Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nhận thức và vận dụng quan điểm của C.Mác về động lực phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 113 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








PHẠM ĐỨC THƯ




NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA
C.MÁC VỀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT
NAM HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

















Hà Nội-2012


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM ĐỨC THƯ








NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA
C.MÁC VỀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM HIỆN NAY








Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80







Người hướng dẫn khoa học: TS. Lại Quốc Khánh




Hà Nội-2012



3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu 7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 11
6. Đóng góp của luận văn. 11
7. Kết cấu của luận văn. 11
CHƯƠNG 1. NỘI DUNG CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA C. MÁC . 12
VỀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ 12
1.1. Các khái niệm công cụ. 12
1.1.1. Khái niệm “động lực” 12
1.1.2. Khái niệm “động lực phát triển kinh tế” theo quan điểm duy vật cña
C.M¸c 14
1.2. Các quan điểm cơ bản của C.Mác về động lực phát triển kinh tế. 21
1.2.1. Quan niệm của C.Mác về vai trò của khoa học với tư cách là
động lực phát triển kinh tế. 21
1.2.2. Quan điểm của C.Mác về vai trò của sở hữu với tư cách là động lực
phát triển kinh tế. 31
1.2.3. Quan điểm của C.Mác về vai trò của nhà nước với tư cách là
động lực phát triển kinh tế. 39
ch¬ng 2. hiÖn tr¹ng vµ gi¶i ph¸p vÒ ®éng lùc ph¸t
triÓn kinh tÕ cña níc ta hiÖn nay theo quan ®iÓm
cña

C.M¸c……………………………………………………………… 46
2.1. Hiện trạng động lực phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. 49


4
2.1.1. Về khoa học trong phát triển kinh tế 49
2.1.2. Về sở hữu trong phát triển kinh tế. 55
2.1.3. Về vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế. 68
2.2. Giải pháp phát huy vai trò của các động lực phát triển kinh tế
hiện nay. 78
2.2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa các giải pháp về động lực phát
triển kinh
tế………………………………………………………………………74
2.2.2. Giải pháp phát huy vai trò động lực của nhà nước trong phát triển
kinh tế. 76
2.2.3. Giải pháp phát huy vai trò động lực của khoa học trong phát triển
kinh tế 79
2.2.4. Giải pháp phát huy vai trò động lực của sở hữu trong phát triển
kinh tế……………………………………………………………………….91
KÕt luËn 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107














5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau 25 năm Đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hai chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội (1991 - 2000 và 2001 - 2010), đất nước đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử về phát triển kinh tế-xã hội nói riêng và sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức
mạnh về mọi mặt được tăng cường; độc lập, chủ quyền và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai
đoạn mới.
Những thành tựu to lớn nói trên bắt nguồn từ quá trình đổi mới tư duy
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có tư duy triết học-kinh tế. Tư duy
của lực lượng lãnh đạo đất nước thay đổi, thể chế kinh tế của đất nước cũng
từng bước thay đổi, thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp từng bước bị
xoá bỏ, thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước
được hình thành. Những động lực kinh tế khách quan được khơi dậy và từng
bước phát huy sức mạnh của nó trong hiện thực. Chính quá trình “cởi trói” cả
trong tư duy và hiện thực kinh tế là cơ sở quan trọng để tạo nên sự phát triển
toàn diện của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình phát triển cũng bộc lộ

nhiều khuyết điểm, yếu kém. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo


6
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ phân phối bất hợp lý, phân
hoá xã hội tăng lên. Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ
tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Một
số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn
định chính trị - xã hội, v.v
Để có thể tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công
những mục tiêu phát triển, trong đó, mục tiêu ngắn hạn là đến năm 2020, đưa
đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần
đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới tư duy, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ
hơn nữa các động lực phát triển, trong đó có các động lực phát triển kinh tế.
Để thực hiện được mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng
là phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn di sản lý
luận mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin để lại, trong đó có di sản
lý luận về triết học-kinh tế. Trong những năm vừa qua, những công trình
nghiên cứu di sản lý luận triết học-kinh tế của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin theo hướng tiếp cận mới, với những cách kiến giải mới xuất hiện
ngày càng nhiều, góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận cho sự nghiệp đổi mới
của đất nước. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, vẫn còn nhiều vấn
đề cần được nhận thức, luận giải sâu sắc hơn nữa ở tầm triết học, nhất là nhận
thức và luận giải trên cơ sở so sánh, đối chiếu, tranh luận với những quan
điểm mới trong lĩnh vực lý luận triết học-kinh tế.
Trong bối cảnh Đảng ta kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì

lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, việc đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng, bổ


