Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nâng cao chất lượng chương trình về biển đảo trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam( Qua thực tế các chương trình trên hệ thời sự chính trị tổng hợp VOV1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 127 trang )


§¹i häc quèc gia hµ néi
Tr-êng ®¹i häc khoa häc X· HéI Vµ NH©N V¡N









NGUYỄN THỊ HÒA

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH VỀ BIỂN ĐẢO
TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
(Qua thực tế các chương trình trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1)




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học










Hµ Néi – 2011
§¹i häc quèc gia hµ néi
Tr-êng ®¹i häc khoa häc X· HéI Vµ NH©N V¡N








NGUYỄN THỊ HÒA

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH VỀ BIỂN ĐẢO
TRÊN SÓNG PHÁT THANH CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
(Qua thực tế các chương trình trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1)




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Dương Xuân Sơn







Hµ Néi – 2011

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 7
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT THANH 7
1.1. Tổng quan về biển, đảo Việt Nam 7
1.1.1. Một số định nghĩa 7
1.1.2. Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của biển, đảo Việt Nam 8
1.1.3. Những thành tựu chủ yếu về phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo Việt Nam 10
1.1.4. Những thách thức đặt ra đối với biển, đảo Việt Nam hiện nay 17
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về vấn đề biển, đảo 21
1.3. Cơ sở, điều kiện để Đài TNVN trở thành cơ quan ngôn luận hàng đầu trong việc thông tin, tuyên
truyền về biển đảo 24
1.4. Những khái niệm cơ bản sử dụng trong luận văn 26
1.4.1. Tìm hiểu về loại hình phát thanh (báo nói) 26
1.4.2. Hệ phát thanh là gì? 28
1.4.3. Chương trình phát thanh 29
1.4.4. Sóng phát thanh Đài TNVN thể hiện đầy đủ các ưu điểm của báo nói 30
Chƣơng 2: VIỆC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ BIỂN, ĐẢO TRÊN SÓNG HỆ THỜI SỰ
CHÍNH TRỊ TỔNG HỢP VOV1, ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM 33
2.1. Việc thông tin, tuyên truyền về biển, đảo trên sóng phát thanh Đài TNVN 33
2.1.1. Vị trí, vai trò của thông tin tuyên truyền về biển, đảo trên sóng Đài TNVN 33
2.1.2. Biện pháp khắc phục gần đây 35

2.2. Việc thông tin, tuyên truyền về biển, đảo trên sóng phát thanh Hệ Thời sự Chính trị Tổng
hợp VOV1 38
2.2.1. Tính chất quan trọng của Hệ phát thanh VOV1 38
2.2.2. Công tác tuyên truyền về biển, đảo được Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1 chú trọng 41
2.3. Thực trạng vận hành của các chƣơng trình Biển đảo Việt Nam, Tâm tình nơi biên giới hải đảo
(qua 200 chƣơng trình trong 4 năm (từ 2008 đến 2011)). 45
2.3.1. Các chương trình đã thể hiện tốt chức năng xã hội của báo chí 45
2.3.2. Thực trạng vận hành của chương trình Biển đảo Việt Nam 48
2.3.3. Thực trạng vận hành của chương trình Tâm tình nơi biên giới hải đảo 53

2.3.4. Đóng góp của các chương trình phát thanh thông tin, tuyên truyền về biển, đảo trên sóng Hệ
VOV1 58
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH VỀ BIỂN, ĐẢO TRÊN HỆ THỜI SỰ
CHÍNH TRỊ TỔNG HỢP VOV1 68
3.1. Mục tiêu và định hƣớng trong tuyên truyền về biển đảo trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng
hợp VOV1 68
3.1.1. Mục tiêu 68
3.1.2. Định hướng tuyên truyền 71
3.2. Một số giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lƣợng chƣơng trình về biển đảo trên sóng phát thanh
Hệ VOV1 73
3.2.1. Giải pháp trong việc đổi mới hình thức, nội dung và đổi mới quy trình sản xuất các chương
trình phát thanh tuyên truyền về biển, đảo 73
3.2.2. Giải pháp trong việc điều tra, nghiên cứu thính giả và công tác quảng bá các chương trình phát
thanh tuyên truyền về biển, đảo 80
PHẦN KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tuyên truyền biển, đảo đƣợc xác định là một trong những nhiệm vụ,
giải pháp đi trƣớc một bƣớc nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ tƣ
(số 09- NQ/TW, ngày 09-02-2007) của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá X về
Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020.
Kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác tuyên truyền biển, đảo đã
đạt đƣợc kết quả tích cực trên một số mặt. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn còn chƣa đủ so
với yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Nội dung tuyên truyền chậm đổi mới, hình
thức tuyên truyền chƣa đa dạng, phong phú, điều đó đã làm ảnh hƣởng không nhỏ đến
chất lƣợng, hiệu quả công tác tuyên truyền biển, đảo đối với các địa phƣơng trong thời
gian qua.
Là một cơ quan ngôn luận chính thống của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt
Nam, trong giai đoạn hiện nay, các tác phẩm, chƣơng trình phát thanh thông tin, tuyên
truyền về biển đảo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVN) cũng cần phải đổi
mới và nâng cao chất lƣợng hơn nữa, bởi vì:
Thứ nhất: Biển, đảo có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nƣớc. Vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc đã ban
hành nhiều chủ trƣơng, chính sách về phát triển các lĩnh vực liên quan biển, đảo. Vị
trí, tầm quan trọng của biển, đảo Việt Nam đã đƣợc xác định trong Nghị quyết Hội
nghị TƢ 4 (khoá X) về chiến lƣợc biển, trong đó “phấn đấu để nƣớc ta trở thành quốc
gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển,
góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nƣớc, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế- xã hội với đảm bảo quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trƣờng…. giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, cải thiện một bƣớc đáng kể về đời sống nhân dân vùng biển và ven
biển”. Những năm qua, công tác tuyên truyền biển, đảo đã góp phần làm cho nhận
thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí chiến lƣợc của biển, đảo
từng bƣớc đƣợc nâng cao. Nhận thức về tầm quan trọng của biển, đảo đã đƣợc thể hiện
trong chính sách phát triển của những ngành liên quan và các địa phƣơng có biển.

