Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tư tưởng Nho giáo trong Quốc triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.31 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HOC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
TRẦN THỊ THUÝ NGỌC
Tư TƯỞNG NHO GIÁO TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
Chuyên ngành: Lịch sử triết học 5.01.01
LUẬN VĂN THẠC sĩ TRIẾT HỌC
Người hưóng dẫn khoa học: TS. NGUYỀN KIM SƠN
HÀ NỘI - 2005
Mở đầu
MỤC LỤC
1
Nội dung 6
Chương 1: Hoàn cảnh kinh tế xã hội cho sự ra đời Quốc triều hình luật

6
1.1 Nhữno nhân tố kinh tế xà hội giai đoạn trước Lê sơ

6
1.1.1 Nhà Tiền Lê 6
1.1.2 Nhà Lý 11
1.1.3 Nhà Trần- Hồ 17
1.2 Nhừno nhân tổ kinh tế xã hội giai đoạn Lê sơ 21
Chương 2: j\hững nội (lung Nho giáo được chế định trong Quốc triều hình luật 30
2.1 Nho eiáo với tư cách học thuyêt chính trị xã hội tronẹ tương quan với pháp luật. 30
2.2 Tổng quan chuna về pháp luật trước Lê sơ 38
2.2.1 Pháp luật của nhà nước phong kiến phương Đông

38
2.2.2 Pháp luật Việt Nam trước Lê sơ 41
2.3 Một số nội dung Nho giáo cơ bàn trong Ouổc triều hình luật 49
2.3.1 Tôn quân và bảo vệ hoàng tộc


57
2.3.2 Đội nsũ quan lại - sự thể hiện sinh động đạo làm tôi của Nho gia
59
2.3.3 Coi trọng luân lí Nho giáo trong gia tộc
69
2.3.4 Coi trọng lễ nehi Nho giáo 76
Chương 3: Bước đầu đánh giá đặc điếm nội dung tư tưởng Nho giáo trong Quốc triều
hình luật 78
3.1 Vay mượn những nội duna Nho giáo trong luật pháp Trung Quốc - Sự kết hợp giữa
Lễ trị và Pháp trị 78
3.2 Đièm đặc thù của nội dune Nho giáo trong Quốc triều hỉnh luật
84
3.2.1 Quan tâm cao độ tới chức trách của đội naũ quan lại

84
3.2.2 Khác biệt trons quan niệm luân lí gia tộc 90
Kết luận 96
Phụ lục
Thư mục tài liệu tham khao
MO ĐẢ I
1. Tính cấp thiết ciia đê tài
- Thê kì XV được coi là một trono nhữns giai đoạn bàn lề trong; tiến trình
lịch sử tư tườne Việt Nam nói chuns và tiên trinh phát triên của Nho giáo Việt
Nam nói riêng (thè ki X, XV và XIX). Do đó, xác định diện mạo tư tưởng của
giai đoạn này không chỉ có V nuhĩa đối với việc xem xét tư tường của riêng
giai đoạn đó mà còn là điểm tựa cho các nshiên cứu tư tưỏng cho các ơiai
đoạn trước và sau giai đoạn này.
- Bên cạnh việc tìm kiêm trons sử liệu, trong các tác phâm văn chương,
nsoại giao, triêt học, thi việc xem xét tư tường thông qua luật pháp cũng là
công việc quan trọng ơóp phân xây dựng lại diện mạo tư tưởng một giai đoạn