7
sung và phát triển có hiệu quả di sản lý luận của các nhà kinh điển còn là
nhiệm vụ có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, nhằm bảo vệ chủ
nghĩa Mác-Lênin trước mọi sự xuyên tạc cả vô tình hay hữu ý.
Với mong muốn tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu khó khăn, song rất
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn nói trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nhận
thức và vận dụng quan điểm của C.Mác về động lực phát triển kinh tế
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu bước đầu chúng tôi nhận thấy, hiện chưa có
công trình nghiên cứu đã công bố nào trực tiếp nghiên cứu đề tài “Nhận thức
và vận dụng quan điểm của C.Mác về động lực phát triển kinh tế nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, trong thời gian vừa
qua, những công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan thì khá phong
phú, có thể phân chia thành mấy nhóm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: là các công trình nghiên cứu động lực phát triền kinh tế-xã
hội, trong đó ít nhiều có đề cập và vận dụng đến quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về động lực phát triển kinh tế-xã hội. Chẳng hạn các công trình:
Lê Văn Lực: Động lực phát triển xã hội và một số biểu hiện của nó
trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (Luận án Phó tiến sỹ khoa học triết học, Hà
Nội 1995). Đổi mới hệ thống chính trị tạo động lực phát triển kinh tế (Tạp chí
nghiên cứu lý luận, số 3 1995), Tác giả đã đề cập đến một số động lực phát
triển của xã hội Việt Nam hiện nay như: thực hiện đổi mới kinh tế-động lực
chủ yếu trong thời kỳ đổi mới, ổn định chính trị và từng bước đổi mới hệ
chính trị, phát huy nhân tố văn hóa và con người Việt Nam-một trong những

động lực quan trọng trong sự nghiệp đổi mới.


8
Lê Hữu Tầng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam-vấn đề nguồn gốc
và động lực (Nxb. KHXH , Hà Nội 1991), Tác giả đã nêu vấn đề mâu thuẫn
trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mâu thuẫn vừa là nguồn gốc
vừa là động lực phát triển xã hội. Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội
(Nxb. KHXH, Hà Nội 1997), Tác giả đã phân tích và làm rõ hệ thống động
lực phát triển kinh tế-xã hội, luận giải sâu sắc một số động lực cơ bản đối với
sự phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Đặng Quang Định: Quan điểm của Đảng về động lực cơ bản trong phát
triển kinh tế-xã hội ở nước ta (Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2008). Dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin coi động lực cơ bản thúc đẩy xã hội phát
triển là khối đông đảo quần chúng, tác giả đã nêu xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước hiện nay.
Phạm Ngọc Quang: Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận
thức và vận dụng triết học Mác-Lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay (Tạp chí Triết học số 3-2008), Tác giả đã nêu ra
động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn dân thi đua xã hội chủ nghĩa; đấu tranh
giai cấp, hội nhập kinh tế quốc tế, đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai: là các công trình nghiên cứu về động lực phát triển kinh tế
Việt Nam hiện nay. Có thể kể đến một số công trình sau:
- Hà Chuyên: Động lực phát triển kinh tế-xã hội- văn hóa của Việt Nam
để Việt Nam có thể trở thành con rồng Châu Á (Nxb. Thống kê 2002). Theo
tác giả, dựa trên kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á trong vài thập
kỷ trở lại đây như: Hàn Quốc, Singgapo, Đài Loan , để có động lực của sự
phát triển, Việt Nam cần dưạ trên sự kết hợp các yếu tố truyền thống và hiện

đại để khai thác hiệu qủa các nguồn lực của đất nước.


9
Lê Du Phong chủ biên: Nguồn lực và động lực phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (Nxb. Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006), Tác giả đã nêu ra các nguồn lực phát triển kinh tế của một quốc
gia bao gồm: thứ nhất, nguồn lực con người, nguồn lực đất đai và tài nguyên
thiên nhiên, nguồn lực vốn và tài chính, nguồn lực khoa học-công nghệ,
nguồn lực phi vật thể, thứ hai, các động lực phát triển kinh tế bao gồm: xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế nhiều thành
phần, kích thích lợi ích kinh tế, tạo lập cơ chế cạnh tranh lành mạnh và động
lực tinh thần.
L.A.A-Nô-Sốp-Va: Động lực phát triển kinh tế của Việt Nam đầu thế kỷ
XXI (Tạp chí lý luận chính trị số 2-2006). Bài viết được trình bày trong tham
luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ đối tác chiến lược Việt-Nga: các vấn đề
và triển vọng”, tổ chức tại viện Viễn Đông-Viện hàn lâm khoa học Liên Bang
Nga ngày 16/12/2005. Theo tác giả, cuộc cải cách bao trùm tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội chính là động lực chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam. Đóng vai trò đầu tầu cơ cấu cải cách là việc sắp xếp lại, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước, thiết lập pháp lý và các điều kiện phát triển khu vực
kinh tế tư nhân.
Nguyễn Minh Phong: Mục tiêu và động lực đảm bảo phát triển đất
nước trong giai đoạn mới (Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội, Hà
Nội, 2010), Hồ Bá Thâm: Động lực và tạo động lực phát triển xã hội (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) v.v…
Các công trình nghiên cứu nói trên đã chỉ ra những động lực cũng như
mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam kể từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới
đến nay. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ
thống các quan niệm của C.Mác về động lực phát triển kinh tế cũng như việc

vận dụng các quan điểm ấy nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế


10
Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc thực hiện đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ hệ thống quan điểm cơ bản của
C.Mác về động lực phát triển kinh tế và vận dụng các quan điểm ấy để nhận
thức và giải quyết một số vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế nước
ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, xác định các khái niệm công cụ phục vụ nghiên cứu đề tài, hệ
thống hóa và luận giải những quan điểm cơ bản của C.Mác về động lực phát
triển kinh tế.
Thứ hai, vận dụng quan điểm của C. Mác về động lực phát triển kinh tế
để xem xét hiện trạng các động lực chủ yếu của kinh tế Việt Nam hiện nay, đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các quan điểm của C.Mác về động lực phát
triển kinh tế và một số vấn đề về động lực trong qúa trình phát triển kinh tế ở
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu:
+ Tập trung nghiên cứu các quan điểm cơ bản của C.Mác về động lực
phát triển kinh tế được C.Mác và Ăngghen phát biểu trong các tác phẩm kinh
tế tiêu biểu của các ông, nhất là các tác phẩm nghiên cứu về xã hội loài người
từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời.



11
+ Hiện trạng và những vấn đề cần giải quyết trong phát triển kinh tế
Việt Nam được xem xét trong phạm vi thời gian từ khi bắt đầu sự nghiệp Đổi
mới (năm 1986) đến nay.
- Về tư liệu phục vụ nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
khai thác các nguồn tư liệu đã công bố chính thức ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn, chúng tôi sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, quy nạp,
diễn dịch, hệ thống-cấu trúc, khái quát hoá, trừu tượng hoá, kết hợp lôgic -
lịch sử, so sánh-đối chiếu, nghiên cứu văn bản học, v.v
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Luận văn đã góp phần hệ thống hóa và luận giải
các quan điểm của C.Mác về động lực của sự phát triển kinh tế. Do vậy,
những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề có liên quan.
6.2. Về mặt thực tiễn: Luận văn đã góp phần làm rõ những hiện trạng
động lực phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển đó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương 4 tiết.


12
CHƯƠNG 1. NỘI DUNG CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA C. MÁC

VỀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm “động lực”
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do Hoàng Phê chủ biên thì
động lực là “cái thúc đẩy, làm cho phát triển” [56, tr. 451] .
Theo Aphannaxep thì, động lực là “nút bấm của hành động”, là “huyệt”
mà sự tác động vào sẽ gây ra phản ứng nhanh nhạy nhất của cơ thể xã hội”
[61, tr. 27]. Cho nên, chỉ thuần túy riêng về mục đích của động lực thì khái
niệm này gần nghĩa với kích thích, đòn bẩy.
Do tính khách quan của mối liên hệ phổ biến, nên mọi sự vật, hiện
tượng trong quá trình vận động và phát triển luôn có những yếu tố tác động
vào, trong đó có những yếu tố tác động làm kìm hãm sự phát triển (tức là trở
lực) và cũng có những yếu tố tác động vào làm thúc đẩy sự phát triển (tức là
động lực). Quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mang tính
khách quan, cho nên động lực cũng mang tính khách quan, tùy thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể thì bản thân các yếu tố tác động vào sự vật,
hiện tượng cũng mang tính lịch sử cụ thể, có thể lúc này, nơi này là động lực,
nhưng cũng yếu tố đó ở nơi khác, lúc khác không phải là động lực, thậm chí
có thể trở thành trở lực.
Khi cách mạng Tháng 10 Nga thành công, để huy động, phát huy mọi
tiềm lực kinh tế và sức mạnh của đất nước, V.I.Lê-nin đã thi hành chính sách
cộng sản thời chiến và chính sách này đã phát huy tác dụng to lớn giúp nhà
nước Nga lúc bấy giờ chiến thắng thù trong giặc ngoài, bảo vệ được thành quả
cách mạng. Tuy nhiên, khi thù trong giặc ngoài qua đi thì chính sách cộng sản
thời chiến lại chính là yếu tố cản trở sự phát triển kinh tế nói riêng và đất nước


13
chung, chính sách này đã phản tác dụng và không còn phù hợp nên V.I.Lê-nin
đã phải thay thế bằng chính sách kinh tế mới (NEP).