2

Thứ hai: Biển Đông (trong đó có vùng biển Việt Nam) là một trong số nhiều
vùng biển đang có tranh chấp trên thế giới. Vì vậy hợp tác quốc tế bảo vệ chủ quyền
quốc gia, góp phần giữ gìn hoà bình, tăng cƣờng tình hữu nghị với các nƣớc láng
giềng, tạo môi trƣờng thuận lợi cho phát triển kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thứ ba: Công tác tuyên truyền biển đảo góp phần làm cho nhận thức của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, các lực lƣợng vũ trang và nhân dân về chủ
quyền biển đảo; vị trí chiến lƣợc của biển, đảo đƣợc thể hiện khá rõ trong chƣơng trình
hành động, trong chính sách phát triển về biển đảo, trong quản lý, bảo vệ chủ quyền,
giữ gìn an ninh biển đảo của các ngành có liên quan và các địa phƣơng có biển đảo.
Thứ tư: Ngày 04/02/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2008/NĐ-CP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài TNVN, theo đó
Đài TNVN sẽ có 06 hệ phát thanh, bao gồm: Hệ Thời sự - Chính trị - Tổng hợp
VOV1; Hệ Văn hoá - Đời sống - Khoa giáo VOV2; Hệ Âm nhạc - Thông tin - Giải trí
VOV3; Hệ Phát thanh Dân tộc VOV4; Hệ phát thanh đối ngoại VOV5 và Hệ phát
thanh có hình VOVTV. Trong đó, Hệ Thời sự - Chính trị - Tổng hợp (Hệ VOV1) là hệ
phát thanh đối nội quan trọng hàng đầu với những thông tin, vấn đề, sự kiện thời sự
chính trị, kinh tế xã hội … do đó cần phải có sự đổi mới và nâng cao chất lƣợng các
chƣơng trình trên Hệ nói chung và các chƣơng trình phát thanh tuyên truyền về biển
đảo nói riêng để phù hợp với nội dung và cách thức thông tin trên Hệ, nhằm tăng
lƣợng thính giả nghe đài.
Chính vì vậy, vấn đề Nâng cao chất lượng chương trình về biển đảo trên sóng
phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam (Qua thực tế các chương trình trên Hệ Thời sự
Chính trị Tổng hợp VOV1) đƣợc tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ với mong
muốn góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình về biển đảo trên
sóng phát thanh Đài TNVN nói riêng và các đài phát thanh trên toàn quốc nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ năm 2004, việc nghiên cứu các hệ phát thanh tại Đài TNVN đã đƣợc quan
tâm và hàng năm đều có các đề tài khoa học nghiên cứu hoạt động của từng hệ phát

3

thanh riêng lẻ hoặc đƣợc đề cập trong một số đề tài nghiên cứu khoa học ở các lĩnh
vực khác. Cụ thể là:
Một số cuốn sách, nhƣ: Cuốn “Nửa thế kỷ Tiếng nói Việt Nam” - xuất bản năm
1995; Cuốn “Đài Phát thanh giải phóng A - Một thời để nhớ” - Hồi ký của nhiều tác
giả - xuất bản năm 2000; Cuốn “60 năm Tiếng nói Việt Nam” - xuất bản năm 2005
nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của Đài TNVN; Một số luận văn (thạc sĩ)
nghiên cứu về Đài TNVN và việc đổi mới, nâng cao chất lƣợng chƣơng trình Thời sự
của Đài TNVN; Đổi mới trong cách viết tin thời sự trên Đài TNVN…
Về những đổi mới của Đài TNVN và Hệ VOV1 đã có những công trình nghiên
cứu khoa học, nhƣ:
- Đề tài „Nghiên cứu tổng kết 60 năm phát thanh Việt Nam” (Văn phòng Đài
TNVN, 2005) do GS. TS Vũ Văn Hiền làm chủ nhiệm đề tài.
- Đề tài “Nghiên cứu Hệ Thời sự chính trị tổng hợp” (Ban Thời sự Đài TNVN,
2004) do Th.s Tạ Toàn làm chủ nhiệm đề tài.
Và một số nghiên cứu của sinh viên các trƣờng đại học khi thực hiện đề tài
khoá luận tốt nghiệp;
Về các tài liệu liên quan đến biển đảo Việt Nam có cuốn “Bạch Long Vỹ- đảo
thanh niên”- NXB Thanh niên năm 2002; đề cƣơng tuyên truyền “50 năm Hải quân
Nhân dân Việt Nam anh hùng” do Cục Chính trị Bộ Tƣ lệnh Hải quân xuất bản tháng
2-2005; sách “Hỏi- đáp Những điều Ngư dân cần biết trong hoạt động thuỷ sản” của
Ban Tuyên giáo TƢ- Nhà xuất bản Thế giới 2007; sách “Biển và hải đảo Việt Nam”
do Trung tâm Thông tin công tác tƣ tƣởng phối hợp với Cục Chính trị Quân chủng Hải
quân biên soạn năm 2007; cuốn “Chiến lược biển Việt Nam từ quan điểm đến thực
tiễn” của Ban Tuyên giáo TƢ- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- 2010… cùng một số
sách, báo tạp chí nghiên cứu riêng lẻ các khía cạnh nhỏ trong công tác tuyên truyền về
biển đảo cho quân và dân ở các vùng biên giới hải đảo.
……
Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chƣa có nghiên cứu nào đề cập một cách cụ
thể những giải pháp về việc đổi mới và nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình về biển


4
đảo trên sóng phát thanh Đài TNVN. Vì vậy, luận văn Nâng cao chất lượng chương
trình về biển đảo trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam (Qua thực tế các
chương trình trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1) là một công trình khoa học
mới, độc lập, mang tính thời sự, có kế thừa kết quả nghiên cứu của các đề tài và công
trình khoa học cũng nhƣ sách, báo, tạp chí… có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, tầm quan trọng của biển đảo Việt Nam, của các
nhiệm vụ phát triển chiến lƣợc biển Việt Nam, đánh giá đúng thực trạng và định ra các
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lƣợng tuyên truyền về biển đảo trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng, trên sóng phát thanh từ trƣớc tới nay và những năm tiếp theo,
mục đích chung của đề tài là tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền
về biển đảo trên sóng Đài TNVN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ thứ nhất là đề tài nghiên cứu thời cơ và thách thức đặt ra đối với việc
thông tin tuyên truyền về biển đảo trong thời đại ngày nay. Thông qua đó, làm rõ tính
tất yếu phải nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình tuyên truyền về biển đảo trên sóng
phát thanh Đài TNVN - một kênh thông tin chính thống của Đảng, Nhà nƣớc Việt
Nam.
Nhiệm vụ thứ hai là đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận báo chí nói chung và cơ sở
lý luận về loại hình báo phát thanh, những hình thức hiện đang sử dụng để tuyên
truyền về biển đảo trên sóng Đài TNVN, trong đó đi sâu vào nghiên cứu các chƣơng
trình phát thanh thông tin tuyên truyền chính về biển đảo. Từ đó đánh giá đúng thực
trạng về nội dung, hình thức thể hiện của các chƣơng trình, tác phẩm, đóng góp vào
hiệu quả tuyên truyền về biển đảo cùng với các phƣơng tiện thông tin đại chúng khác.
Nhiệm vụ thứ ba là từ kết quả nghiên cứu trên sẽ đề xuất những giải pháp để đổi
mới, nâng cao chất lƣợng tuyên truyền về biển đảo trên sóng phát thanh Đài TNVN.




