Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân vùng Mọc – Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội (từ năm 1997 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.53 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỀN





PHẠM BÍCH NGỌC




ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƢ DÂN
VÙNG MỌC – NHÂN CHÍNH (THANH XUÂN, HÀ NỘI)
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC




Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỀN




PHẠM BÍCH NGỌC




ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƢ DÂN
VÙNG MỌC – NHÂN CHÍNH (THANH XUÂN, HÀ NỘI)
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 22 01 13




LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Văn Quân


Hà Nội – 2013
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành là một nỗ lực cố gắng không phải của
riêng cá nhân tôi mà có sự đồng hành của các thầy cô, người thân và bạn bè đã
chỉ bảo, động viên. Đặc biệt là người Thầy hướng dẫn đã sát cánh bên tôi trong
suốt hơn 1 năm qua.
Trước hết cho phép tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Vũ
Văn Quân, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, cho tôi những lời khuyên,

lời động viên vô giá trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ủy ban nhân dân phường Nhân
Chính, Hội người cao tuổi, Hội phụ nữ phường, đặc biệt là các hộ gia đình trên địa
bàn phường đã giúp tôi có được những số liệu, thông tin thực sự hữu ích cho bài
luận văn của mình.
Với tôi Việt Nam học là một ngành khoa học nghiên cứu rất mới mẻ. Từ
ngày bước chân vào, được học tập và nghiên cứu tại Viện Việt Nam học và Khoa
học Phát triển, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, đồng cảm của các thầy cô giáo, các
chuyên viên làm việc tại Viện và các bạn cùng học trong lớp. Nhân dịp này cho
phép tôi gửi lời tri ân sâu sắc đến tất cả các thầy cô giáo, các anh chị chuyên viên và
các bạn.
Mặc dù đã cố gắng song luận văn này còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận
được sự quan tâm của các Thầy Cô và những ai quan tâm, yêu mến vùng đất này.





1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Ý nghĩa của đề tài 7
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10

6. Cấu trúc luận văn 10
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VÙNG MỌC – NHÂN CHÍNH (QUẬN
THANH XUÂN – HÀ NỘI) 11
1.1. Vị trí địa lý và cơ cấu thôn làng 11
1.2. Lịch sử diên cách 15
1.3. Vài nét về đời sống kinh tế 19
1.4. Vài nét về dân cư và đời sống văn hóa 21
1.4.1. Tình hình dân cư 21
1.4.2. Tình hình văn hóa 23
1.4.2.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa tinh thần 23
1.4.2.2. Vài nét về văn hóa vùng Mọc – Nhân Chính 25
1.5. Quá trình đô thị hóa ở vùng Mọc – Nhân Chính 29
1.5.1. Một số khái niệm về đô thị hóa 29
1.5.2. Đô thị hóa ở phường Nhân Chính 30
Tiểu kết chƣơng 1 34
CHƢƠNG 2. SINH HOẠT TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG 36

2
2.1. Tín ngưỡng thờ Phật 36
2.1.1. Hệ thống chùa 36
2.1.2. Các hoạt động tín ngưỡng gắn với Phật giáo 40
2.2. Các tín ngưỡng dân gian khác 45
2.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng 45
2.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu 51
2.2.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên 53
2.2.3.1. Hệ thống nhà thờ họ 53
2.2.3.2. Những thay đổi trong việc thờ cúng tổ tiên ngày nay 54
Tiểu kết chƣơng 2 57
CHƢƠNG 3. PHONG TỤC, TẬP QUÁN 59
3.1. Hôn nhân, tang ma 59

3.1.1. Hôn nhân 59
3.1.2. Tang ma 62
3.2. Tục mừng thọ, lên lão 66
3.3. Quan hệ hàng xóm, láng giềng 69
3.4. Tục đi chợ 27 Tết 72
3.5. Một số chuyển biến trong đời sống sinh hoạt tinh thần của người dân
Nhân Chính hiện nay 74
3.5.1. Thay đổi trong hình thức giải trí 74
3.5.2 Những hình thức giải trí không lành mạnh 76
Tiểu kết chƣơng 3 78
CHƢƠNG 4. LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG 80
4.1. Hội lệ làng ở vùng Mọc – Nhân Chính 80
4.2. Lễ hội 5 làng Mọc 83
4.2.1. Nguồn gốc của lễ hội 83
4.2.2. Cách thức tổ chức lễ hội 85

3
4.2.3. Sức lan tỏa của lễ hội trong đời sống của người dân 90
Tiểu kết chƣơng 4 96
PHẦN KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC BẢN ĐỒ
PHỤ LỤC ẢNH


4
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 Biến động diện tích đất theo mục đích sử dụng ở phường Nhân

Chính (2005 - 2010) 32
Bảng 3.1 Hình thức tổ chức cưới hỏi tại Nhân Chính hiện nay 61
Bảng 3.2 Hình thức tổ chức tang lễ tại Nhân Chính hiện nay 63
Bảng 3.3 Hình thức giải trí hiện nay của người dân Nhân Chính 75























5
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1. Hình thức tổ chức cưới hỏi 61

Biểu đồ 2. Hình thức tổ chức tang lễ 63
Biểu đồ 3. Hình thức giải trí 75


6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng Việt từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà khoa học
muốn tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của người Việt. Để tìm hiểu
những yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa chung của dân tộc, ta không thể bỏ qua văn
hóa làng – một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên tổng thể văn hóa
chung của dân tộc Việt Nam. Làng là một sản phẩm của quá trình lịch sử, vì vậy,
trên con đường phát triển của mình, làng và văn hóa làng luôn có sự biến động để
phù hợp với thời đại.
Vùng Mọc – Nhân Chính trước khi trở thành phường Nhân Chính như ngày
nay là một vùng đất ven đô, nằm bên cạnh con sông Tô Lịch. Từ một làng cổ, sau
phát triển thành nhiều làng, gọi là vùng Mọc. Đây là vùng đất được đánh giá có
nhiều di tích lịch sử, các giá trị văn hiến cùng với nếp sinh hoạt văn hóa mang nhiều
nét đặc sắc. Với đời sống sinh hoạt tinh thần phong phú mang nhiều dấu ấn của cư
dân nông nghiệp nói chung nhưng vẫn có những điều khác biệt với các vùng quê
khác của Việt Nam, vùng đất Kẻ Mọc đến nay vẫn còn gìn giữ được những giá trị
truyền thống. Dù quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh từ khi trở thành phường
Nhân Chính, nhưng bên cạnh lối sống xô bồ, bon chen của đô thị, người dân trong
vùng vẫn tin yêu và tự hào về những giá trị văn hóa cổ truyền của cha ông để lại.
Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi từng ngày của một làng nông nghiệp ven đô, với sự
du nhập của những trào lưu văn hóa hiện đại, những cách giải trí mới mẻ, thời
thượng thì đời sống tinh thần của cư dân nơi đây có sự thay đổi, chuyển biến theo.
Vùng Mọc – Nhân Chính là quê ngoại của tác giả luận văn này. Từ khi sinh
ra, lớn lên, mảnh đất này đã gắn bó với tuổi thơ, đã in sâu trong tiềm thức với bao
kỷ niệm của tác giả. Chứng kiến sự đổi thay của mảnh đất mình yêu mến, tác giả có