Mọi sự vật, hiện tượng có những kết cấu, những mặt, những yếu tố làm
nên tính chỉnh thể của sự vật hiện tượng đó. Động lực tác động có thể tác
động vào một mặt, một yếu tố nào đó hay tác động vào tất cả các mặt, các yếu
tố của sự vật hiện tượng đó và như vậy, sự tác động này tạo thành hệ thống
các động lực. Hệ thống này cũng có tính chỉnh thể trong quá trình tác động
vào sự vật, hiện tượng đó, tùy theo từng tiêu chí và góc độ tiếp cận khác nhau
mà trong hệ thống động lực đó, có các động lực chủ yếu và động lực thứ yếu,
động lực bên trong và động lực bên ngoài, động lực trực tiếp và động lực gián
tiếp. Việc xác định đúng các động lực, nhất là các động lực chủ yếu để từ đó
có cơ chế tác động phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy nhanh tiến trình vận động
theo hướng đi lên của sự vật, hiện tượng.
Vậy, vấn đề là xác định động lực hay hệ thống động lực ấy như thế nào,
theo Giáo sư Lê Hữu Tầng cho rằng: “tìm động lực của sự phát triển là tìm cái
thúc đẩy sự phát triển khi bản thân sự phát triển đó đã có, đã nảy sinh” [63,
tr.15]. Sự vật hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển của mình,
động lực của sự vận động và phát triển trong triết học Mác-Lê nin cho rằng:
động lực của sự vận động và phát triển chính là sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Như vậy, động lực là nhân tố làm nguồn gốc thúc đẩy sự vận động và
phát triển, nhân tố đó là sự thống nhất giữa nhân tố bên trong và nhân tố bên
ngoài trong đó nhân tố bên trong đóng vai trò quyết định nhân tố bên ngoài
đóng vai trò quan trọng. Sự thống nhất này bao hàm cả mâu thuẫn, các nhân tố
ấy có thể có những nhân tố ngược nhau hoặc không cùng hướng tác động
nhưng hợp lực thì lại thì nhân tố ấy chiếm ưu thế và thắng tất cả lực cản tạo
nên sự vận động và phát triển. Nó là nhân tố tác động tích cực thúc đẩy quá
trình biến đổi làm sự vật, hiện tượng xuất hiện cái mới về chất. Trong quá


14
trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, động lực là cái thúc đẩy
quá trình phát triển nội tại, đó là một quá trình thống nhất và đấu tranh giải

quyết mâu thuẫn nội tại của sự vật hiện tượng.
Như vậy, theo chúng tôi: Động lực là yếu tố kích thích sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Do đó, động lực là chất “xúc tác” trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Động lực khác nguồn lực,
nếu như nguồn lực là các yếu tố tham gia vào việc cấu thành nên sự vật, hiện
tượng còn động lực chỉ là “chất xúc tác” tham gia vào quá trình vận động của
sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, trên nhiều phương diện, cách phân chia như
vậy cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì nhiều khi xét trong hoàn cảnh
này, mối quan hệ này thì là động lực, nhưng xét trong mối quan hệ khác hoàn
cảnh khác lại là nguồn lực.
Để tìm ra được động lực của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng, trước hết, cần tìm hiểu tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng - hay kết
cấu nội tại của chúng, trong quá trình vận động và phát triển, cái tác động vào
các kết cấu và làm thúc đẩy nhanh quá trình biến đổi ấy chính là động lực của
sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Khái niệm động lực phát triển kinh tế theo quan điểm duy vật
của C.Mác
Để duy trì và nâng cao chất lượng đời sống của mình, con người phải
tiến hành sản xuất của cải vật chất. Nếu không có sản xuất thì xã hội sẽ tiêu
vong. Vì thế, sản xuất của cải vật chất là hành động lịch sử mà con người phải
thực hiện hàng ngày, hàng giờ từ ngàn vạn năm trước cũng như hiện nay và
mai sau. Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ tạo ra của cải vật chất
cho sự tồn tại của bản thân, mà còn thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất
những quan hệ xã hội của mình.


15
Sản xuất vật chất là quá trình hoạt động có mục đích của con người, là
quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất phục vụ con

người và xã hội. Như C.Mác đã từng nói: “Sản xuất chẳng qua chỉ là sự phát
triển lực lượng sản xuất của loài người, tức sự phát triển phong phú của bản
chất con người, coi như là một mục đích tự thân” [46, tr. 168]. Đồng thời, con
người không thể tiến hành sản xuất có hiệu quả khi tiến hành một cách riêng
rẽ, đơn lẻ, mà phải kết hợp với nhau, quan hệ tác động qua lại với nhau trong
quá trình sản xuất. Và trong quá trình sản xuất này, con người không chỉ tạo
ra của cải vật chất cho sự tồn tại của bản thân, mà còn thực hiện quá trình tái
sản xuất những quan hệ của mình, những quan hệ sản xuất. C.Mác viết “Trong
sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động
chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải
có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; Tổng hợp lại thì những
quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là quan hệ xã hội, là xã hội, và
hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định” [35, tr. 552]. Và như vậy, để tiến hành sản xuất con người đã hình thành
hai mối quan hệ: quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con
người với con người. Điều này được C.Mác khẳng định bằng luận điểm như
sau: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những mối
quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội” [36, tr. 13].
Như vậy, kinh tế là hoạt động sản xuất vật chất diễn ra với hai mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người trong một giai


