầu có khả năng thanh toán thất thường. Nhiều tổ chức phải đương
đầu với nhu cầu có khả năng thanh tốn thay đổi theo từng mùa, từng ngày,
hay thậm chí từng giờ làm nảy sinh vấn đề năng lực sản xuất nhàn rỗi hay quá
tải. Trong ngành giao thông công cộng vào những giờ không phải cao điểm
thì có nhie xe nhàn rỗi nhưng vào giờ cao điểm thì lại khơng đủ xe. Trong
những ngày làm việc thì các viện bảo tàng đều vắng khách nhưng vào những
ngày nghỉ cuối tuần thì khách lại quá đơng. Các phịng mổ của bệnh viện
thường q đơng bệnh nhân vào những ngày đầu tuần nhưng lại vắng bệnh
nhân vào những người cuối tuần. Nhiệm vụ của Mar gọi là Mar thời gian là
phải tìm cách thay đổi dạng phân bổ nhu cáa có khả năng thanh tốn thơng
qua việc định giá linh hoạt, khuyến mại và những hình thức khuyến khích
khác.
- Nhu cầu có khả năng thanh tốn vừa đủ: Các tổ chức gặp nhu cầu có
khả năng thanh tốn vừa đủ khi họ thấy hài lịng với khối lượng kinh doanh
của mình. Nhiệm vụ của Mar là phải duy trì được mức độ hiện tại của nhu
cáa có khả năng thanh tốn trước sự thách thức của sở thích người tiêu dùng
và tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tổ chức phải duy trì hay nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình và thường xuyên đánh giá sự thoả mãn của
người tiêu dùng để tin chắc rằng mình đang đi đúng hướng.

13


- Nhu cầu có khả năng thanh tốn vượt mức: Một số tổ chức gặp phải

một nhu cầu có khả năng thanh tốn cao hơn mức mà họ có thể mong muốn
hay đáp ứng. Chẳng hạn như cầu Golden Gate phải chịu một cường độ giao
thông cao hơn mức an tồn, cơng viên quốc gia Tosemite vào mùa hè phải
đón tiếp một lượng khách quá đông. Nhiệm vụ của Mar gọi là Demarketing
địi hỏi phải tìm cách làm giảm tạm thời hay vĩnh viễn nhu cầu có khả năng
thanh tốn đó. Demarketing tồn diện là tìm cách kiềm chế tồn bộ nhu cầu
có khả năng thanh tốn và thực hiện những bước như tăng giá, giảm mức độ
khuyến mãi và dịch vụ. Demarketing chọn lọc bao gồm những nỗ lực nhằm
giảm bớt nhu cầu có khả năng thanh tốn từ phía những bộ phận thị trường
sinh lời ít hơn, hay ít nhu cầu về dịch vụ hơn. Mục đích của Demarketing
khơng phải là phá bỏ nhu cầu có khả năng thanh toán mà chỉ giảm bớt tạm
thời hay vĩnh viễn như mức độ của nó.
- Nhu cầu có khả năng thanh tốn có hại: Những sản phẩm có hại địi hỏi
phải có những nỗ lực có tổ chức nhằm kiềm chế mức độ tiêu dùng chúng.
Người ta đã tiến hành những chiến dịch không bán thuốc lá, rượu mạnh, thuốc
gây nghiện, súng, phim ảnh cấm trẻ em dưới 17 tuổi và hạn chế gia đình đơng
con. Nhiệm vụ của Mar là vận động những người nghiện hay thích một thứ
nào đó từ bỏ nó, bằng những cơng cụ như thơng tin răn đe, nâgn giá và hạn
chế lượng cung ứng.
1.3.1. Các quan điểm quản trị Marketing
1.3.1.1. Quan điểm sản xuất
Quan điểm này xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20. Đặc điểm của
nền sản xuất lúc đó là cung không đáp ứng đủ cầu, nền kinh tế khan hiếm
hàng hoá. Những nhu cầu mà con người muốn được thoả mãn chỉ là những
nhu cầu cơ bản.