ý nguyện đóng góp một phần tâm huyết để giới thiệu đến mọi người và những ai
quan tâm đến làng quê Việt có thêm sự hiểu biết về vùng đất giàu truyền thống văn
hóa, lịch sử này. Vì những lý do như vậy mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu luận văn
của mình là:

7
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân vùng Mọc – Nhân Chính (Thanh
Xuân, Hà Nội) từ năm 1997 đến nay
2. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn được nghiên cứu bằng phương pháp tổng hợp, liên ngành sẽ cho
một nhận thức toàn diện về địa bàn và vấn đề nghiên cứu. Địa bàn nghiên cứu, mà
cụ thể ở đây là phường Nhân Chính được nghiên cứu dưới nhiều góc độ: lịch sử,
kinh tế, xã hội trên tiến trình biến đổi theo thời gian sẽ mang lại kết quả khách quan
và sâu sắc.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho những ai quan tâm, yêu mến
làng quê Việt Nam có thêm kiến thức về một vùng đất mang nhiều giá trị văn hóa.
Cũng như những người dân sống trên địa bàn, nếu chưa có điều kiện hiểu rõ về
mảnh đất mình đang sống, chưa biết quý trọng những giá trị mà ông cha để lại hay
trong lúc nào đó lãng quên những giá trị tinh thần truyền thống sẽ thêm yêu quý,
trân trọng nó.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thăng Long – Hà Nội là có sức cuốn hút mạnh mẽ với nhiều nhà nghiên cứu
khoa học cũng như giới văn nghệ sĩ. Đã có nhiều tác phẩm viết về văn hóa truyền
thống, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của vùng đất này. Nhiều nhà khoa học nổi
tiếng đã có những nghiên cứu sâu về Thăng Long – Hà Nội trên nhiều lĩnh vực, có
thể kể đến như: Hoàng Đạo Thúy, Trần Huy Liệu, Trần Huy Bá, Trần Quốc
Vượng…
Nguyễn Vinh Phúc được biết đến là một nhà Hà Nội học. Ông là người
chuyên nghiên cứu về lịch sử của Hà Nội và ca ngợi lối sống thanh lịch của thủ đô.
Những tác phẩm của ông như là: Hà Nội phố làng biên niên sử của Nguyễn Bắc và

Nguyễn Vinh Phúc (1999), Các khu phố cổ Hà Nội, Sự phát triển của Hà Nội nhìn
qua các di tích lịch sử văn hóa (Nguyễn Vinh Phúc, 1994).
Ngoài ra, còn phải kể đến tác phẩm: Biến đổi của văn hóa đô thị Hà Nội -
Thực trạng và giải pháp (2010) của Phan Đăng Long, Biến đổi văn hóa đô thị Việt
Nam hiện nay (2006) của Nguyễn Thanh Tuấn, Những biến đổi về giá trị văn hoá

8
truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới (Ngô Văn Giá, 2007),
Đô thị hóa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam của Hà Huy Thành trong
sách Phát triển đô thị bền vững (2002)… Qua những tác phẩm này, các tác giả đã
chỉ ra nguyên nhân sâu sa của quá trình biến đổi văn hóa đô thị, nhất là ở các làng
ven đô ngoại thành, từ đó đưa ra hướng bảo tồn và phát huy những giá trị truyền
thống đó.
Những tài liệu trực tiếp nghiên cứu về văn hóa của vùng Kẻ Mọc chưa nhiều.
Tuy nhiên trong một số tác phẩm của các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử vùng
đất Thăng Long – Hà Nội ít nhiều cũng đã đề cập đến vùng đất này. Một công
trình khảo sát thực địa của Nguyễn Văn Uẩn, Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX. Bộ sách
gồm 3 tập, xuất bản năm 1995 và tái bản năm 2000. Đây là bộ sách viết về lịch
sử Hà Nội trong 50 năm đầu thế kỷ XX. Trong đó có phần viết về lịch sử làng
Nhân Chính cổ truyền. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung mô tả về
nguồn gốc, lịch sử hình thành và phát triển của các làng Mọc ở thế kỷ XVII,
XVIII (cuối Hậu Lê, đầu Nguyễn), trong đó có các làng Mọc thuộc xã Nhân Mục
Môn (sau này là Nhân Chính).
Cuốn sách Nhân Chính trên những chặng đường lịch sử của Đảng ủy và
Ủy ban nhân dân xã Nhân Chính (sau này đổi thành phường Nhân Chính) được
xuất bản năm 1997 đã khái quát được những bước thăng trầm của lịch sử vùng
đất Kẻ Mọc.
Cùng với việc giới thiệu về lịch sử, văn hóa vùng Mọc – Nhân Chính (1930 –
2000), cuốn sách Lịch sử cách mạng phường Nhân Chính, xuất bản năm 2004 cũng
đã đưa ra được bức tranh khái quát nhiều màu sắc của chặng đường đấu tranh của

cư dân vùng Mọc trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đồng thời
cũng giới thiệu những nét văn hóa truyền thống đã được người dân bảo tồn và phát
huy qua nhiều thế hệ.
Khi nói đến những giá trị văn hóa của vùng Mọc – Nhân Chính không thể
không nhắc đến cuốn sách Di sản văn hóa quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội,
xuất bản năm 2010. Là một trong 10 phường của quận Thanh Xuân, Nhân Chính là