16
đoạn lịch sử nhất định. Điều này đã được C.Mác và Ăngghen đã phát biểu:
“Chúng tôi hiểu các quan hệ kinh tế-mà chúng tôi coi là cơ sở quyết định của
lịch sử xã hội-là phương thức mà con người của một xã hội nhất định dùng để

sản xuất ra những tư liệu để sinh sống và trao đổi vật phẩm với nhau” [49, tr.
270]. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên gọi là lực lượng sản xuất, mối
quan hệ giữa con người với con người gọi là quan hệ sản xuất, đây là hai mặt,
hai yếu tố cấu thành của kinh tế, của hoạt động sản xuất vật chất của con
người, hai mặt này vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ của nó qua công cụ sản xuất, điều
này đã được C.Mác khẳng định:

“Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào
với những tư liệu lao động nào” [41, tr. 269]. Trong lịch sử phát triển công cụ
sản xuất của con người từ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, cơ khí, nửa tự động và đến
bây giờ là tự động hóa. Công cụ sản xuất của con người đã có ba bước thay
đổi về chất đó là từ đồ đá lên kim loại thủ công, từ kim loại thủ công lên cơ
khí, từ cơ khí lên tự động hóa.
Nhờ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII đã
đưa công cụ sản xuất từ thủ công lên cơ khí, đặc biệt cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật lần thứ hai và ba diễn ra trong thế kỷ XX đã đưa công cụ sản xuất
từ cơ khí lên tự động hóa và mở ra một thời đại kinh tế mới đó là kinh tế tri
thức. Yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là
khoa học kỹ thuật, bởi nhờ chính thành tựu khoa học kỹ thuật (những phát
kiến khoa học), công cụ lao động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ
lao động cơ bắp của con người và đem lại hiệu quả lao động cao hơn. Do đó,
khoa học kỹ thuật là động lực trực tiếp đưa đến cuộc cách mạng trong lực
lượng sản xuất, không chỉ tạo ra bước nhảy vọt về chất trong bản thân lực


17
lượng sản xuất, mà còn quyết định các bước chuyển biến cách mạng trong lịch
sử xã hội, đưa xã hội từ nền văn minh này sang nền văn minh khác cao hơn.

Quan hệ sản xuất-quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất, mối quan hệ này được biểu hiện trước hết bằng sự chiếm hữu giữa
những con người với nhau trong quá trình sản xuất và thụ hưởng thành quả
của sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ chiếm hữu giữa con người với
con người về tư liệu sản xuất được quy định bằng pháp lý gọi là chế độ sở
hữu. Tương ứng với những giai đoạn phát triển của xã hội có các hình thức sở
hữu khác nhau: sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã hay sở hữu nhà nước thời cổ, sở
hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp, sở hữu tư sản, sở hữu xã hội chủ nghĩa,
sự thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác là một tất yếu khách
quan, là kết quả sự tác động khách quan, trong đó chủ yếu là tác động của quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Và như vậy, sự thay thế liên tiếp các chế độ sở hữu thực tế đã diễn ra trong
quá trình phát triển của lịch sử loài người, có thể nói, không có chế độ sở hữu
nào tồn tại vĩnh viễn.
Lực lượng sản xuất thể hiện nội dung của kinh tế, quan hệ sản xuất thể
hiện hình thức của kinh tế, sự thống nhất này thể hiện nếu thiếu một trong hai
mối quan hệ này thì sản xuất không thể tiến hành được. Mối quan hệ gắn bó
không thể tách rời giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên sự
thống nhất giữa chúng trong một phương thức sản xuất nhất định. Khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó thì sẽ mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất mà trước kia nó phù hợp, nó là địa bàn cho lực lượng sản xuất phát
triển. Mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, C.Mác viết “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng,
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có, hay-đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó-


18
mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng
sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực

lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản
xuất”

[11, tr. 15-16],

dẫn đến đòi hỏi phải xóa bỏ hình thức sở hữu cũ để tạo ra
kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, khi quan hệ sở hữu phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất là địa bàn, là động lực cho lực lượng sản xuất
phát triển, ngược lại nếu quan hệ sở hữu lạc hậu hoặc vượt trước trình độ của
lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đến đây, chúng ta có thể rút ra một kết luận rằng: một quan hệ sản xuất
được coi là phù hợp với lực lượng sản xuất, nếu ở một trình độ phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ấy đáp ứng được những yêu cầu
của lực lượng sản xuất đặt ra. Nhưng làm thế nào để biết được quan hệ sản
xuất thoả mãn những yêu cầu để phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Muốn vậy, cần phải có các tiêu chuẩn để căn cứ vào đó mà đánh giá,
nhận biết quan hệ sản xuất có phù hợp hay không. Như vậy, tiêu chuẩn phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là những quy định dùng làm
căn cứ để đánh giá sự phù hợp các quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
song dựa vào cơ sở nào để rút ra tiêu chuẩn về sự phù hợp;
+ Quan hệ sản xuất phải đáp ứng những yêu cầu khách quan của người
lao động với tư cách là lực lượng sản xuất cơ bản nhất về các mặt sở hữu,
quản lý và phân phối. Điều đó kích thích được sự nỗ lực sáng tạo của người
lao động ngay trong lực lượng sản xuất.
+ Tạo ra sự gắn bó hữu cơ giữa các yếu tố trong lực lượng sản xuất,
thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, tạo ra nhiều ngành nghề mới, giải
quyết tốt việc làm cho người lao động.