5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu những tác phẩm, chƣơng trình phát thanh thông tin,
tuyên truyền về biển đảo trên sóng Đài TNVN, đi sâu vào phân tích các chƣơng trình
chuyên đề tuyên truyền về biển đảo trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1- hệ
phát thanh chủ lực của Đài TNVN.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các chƣơng trình phát thanh thông tin, tuyên truyền về biển
đảo trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1- Đài TNVN trong phạm vi 4 năm (từ
2008 đến 2011).
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về việc thông tin tuyên truyền về biển đảo trên
sóng phát thanh Đài TNVN, chính vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần
tích cực vào việc đổi mới và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình về biển đảo trên sóng
phát thanh của Đài TNVN, tập trung vào hiệu quả các chƣơng trình về biển đảo trên
sóng Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp VOV1.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, việc ứng dụng kết quả đề tài là một cơ hội để những ngƣời
trực tiếp làm nội dung ở Đài TNVN (khối biên tập) tổng kết, đúc rút kinh nghiệm
trong việc tuyên truyền về mảng nội dung khó, nhạy cảm này để tuyên truyền trên
sóng Đài TNVN có hiệu quả hơn.
Chúng tôi cũng hy vọng đề tài sẽ là gợi ý cho các đồng nghiệp ở các đài phát
thanh địa phƣơng và các cơ quan thông tin đại chúng khác trong quá trình cải tiến nội
dung, cách thức tuyên truyền về biển đảo, nhằm phục vụ tốt hơn việc thực hiện Nghị
quyết TƢ 4 về Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ phân tích, tổng hợp, thống kê, so

sánh, nghiên cứu văn bản tác phẩm báo phát thanh.

6
Do đặc thù đối tƣợng khảo sát của chƣơng trình là ngƣ dân và cán bộ chiến sĩ ở
các quần đảo xa nên chúng tôi không có điều kiện làm phiếu điều tra (bảng hỏi) phát
rộng rãi mà chỉ phân tích kết quả các đợt thăm dò ý kiến thính giả Đài TNVN tiến
hành hàng quý. Trong đó phân tích ý kiến thính giả trong thƣ từ, điện thoại gửi về các
chƣơng trình, nhận xét góp ý nội dung, hình thức tuyên truyền về biển đảo trên sóng
phát thanh Đài TNVN. Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành phỏng vấn chuyên sâu đối
với các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực biển, đảo Việt Nam; lãnh đạo các Bộ,
ngành, địa phƣơng; chỉ huy các lực lƣợng vũ trang; quân dân một số tỉnh, thành ven
biển- những ngƣời gắn bó với sóng phát thanh Đài TNVN và ít nhiều có liên quan đến
vấn đề biển, đảo.
Đồng thời, đề tài cũng kế thừa có chọn lọc kết quả và quan điểm, phƣơng pháp
tiếp cận của các công trình nghiên cứu, tƣ liệu liên quan.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn: Nâng cao chất lượng chương trình về biển đảo trên sóng phát thanh
của Đài Tiếng nói Việt Nam (Qua thực tế các chương trình trên Hệ Thời sự Chính trị
Tổng hợp VOV1) ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, có 3
chƣơng:
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT THANH
Chƣơng 2: VIỆC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ BIỂN, ĐẢO TRÊN SÓNG
HỆ THỜI SỰ CHÍNH TRỊ TỔNG HỢP VOV1- ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH PHÁT THANH VỀ BIỂN, ĐẢO TRÊN HỆ
THỜI SỰ CHÍNH TRỊ TỔNG HỢP VOV1

7
PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT THANH
1.1. Tổng quan về biển, đảo Việt Nam
1.1.1. Một số định nghĩa
Trong Công ƣớc của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, Điều 121 quy
định: Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên, vùng đất
này vẫn ở trên mặt nước (trích Điều 121, Công ƣớc Luật biển 1982)
Đảo theo cách hiểu thông thƣờng là một vùng đất có nƣớc bao quanh. Đối với
ngƣời đi biển thì đảo đƣợc hiểu là các hải đảo nói chung, bao gồm các đảo, đá.
Theo nghĩa pháp lý: Điề u 46 Công ƣớ c Luậ t biể n 1982 quy đị nh: “Quầ n đả o là
mộ t nhó m đả o, kể cả cá c bộ phậ n củ a cá c đả o , các vùng nƣớc nối giữa các thành phần
tƣ̣ nhiên khá c có liên quan vớ i nhau chặ t chẽ đế n mƣ́ c tạ o thà nh mộ t thể thố ng nhấ t về
đị a lý , kinh tế và chính trị , hay đƣợ c coi nhƣ thế về mặt lịch sử”.
Một nƣớc ven biển có năm vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa [7, tr.13]
Nội thủy: Là vùng biển nằm ở phía trong của đƣờng cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải. Vùng nƣớc thuộc nội thủy có chế độ pháp lý nhƣ lãnh thổ trên đất liền
Lãnh hải: là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đƣờng cơ sở nhìn từ phía
bờ ra biển, có chế độ pháp lý tƣơng tự nhƣ lãnh thổ trên đất liền.
Vùng tiếp giáp: Là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ ranh giới ngoài
của lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đƣờng cơ sở (trừ
lãnh hải thì chiều rộng là 188 hải lý).
Thềm lục địa: là vùng đáy và lòng đất đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của
nƣớc ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra đến bờ ngoài của rìa
lục địa, hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đƣờng cơ sở lãnh hải khi bờ ngoài của rìa
lục địa ở khoảng cách gần hơn.