14


Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng sẽ ưu thích nhiều sản phẩm

được bán rộng rãi với giá hạ. Vì vậy những nhà quản trị doanh nghiệp cần
phải tập trung vào việc tăng qui mô sản xuất, mở rộng phạm vi tiêu thụ.
Những sản phẩm chỉ cần thiết kế đơn giản, sản xuất hàng loạt và tìm kiếm
phương thức sản xuất có năng xuất cao. Như vậy quan điểm này có thể đưa
lại sự thành cơng cho doanh nghiệp trong hai trường hợp. Thứ nhất khi nhu
cầu mua sắm về sản phẩm vượt quá khả năng cung ứng - Thứ hai, giá thành
hay chi phí sản xuất hiện tại cịn cao, có thể hạ được nhờ khai thác hết cơng
xuất, năng lực hiện có. Ngồi hai tình huống đó khó có gì đảm bảo cho sự
thành cơng của doanh nghiệp khi đi theo quan điểm này, đặc điểm là trong bối
cảnh cung cầu phát triển như hiện nay.
1.3.1.2. Quan điểm sản phẩm
Đây là quan điểm xuất hiện vào những năm 20 của thế kỉ XX. Bối cảnh
kinh tế khi đó là sản xuất đã bắt đầu phát triển, đặc biệt là đã có những cống
hiến của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật. Thị trường nhu cầu đã chuyển
thành thị trường mong muốn.
Quan điểm này cho rằng khách hàng sẽ có những phản ứng tốt với
những sản phẩm có chất lượng cao, nhiều cơng dụng và nhiều tính năng mới
Vì vậy các nhà quản trị các doanh nghiệp muốn thành công phải luôn tập
trung mọi nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng hồn hảo
nhất và thường xuyên cải tiến chúng. Tức ta tìm kiếm những thiết kế sản
phẩm của những người thiết kế tài năng, luôn luôn tiếp cận những sản phẩm
chất lượng cao theo quan điểm người kỹ sư.
Như vậy quan điểm này tỏ ra phù hợp với những biến đổi của môi
trường. Tuy nhiên sự đánh giá chất lượng sản phẩm là của người kế chứ
không phải là của khách hàng. Hơn nữa sản phẩm này có khả năng cạnh tranh
yếu khi trên thị trường xuất hiện sản phẩm thay thế tỏ ra có hiệu quả hơn.
15


1.3.1.3. Quan điểm bán

Quan điểm này ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XX trong bối cảnh
sản xuất đã bắt đầu bão hồ, tiêu thụ trở nên khó khăn, cạnh tranh bán cực kỳ
gay gắt.
Qua điểm này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ, có sức y với
thái độ ngần ngại, chần trừ trong việc mua sắm hàng hố. Vì vậy để thành
cơng doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc thúc
đẩy tiêu thụ và khuyến mại.
Như vậy theo quan điểm này thì yếu tố quyết định sự thành cơng của
một doanh nghiệp đã tìm mọi cách để tăng tối đa khối lượng sản phẩm tiêu
thụ từ những sản phẩm được sản xuất ra. Từ đó khuyến cáo các nhà quản trị
doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho khâu tiêu thụ và khuyến mãi, phải
tạo ra các cửa hàng hiện đại, phải huán luyện được đội ngũ nhân viên bán
hàng biết lơi kéo và thuyết phục khách hàng nhanh chóng vượt qua trở ngại
tâm lý bằng bất kỳ cách nào. Đấy được nhiều hàng và thu được nhiều tiền từ
phía khách hàng là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng và hiệu quả công tác.
Như vậy quan điểm này được sử dụng rất hiệu quả trong một số trường
hợp như: Bán sản phẩm dư thừa, bão hoà, bán các sản phẩm mà người mùa có
nhu cầu thụ động (khơng có ý định mua, không biết đến…) như bảo hiểm, từ
điển bách khoa…Tuy nhiên quan điểm này cùng bộc lộ nhieuè hạn chế. Đó là
mọi giải pháp Mar đều xuất phát từ nhu cầu của người bán chứ không phải
nhu cầu của người mua nên nhiều công cụ Mar bị lạm dụng.
1.3.1.4. Quan điểm Marketing
Quan điểm này ra đời trong hoàn cảnh sản xuất dư thừa, cạnh tranh trong
tiêu thụ cực kỳ gay gắt.
Quan điểm này cho rằng một sản phẩm và dịch vụ sẽ được ưa chuộng và
đem lại thành công cho một công ty nếu chúng thoả mãn được nhu cầu và ước
16