đã qua, vì pháp luật là chiếc cầu nối giữa ý thức hệ thổna trị với thực tiễn xã
hội qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ouổc triều hình luật (còn gọi là Bộ
luật Hỏng Đức, xác định được viết ra dưới triều Lê Thánh Tông) được đánh
giá là bộ luật hoàn chỉnh nhất, giá trị nhất cùa các triều đại phong kiến nước ta
còn lại, đã hệ thống hoá, pháp điển hoá pháp luật hết sức công phu. Nghiên
cứu những tư tường Nho giáo thề hiện qua bộ luật cũng là một căn cứ xác tín
để xác định diện mạo tư tưởng thế ki XV. Thôno qua bộ luật, có thê thây được
ý đồ xây dựng nước Đại Việt của các nhà câm quyên Lê (điên hình là Lẻ
Thánh Tông) đã được điều chỉnh cho phù hợp với cơ tầng xã hội Việt Nam và
hiện thực hoá rất sống động qua từne điều luật trong Bộ luật.
2. Tình hình nghiên cửu đê tài
- về Lè Thánh Tông và Nho giáo thế ki XV, tiêu biểu nhất là hai cuôn
được xuất bản nhân dịp kỉ niệm 500 ngày mất Lê Thánh Tông: Hoàng đê Lê
Thánh Tone - Nhà chính trị tài nănư. nhà văn hoá lỏi lạc, nhò thơ lớn (Viên
o . <_> • •
Văn học) và Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con ngirời và sự nghiệp (Đại học
Quôc gia Hà Nội). Hai cuôn sách đã phân tích và làm nòi bật vai trò của cá
nhân Lê Thánh Tỏng trons việc xây dựníi vương triêu phong kiến theo mô
hình Nho giáo rực rỡ nhất trong lịch sứ cả về kinh tế, xã hội, ngoại giao đồng
thời kiên tạo nên diện mạo văn hoá mới cho Đại Việt một cách toàn diện và
triệt để: giáo dục, khoa cừ, thuần phons mĩ tục, luật pháp theo khuynh
hướng Nho aiáo hoá. Nsoài ra, trong các aiáo trinh và sách tham khảo về lịch
sử tư tườnc Việt Nam (Viện Triết học, Lịch sử tư tườn% Việt Nam tập 1; GS
Phan Đại Doãn cb, Một sổ vắn đề về Nho giáo Việt Nam ) cũng đề cập tới
thế kì XV như giai đoạn thịnh trị nhât của Nho giáo trons tiến trình lịch sử tư
tườns, găn liên với tên tuôi Lê Thánh Tông.
- Nghiên cứu về pháp luật Việt Nam, 3 cuốn Sơ thào lịch sử nhà nước và
pháp quyển Việt Nam của Đinh Gia Trinh, Pháp luật các triều đại Việt Nam
và các nước của TS Cao Văn Liên và Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam cùa TS Vũ Thị Phụng đã cho cái nhìn tổng quan về tiến trình