9
một phường có nhiều di tích lịch sử cũng như những giá trị văn hóa truyền thống
lâu đời. Cuốn sách là cái nhìn tổng thể về những di sản văn hóa quận Thanh Xuân,
trong đó nổi bật là phường Nhân Chính.
Ngoài ra cũng có một số luận văn, luận án đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của vùng đất Kẻ Mọc như: Xã Nhân Mục Môn thời cổ, trung đại, Vũ Thị Bé;
Lễ hội 5 làng Mọc ở Hà Nội của Nguyễn Minh Phương; Từ làng đến phố: Đô thị
hóa và quá trình chuyển đổi lối sống của một làng ven đô Hà Nội (trường hợp
phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) của Bùi Thị Kim Phương, 2010.
Các tác phẩm trên đã có những đóng góp nhất định trong nghiên cứu vấn đề,
góp phần bảo tồn và làm sống dậy những giá trị văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, ở
một số tác phẩm thường mang nặng tính định hướng chính sách chứ chưa đi sâu vào
nghiên cứu cụ thể, chi tiết từng vùng và lý giải được sự chuyển biến trong đời sống
văn hóa của người dân. Riêng về vùng Mọc – Nhân Chính đã có một số luận văn
cao học đã lựa chọn vùng đất này là địa bàn nghiên cứu nhưng phạm vi nghiên
cứu thường quá rộng hoặc đi vào một khía cạnh khác của đối tượng nghiên cứu.
Có nghiên cứu về vùng đất Mọc – Nhân Chính dưới thời cổ, trung đại; có nghiên
cứu về quá trình đô thị hóa đã tác động đến diện mạo đời sống của cư dân Nhân
Chính; cũng có những nghiên cứu đi vào khía cạnh lễ hội của vùng Mọc… Trong
luận văn này, chúng tôi mong muốn góp thêm một khía cạnh nghiên cứu mới về
đời sống tinh thần của cư dân vùng Mọc – Nhân Chính, cũng như sự chuyển biến
trong đời sống văn hóa tinh thần vốn đã phong phú, đậm đà bản sắc riêng của
vùng Mọc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đời sống văn hóa tinh thần của cư dân
vùng Mọc – Nhân Chính (gồm các làng Mọc cổ). Những giá trị văn hóa truyền
thống được hình thành, phát triển và biến đổi theo thời gian.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những giá trị văn hóa trong đời sống tinh thần
của người dân vùng Mọc – Nhân Chính cùng với sự chuyển biến của nó trong quá
trình đô thị hóa, đặc biệt từ khi Nhân Chính trở thành phường từ năm 1997 đến nay.

10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp liên ngành, đa ngành được sử dụng để tiếp cận đối tượng từ nhiều
hướng khác nhau, qua đó mang lại những kết luận mang tính tổng hợp và toàn diện
về những biến đổi trong lối sống cũng như đời sống tinh thần trên địa bàn.
Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu: Thu tập các tư liệu, số
liệu về lịch sử, đất đai, kinh tế, lối sống và đặc biệt các di tích lịch sử cùng với
những hoạt động văn hóa tinh thần của cư dân trong vùng để khái quát được toàn
cảnh sinh hoạt của cư dân vùng Mọc – Nhân Chính.
Phương pháp điều tra, điền dã: Thực hiện phỏng vấn đối thoại các nhà quản lý,
người dân thuộc khu vực khảo sát. Thực hiện điều tra theo phiếu để thu thập số liệu.
Phương pháp thống kê: Xử lý định lượng các số liệu về kinh tế, ruộng đất,
những tư liệu đám đông để rút ra những kết luận khoa học.
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic: Các phương pháp này sẽ giúp cho
việc nhìn nhận, lý giải, đánh giá các sự vật, hiện tượng theo trong chiều sâu lịch sử.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 4 chương
Chương 1. Tổng quan về vùng Mọc – Nhân Chính
Chương 2. Sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng
Chương 3. Phong tục tập quán
Chương 4. Lễ hội truyền thống











11
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VÙNG MỌC – NHÂN CHÍNH
(THANH XUÂN – HÀ NỘI)

1.1. Vị trí địa lý và cơ cấu thôn làng
Cùng với sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội hơn một thiên niên kỷ qua,
mảnh đất Kẻ Mọc cũng đã sáng tạo và lưu giữ bao giá trị văn hóa tốt đẹp. Đất nước
thống nhất và bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội cũng đã
vươn mình đứng dậy. Trong những quận, huyện của Hà Nội ngày nay, Thanh Xuân
là một quận còn non trẻ. Được thành lập theo Nghị định số 74/CP ngày 22-11-1996
của Thủ tướng Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 1/1/1997, quận Thanh Xuân gồm 11
đơn vị hành chính cấp phường là: Thượng Đình, Hạ Đình, Khương Đình, Thanh
Xuân Trung, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Kim Giang, Phương Liệt, Nhân
Chính, Khương Mai và Khương Trung. Từ thời điểm này, người dân xã Nhân
Chính chính thức trở thành những công dân nội thị. Quá trình đô thị hóa diễn ra hết
sức mạnh mẽ đã khiến diện mạo của vùng đất ven đô thay đổi nhanh chóng. Tuy
nhiên, một vấn đề đặt ra là, bên cạnh những mặt tích cực của một vùng đất nông
nghiệp với những con người nông dân ấy đang từng ngày từng giờ thay đổi tiến đến
với cuộc sống văn minh, hiện đại của một đô thị lớn thì những giá trị văn hóa truyền
thống, đặc biệt là những nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần lâu đời có được

gìn giữ, phát huy hay bị cuộc sống hiện đại, xô bồ cuốn trôi? Sự đan xen giữa cái cũ
và cái mới liệu có tạo nên sự mâu thuẫn, khập khiễng hay nó được dung hòa và tạo
nên những bản sắc mới? Đó cũng là những trăn trở của những người yêu mến làng
quê Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới và đó cũng là động lực để tác giả luận văn
này nghiên cứu và tìm hiểu.
Là một vùng đất lâu đời bên bờ Nam dòng sông Tô Lịch, phía Tây Nam
thành Đại La, sau này là thành Thăng Long, nước Đại Việt, vùng đất Nhân Chính
xưa kia được gọi là vùng Kẻ Mọc (tên Nôm) và tên chữ là Nhân Mục (có nghĩa là
nhân nghĩa, hòa thuận). Xã Nhân Mục gồm Nhân Mục cựu và Nhân Mục môn.