muốn của khách hàng và mức độ thoả mãn càng cao thì khả năng thành cơng

càng cao.
Quan điểm này kiến nghị rằng kinh doanh không phải cho mọi kháchh
àng mà phải chọn ra khách hàng trọng điểm, tìm cách xác định được nhu cầu,
ước muốn của khách hàng và thoả mãn họ. Đồng thời phải thực hiện những
hoạt động mang tính phối hợp để định hướng vào thị trường và phải có tầm
nhìn dài hạn. Như vậy quan điểm Mar ra đời được coi là một triết lý mới
trong kinh doanh, nó làm thay đổi quan niệm về kinh doanh.
Quan điểm cũ: “Làm ra – bán”.
Quan điểm Mar: “Tìm kiếm giá trị - tạo ra giá trị - thông báo và tiêu thụ
giá trị”.
1.3.1.5. Quan điểm định hướng vào đạo đức xã hội.
Quan điểm này ra đời khi xã hội loài người phải chịu những hệ luỵ của
việc vận hành nền kinh tế thị trường và toàn xã hội phải đối mặt với nhiều áp
lực: ô nhiễm môi trường, tăng dân số…
Quan điểm này cho rằng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và
hoạt động Mar không chỉ thực hiện được lợi ích cho doanh nghiệp bằng cách
thoả mãn nhu cầu ước muốn của khách hàng thuần tuý mà cịn phải tính tới
lợi ích lâu dài của tồn xã hội. Quan điểm này kiến nghị rằng khơng tìm kiếm
lợi nhuận bằng mọi giá, phải có những cân nhắc kỹ lưỡng khi lựa chọn danh
mục sản phẩm, lựa chọn công nghệ sản xuất theo xu hướng ủng hộ tích cực
về những lời hiệu triệu bảo vệ môi trường, sẵn sàng tham gia những hoạt
động hữu ích của xã hội mang tính nhân văn.
1.4. Vai trị của Marketing
Mar là một tầm nhìn để cung cấp cho các tổ chức một cách thức tồn tại
và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Triết lý này cho rằng khách hàng là
đối tượng là mục tiêu mà chúng ta phải hướng tới và thoả mãn họ. Mọi quyết
17


định đều phải xuất phát từ khách hàng. Với một tổ chức thì chức năng quan

trọng nhất của Mar là tạo ra khách hàng. Hơn nữa Mar còn là một kỹ năng, là
một nguyên tắc với nhiệm vụ nghiên cứu để phát hiện và dự báo được những
cơ hội thị trường, những rủi ro gắn với cơ hội đó, phân tích đánh giá khả năng
một tổ chức khai thác được cơ hội, chống đỡ các rủi ro…Như vậy vai trò của
Mar là giúp tổ chức phát hiện và dự báo được cầu thị trường, đề xuất các giải
pháp để thoả mãn cầu thị trường vào cao hơn là thay đổi được trạng thái của
cầu thị trường về trạng thái có lợi cho hoạt động của tổ chức.
Với một Công ty thì hoạt động Mar khơng chỉ có phịng Mar đảm nhiệm
mà nó cịn cần có sự phối hợp của tất cả các bộ phận chức năng để hướng tới
thị trường.