phát triển cùa pháp luật Việt Nam mà Bộ luật Hồng Đức được đánh giá cao
hơn cả về thành tựu lập pháp. Đặc biệt hơn, cuốn Luật và xã hội Việt Nam thê
ki XVII-XVII1 cùa GS Insun Yu là cuốn chuyên khảo rất giá trị thông qua luật
pháp Việt Nam thế ki XVII-XVIII mà xây dựng lại diện mạo xã hội Việt Nam,
tronơ đó có tư tường, của giai đoạn đó.
- Trực tiếp khảo vào các Bộ luật cụ thể, cuốn Quốc triều hình luật - Lịch
sử hình thành nội dung và giá trị (TS Lê Thị Sơn cb) kháo cứu rất kĩ mọi khía
cạnh của bộ luật dưới aóc độ pháp luật: kĩ thuật lập pháp, các chê tài, phạm vi
bao quát các lĩnh vực của bộ luật và đê cập tới nội dung bộ luật thông qua
cách tiếp cận đó. về Bộ luật Gia Long, cuốn Lược kháo Hoàng Việt luật lệ
(Buớc đầu tìm hiểu luật Gia Long) cùa Nauven Q. Thẳng cung câp thêm cái
nhìn đôi chiếu so sánh đê ta tim hiểu sâu về lịch sir lập pháp Việt Nam và Bộ
luật Hồno Đức
- Nghiên cứu những vàn đề Nho giáo thể hiện qua luật pháp, khôns thể
không kê đèn một tài liệu khào cửu rất quan trọng là cuốn Tổng quan tư tường
pháp luật Nho gia của GS Du Vinh Căn dày lOOOtr do Học viện Chính trị
Quôc gia HCM dịch và in năm 2002. Cuốn sách phân tích cặn kẽ tiến trình
phát triên của Nho giáo trong mối tương hổ với pháp luật và quan hệ song
hành Nho gia và Pháp gia đã được kết tinh và định hình ra sao trono lịch sử
lập pháp Trung Quốc. Như vậy, nghiên cứu chuyên sâu về những nội dung
Nho siáo chù yếu thể hiện trong pháp luật Việt Nam vẫn còn là đề tài bò ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
• • • •
- Mục đích cùa luận vãn là mô tả và nhận định diện mạo tư tưởng Nho
• • • • • • ữ
giáo trong thế kì XV - thế kỉ vẫn được coi là giai đoạn hoàng kim cùa Nho
giáo Việt Nam - thông qua phân tích những nội dung Nho giáo trong luật
pháp. Tại đây, chúng tôi lựa chọn một bộ luật mans tính chất pháp điển cho
toàn bộ tiến trình lịch sử pháp luật Việt Nam là Quốc triều hình luật. Một bộ
luật tiêu biểu cho lịch sử lập pháp lại được sinh ra trong một thời đoạn Nho

giáo cũng ờ đỉnh cao đã sinh ra một giả thuyết là: Nho giáo thế ki XV đã tác
động rõ nét đến pháp luật Việt Nam, và ngược lại, thôno qua phân tích các
điều luật cụ thể (trong Quốc triều hình luật) chúng ta có thể hình dung đưọc
khá chính xác về sự thịnh trị của Nho giáo trong thế kỉ này. Công việc của
luận văn phải làm là chứng minh cho tính chân thực cùa giả thuyết đó.
- Đê thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn phải lí giải
được: thứ nhất, chi ra nhừna nhàn tô kinh tế xã hội đã làm sản sinh ra bộ Ouổc
triều hình luật', thứ hai, mô tà những nội duns tư tưởns, Nho giáo trona Ouôc
triều hình luật bằng các phân tích định lượng; thứ ba, nêu những đặc điểm của
3
tư tường Nho giáo trong Oitốc triều hình luật, từ đó ơỏp phần khái quát lẻn
diện mạo tư tưởng Nho giáo trons thế kì XV.
4. Phưong pháp nghiên cứu
- Luận ván sử dụng phương pháp logic-lịch sử của CNDVBC, thôno qua
các sự kiện lịch sử để rút ra logic vận độna nội tại của các sự kiện kinh tế xã
hội, từ đó vận dụng logic này vào phân tích sự chuyển biến cùa các loại hình
tư tườna, đặc biệt là sự lèn ngôi của Nho £Ĩáo vào thế kì XV.
- Luận văn quán triệt quan điểm về hình thái ý thức xã hội là sự phản ánh
tồn tại xã hội của CNDVLS vào việc nhìn nhận, đánh giá luật pháp và tư
tưởng Nho giáo thế kỉ XV.
- Nsoài ra, phươno pháp được dùng phổ biến nhất trong luận văn là
phương pháp định lượng kết hợp với mô tà và đối chiếu so sánh, phân tích và
tổng hợp, những thao tác cụ thể để có thể khắc hoạ được xác thực các nội
dung Nho giáo thể hiện thông qua các điều luật.
5. Cái mói của luận văn
Do là một bộ luật tiêu biểu cho lịch sử lập pháp phono kiến Việt Nam,
Quốc triều hình luật đã tốn không ít công phu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, đặc biệt là nghiên cứu pháp luật. Bộ luật đã được mô xẻ chi tiêt
dưới các sóc độ của khoa học pháp lí: kĩ thuật lập pháp, các chê tài và khung
hình phạt, mức độ bao quát đời sốnơ xã hội xét trên quan điểm lập pháp hiện