12
Nhân Mục Cựu gồm các làng Thượng Đình và Hạ Đình, Nhân Mục Môn gồm các
làng Giáp Nhất, Quan Nhân, Chính Kinh, Cự Lộc và Phùng Khoang. Nhân Mục
Môn là một xã được thành lập từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ thứ VIII, thứ IX. Nhân
Mục Môn có nguồn gốc chủ yếu từ hai xã láng giềng là xã Hòa Mục (ngày xưa có
tên là Nhân Mục) và xã Nhân Mục Cựu (Thượng Đình, Hạ Đình). Như vậy, Nhân
Mục (Hòa Mục) và Nhân Mục Cựu so với Nhân Mục Môn là hai xã cổ hơn, Nhân
Mục Môn nằm trong tổng Mọc. Trong nhiều tư liệu, xã Nhân Mục Môn nằm trong
tổng Khương Đình. Ở xã này còn nhiều tài liệu chứng tỏ cư dân Nhân Mục Môn có
quan hệ mật thiết với cư dân các xã bạn. Xã có diện tích khoảng 1,606,900m2, phía
Bắc giáp xã Trung Hòa, phía Nam giáp với Quốc lộ số 6, phía Tây giáp các xã
Trung Văn và Mễ Trì, phía Đông giáp phường Thượng Đình.
Vào thời kỳ mới khai lập làng, vùng đất này còn mấp mô, không bằng phẳng.
Ở đây có nhiều cây to, có suối, có đầm Để cải tạo mảnh đất này phục vụ cho cuộc
sống sinh hoạt cũng như sản xuất, những người dân đầu tiên đến khai phá phải rất
vất vả san lấp đất tạo nền bằng phẳng, đào ao, khơi nước để chứa nước sinh hoạt và
sản xuất. Có thể nói, hệ thống ao ở Nhân Mục Môn khá dày đặc và mang nhiều ý
nghĩa. Không chỉ tạo nên cảnh làng quê truyền thông với cây đa, bến nước mà ao
còn giúp bảo vệ xóm làng, phục vụ cuộc sống sinh hoạt, sản xuất. Nhưng hơn hết,
ao còn đi vào đời sống văn hóa tinh thần của người dân nơi đây: “Ở Nhân Mục Môn

có ngày hội to nhất là ngày mười một tháng hai. Trong ngày hội này có sự kiện
quan trọng và đẹp đẽ nhất là đánh cờ người dưới nước. Những quân cờ là các đôi
trai gái thanh lịch ăn mặc đỏm dáng. Bàn cờ là một sàn gỗ được dựng lên trên mặt
chiếc ao lớn và đẹp ở trung tâm làng ao sen”. [40, tr 34]
Điều kiện thời tiết của vùng mang những nét đặc trưng tiêu biểu của kiểu
thời tiết nóng, ẩm, mưa nhiều của khí hậu nhiệt đới, gió mùa: Tháng giêng mưa nhỏ
hơi rét, còn nhiều gió đông. Tháng 2, tháng 3 khí hậu điều hòa, ấm dần lên. Tháng
5, tháng 6 nóng nực. Tháng 7 tháng 8 nhiều mưa, nước sông dâng. Tháng 10 sau tiết
sương giáng thì hết lũ, gió đông bắc giá rét, gần hết năm thì rét dữ. Năm có sương
muối thì lúa màu bị hại. Nói như vậy có thể thấy, khí hậu thời tiết vùng Nhân Mục
Môn mang đậm kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình của vùng đồng bằng Bắc

13
bộ với mùa đông lạnh, mùa hè nóng, độ ẩm cao, mưa nhiều. Kiểu thời tiết này thuận
lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước và trồng cây hoa màu. Tuy nhiên, vào những
năm lũ lớn, sương muối mạnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng nông
nghiệp và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của cư dân trong vùng.
Thời cổ trung đại, xã Nhân Mục Môn là cửa ngõ phía Nam của Kinh thành
Thăng Long. Từ Kinh thành nếu muốn đi vào các tỉnh phía Nam chỉ có một con
đường duy nhất là đường “thượng đạo” . Đường thượng đạo qua sông Tô Lịch ở
cống Mọc (sau này là cầu Nhân Mục), qua các làng Mọc Quan Nhân, Mọc Chính
Kinh sau đó vòng qua đằng sau khu vực ngày nay là cánh đồng Quán Dền. Đường
thượng đạo là đường bộ lớn nhất đi qua địa vực xã Nhân Mục Môn thì sông Tô Lịch
là đường thủy quan trọng với cư dân ở đây. Là một con sông lớn chảy qua vùng,
trước đây, thuyền bè ra vào vùng này khá tấp nập. Trước đây, trên đoạn sông này
cũng có một cái chợ gọi là chợ Mọc. Một năm họp một phiên lớn vào ngày 21 tháng
Chạp Âm lịch, còn ngày bình thường thì buôn bán những mặt hàng nông phẩm. Nói
vậy có thể thấy, sông Tô Lịch góp một phần quan trọng vào đời sống sinh hoạt cũng
như đời sống kinh tế của cư dân vùng Nhân Mục Môn.
Do vị trí nằm sát kinh thành Thăng Long, lại thêm điều kiện tự nhiên

thuận lợi cho việc giao thông đã tạo điều kiện cho Nhân Mục Môn trở thành một
vùng phát triển về trao đổi buôn bán. Từ lâu, cư dân ở đây đã nổi tiếng nhiều
tiền, giàu có.
Như đã nói ở trên, vùng Mọc – Nhân Chính (hay trước đây còn gọi là Nhân
Mục Môn) được cấu thành bởi bốn làng: Quan Nhân, Cự Lộc, Chính Kinh, Giáp
Nhất, được chia làm 14 xóm. Mặc dù nguồn gốc hình thành có khác nhau và quá
trình phát triển có những giai đoạn biệt lập nhưng nhìn chung các làng vẫn có mối
quan hệ với nhau trong nhiều mặt của đời sống.
Làng Cự Chính (Cự Lộc – Chính Kinh)
Xã Nhân Mục Môn xưa có bốn thôn, trong đó riêng hai thôn Cự Lộc và
Chính Kinh nằm liền nhau. Suốt quá trình hình thành và xây dựng sau này, hai thôn
có những nét tương đồng trong sinh hoạt. Hai thôn vẫn có chung đình chùa, những
hoạt động tín ngưỡng cũng được tổ chức chung như vào những ngày kỵ Thánh, hội