19
+ Kích thích quá trình đổi mới lực lượng sản xuất, tiếp thu nhanh tiến
bộ khoa học kỹ thuật, các quy trình công nghệ mới tiên tiến và không ngừng
nâng cao năng suất lao động, tận dụng mọi tiềm năng của tư liệu sản xuất.
+ Tạo khả năng thích ứng hoà nhập nền kinh tế mỗi nước và nền kinh tế
thế giới trong xu hướng quốc tế hoá lực lượng sản xuất như ngày nay.
+ Tạo khả năng để lực lượng sản xuất phát triển nhanh về tốc độ, sức
tăng trưởng cao, biểu hiện ra ngoài xã hội là; hàng hóa tiêu dùng trong xã hội
dồi dào, thu nhập bình quân đầu người tăng, nâng cao mức sống của người lao
động, đáp ứng ngày càng cao và đa dạng nhu cầu của con người.
Những tiêu chí trên tất nhiên phải được rút ra từ thực tiễn và được thực
tiễn kiểm nghiệm. Vì thế, phải sau một quá trình, một thời gian nhất định mới
có thể đánh giá được quan hệ sản xuất có phù hợp với lực lượng sản xuất hay
không và các tiêu chuẩn trên có thể hợp thành một hệ thống đánh giá toàn
diện về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Như trên đã trình bày, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình
thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không theo ý muốn chủ
quan của con người. Tuy nhiên, khi sản xuất phát triển đến lúc ra đời chế độ
tư hữu và hình thành xã hội có giai cấp, có nhà nước, giai cấp thống trị thông
qua nhà nước của mình và bằng các hệ thống pháp luật có nhận thức được tính
chất khách quan của quy luật hay không, và để thiết lập các hình thức sở hữu
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó đề ra các đường
lối chính sách phát triển kinh tế đúng đắn hay sai lầm lại là vấn đề chủ quan
của con người - hay là ý thức của con người. Có nghĩa là, để yếu tố khoa học
và sở hữu trở thành động lực phát triển kinh tế thì phải do giai cấp thống trị
thông qua nhà nước đề ra chính sách, pháp luật tác động vào nền kinh tế,
chính sách, pháp luật đúng đắn thì thúc đẩy kinh tế phát triển, chính sách,
pháp luật sai lầm thì sự phát triển không diễn ra như mong muốn, thậm chí có



20
thể kéo lùi quá trình phát triển kinh tế của quốc gia. Điều này giải thích tại sao
ở nước ta từ những năm 80 của thế kỷ XX, khi nước ta rơi vào khủng hoảng
kinh tế-xã hội sâu sắc do nhận thức sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cho nên, để đưa nước ta
thoát khỏi cuộc khủng hoảng này, Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới mà
phương châm đầu tiên là: đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật , chứ chúng ta không tiến hành đổi mới hay thay
đổi bản thân kinh tế, bản thân lực lượng sản xuất
Đến đây, theo chúng tôi: Động lực để kinh tế phát triển là sự phát triển
của khoa học và một quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất phù hợp trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua hệ thống chính sách,
pháp luật về kinh tế của nhà nước.
Như vậy, dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, chúng tôi cho rằng khoa
học là “chất xúc tác” đầu tiên của kinh tế, tiếp theo là sở hữu và nhà nước. Bởi
vì, ngay từ giai đoạn lịch sử đầu tiên của mình, con người đã chiếm hữu,
chiếm lĩnh những điều kiện tự nhiên như môi trường sống, nguồn thức ăn.v.v
và tiến hành “sản xuất” mang tính bản năng, và nếu con người chỉ dừng lại ở
việc chiếm hữu môi trường sống và kiếm ăn theo bản năng thì con người cũng
chỉ dừng lại như bao các loài động vật khác. Nhưng trong quá trình kiếm ăn
ấy, con người đã dần dần tích lũy những tri thức, kinh nghiệm (tức là khoa
học ở dạng sơ khai nhất), và nhờ vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm
này mà con người đã thay đổi cách thức kiếm sống, biết chế tạo ra các công cụ
sao cho việc kiếm ăn được tiến hành có hiệu quả và an toàn hơn. Từ chỗ chỉ
kiếm ăn theo bản năng, nay con người kiếm ăn đã có mục đích và nền sản
xuất của xã hội ra đời. Như vậy, khoa học là yếu tố có vai trò đầu tiên trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển, khi sản xuất phát triển của cải trở lên dư