đại (Dân sự, Hình sự, Đất đai, Kinh tế, ) để rút ra những kết luận về thành
tựu lập pháp cùa Việt Nam trong thế kì XV. Hướníĩ đi của luận văn thì lại coi
Quốc triều hình luật như một đổi tượnơ phản ánh chính xác cho tư tưỏng - cụ
thể ở đây là tư tường Nho giáo - trong thế kỉ XV. Đứng trên góc độ đó, chúng
tôi đã tiếp cận bộ luật bans bộ côns cụ của khoa học về tư tường chứ không
4
phải khoa học pháp lí, dù dươim nhiên có vận dụng nhừna kẻt luận nghiên cứu
của khoa học pháp lí đôi với bộ luật như nhữno nâc thana cho việc thực hiện
các bước nghiên cứu tư tưởng cùa mình. Các kẻt luận được rút ra qua quá
trình phân tích đó cùns hoàn toàn hướng tới mục đích làm sáng rõ diện mạo tư
tường; Nho giáo thẻ kì XV. Đâv là điêu mà chưa có một cônơ trình nahiên cứu
nào về Bộ luật Hông Đức thực hiện.
Ngoài ra, nghiên cửu tư tường qua pháp luật nói chung, và nghiên cứu tư
tirờng Nho oiáo qua Oitôc triều hình luật nói riêng một cách chuyẻn sâu cùng
ỉà hướng đi còn ít thây, chúng tôi hi vọng có thẻ góp chút ít công sức cho
khuynh hướng nahiên cứu tư tường thông qua các đối tượna liên ngành.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Hoàn cảnh kinh tế xã hội cho sự ra đời của Quốc triều hình
luật
Chirơno II: N hững nội (lung tư tưởng Nho giáo trong Quốc triều hinh
luật
Chương III: Đặc điếm nội dung tư tưởng Nho giáo trong Quốc triều
hình luât
5
CHUONG1
HOÀN CẢNH KINH TÉ XÃ HỘI CHO sụ RA ĐỜI
QUÔC TRIẺU H ÌNH L UẬ T
1.1. Những nhân tố kinh tế xã hội giai đoạn trước Lê so-
1.1.1 Nhà Tiền Lê

Với chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch đàng năm 938, đất
nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng va phát triển liên
tục cùa các vương triều phong kiến độc lập dân tộc. Tuy nhiên, dưới ngọn cò’
lãnh đạo cùa giai cáp phong kiên dàn tộc, chiến thắng của nhân dân ta mới chì
là chiến thăng quân sự, được bat nguồn từ ý chí quật cường, khát khao siành
độc lập dân tộc. Giai cấp phong kiến người Việt bat tay vào xây dựns, nhà
nước phong kiến độc lập dân tộc trên cở sở của một kết cấu kinh tế - xã hội
còn non yếu và rời rạc. Cơ sở hạ tầng xã hội còn nhiều hạn chế để có thể đóng
vai trò là bệ đỡ vật chất cho thượng tầng kiến trúc của một nhà nước phong
kiến truna, ương tập quyền đủ mạnh.
Xem xét từ mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc
trong một chình thể hình thái kinh tế - xã hội, có thể nói rằng, lịch sử của các
triều đại Ngô (939 - 967), Đinh (968 - 980), Lê sơ (980 - 1009) là lịch sử đấu
tranh cùa hai xu hướng đối iập: phân cắt và thống nhất, li tâm phân quyên và
hướng tâm tập quyền về chính trị. Hệ quả tất yếu của quá trình lịch sử đó là
từng bước hình thành ngày càng rõ ràng quan hệ kinh tế địa chủ - tiểu nông,
bệ đỡ kinh tế - giai cấp đích thực cùa thượng tầna kiến trúc phong kiên, cùa
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền dân tộc.
Sừ cũ chép lại, sau chiến thắng sônơ Bạch Đằng, năm 939 Ngô Quyên
xưng vương đóns đô ở cổ Loa “thừa quốc thống” (ý nói kế tục sự nghiệp của
Hùnơ vương và An Dương vươna), nhưng nền thông nhất của quôc gia - dân
tộc vẫn luôn bị đe doạ bởi âm mưu cát cứ của các thế lực quân sự địa phương.
6
Ngay sau khi ông mât (944), đàt nước rơi và cảnh nội chiến liên miên giữa các
“vương” (Dương Binh virơnu - Dươno Tam Kha, N«ô Nam Tấn vuơns - Noô
Xương Văn, Ngô Thiên Sách vương - Nơỏ Xương Ngập), mà thực chất là sự
thôn tính lần nhau giữa các thế lực quý tộc địa chủ - quân sự ờ các khu vực
trọng yếu cùa đất nước. Kết quả khách quan của thời kỳ “loạn mười hai sử
quân” là đã hinh thành nên mười hai thế lực đại địa chủ - quân sự chiếm cứ
mười hai vùng kinh tế phì nhiêu của châu thổ sông Hồne, sông Mã, trài rộng