14
lệ Cũng có thời kỳ, hai thôn được sáp nhập thành một đơn vị hành chính, nhưng
cũng có lúc được tách riêng do có sự mâu thuẫn, xích mích giữa mấy họ có thế lực.
Dưới thời Pháp thuộc, Cự Lộc và Chính Kinh là hai xã riêng, thờ thành hoàng riêng,
mỗi làng có lý trưởng giữ triện đồng riêng. Khi hợp nhất, hai làng có tên chung là
Cự Chính nhưng người dân vẫn quen gọi tên riêng của mỗi làng. Làng Cự Chính có
năm xóm chính là: Cự Lộc, xóm Đình, xóm Thọ Lão, xóm Vườn Nở, xóm Tó.
Những xóm này được cấu tạo theo hình xương cá, nối với đường chính của làng,
nên ở Nhân Chính mới có câu “đường làng ngõ xóm, hôm sớm gặp nhau”. Mỗi xóm
trước đây có khoảng hơn chục nóc nhà quây quần với nhau thành cụm, thành xóm.
Theo người xưa kể lại, trong làng có xóm Thọ Lão có thế lực mạnh nhất bởi xóm
này có nhiều người giàu có, làm quan. Đặc biệt trong xóm có dòng họ Nguyễn Thái
Bảo là dòng họ lớn và có tiếng tăm còn lưu giữ được đến ngày nay.
Làng Quan Nhân
Theo tài liệu ghi chép, thôn Quan Nhân khởi thủy là một trang trại của
một người làng Mọc đỗ tiến sĩ được cấp ruộng đất. Sau này, người nhà và họ

hàng đến ở tập trung xung quanh tạo nên xóm làng. Đến thế kỷ XIX, Quan Nhân
là một làng lớn đông dân nhất trong số những làng Mọc [18]. Thôn Quan Nhân
có hai cổng: cổng Tiền có 4 trụ cột lớn, cổng Hậu có vòm canh bên trên (hiện
vẫn còn tồn tại đến ngày ngày). Thôn Quan Nhân có 7 xóm là: xóm Cầu Ba,
Ninh Phúc, Ao Nghè, xóm Sòi, xóm Cổng Hậu, xóm Chùa, xóm Vườn Điều. Các
xóm được sắp xếp theo hình bàn cờ. Số hộ gia đình trong xóm thôn Quan Nhân
cũng đông đúc hơn, đến nay mỗi xóm khoảng vài trăm nhà. Quan hệ cư dân
trong các xóm này cũng không chặt chẽ.
Đình làng Quan Nhân ở xóm Chùa, là ngôi đình được xây dựng lớn nhất
trong số các ngôi đình ở Nhân Chính. Đình làng Quan Nhân thờ Hùng Lãng Công,
người đã có công đánh giặc Nam Chiếu. Chùa của làng cũng được xây dựng ngay
bên cạnh đình và cũng là một ngôi chùa lớn.
Trong 5 làng Mọc thì Quan Nhân là một làng giàu có. Giàu có ở đây là do
làng có nhiều người làm quan. Bởi ruộng đất của làng chỉ có 186 mẫu nên người
trong làng ít nhà làm ruộng. Gia đình nghèo thì đi làm thuê làm mướn nơi khác vì

15
không có nghề phụ. Gia đình có điều kiện, có bố mẹ là công chức thì cho con đi học
rồi làm các công sở và sở tư.
Làng Giáp Nhất
Giáp Nhất là một làng nhỏ nằm giáp bờ nam sông Tô Lịch, ngày xưa chỉ
là một giáp của Nhân Mục. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15), hai cha con Nguyễn
Trung và Nguyễn Tuấn người giáp này đỗ tiến sĩ. Nguyễn Trung là người khai
khoa cho Nhân Mục, nên nơi này được mang tên là Giáp Nhất. Đã có thời kỳ
Giáp Nhất có tên là Lý Thôn (còn gọi là thôn Lý) [25,tr 157]. Có người cho rằng
Giáp Nhất có tên như vậy vì nó là một giáp của làng Hòa Mục. Giáp Nhất có hai
dòng họ lớn trong đó họ Nguyễn Hữu tính đến nay đã hơn hai mươi đời. Vì là
một làng nằm gần sông Tô Lịch nên bị ảnh hưởng khá lớn bởi thiên nhiên cũng
như địch họa bên ngoài.
Từ ngày trở thành một phường của quận Thanh Xuân, vùng Mọc – Nhân

Chính xưa có nhiều thay đổi về địa lý. Theo số liệu thống kê năm 2009 của niên
giám thông kê quận Thanh Xuân, phường Nhân Chính hiện có diện tích 160,9 ha
với 39.185 nhân khẩu. Về cơ bản, phường Nhân Chính chia thành 2 phần, phần 1
(tạm gọi là vùng lõi) là vùng gồm các làng Mọc cổ, phần 2 là phần mở rộng sau khi
có chính sách quy hoạch. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu phần
lõi gồm các làng Mọc cổ.
1.2. Lịch sử diên cách
Khu vực phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân ngày nay vốn là vùng đất
cổ, thuộc quận Giao Chỉ (hoặc An Nam đô hộ phủ) thời Bắc thuộc. Thời Lý, vùng
đất này thuộc châu Thượng Phúc. Thời Trần thuộc huyện Long Đàm, châu Thượng
Phúc. Trong thời kỳ thuộc Minh, huyện Long Đàm đổi thành huyện Thanh Đàm,
châu Thượng Phúc đổi thành châu Phúc Yên, gồm 3 huyện là Bảo Phúc, Phù Lưu
và Thanh Đàm. Từ đây, vùng đất này thuộc huyện Thanh Đàm, châu Phúc Yên
 Nhân Chính thời cổ, trung đại
Theo ông Nguyễn Thiện Lâu là người làng Hạ Đình ghi trong sách Quốc sử
tạp lục thì từ cái tên thuần Việt gọi là Kẻ Mọc về sau phiên âm ra chữ Hán là Mộc
Cự, sau đó chuyển thành Cự Mộc rồi Nhân Mục.