8
Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định tại

Điều 1: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng
trời.
Lãnh hải Việt Nam đƣợc xác lập theo Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày
12-5-1977 về các vùng biển của Việt Nam: Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối
với vùng trời phía trên, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải (trích Tuyên
bố của Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12-5-1977). Chiều rộng của lãnh
hải đƣợc xác lập là 12 hải lý tính từ đƣờng cơ sở trở ra. Điều này phù hợp với luật
quốc tế.
1.1.2. Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của biển, đảo Việt Nam
Việt Nam nằm bên bờ Biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu km
2
. Bờ biển
Việt Nam dài khoảng 3.444 km ở cả 3 hƣớng: Đông, Nam và Tây Nam, trung bình
khoảng 100 km
2
đất liền có 1 km bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này của thế giới). Ven bờ
có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các loại, chủ yếu nằm ở Vịnh Bắc Bộ, với diện tích
khoảng l.700 km
2
, trong đó, có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km
2
, 23 đảo có diện
tích lớn hơn 10 km
2
, 82 đảo có diện tích lớn hơn l km
2
và khoảng trên l.400 đảo chƣa

có tên. Vì vậy, biển, đảo đã gắn bó mật thiết và ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển kinh tế
- xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trƣờng của mọi miền đất nƣớc.
Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng
không huyết mạch thông thƣơng giữa Ấn Độ Dƣơng và Thái Bình Dƣơng, giữa châu
Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nƣớc trong khu vực. Biển
Đông đóng vai trò là chiếc ''cầu nối'' cực kỳ quan trọng, là điều kiện rất thuận lợi để
giao lƣu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nƣớc ta với các nƣớc trên thế giới, đặc biệt
là với các nƣớc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng, khu vực phát triển kinh tế
năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới.

9
Vị trí địa lý và hình dáng vùng biển nƣớc ta có ảnh hƣởng sâu sắc tới sự hình
thành các đặc điểm tự nhiên, từ đó ảnh hƣởng đến việc lựa chọn phƣơng thức khai thác
tài nguyên. Nét độc đáo của vị trí địa lý vùng biển nƣớc ta ở chỗ: đây là nơi gặp gỡ,
giao thoa của nhiều hệ thống tự nhiên, văn hoá lớn trên thế giới. Đây là điều kiện rất
thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển phát triển, thúc đẩy giao lƣu kinh tế, văn
hoá giữa nƣớc ta với các nƣớc khác trong khu vực và trên thế giới.
Hệ thống cảng của nƣớc ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90
cảng lớn nhỏ; những cảng lớn chủ yếu nằm ở ranh giới châu thổ thuỷ triều và châu thổ
bồi tụ, nên tàu ra vào cảng phải đi theo luồng lạch và phụ thuộc vào mức nƣớc thuỷ
triều. Sự hình thành mạng lƣới cảng biển cùng các tuyến đƣờng bộ, đƣờng sắt dọc ven
biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đƣờng xuyên Á) sẽ
cho phép vùng biển và ven biển nƣớc ta có khả năng chuyển tải hàng hoá xuất, nhập
khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, đồng thời thu hút cả vùng Tây Nam Trung Quốc, Lào,
Đông Bắc Thái Lan và Campuchia.
Biển nƣớc ta chủ yếu là vùng biển nhiệt đới mang tính chất địa phƣơng, có tính
chất riêng về nhiều mặt nhƣ khí tƣợng - hải văn, chế độ thủy triều Hiện tƣợng nổi
bật là sự xuất hiện vùng nƣớc trồi - một vùng sinh thái đặc biệt phong phú, đa dạng và
là nơi tập trung nhiều loài sinh vật biển. Nguồn lợi hải sản của biển nƣớc ta đƣợc đánh
giá vào loại phong phú trong khu vực. Tổng trữ lƣợng hải sản khoảng 3,9 - 4,0 triệu

tấn/năm, cho phép hàng năm khai thác 1,9 triệu tấn, trong đó vùng biển gần bờ chỉ
khoảng 500 nghìn tấn, còn lại là vùng xa bờ. Hải sản ở vùng biển nƣớc ta là nguồn lợi
hết sức quan trọng, không chỉ cung cấp thực phẩm, nguồn dinh dƣỡng hàng ngày cho
nhân dân (chiếm 50% lƣợng đạm động vật trong thành phần dinh dƣỡng), mà còn tạo
nguồn xuất khẩu lớn.
Ngoài ra, nƣớc ta còn có rất nhiều lợi thế về du lịch biển. Với nhiều trung tâm
du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế Đông
Nam Á nhƣ Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh có đủ
các điều kiện và khả năng để trở thành những tụ điểm về du lịch biển. Vùng biển nƣớc
ta có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho phát triển nhiều loại

10
hình du lịch. Phần lục địa với các hình đồi, núi, đồng bằng đa dạng làm tôn lên vẻ đẹp
của hàng chục bãi tắm tốt, cùng với mặt nƣớc, đáy biển và hải đảo tạo nên nhiều danh
lam thắng cảnh, hang động kỳ thú, sơn thủy hữu tình. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận
lợi cho việc tổ chức du lịch biển quanh năm, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển từ Quảng
Nam - Đà Nẵng trở vào. Các thảm thực vật phong phú, các nguồn nƣớc khoáng, các
loại động vật quý hiếm, tạo sức hấp dẫn thu hút khách du lịch nghỉ dƣỡng, tham quan,
thể thao, chữa bệnh Mỗi năm Việt Nam thu hút trên 10 triệu lƣợt khách nội địa và
khoảng 4 triệu lƣợt khách quốc tế, trong đó có 50 - 60% khách du lịch biển.
1.1.3. Những thành tựu chủ yếu về phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo
Việt Nam
1.1.3.1. Các ngành và địa phương đã tích cực xây dựng nhiều chiến lược, quy hoạch
phát triển các ngành, lĩnh vực liên quan đến biển
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng, chấp hành Chỉ thị 399/TTg của Thủ tƣớng
Chính phủ, các ngành, các địa phƣơng đã tiến hành quy hoạch, trong đó, rõ nhất là quy
hoạch chuyên ngành thuỷ sản (khai thác xa bờ, nuôi tôm và hải sản ở các vùng đồng
bằng sông Hồng, miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long, thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng
thuỷ sản ở bán đảo Cà Mau, quy hoạch thông tin cứu nạn ngành thuỷ sản ); chiến
lƣợc phát triển ngành dầu khí; quy hoạch phát triển ngành tàu thuỷ; các quy hoạch về

phát triển cảng, tìm kiếm cứu nạn Đến nay, các tỉnh ven biển đều có quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, có nội dung định hƣớng phát triển các ngành,
lĩnh vực về biển. Ngoài ra, đã tiến hành một số quy hoạch liên quan đến phát triển kinh
tế biển nhƣ quy hoạch phát triển các đảo Phú Quốc, Phú Quý, Côn Đảo; quy hoạch
phát triển một số khu kinh tế ven biển nhƣ Vân Phong, Cam Ranh, Chân Mây, Chu
Lai, Nhơn Hội…
1.1.3.2. Quy mô kinh tế biển tăng lên, cơ cấu ngành, nghề có thay đổi cùng với sự xuất
hiện ngành kinh tế mới
Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của ngành kinh tế diễn ra trên biển
chiếm tới 98%, chiếm 12% GDP và khoảng 50% giá trị xuất khẩu của cả nƣớc. trong
đó, khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản 14%; hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng

11
biển) 11%; du lịch biển trên 9%. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác
biển nhƣ đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thuỷ, hải sản, thông tin
liên lạc bƣớc đầu phát triển.
Dầu khí là nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ƣu thế nổi trội nhất của vùng biển
Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đã xác định tiềm năng và trữ lƣợng dầu khí của Việt Nam khoảng 3 - 4 tỷ m
3
dầu quy
đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỉ m
3
dầu và 2100 - 2800 tỷ m
3
khí. Tổng trữ lƣợng dầu khí ở
biển Việt Nam ƣớc tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi. Hiện nay chúng ta đang khai
thác mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Ruby, Rạng Đông, Sƣ Tử Đen , đã phát hiện
đƣợc trên 20 vị trí có tích tụ dầu khí. Tuy mới ra đời, nhƣng ngành dầu khí của ta đã
trở thành một trong những ngành có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất

trong những ngành khai thác biển; đồng thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu
và thu nhiều ngoại tệ nhất cho đất nƣớc. Ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát
triển kéo theo sự phát triển của một số ngành khác nhƣ công nghiệp hoá dầu, giao
thông vận tải, thƣơng mại trong nƣớc và khu vực. (Nguồn:).
Các ngành khác nhƣ vận tải biển, đóng sửa chữa tàu biển, xuất khẩu thuyền
viên, v.v đã đóng góp cho sự phát triển chung của đất nƣớc. Ngoài dầu mỏ, biển Việt
Nam còn có nhiều mỏ sa khoáng và cát thủy tinh có trữ lƣợng khai thác công nghiệp
và làm vật liệu xây dựng Tiềm năng về khí - điện - đạm và năng lƣợng biển cũng rất
lớn nhƣ năng lƣợng gió, năng lƣợng mặt trời, thủy triều, sóng và cả thủy nhiệt. Chiến
lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 và Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh
tế đảo Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tƣớng Chính phủ xác định: phấn đấu đến năm
2020 kinh tế biển và ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP cả nƣớc. Theo đó,
phấn đấu nâng mức đóng góp của kinh tế biển đảo trong kinh tế cả nƣớc từ 0,2% hiện
nay lên 0,5% vào năm 2020 và tốc độ tăng trƣởng kinh tế đảo đạt bình quân 14-
15%/năm.
Đến nay, trên các vùng biển đã có các trung tâm kinh tế biển nhƣ các thành phố
Hạ Long, Hải Phòng (vùng biển Bắc Bộ); Huế, Đà Nẵng, Nha Trang - Cam Ranh
(vùng biển miền Trung); Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh (vùng biển phía Nam) và

12
Rạch Giá, Cà Mau, khu kinh tế đảo Phú Quốc (vùng biển phía Tây Nam). Đây là
những khu vực đã có sự phát triển tổng hợp các ngành, nghề biển nhƣ hậu cần nghề cá;
công nghiệp gắn với cảng; cảng biển và vận tải biển, du lịch biển, nghiên cứu khoa học
về biển
Ở những đảo có điều kiện phát triển đều có dân cƣ, kết cấu hạ tầng đƣợc tăng
lên rõ rệt (hình thành hệ thống giao thông trên đảo, nhiều đảo gần bờ có điện lƣới, các
đảo xa bờ có máy phát điện, một số đảo sử dụng điện mặt trời, trên các đảo đã xây
dựng các cơ sở cung cấp nƣớc ngọt). Vai trò kinh tế của các đảo tăng lên rõ rệt, nhiều
đảo đã phát triển mạnh nghề cá, đặc biệt là đánh bắt xa bờ, phát triển du lịch, bảo vệ và
phát triển rừng Tƣơng lai có nhiều đảo nhƣ Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc

phát triển thành những trung tâm để ra biển.
Khả năng phát triển cảng và vận tải biển là nguồn lực rất quan trọng để phát
triển kinh tế biển theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dọc bờ biển đã xác định
nhiều khu vực có thể xây dựng cảng, trong đó một số nơi có khả năng xây dựng cảng
nƣớc sâu nhƣ Cái Lân, một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi
Sơn, Hòn La - Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh,
Vũng Tàu, Thị Vải… Việt Nam đã xây dựng đƣợc đội tàu biển quốc gia, trực tiếp
tham gia thị trƣờng khu vực, khách hàng nƣớc ngoài đã sử dụng trên 50% năng lực đội
tàu của Việt Nam. Quy mô cảng ngày càng tăng, hiện nay trên 24 tỉnh thành vùng
duyên hải Việt Nam đã có 266 cảng biển lớn nhỏ, đảm nhiệm thông qua hầu hết lƣợng
hàng ngoại thƣơng, góp phần đƣa nƣớc ta từng bƣớc tiếp cận và hội nhập với khu vực
và thế giới. Hơn 80% khối lƣợng hàng xuất nhập khẩu đƣợc vận chuyển thông qua hệ
thống cảng biển. Trình độ, năng lực đóng, sửa chữa tàu so với trƣớc đây đã có tiến bộ
vƣợt bậc, hiện đại hoá một bƣớc theo hƣớng tập trung quy mô lớn, bƣớc đầu có phân
công chuyên môn hoá, vƣơn ra đóng tàu cỡ lớn từ 50.000 đến 400.000 tấn, chuyên
dùng đạt chất lƣợng đăng kiểm quốc tế [45, tr.2]
Tài nguyên du lịch biển cũng là một ƣu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai thác
tổng hợp để phát triển mạnh. Ngành du lịch biển cũng phát triển mạnh, thu hút hàng
năm 73% số lƣợt khách du lịch quốc tế trong cả nƣớc, đạt tốc độ tăng bình quân gần

13
13%/năm. Dọc bờ biển đã xác định khoảng 125 bãi biển lớn và nhỏ thuận lợi cho phát
triển du lịch, có dung lƣợng chứa khách cùng một lúc đến vài trăm ngàn ngƣời, trong
đó có khoảng 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế. Các bãi biển của Việt Nam
nhìn chung khá bằng phẳng, nƣớc trong, sóng gió vừa phải, không có các ổ xoáy và cá
dữ…, rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi giải trí trên biển. Sự kết hợp hài hoà giữa
cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã hội của biển, vùng ven biển và các hải
đảo cùng với điều kiện thuận lợi về vị trí, địa hình của vùng ven biển đã tạo cho du
lịch biển có lợi thế phát triển hơn hẳn so với nhiều loại hình du lịch khác trên đất liền.