từ Thanh Hoá đèn Băc Giang. Trong các vùng kiểm soát của các sứ quân, đã
manh nha hình thành kiểu quan hệ kinh tế phong kiến đặc trưng là quan hệ địa
chủ - tá điên, dù chấc chan nó chưa đạt được như kiểu quan hệ kinh tế trong
các lãnh địa của các lãnh chúa phong kiến châu Âu.
Bằng sức mạnh quân sự, năm 970, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp được loạn
mười hai sứ quân, chẩm dứt được cục diện cát cứ, thống nhất đất nước. Dưới
hai triều đại Đinh (968 - 980) và Tiền Lê (980 - 1009), dù đều xưng đế hiệu,
cho xây cung điện, mời Hồng Hiến là người Hán làm quốc sư với ý định thiết
kế xây dựng mô hình nhà nước phong kiến phòng theo nhà Tống cùa Trung
quốc nhưng tài liệu lịch sử cho thấy, trên thực tế, cả hai triều đại vẫn chủ
yếu dựa vào bạo lực quân sự để duy trì sự ĩhống nhất quốc gia, điều hành đất
nước, nguy cơ cát cứ, đổ vỡ nền thống nhất đất nước vẫn đang tiềm ẩn. Đinh
Tiên Hoàng cho đặt vạc dầu, cũi hổ ở giữa triều đình để hù doạ và trừng phạt
những kẻ chổng đối, dùng quan hệ hôn nhân và quan tước để ràng buộc mua
chuộc các sứ quân về hàng và các hào trườno địa phươna Đó là phong cách
hành xử của một thủ lĩnh quân sự hơn là của một vị hoàns đê, của một thê chê
phong kiến thuần thục. Dưới triều Tiền Lê, xu hướng tập quyên hoá được tăng
cường thêm một bước. Sau khi hoàn thành thang lợi vẻ vang cuộc kháns chiên
bảo vệ tổ quốc và cuộc chiên tranh mở rộn2 biên giới phía nam (phạt Tôns
bình Chiêm), Lê Hoàn thực hiện một loạt các chính sách kinh tế, hành chính
7
và quân sự nhăm củng cô khôi thổn" nhất quốc gia - dàn tôc và tăno cườnơ
quyên lực, sự ảnh hưởng của nhà nước trung ương với các đia phươno. Như
cho xây dựng cung điện ở kinh dô Hoa Lư với quy mô lớn, đúc tiền riêng hiệu
Thiên Phúc, đặt chức Thái sư đê mưu bàn quốc chính, đật chức Tổng quản để
nắm giữ dân chính và quân chính, đặt chức Thái uý để chì huy quân đội. Năm
1002, Lê Hoàn sứa lại các khu vực hành chính trong cả nước, đổi thập đạo
dưới thời Đinh làm lộ, phủ, châu, về kinh tế, ông đặc biệt chú ý đến các công
trình nạo vét kênh ngòi, đào đắp các hệ thống mới, tạo thành một hệ thống
tưới tiêu và giao thông liên hoàn giừa các vùng trong cà nước. Sử sách ghi