16
Xã Nhân Mục thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Đàm, sau đổi là huyện
Thanh Trì, thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) xứ này
được đổi thành tỉnh Hà Đông. Trong thời thuộc Pháp (năm 1942) cả 7 làng (Thượng
Đình, Hạ Đình, Giáp Nhất, Quan Nhân, Chính Kinh, Cự Lộc, Phùng Khoang) thuộc
Nhân Mục sáp nhập vào Đại lý Hoàn Long thuộc ngoại thành Hà Nội.
Vốn là vùng đất cổ, thuộc quận Giao Chỉ (An Nam đô hộ phủ) thời Bắc
thuộc, đến thời Lý, vùng đất này thuộc châu Thượng Phúc. Thời Trần vùng này
thuộc huyện Long Đàm, châu Thượng Phúc. Trong thời kỳ thuộc Minh, huyện Long
Đàm đổi thành huyện Thanh Đàm, châu Phúc Yên. Từ lúc này, vùng đất Nhân Mục
Môn thuộc huyện Thanh Đàm, châu Phúc Yên.
Vào nửa cuối thế kỷ XV, phủ Thường Tín thuộc thừa tuyên Sơn Nam được

thành lập, gồm 3 huyện là Thanh Đàm, Thượng Phúc và Phú Xuyên. Từ đây, vùng
đất này thuộc huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín, thừa tuyên Sơn Nam.
Từ đời Hồng Thuận (1509 – 1516), xứ thừa tuyên đổi thành trấn. Từ đây,
vùng đất này thuộc huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam.
Đầu đời Lê Trung Hưng, do kiêng húy Thế Tông Lê Duy Đàm (1573 –
1600), huyện Thanh Đàm đổi thành huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín. Từ đây
vùng đất này thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam.
Sau đó lại do kiêng húy chữ “thanh” có nghĩa là “trong” là tên tước của
Thanh vương Trịnh Tráng (1623 – 1657) nên đã đổi dùng chữ Thanh (màu xanh).
Đến đầu thế kỷ XIX, khu vực phường Nhân Chính hiện nay vốn thuộc địa
giới thôn Lý thuộc xã Nhân Mục Môn, thôn Quan Nhân thuộc xã Nhân Mục Môn,
tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng.
Năm Minh Mệnh thứ 2 (1822), trấn Sơn Nam Thượng đổi thành trấn Sơn
Nam. Vì vậy, khu vực Nhân Chính hiện nay thuộc địa giới thôn Lý thuộc xã Nhân
Mục Môn, thôn Quan Nhân thuộc xã Nhân Mục Môn, tổng Khương Đình, huyện
Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam.
Từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), sau cải cách hành chính của vua Minh
Mệnh, toàn bộ phủ Thường Tín, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân thuộc trấn Sơn Nam

17
và phủ Hoài Đức được lập thành tỉnh Hà Nội. Từ đây, khu vực Nhân Chính thuộc
về địa giới thôn Lý thuộc xã Nhân Mục Môn, thôn Quan Nhân thuộc xã Nhân Mục
Môn, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội.
 Nhân Chính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
(1945 -1975)
Là một vùng đất đông dân nằm sát nội thành Hà Nội, Nhân Chính cũng hòa
chung nhịp sống của nhân dân cả nước. Cùng trải qua hai cuộc chiến đấu chống lại
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mảnh đất Kẻ Mọc xưa đã chứng kiến biết bao thăng
trầm của lịch sử. Là vùng đệm giữa nông thôn và thành thị, phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân Nhân Chính “vừa chịu tác động những đặc trưng của

thành thị, vừa mang trong mình những nét riêng của vùng nông thôn” [1,tr 17].
Ngay sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Nhân Chính đã hăng hái
tham gia cách mạng. Có thể nói, trong giai đoạn kháng chiến, Nhân Chính là một
trong những địa phương có nhiều hoạt động sôi nổi. Những chủ chương của
Đảng và Nhà nước được người dân đồng lòng thực hiện, những cuộc vận động,
kêu gọi của Đảng và Nhà nước cũng được người dân nhiệt tình tham gia: “Vào
cái năm nạn đói 1945, người chết đói nhiều lắm. Họ nằm đầy ngoài đường, nhất
là xung quanh khu vực đình Quan Nhân. Chính quyền cũng đã quyên góp gạo
nấu cháo phát cho những người đói ở ngoài đình ấy.” (Phỏng vấn cụ Nguyễn
Thị Nhài, 85 tuổi, 89 phố Chính Kinh).
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, các xã đều lập Ủy ban nhân dân lâm thời,
giữ nguyên trạng về cách tổ chức hành chính. Theo Quyết định của Hội đồng chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9 tháng 10 năm 1945, các
thành phố, các tỉnh, phủ đều giữ nguyên tên cũ. Lúc đó, khu vực Nhân Chính ngày
nay thuộc về địa giới xã Giáp Nhất và xã Quan Nhân, tổng Khương Đình, thành phố
Hà Nội.
Từ ngày 2 tháng 5 năm 2946, theo Biên bản chia khu ngoại thành Hà Nội,
ngoại thành Hà Nội được chia thành 5 khu. Trong đó, khu Đống Đa gồm 28 làng là
Chính Kinh, Cự Lộc, Định Cộng Thượng, Giáp Nhất, Hòa Mục, Hạ Đình, Khương

18
Thượng, Khương Hạ, Khương Trung, Kim Lũ, Kim Giang, Kim Văn, Mỹ Đức,
Nhược Công, Ngã Tư Sở, Nam Đồng, Phương Liệt, Quan Nhân, Trung Kính,
Thượng Đình, Thịnh Quang, Thái Hà, Trung Tự, Trung Phụng, Thổ Quan, Thịnh
Hào, Xã Đàn và Yên Lãng. Từ đây, Nhân Chính thuộc địa giới làng Giáp Nhất và
làng Quan Nhân, khu Đống Đa, ngoại thành Hà Nội.
Theo Quyết định số 78-CP ngày 31 tháng 5 năm 1961 của Hội đồng Chính
phủ, các khu vực nội thành và ngoại thành của Hà Nội được phân chia thành 4 khu
phố và 4 huyện. Huyện Từ Liêm gồm 26 xã, trong đó xã Nhân Chính gồm các thôn
Cự Chính, Giáp Nhất, Quan Nhân và xóm Tó thuộc thôn Thượng Đình.

Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa và chống Mỹ cứu nước
1954 – 1975, do Nhân Chính nằm trong vùng tạm chiếm nên “phải gánh nhiều hậu
quả nặng nề do chiến tranh để lại” [1, tr 20] trong tất cả các mặt đời sống, sản xuất.
Tuy nhiên, Đảng bộ Nhân Chính luôn quán triệt và chấp hành nghiêm túc những
Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương hướng dẫn, chỉ đạo người dân thực hiện. Bên
cạnh đó, với tinh thần yêu nước cũng như sức chiến đấu bền bỉ của người dân
không kể già trẻ, trai gái đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ và giành được thắng lợi của dân tộc.
 Nhân Chính từ sau ngày thống nhất đất nƣớc
Trong những năm đầu sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân
Nhân Chính bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế, ổn định cuộc sống. Từ năm 1961
xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm, còn phần Thượng Hạ Đình bên kia đường 6
thuộc huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội. Bộ mặt của Nhân Chính cũng được thay
đổi từng ngày trên nhiều lĩnh vực. Đời sống của nhân dân vì thế cũng được thay đổi
theo hướng tích cực. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ yếu của vùng. Tuy
nhiên, sau công cuộc cải cách, mở cửa năm 1986, người dân vùng giáp ranh Nhân
Chính có nhiều sự thay đổi đáng kể. Ngoài nông nghiệp, các hộ gia đình cũng mở ra
thêm nhiều ngành nghề để kinh doanh, tăng thu nhập cho gia đìn. Cũng trong giai
đoạn này, một phần đất canh tác của Nhân Chính đã bị cắt để dành cho việc xây
dựng công sở, trường học và các khu tập thể.

19
Ngày 22 tháng 11 năm 1996, Chính Phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành Nghị định số 74-CP về việc thành lập quận Thanh Xuân, quận
Cầu Giấy, thành lập và đổi tên một số phường thuộc thành phố Hà Nội. Quận Thanh
Xuân được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các
phường Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Kim Giang, Phương Liệt
gồm 78,1 ha diện tích tự nhiên và 20,862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi; 98,4
ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường Khương Thượng; toàn bộ diện
tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân Chính (huyện Từ Liêm) và xã Khương

Đình (huyện Thanh Trì). Phường Nhân Chính được thành lập trên cơ sở toàn bộ
diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân Chính. Từ đây, phường Nhân Chính
được thành lập thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội với diện tích tự nhiên là
160,9 ha và 39.185 nhân khẩu.
1.3. Vài nét về đời sống kinh tế
Nhân Mục Môn là một xã có diện tích đất tự nhiên rộng lớn. Hơn nữa, được
thiên nhiên ưu đãi với vị trí gần sông Tô Lịch hiền hòa “sông này mùa đông mùa
xuân nông cạn, mùa hè mùa thu nước lớn, phải đi bằng thuyền” [7, tr 32] và điều
kiện khí hậu thuận lợi nên từ xa xưa ở Nhân Mục Môn nông nghiệp là ngành sản
xuất chính nuôi sống cư dân nơi đây. Do có hệ thống thủy lợi và ao chuôm dày đặc
nên ngoài hai vụ lúa chính trong năm, người nông dân Nhân Mục còn trồng cấy
thêm những loại cây hoa màu khác nhằm phục vụ trước hết nhu cầu sử dụng trong
gia đình sau đó là trong vùng.
Bên cạnh đó, do có vị trí thuận lợi “nhất cận thị, nhị cận giang” nên Nhân
Mục Môn, ngoài nông nghiệp, còn khá phát triển về thương nghiệp buôn bán. Điều
này cũng dể hiểu bởi là một xã nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam thành, dọc bên con
sông Tô Lịch sầm uất nên việc đi lại giao thương cũng dễ dàng hơn các vùng khác.
Khi đến Nhân Chính khảo sát, tôi thường nghe các cụ cao niên nói một câu: “Tiền
làng Mọc, thóc làng Khoang”. Tuy nhiên, những thư tịch cổ còn lưu giữ được tại
các đình làng hoàn toàn không nói gì về hoạt động thương nghiệp của vùng. Có thể
nói, mặc dù thương nghiệp phát triển sớm nhưng với người dân ở Nhân Mục Môn,

20
nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ yếu nuôi sống họ và gia đình. Ngoài ra, Nhân
Mục Môn cũng có một số nghề thủ công mang lại nguồn thu nhập khác. Tuy những
nghề này không có gì đặc biệt và chỉ hoạt động theo kiểu tự cung tự cấp như nghề
thợ mộc, nghề bốc thuốc chữa bệnh. Theo tài liệu còn lưu lại của dòng họ Nguyễn
Duy ở thôn Phùng Khoang thì: “Xưa ở thôn Quan Nhân có thầy lang từ quê Thanh
Hóa ra, lưu trú tại đó để làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Về sau, con cháu vẫn tiếp
tục làm nghề y. Vì tiện đường lai kinh, gần nơi đô hội, nên nghề này ở đây đã có

thời kỳ phát triển”.
Khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của
Nhân Chính đã bị thay đổi khá nhiều. Ruộng đất bị thu hẹp để mở trường đào tạo
công nhân, viên chức và xây dựng một số cơ sở sản xuất kinh doanh nên nền kinh tế
của Nhân Chính không đơn thuần chỉ là sản xuất nông nghiệp. Trong xã hội lúc này
cũng đã có sự phân hóa các tầng lớp. Sau năm 1954, làm theo vận động, tuyên
truyền của Đảng và Chính phủ, nhân dân Nhân Chính ra sức sản xuất, mở rộng khai
hoang, tăng diện tích lúa, thành lập các hợp tác xã nông nghiệp.
Hòa chung với không khí của cả nước hăng hái xây dựng xã hội chủ nghĩa và
đập tan mưu đồ của đế quốc Mỹ, Đảng bộ, phụ nữ Nhân Chính đã trở thành lực
lượng sản xuất nòng cốt góp phần xây dựng hậu phương vững chắc cho tiền tuyến:
“Công tác cải tạo đồng ruộng, xây dựng bờ vùng, bở thửa, cấy, bừa… đều do phụ
nữ đảm nhận: nổi bật các tay cầy, tay cấy là các bà Nguyên (Đậu), bà Môn, bà
Thủy, bà Cốm, bà Sơn, bà Hỷ, bà Sủng, bà Cao, bà Đỗ, bà Lộc (Hinh)…” [5, tr 56].
Ngay sau những ngày đất nước thống nhất, tình hình kinh tế của cả Thành
phố nói chung và xã Nhân Chính nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Đây cũng là bức
tranh chung cho toàn cục nền kinh tế lúc bấy giờ do những chủ trương và mô hình
quản lý không còn phù hợp trong điệu kiện mới.
Tuy nhiên, đến năm 1986, với những chủ chương, đường lối đổi mới đã
khiến cho nền kinh tế ở Nhân Chính dần dần được ổn định, mở ra những bước phát
triển ban đầu: “Giữa lúc đó, chủ chương giao đất bổ sung làm kinh tế gia đình của
Thành phố được ban hành, người dân Nhân Chính rất phấn khởi”. [5, tr 76]. Để