21
thừa thì chế độ sở hữu mới ra đời và sau đó là sự ra đời của giai cấp, nhà
nước.
1.2. Các quan điểm cơ bản của C.Mác về động lực phát triển kinh
tế
1.2.1. Quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học với tư cách là
động lực phát triển kinh tế
Trước hết, khoa học được hiểu là một tập hợp có tính chất hệ thống
những hiểu biết về: tự nhiên, xã hội và tư duy, về các quy luật khách quan của
sự phát triển của chúng. Như vậy, theo nghĩa chung nhất, khoa học là một
hình thái ý thức xã hội, là một công cụ để nhận thức, có chức năng giúp cho
con người nắm được những quy luật của hiện thực khách quan, làm cho con
người ngày càng làm chủ được những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội.
Khoa học với tư cách là những tri thức, những hiểu biết thuần túy thì cố
nhiên nó không có bất kỳ tác dụng tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới
nói chung và đối với đời sống kinh tế-xã hội của con người nói riêng, càng
không thể chuyển hóa thành lực lượng sản xuất, mà phải thông qua sự vận
dụng vào hoạt động thực tiễn của con người chúng mới phát huy tác dụng,
mới tạo thành sức mạnh vật chất. Điều này được C.Mác khẳng định ngay
trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen “Vũ
khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý
luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó được thâm nhập vào quần
chúng” [30, tr. 580]. Ở đây, “vũ khí của sự phê phán” và “lý luận” là khoa
học, tư tưởng khoa học, lý luận khoa học, còn “sự phê phán của vũ khí” và
“lực lượng vật chất” là hoạt động vật chất, hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, C.Mác đã giải thích rõ ràng lý luận khoa học phải thông qua hoạt
động của con người thì mới trở thành lực lượng vật chất. Để khoa học trở



22
thành động lực của sự phát triển lực lượng sản xuất thì không phải khoa học
nói chung mà chỉ có khoa học được đem áp dụng vào sản xuất mới có tác
dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều này được C.Mác chỉ rõ
“Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo,
máy sợi con dọc di động…Tất cả thứ đó là thành quả sáng tạo của bộ óc con
người, được bàn tay con người tạo ra, là sức mạnh đã được vật hóa” [51, tr.
372]. C.Mác là người đã chỉ ra cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế công nghiệp là
máy móc mà trong đó, yếu tố có vai trò cách mạng trong việc đưa năng suất
lao động tăng vọt là máy công tác, nhờ đó chuyển nền kinh tế nông nghiệp thủ
công lên công nghiệp. Quá trình vật hóa này được thực hiện từ cuối thế kỷ
XVIII với việc phát minh ra máy hơi nước đã đưa quá trình lao động-sản xuất
của con người thay đổi về chất, từ đây khoa học đã thúc đẩy sản xuất phát
triển, làm thay đổi bộ mặt của thế giới một cách nhanh chóng, điều này đã
được C.Mác và Ăngghen phát biểu: “Chúng ta sẽ hài lòng nhận thấy rằng
công việc trong lĩnh vực khoa học cũng được bù đắp về mặt vật chất, rằng chỉ
một thành quả khoa học như chiếc máy hơi nước của Giêm-oát, trong năm
mươi năm tồn tại đầu tiên của nó, cũng đã mang lại cho thế giới nhiều hơn so
với cái mà thế giới đã chi phí ngay từ đầu cho sự phát triển của khoa học” [31,
tr. 762]. Và sở dĩ giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ
của nó đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả thế hệ trước kia gộp lại là nhờ áp dụng những thành tựu
khoa học vào việc chinh phục tự nhiên như: sản xuất bằng máy, việc áp dụng
hóa học vào công nghiệp, nông nghiệp, sử dụng tầu chạy bằng hơi nước,
đường sắt, khai phá các lục địa và khai thông các dòng sông…
Như vậy, khoa học muốn phát huy tác dụng đối với sản xuất, bao giờ
cũng phải thông qua những thiết bị, máy móc , nói chung là những công cụ
sản xuất, ở đó các quy luật do khoa học phát hiện chi phối sự vận động để