18


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING Ở CÔNG TY
CỔ PHẦN CAO SU SAO VÀNG
2.1. Tổng quan về công ty
2.1.1. Thông tin chung về công ty
* Tên công ty: Công ty cổ phần cao su sao vàng
* Tên giao dịch quốc tế: Sao vang Rubber Joint stock Company.
* Địa chỉ: 231 Đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.
* Điện thoại: 04 858 3656

Fax: 04 858 3644

* Tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ dân sự.
*Điều lệ tổ chức và hoạt động do Đại hội đồng cổ đông thành lập phê
chuẩn.
* Con dấu riêng do quy định của nhà nước.

* TKVN: 300 - 1101 - 00138 Tại ngân hàng Công thương Đống Đa Hà Nội.
* TK Ngoại tệ 220 – 110370.569 Tại ngân hàng Ngoại thương – Hà Nội.
2.1.2. Các giai đoạn phát triển
Ngày 07/10/1956 xưởng đắp lốp được thành lập tại số 02 Đặng Thái
Thân.
Ngày 23/05/1960 nhà máy làm lễ cắt băng khánh thành chính thức tại
NHÀ MÁY CAO SU SAO VÀNG HÀ NỘI.
Ngày 27/08/1992 của Bộ Công Nghiệp nhà máy cơng nghiệp nặng đổi
tên thành CƠNG TY CAO SU SAO VÀNG theo quyết định số 645/CNNG
của Bộ công nghiệp nặng.
Ngày 1/1/1993 nhà máy chính thức sử dụng con dấu mang tên Công ty
cao su Sao Vàng.
19


Ngày 3/04/2006 Cơng ty CSSV chuyển thành CƠNG TY CỔ PHẦN
CAO SU SAO VÀNG.
2.1.3. Các sản phẩm chủ yếu Công ty sản xuất
- Săm, lốp xe đạp các loại
- Săm, lốp xe máy các loại
-Săm, lốp xe ô tô các loại
- Yếm ô tô, ủng, ống cao su, băng tải.
- Dây chuyền sản xuất đắp lốp.
BẢNG 01 – CÁC SẢN PHẨM CHÍNH CỦA CƠNG TY CAO SU
SAO VÀNG
TT
TÊN SẢN PHẨM
1 Lốp xe đạp các loại (> 30
loại)
2


5

Săm xe đạp các loại (> 20
loại)
Lốp xe máy các loại (> 45
loại)
Săm xe máy các loại (> 11
loại)
Lốp ô tô các loại (> 60 loại)

6
7
8
9
10
11

Săm ô tô các loại (> 60 loại)
Yếm ô tô các loại (> 60 loại)
Ống cao su các loại
Dây curoa các loại
Lốp máy bay
Ủng cao su

3
4

VÍ DỤ
37 – 548 (đỏ, đen, 2 màu), 322 – 622 (đen ,

trắng, 2 màu), 37-590 (đen, 2 màu), 37-540 (đỏ,
đen 2 màu)…
650, 680, 540…
250-17 4 PR; 250-17 SR; 2:25-16 4 PR; 2:7516 6PR; 3:50-10, 3:00-18
2:50 17 4PR; 2:75-17 TR4
3:00-18 TR; 2:26-16 TR4
12:00-20; 11:00-20; 9:00-20; 6:50-16;
6:50-14; 8:25-16: 6:00-12; 4:00-10
1200-20; 900-20: 650-14…
1200-20…
TU-134 (930x305); IL 18; MIG-21 (800x200)

(Nguồn: Phịng Tổ chức nhân sự cơng ty cổ phần Cao Su Sao Vàng)
2.1.4. Quy trình Cơng nghệ sản phẩm
Quy trình cơng nghệ sản xuất sản phẩm của cơng ty cao su Sao vàng là
quy trình sản xuất liên tục qua nhiều giai đoạn chế biến song chu kỳ sản xuất
ngắn. Cơ cấu sản xuất của công ty được phân theo các xí nghiệp, mỗi xí
20


nghiệp chun mơn hóa sản xuất một số sản phẩm nhất định, do vây, viếc sản
xuất một sản phẩm nằm khép kín trong một phân xưởng.
Do các sản phẩm đều được sản xuất từ cao su, vì vậy, quy trình công
nghệ sản xuất chúng tương đối đồng đều nhau.
Cấu tạo của một chiếc lốp xe đạp bao gồm 3 bộ phận chính
- Mặt lốp: Là hỗn hợp cao su ở phía ngồi có tác dụng bảo vệ khơng bị
ăn mịn bởi các hóa chất thơng thường, có tính năng chịu mài mòn, tiếp xúc
tốt với mặt đường.
- Lớp vải: làm bằng vải mành nilon tráng cao su là khung cốt chịu lực
của lốp.