Biểu đồ 1.1
0
10
20
30
40
50
60
70
Năm
1997
Năm
2000
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2010
Năm
2020
Năm
2030
Khách du lịch biển
quốc tế
Khách du lịch biển
trong nội địa

Bảng thống kê lượng khách du lịch quốc tế, nội địa thăm biển đảo Việt Nam
và dự kiến thu hút khách du lịch biển đảo năm 2010-2030

(Nguồn: Tổng cục du lịch)
Nguồn lợi hải sản nƣớc ta đƣợc đánh giá vào loại phong phú trong khu vực.
Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao nhƣ
tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác
nhau, trong đó trên 1.000 loài có giá trị kinh tế. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn

14
quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài
khơi. Dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nƣớc các loại có khả năng nuôi trồng
thuỷ sản nƣớc mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu nhƣ tôm, cua, rong
câu… Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ nhƣ Vịnh Hạ
Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trƣờng rất thuận lợi để
phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên trong tƣơng lai có thể phát triển
mạnh ngành nuôi trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với
sản lƣợng hàng chục vạn tấn/ năm.
Nƣớc ta có 20 tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích 15.000
ha và trên 80 ngàn lao động nghề muối, sản xuất đƣợc bình quân 800 ngàn tấn đến 1,2
triệu tấn/năm. Một số đồng muối ở miền Trung nƣớc ta đƣợc đánh giá là muối sạch,
ngon của thế giới, có khả năng xuất khẩu với số lƣợng lớn muối công nghiệp và muối
sạch cho tiêu dùng. (Nguồn: Phòng nghề muối – Cục chế biến- Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn)
Các tài nguyên khoáng sản khác ven biển cũng là nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các khoáng sản quan trọng và
có tiềm năng lớn ở vùng ven biển là than, sắt, titan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu
xây dựng khác.
1.1.3.3. Nguồn nhân lực dồi dào ven biển là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định kết quả khai thác tiềm năng nguồn lợi biển
Hiện nay có trên 31% dân số cả nƣớc sinh sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển.
Đa số các thành phố, thị xã đều nằm ở ven sông, cách biển không xa, nhất là các thành
phố, thị xã ở Trung Bộ nằm sát ven biển, có đƣờng quốc lộ 1A chạy qua. Khu vực ven

biển cũng là nơi tập trung các trung tâm công nghiệp lớn, có nhiều sân bay, cảng biển
quan trọng, các căn cứ hải quân, kho tàng, các công trình kinh tế - quốc phòng khác.
Các tỉnh, thành phố ven biển có các cảng, cơ sở sửa chữa, đóng tàu, đánh bắt hoặc chế
biến hải sản, làm muối thu hút hơn 13 triệu lao động, giải quyết công ăn việc làm,
góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc

15
phòng. Dự báo đến năm 2020, dân số vùng ven biển khoảng trên 30 triệu ngƣời, trong
đó, lao động khoảng gần 19 triệu ngƣời [3; tr.127]

Biểu đồ 1.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Năm 2003(tr) Năm 2007(tr) Năm 2010(tr)
Dân số cả nước
Dân số biển
Lao động biển

Biểu đồ thể hiện số dân lao động biển trong dân số cả nước
(Nguồn: www.bienphong.com.vn)
Một trong những nhiệm vụ của Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 là
triển khai thực hiện Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển (Đề án 52)

do Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc Bộ Y tế chủ trì, trong đó nhấn
mạnh: “Nâng cao đời sống dân cƣ vùng ven biển, trên các hải đảo và những ngƣời lao
động trên biển; tạo các điều kiện cần thiết đảm bảo an ninh, an toàn cho những ngƣời
dân hoạt động trên biển, đảo, ngƣời dân sinh sống ở những vùng thƣờng bị thiên tai”.
Do vậy, việc bố trí dân cƣ thực hiện chủ trƣơng dân sự hóa trên biển, đảo phải gắn với
tổ chức dân cƣ, tổ chức sản xuất và khai thác biển. Trong quá trình triển khai, chú ý
đến chất lƣợng dân cƣ gắn với tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, có hệ thống trong nhân
dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhân dân nhận thức về vị trí chiến lƣợc của
biển. Đồng thời coi trọng việc phát triển nguồn nhân lực biển, tạo điều kiện thay đổi
chất lƣợng dân số, nâng cao dân trí.

16
Giải pháp cơ bản là phải đánh giá và dự báo đúng nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực của toàn hệ thống quản lý Nhà nƣớc về biển và hải đảo, bao gồm: Cán bộ
nghiên cứu khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, các chuyên gia
và đội ngũ lao động chuyên ngành kỹ thuật thuộc các lĩnh vực kinh tế biển. Trên cơ sở
đó, lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trung hạn và dài hạn, cùng với việc xây
dựng cơ chế, chính sách đào tạo gắn với cơ chế cử tuyển để khuyến khích cán bộ khoa
học và quản lý ra công tác tại các hải đảo và vùng ven biển. Khuyến khích việc xây
dựng một số cơ sở đào tạo ngành, nghề về biển ở bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề tại
các thành phố ven biển nƣớc ta.
Do các đặc thù của biển, công tác phát triển nguồn nhân lực quản lý Nhà nƣớc
về biển và thay đổi chất lƣợng dân số gắn với đào tạo chuyên môn, ra biển và quản lý
biển phải “có nghề”. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đào tạo phù hợp với từng
đối tƣợng, trong đó cần ƣu tiên đào tạo con em ngƣ dân, ngƣời làm nghề biển, đội ngũ
ngƣời lao động trên biển, đảo và ven biển thông qua “vừa học, vừa làm”, đào tạo qua
công việc, tham quan học hỏi, tập huấn kỹ năng và nghiệp vụ, mở các lớp bồi dƣỡng
ngắn hạn, thông qua các hoạt động khoa học- công nghệ và hợp tác quốc tế về biển và
hải đảo.
1.1.3.4. Công tác đối ngoại đã đạt được một số kết quả quan trọng