21
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa được phát động mạnh mẽ lúc
bấy giờ, một phần lớn đất đai Nhân Chính được chuyển đổi sang mục đích sử dụng
khác. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng như công sở, trường học, đơn vị, đường xá…
phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội đã tác động không nhỏ đến đời sống sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân Nhân Chính. Vào đầu thập niên 90, trước tình hình
thế giới có nhiều biến động lớn với sự sụp đổ các nước khối xã hội chủ nghĩa, Đảng

ta vẫn kiên định đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục con
đường đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Ở xã Nhân Chính lúc
này, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Từ năm 1988 đến tháng 8 năm 1992
có 34 cơ quan được thành phố cấp đất với diện tích 16,11 ha; đất canh tác ngày
càng bị thu hẹp chỉ còn 63,6 ha. Do có nhiều cơ quan, đơn vị được phép đóng tại địa
phương nên diện tích đất lưu không khá nhiều. Nhưng cũng nhờ quá trình đô thị hóa
mà hoạt động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở đây sôi động
hơn, nhộn nhịp hơn, thu nhập của người dân cũng theo đó tăng lên. Bên cạnh đó, số
người giàu lên do một phần đất được đền bù trong quá trình lấy đất, giải phóng mặt
bằng cũng khiến cho cuộc sống của họ có sự thay đổi lớn.
Đến năm 1997, khi quận Thanh Xuân được thành lập và Nhân Chính chuyển
từ xã lên phường thì bộ mặt Nhân Chính có những thay đổi đáng kể. Nền kinh tế có
sự chuyển biến lớn lao, nông nghiệp là ngành sản xuất thứ yếu do đất nông nghiệp
được chuyển sang xây dựng và phát triển đô thị. Cũng chính từ việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế đã dẫn đến sự biến chuyển trong tư duy cũng như thay đổi về mọi mặt
đời sống của người dân trong phường, trong đó có sự biến chuyển về nhận thức xã
hội, về đời sống tinh thần. Sự thay đổi này là gì? Nó tích cực hay tiêu cực? Liệu
những thay đổi đó có làm mất đi một Nhân Chính với những đặc trưng văn hóa
riêng của mình hay không? Điều này sẽ được tác giả lý giải trong Chương 2 và
Chương 3 của luận văn này.
1.4. Vài nét về dân cƣ và đời sống văn hóa
1.4.1. Tình hình dân cƣ
Người ta thường nói “người ta là hoa của đất”, điều này quả là không sai.
Vùng đất Kẻ Mọc tuy là vùng đất ven đô nhưng được thiên nhiên ưu đãi mưa thuận

22
gió hòa, lại nằm bên con sông Tô Lịch hiền hòa, thuận lợi cho việc giao lưu với
vùng trung tâm ngàn năm văn hiến. Vì vậy, xét về trình độ, nếp sống, về tài, về sắc
thì con người Kẻ Mọc có phần nổi trội hơn so với các vùng lân cận. Tại ngọc phả
đình Quan Nhân ta có thể thấy từ xa xưa vùng đất Nhân Mục Môn đã nổi tiếng có

lắm người đẹp như Thánh bà Trương Mị Nương, A Kim, Hoàng hậu Trần Thị
Tùng, cung phi Trần Thị Trúc…
Như đã nói, con người Kẻ Mọc nói chung và con người Nhân Chính nói
riêng chủ yếu sống bằng nghề nông nên bản chất họ là những người nông dân chất
phác, chăm chỉ. Cá tính mỗi con người được nuôi dưỡng trong quan hệ gia đình,
dòng tộc, rộng hơn là xóm giềng, làng xã nên cũng có đức tính chung, tình cảm
chung. Đó là tình cảm cộng đồng, đức hiếu thảo với cha mẹ, hòa mục với người
thân, bạn bè và đoàn kết, gắn bó trong thôn xã. Xã hội và môi trường sống đòi hỏi
con người Kẻ Mọc không được dừng lại ở những kiến thức “nước, phân, cần,
giống” mà phải vươn lên mở rộng tầm kiến thức, trở thành những người “học hay,
cày giỏi”. Nhà nào cũng tạo điều kiện cho con em đi học, ít nhất cũng có ít vốn chữ
nghĩa để đọc văn cúng giỗ gia tiên, viết văn khế mua nhà tậu ruộng v.v…Đặc biệt,
Kẻ Mọc là làng ven đô có nhiều lợi thế về tiếp xúc văn minh, tiến bộ nên sớm tạo
được truyền thống hiếu học, rồi xuất hiện nhiều nhân tài, nhiều nhà khoa bảng có
tiếng tăm trong nước.
Dưới chế độ phong kiến, vùng Mọc có nhiều người học giỏi đỗ cao, làm
quan to, nên mới có câu:
Lắm lúa Kẻ Giàn
Lắm quan Kẻ Mọc
Vốn được xem là vùng đất hiếu học, Nhân Chính đã có 12 người đỗ tiến sỹ,
1 phó bảng. Có nhiều nhân tài được trọng dụng như cụ Nguyễn Tuấn (làng Giáp
Nhất) làm Phó sứ sang Trung Quốc; cụ Nguyễn Hữu Thiệm ( làng Chính Kinh) làm
Thừa sứ thời Lê – Trịnh; cụ Nguyễn Luyện (làng Chính Kinh) được vua đặc sai
thay mặt triều đình đón sứ đoàn của ta ở Trung Quốc về nước. Sau này, thế hệ trẻ
Nhân Chính cũng được tuyên truyền về lòng yêu nước, phần lớn đều trưởng thành

×