- Vành tanh: làm bằng tanh thép 0,78 mm, ngồi bọc vải cao su có tác
dụng định vị lốp trên vành xe.
Sau đây là quy trình cơng nghệ sản xuất lốp xe đạp, quy trình cơng nghệ
bao gồm các bước sau:
*Bước 1: Chuẩn bị nguyên vật liệu: cao su sống, các hóa chất, vải
mành, tanh thép.
*Bước 2: Phối liệu luyện:
- Cắt cao su: cao su sống được cắt thành miếng nhỏ theo yêu cầu kỹ
thuật, sau đó đem sơ luyện.
- Sơ đồ luyện cao su: mục đích là giảm tính đàn hồi, tăng độ dẻo thuận
lợi cho quá trình hỗn luyện, cán tráng, ép suất lưu hóa sau này.
- Phối liệu: theo đơn pha chế của bài phối liệu, cao su sau khi được sơ
luyện được chộn với các hóa chất đã được sàng sấy thèm phối liệu đem sang
cơng đoạn hỗn luyện.
- Hỗn luyện: Nhằm mục đích là phân tán đồng đều các chất pha chế cao
su sống tạo thành cao su bán thành phẩm, trong công đoạn này mẫu được lấy
ra đem đi thí nghiệm nhanh để đánh giá chất lượng mẻ luyện.
21


* Bước 3: Cán tráng vải:
- - Chuẩn bị: Vải lót, vải mành, vải phin, hỗn hợp cao su.
- Nhiệt luyện cao su bán thành phẩm: mục đích là nâng cao nhiệt dộ và
độ dẻo, độ đồng nhất của phối liệu sau khi đã được hỗn luyện và tạo ra các
tính chất cơ lý tính cần thiết cho các bước tiếp theo.
- Sấy vải phin.
- Cán tráng: để vải có độ dày đồng đều, cao su bám dính tốt.
* Bước 4: Cán hình mặt lốp: Cán hỗn hợp cao su thành băng dài có
hình dáng kích thước của bán thành phẩm mặy lốp xe. Quá trình gồm 2 bước
là nhiệt luyện và cán mặt lốp.

*Bước 5: Chế tạo vòng tanh: Dây thép vòng tanh được đảo tanh, căt
thép chiều dài được thiết kế từ trước. Sau đó đem ren răng hai đầu lồng vào
ống và được rập chắc lại, cuối cùng đem cắt pavia thành vòng tanh và được
đưa sang khâu thành hình lốp xe.
* Bước 6: Chế tạo cốt hơi: Cốt hơi được chế tạo để phục vụ cho khâu
lưu hóa gồm các cơng đoạn chính: cao su sau khi được nhiệt luyện, được lấy
ra thành hình cốt hơi sau đó đem lưu hóa thành cốt hơi.
* Bước 7: Thành phần và địa hình lốp: Ghép các bán thành tphẩm vòng
tanh, vải màn cán tráng, mặt lốp tạo thành hình thù ban đầu của lốp xe. Quá
trình được hình thành theo các bước:
- Vải mành sau khi cán tráng thì được xé theo kích thước thi cơng, vải
phin cũng được xé theo kích thước thi cơng.
- Cuộn vải mành: cuộn vải mành được cắt và cuộn vào trong ống sắt.
- Thành hình thân lốp: được thực hiện trên máy thành hình, băng vải
mành được cuốn vịng quanh hai vịng tanh với khoảng cách và góc độ nhất
định tạo nên thân lốp.
- Dán vải phin: dùng băng vải phin bọc hai biên của thân lốp.
22