23
công cụ sản xuất đáp ứng các mục đích sản xuất và quá trình sản xuất trở
thành sự ứng dụng khoa học thì ngược lại, khoa học trở thành nhân tố hay
động lực cho quá trình sản xuất phát triển “Sự phát triển của lực lượng máy
móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đạt đến một trình
độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được đưa vào phục vụ tư
bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có nguồn lực to lớn. Như vậy,
phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc việc vận
dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích” [51, tr. 367]. Theo đà phát triển của đại công nghiệp,
máy móc sẽ từng bước thay thế lao động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là
quá trình lao động giản đơn sẽ trở thành một quá trình khoa học, lao động trực
tiếp trở thành thứ yếu so với lao động khoa học. Khi đó, việc tạo ra của cải vật
chất trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và sức lao động mà phụ thuộc
vào việc ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Khi lao động khoa học phổ biến, việc áp dụng khoa học tự nhiên và
công nghệ và biến quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình khoa học bắt
những lực lượng của giới tự nhiên phục tùng mình và bắt những lực lượng ấy
phải hoạt động phục vụ nhu cầu của con người “Khi gắn những lực lượng tự
nhiên khổng lồ và khoa học tự nhiên vào quá trình sản xuất đại công nghiệp
tất phải nâng cao năng suất lao động lên một cách khác thường” [41, tr. 558].
Năng suất lao động cao, thời gian lao động cần thiết được rút ngắn đến mức
tối thiểu, thời gian nhàn rỗi cho xã hội nói chung và cho từng thành viên nhiều
hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện mỗi cá nhân, sự phát triển toàn
diện mỗi cá nhân lại tạo ra khả năng rộng rãi để phát triển một cách hoàn toàn
đầy đủ lực lượng sản xuất.
Sự áp dụng ngày càng tự giác khoa học vào sản xuất đã làm cho khoa
học trở thành lực lượng sản xuất sản xuất trực tiếp, “Với tư cách là máy móc,



24
tư liệu lao động có được một phương tức tồn tại vật chất đòi hỏi phải thay thế
sức người bằng những lực lượng tự nhiên và thay thế những phương pháp nệ
cổ có tính chất kinh nghiệm bằng việc áp dụng một cách tự giác khoa học tự
nhiên” [41, tr. 556]. Điều đó, khoa học có vai trò cực kỳ to lớn đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, và nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là khi
được chuyển hóa, ứng dụng ở một mức độ nhất định nào đó, điều này đã được
C.Mác nhận định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức
xã hội phổ biến [Wisser Knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của
chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức nào sự kiểm soát của trí
tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy;
những lực lượng sản xuất của xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không
những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội
trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực” [51, tr. 372-
374]. Mức độ biến đổi khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là mức độ
xây dựng lực lượng sản xuất ở dạng tri thức, hay nói cách khác, những tri thức
này (khoa học) chiếm vị trí như thế nào trong các lực lượng sản xuất, tức là sự
sáng tạo vào ứng dụng các phương tiện kỹ thuật vào sản xuất, điều này thể
hiện qua sự phát triển của các hệ thống máy móc.
Chủ nghĩa tư bản đã đánh bại chế độ phong kiến bằng máy móc, máy
móc đã thay thế sức mạnh cơ bắp, thao tác của đôi tay, C.Mác đã nói: “Do có
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất
của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối quay bằng tay
đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà
tư bản công nghiệp” [30, tr. 187]. Và ngày nay, các chức năng cao cấp trong
lao động như logich, điều khiển đang được các máy tính, các hệ thống hóa



25
linh hoạt,…đảm nhận. Cứ như vậy đi lên, quá trình biến đổi khoa học thành
lực lượng sản xuất gắn liền với việc chuyển toàn bộ nền sản xuất sang kỹ
thuật hiện đại, với sự phân công lao động hoàn toàn mới, với những hình thức
và phương pháp tổ chức hoàn toàn khác, với năng suất lao động cao hơn hẳn.
Như C.Mác đã từng nói: “Trong chừng mực khoa học tự nhiên dạy cho người
ta không chỉ nhờ vào máy móc, hay nhờ vào máy móc như trước kia (có thể
còn rẻ hơn trước kia nữa như khi người ta sử dụng nồi hơi nước, các quá trình
hóa học khác nhau v.v…) mà thay thế lao động của con người bằng các lực
lượng tự nhiên-thì trong chừng mực đó, khoa học tự nhiên không tốn kém gì
đối với nhà tư bản cả (cũng như đối với xã hội) và làm cho hàng hóa rẻ đi một
cách tuyệt đối” [46, tr. 811].
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong thế kỷ XX với sự ra đời hệ
thống máy móc điều khiển tự động đã thay thế cho hệ thống máy móc cơ khí
trước kia, nó đã chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức
(kinh tế sau công nghiệp). Các tri thức khoa học được vật hóa thành các công
cụ, máy móc tinh vi, hiện đại như các loại máy vi tính, siêu vi tính, các loại
máy công nghệ tự động hóa, các thế hệ người máy (robot); tạo ra các loại
công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới…Với hệ thống máy điều khiển tự động, mà trung tâm là máy tính
điện tử, nó đã thực hiện được những tính năng ưu việt như: việc rút ngắn thời
gian và không gian, tự động hóa được các công việc chân tay, tự động hóa
được các công việc trí óc về tính toán và thao tác logics với tốc độ cực nhanh,
đã đem lại cho quá trình sản xuất của con người không chỉ nhảy vọt về năng
suất, chất lượng lao động tốt hơn mà còn góp phần quan trọng vào việc tiết
kiệm nguyên vật liệu, tạo ra những vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự
nhiên.

×