Cho đến nay, nƣớc ta đã ký một số thỏa thuận trên biển với các nƣớc láng
giềng: Hiệp định vùng nƣớc lịch sử Việt Nam - Campuchia (l982), Thỏa thuận khai
thác chung vùng chồng lấn thềm lục địa Việt Nam - Malaixia (l992), Hiệp định về
phân định ranh giới biển Việt Nam - Thái Lan (l997), Hiệp định phân định lãnh hải,
vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam - Trung
Quốc (2004) và Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Inđônêxia (2003). Ngoài
ra, ta cũng mở diễn đàn trao đổi về vấn đề chủ quyền hai quần đảo với Philippin
(1995), Trung Quốc (1995) và Malaixia, tham gia ký kết các văn kiện mang tính chất
khu vực về Biển Đông, triển khai một số dự án hợp tác song phƣơng và đa phƣơng với
các nƣớc liên quan, trong đó có dự án nghiên cứu khoa học biển Việt Nam - Philippin
(JOMSRE) [3, tr.15]

17
Về mặt pháp lý - chính trị, Quốc hội nƣớc ta đã phê chuẩn Công ƣớc của Liên
Hợp quốc về Luật biển 1982 vào ngày 23/6/1994. Công ƣớc này bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 16/11/1994. Nhà nƣớc ta đã chính thức hóa cơ sở pháp lý quốc tế về phạm vi các
vùng biển và thềm lục địa, tạo cơ sở vững chắc trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
vùng biển và thềm lục địa, bảo vệ lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo. Đồng thời,
thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý
công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Ngày 18/12/2003, Thủ
tƣớng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực
biên giới biển gồm 5 chƣơng, 37 điều - quy định hoạt động của ngƣời, tàu thuyền Việt
Nam, tàu thuyền nƣớc ngoài trong khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên biển, duy trì an ninh trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới
biển.
1.1.4. Những thách thức đặt ra đối với biển, đảo Việt Nam hiện nay
1.1.4.1. Bảo vệ chủ quyền biển đảo
Biển Đông đƣợc bao bọc bởi 10 nƣớc và vùng lãnh thổ là Việt Nam, Trung
Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây, Malaixia, Xinhgapo, Thái Lan, Campuchia và Đài
Loan. Theo ƣớc tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hƣởng trực tiếp tới cuộc sống của

khoảng 300 triệu dân của các nƣớc và vùng lãnh thổ này.
Biển Đông đƣợc coi là con đƣờng chiến lƣợc về giao lƣu và thƣơng mại quốc tế
giữa Ấn Độ Dƣơng và Thái Bình Dƣơng, ở cả bốn phía đều có đƣờng thông ra Thái
Bình Dƣơng và Ấn Độ Dƣơng qua các eo biển. Hầu hết các nƣớc trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dƣơng đều có các hoạt động thƣơng mại hàng hải rất mạnh trên Biển
Đông. Trong tổng số 10 tuyến đƣờng biển lớn nhất trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi
qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
Biển Đông (trong đó có vùng biển Việt Nam) có vị trí địa kinh tế và chính trị
quan trọng nhƣ vậy, nên từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lƣợc phát
triển không chỉ của các nƣớc xung quanh Biển Đông mà còn của một số cƣờng quốc
hàng hải khác trên thế giới. Đó cũng là lý do quan trọng dẫn đến những mâu thuẫn
kinh tế - chính trị của thế giới; tập trung những mặt đối lập, thuận lợi và khó khăn, hợp

18
tác và đấu tranh, hòa bình và nguy cơ mất ổn định, dễ gây ra xung đột vũ trang. Một
trong những vấn đề đó là tồn tại tranh chấp biển, đảo giữa các nƣớc và vùng lãnh thổ
xung quanh Biển Đông; tạo nên tranh chấp đa phƣơng và song phƣơng, chứa đựng các
mâu thuẫn cả về quốc phòng, kinh tế và đối ngoại Sự thay đổi chiến lƣợc của các
nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc lớn và sự thay đổi căn bản cục diện ở Đông Nam
Á, những tranh chấp biển và động thái mới nói trên đặt ra tình hình hình căng thẳng
trên khu vực Biển Đông; đặt chúng ta trƣớc tình thế phải khẩn trƣơng đổi mới mạnh
mẽ tƣ duy chiến lƣợc trên nhiều bình diện khác nhau, trong đó có chiến lƣợc quốc
phòng - an ninh trên biển và chiến lƣợc phát triển kinh tế biển
Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong quá
trình sử dụng, khai thác tài nguyên biển chƣa có các quy định cụ thể mang tính pháp
quy nhƣ trong quản lý sử dụng đất trên đất liền và còn nhiều bất cập. Trong bối cảnh
đó giữ cho đƣợc môi trƣờng hòa bình, ổn định, bảo vệ môi trƣờng và nguồn tài nguyên
thiên nhiên cũng nhƣ hợp tác cứu hộ, chống cƣớp biển trên Biển Đông phải là phƣơng
châm ứng xử và hành động chung của các nƣớc liên quan. Tôn trọng, xây dựng lòng
tin lẫn nhau, cũng nhƣ chủ động tìm kiếm, đề xuất các phƣơng thức để giải quyết tranh

chấp phải là những việc cần làm.
1.1.4.2. Quản lý tổng hợp biển
Cho đến nay, nƣớc ta chƣa có một cơ quan Nhà nƣớc để quản lý tổng hợp,
thống nhất về biển. Ở cấp Trung ƣơng, tuy đã có Ban Chỉ đạo Nhà nƣớc về biển Đông-
hải đảo (thành lập năm 1993), nhƣng rất hạn chế về công tác quản lý nhà nƣớc. Nhiều
bộ, ngành cùng tham gia quản lý biển nên có tình trạng chồng chéo. Ở các địa phƣơng,
chƣa có bộ máy tổ chức quản lý biển thống nhất nên có tình trạng buông lỏng, lúng
túng. Chúng ta cần có một hoạt động chỉ đạo chung đủ mạnh để đảm bảo thống nhất từ
nhận thức đến hành động của các ngành, các cấp chính quyền về phát triển các lĩnh
vực liên quan đến biển và vùng ven biển.
1.1.4.3. Phát triển kinh tế biển chưa tương xứng với tiềm năng
Nhìn chung quy mô kinh tế biển của Việt Nam còn nhỏ bé và đang ở trình độ
thấp, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng kinh tế biển của nƣớc ta. Quy mô kinh tế biển