- Cán ép: làm cho toàn bộ thân lốp sau khi dán vải phin được kết dính
chặt chẽ.
- Lắp mặt lốp: đắp phủ băng mặt lốp lên mặt ngoài thân lốp.
- Châm lốp: để tránh lấp lưu hóa bị bọng khí, tiến hành châm lỗ ở bộ
phận mũ lốp sau khi hình thành và cán ép.
* Bước 8: Lưu hóa lốp: là khâu quan trọng trong quá trình sản xuất,
gồm các bước: định hình lốp, lưu hóa và ổn định lốp sau lưu hóa.
* Bước 9: Đóng gói nhập kho: lốp xe đạp sau ki lưu hóa được đánh giá
chất lượng. Chỉ những chiếc lốp đạt chất lượng mới được đóng gói nhập kho.
Sau đây là dây chuyền sản xuất lốp xe đạp.

2.1.5. Cơ cấu tổ chức quản lý và sản xuất của Công ty

23


SƠ ĐỒ 1 : DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT LỐP XE ĐẠP
Hóa chất

Cao su tổng
hợp

Cao su thiên
nhiên

Vải phin

Vải mành

Tanh thép

Chỉnh lý

Cắt

Cắt

Cắt

Sấy


Sơ luyện
Ren răng 2 đầu
Phối liệu
Kiểm tra nhanh

ép xuất cốt hơi

Lồng ống nối

Hỗn luyện

Nhiệt luyện

Thành hình

Cắt hình mặt lốp

Lưu hóa

Cán tráng

Xé vải mành

Dập ống nối

Xé vải phin

Cắt, cuộn
Thành hình lốp


Kiểm tra
nhập kho

Cắt pavia

Kiểm tra
nhập kho

Chấm lỗ mũ lốp bán thành phẩm

Định hình lốp
Lưu hóa
Ổn định lốp

Kiểm tra thành phẩm

24

Nhập kho


* SƠ ĐỒ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các đơn vị trong công ty
1. P.TCNS - Phòng Tổ chức nhân sự nằm trong bộ máy hoạt động của
Công ty làm các công tác về mặt tổ choc, lao động, đào tạo, khen thưởng, kỷ
luật…
Phịng tổ chức nhân có chức năng tham mưu, giúp việc cho Giám đốc
Cơng ty các cơng tác trên. Có nhiệm vụ thực hiện các công tác do Giám đốc
Công ty phân cơng hay ủy quyền.
2. P.TCTK – Phịng Tài chính kế tốn là một tổ chức thuộc bộ máy quản

lý nghiệp vụ của Công ty cổ phần Cao su Sao Vàng có chức năng giúp Giám
đốc Cơng ty trong quản lý thực hiện cơng tác tài chính, huy động vốn, sử
dụng vốn và quản lý vốn có hiệu quả, bảo tồn và phát triển vốn trong tồn
Cơng ty. Tổ chức và thực hiện cơng tác kế tốn, kiểm sốt nội bộ của Công ty
theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước.
3. P. XDCB – Phòng Xây dung cơ bản là đơn vị thành viên trong hệ
thống quản lý của Công ty chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty,
vhức năng tham mưu cho Giám đốc Công ty trong việc điều hành công tác
đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, quản lý việc sử dụng tài sản cố định, vệ
sinh công nghiệp môi trường.
4. P. XNK – Phòng XNK là một phòng nghiệp vụ nằm trong hệ thống
quản lý của công ty, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty. Với
chức năng tham mưu giúp Giám đốc Công ty điều hành công tác nhập khẩu
vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu và sản phẩm của Công ty
ra nước ngồi.
5. P. KHVT – Phịng Kế hoạch Vật tư là phịng tham mưu, giúp việc
Giám đốc Cơng ty trong việc xây dung kế hoạch, mua sắm vật tư và quản lý
vật tư.
25


×