19
Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 12 tỷ USD; trong khi sản lƣợng kinh tế biển của thế giới
ƣớc 1.300 tỷ USD, Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD. Các nghề mới
nhƣ khai thác dầu khí, nuôi trồng hải sản đặc sản, du lịch biển đang trong quá trình
phát triển bƣớc đầu. Do trình độ kỹ thuật khai thác biển còn thấp, phƣơng tiện khai
thác thô sơ, lạc hậu nên chỉ mới tập trung hoạt động gần bờ. Nuôi trồng hải sản phần
lớn là quảng canh, năng suất thấp. Các nghề biển hƣớng tới tƣơng lai nhƣ năng lƣợng
sóng thuỷ triều, dƣợc liệu biển, khai thác khoáng sản dƣới lòng nƣớc sâu, hoá chất và
dƣợc liệu biển chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều. Kỹ thuật tổng thể khai thác kinh tế biển
vẫn còn ở trình độ rất thấp. Ô nhiễm biển, đặc biệt các vùng biển tập trung tài nguyên,
đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, vận tải biển và công nghiệp ven bờ đang gây ra nhiều
vấn đề đối với phát triển bền vững. Dịch vụ xây dựng hạ tầng biển và các công trình
kỹ thuật khác của biển còn nhiều yếu kém. Tình hình trên đặt ra nhu cầu cấp bách phải
có một chiến lƣợc phát triển kinh tế biển với căn cứ khoa học vững chắc, đáp ứng
nhiệm vụ tăng tốc phát triển kinh tế trong thời kỳ mới hiện nay.
Những năm tới đƣợc dự báo là kinh tế chung sẽ còn gặp nhiều khó khăn, do đó

kinh tế biển càng phải vƣợt qua nhiều thách thức. Để giàu từ biển, mạnh lên từ biển,
nƣớc ta cần phải xây dựng đƣợc một nền khoa học- công nghệ biển hiện đại; phát triển
đƣợc một nền kinh tế biển hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế; có một
phƣơng thức quản lý tổng hợp biển và bảo đảm đƣợc an ninh chủ quyền vùng biển.
1.1.4.4. Bão, áp thấp nhiệt đới thường xuyên xảy ra ở khu vực biển, đảo
Nƣớc ta có vị trí địa lý trải dài trên hơn 15 vĩ độ, có bờ biển dài 3.260 km, nằm
gần một trong năm trung tâm bão thế giới, hằng năm nƣớc ta thƣờng chịu ảnh hƣởng
của trung bình từ 6 - 7 cơn bão và áp thấp nhiệt đới hình thành từ Thái Bình Dƣơng.
Năm 1997, cơn bão Linda đã làm thiệt hại hơn 3.000 ngƣ dân và 3.000 tàu thuyền
đánh bắt cá bị chìm ngoài khơi. Cơn bão số l (Chanchu) bị thiệt hại nhiều ngƣời, cơn
bão số 9, nhiều tàu bị chìm do đã vào bờ nhƣng thiếu nơi neo đậu an toàn. Năm 2010,
số cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hƣởng trực tiếp đến Việt Nam từ 6-7 cơn (TBNN
là 5-6 cơn), tƣơng đƣơng với năm 2009 (Nguồn: www.chinhphu.vn)

20
Ngoài ra, nƣớc ta là một trong 5 nƣớc chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi
khí hậu và dâng cao mực nƣớc biển, trƣớc hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. Các hệ
sinh thái ven biển, các giá trị dịch vụ của chúng, ngƣời dân ven biển và trên các đảo là
những đối tƣợng dễ bị tác động mạnh mẽ nhất, nhƣng đến nay còn thiếu những nghiên
cứu cụ thể về vấn đề này, cũng nhƣ chƣa có giải pháp lồng ghép và mô hình thích ứng
với biến đổi khí hậu và dâng cao mực nƣớc biển.
1.1.4.5. Các lĩnh vực khác liên quan đến biển, đảo
Đến nay, Việt Nam vẫn chƣa có đƣờng bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối
liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế
biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ bé. Các thành phố, thị
trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn đang trong thời kỳ bắt đầu xây dựng.
Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học- công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế
biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm
cứu hộ, cứu nạn trang bị còn thô sơ. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải
đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc

hậu và chƣa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Môi trƣờng biển và vùng ven biển ở nhiều nơi
bị ô nhiễm, đặc biệt ở các vùng biển tập trung phát triển công nghiệp, vận tải biển,
công nghiệp ven bờ, nuôi hải sản công nghiệp… (nhƣ Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Hồ
Chí Minh, Vũng Tàu…)
Đối với các lĩnh vực kinh tế liên quan trực tiếp đến biển nhƣ chế biến sản phẩm
dầu, khí; chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công
nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (nhƣ thông tin, tìm kiếm cứu nạn hàng
hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nƣớc và quốc tế, nghiên cứu khoa học-
công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên ) hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu hình
thành và quy mô còn nhỏ bé. Ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ
biển- đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chƣa có khu du
lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Đến bây giờ, chúng ta vẫn chƣa có quy hoạch
tổng thể lẫn quy hoạch chi tiết để phát triển du lịch biển đảo của Việt Nam.


21
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về vấn đề biển đảo
Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trƣờng sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta.
Vùng biển và ven biển nƣớc ta có vị trí hết sức quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an
ninh - quốc phòng nên từ lâu Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến phát triển kinh
tế biển, vùng ven biển và hải đảo; khẳng định phấn đấu “Trở thành một nƣớc mạnh về
biển là một mục tiêu chiến lƣợc xuất phát từ các yêu cầu và điều kiện khách quan của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”.
Năm 1990- 1992 đã đề ra chƣơng trình Biển Đông- Hải đảo; tiếp sau là các chủ
trƣơng của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế biển, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi
ích quốc gia trên biển, về chƣơng trình Biển Đông- Hải đảo đã mở rộng phạm vi đầu
tƣ cho các ngành, các địa phƣơng, các dự án trọng điểm. Chúng ta đã chủ động xây
dựng và từng bƣớc hoàn thiện thế trận quốc phòng - an ninh trên biển, thông qua nhiều
biện pháp tổ chức giáo dục cho toàn dân về giá trị của biển, đảo trong quá trình thực

hiện 2 nhiệm vụ chiến lƣợc; ban hành 7 bộ luật và luật, 6 pháp lệnh, 2 bản tuyên bố, 19
nghị định và 6 quyết định liên quan đến quản lý và bảo vệ vùng biển, đảo Việt Nam.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 7-
1996) lần đầu tiên đã tập trung thời gian bàn về phát triển các lĩnh vực liên quan đến
biển, đặc biệt là các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm an
ninh- quốc phòng. Nghị quyết Đại hội VIII xác định: “Vùng biển và ven biển là địa
bàn chiến lƣợc về kinh tế và an ninh quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa
mở lớn của cả nƣớc để đẩy mạnh giao lƣu quốc tế, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. Khai
thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh
quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế- xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng
biển của Tổ quốc” [21, tr.211]
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định mục tiêu: “Xây
dựng chiến lƣợc phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn
1 triệu km2 thềm lục địa; đã đề ra hàng loạt phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm “tiến ra

×