chép: năm 938 đào con kênh từ vùng Đồng cổ (Yên Định) đến sông Bà Hoà
(Tĩnh Gia, Thanh Hoá), năm 1003 vét vét kênh Đa Cái và nối kênh sắt với
sông Lam (Nghệ An, Hà Tĩnh), năm 1009 đào sông ờ châu Di (Thanh Hoá) và
vét sông Đuống thông với sông Thái Bình Ket quả của những công trình
thuỷ lợi này, một mặt có tác dụng thuv lợi tưới tiêu nâng cao năng suất kinh tế
nôno nghiệp, mặt khác cũng mở mang giao thông đường thuỷ phục vụ đắc lực
cho mục đích quân sự hành chính, về binh chế, năm 988 Lê Hoàn đặt ngạch
thân binh, biên chế lại quân thường trực cùa trung ương, tăng cường kiểm soát
và khống chế đối với các thế lực ở biên giới. Cùng năm ấy Lê Hoàn bẳt đầu
định pháp lệnh.
Thành tựu của những chính sách thiết thực và tích cực trên đây đã tạo
nên sức mạnh toàn diện của đât nước, đủ sức đối phó với kẻ thù xâm lược bên
ngoài cũng như nhiều mối uy hiếp của các thế lực cát cứ trong nước, đảm bảo
nền độc lập dân tộc và thong nhất đất nước. Chính nhờ có thực lực vê kinh tê
và quân sự, năm 996, do có vài vụ rấc rối xảy ra vùng giáp trấn Như Hông
(thuộc Quảng Đôno, Trung Quốc) mà vua tôi Tống ngờ do nhà Tiền Lê eây ra,
sai sứ giả sang cật vấn, vua Lê Đại Hành đã trả lời thẳng: “Việc cướp trấn
Như Hồng là do bọn giặc biên ơ cõi ngoài, Hoàno đê có biêt đó không phải là
8
quân cùa Giao Châu không? Nếu Giao Chàu có làm phản thi đầu tiên đánh
vào Phiên Ngung, rồi đánh lèn Mân Việt, há chỉ có trấn Như Hồnc mà thôi
ir?” [50,72],
Xu hướng trung ương tập quyền ngày càng thắng thế, hệ quả tất yếu dẫn
tới là chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất từng bước được xác lập, tuy nhiên
nó vần phải nhân nhượng nhìrng yếu tố phân tán, bao dung những hiện tượng
tự trị do lịch sử đê lại. Đó là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phân phong
không triệt để ở Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, như chế độ thực phong
thực ấp dưới triều Lý hoặc điền trang thái ấp dưới thời Trần. Cơ cấu xã hội
dưới triều Tiền Lê, trên nhừno nét lớn gồm ba tầng lớp xã hội:
1, Tầng lớp thống trị, bao gồm quý tộc, quan lại và các “thổ tù”, “hào

trưởng”, “lệnh tộc”
2, Tầng lớp nông dân công xã, trong đó bao gồm cả một số thợ thủ
côno, người buôn bán nhỏ chưa hoàn toàn tách ra khỏi nông nghiệp. Đây là
lực lượng đông đảo nhất, là lực lượng sản xuất chủ yếu cùa xã hội.
3, Tầne lớp nô tỳ, chủ yếu là phục dịch trong eia đình (thực chất là chế
độ "nô lệ oia đình" khá phô biên ở Phương Đông) và không có vị trí đáng kê
trong sản xuất.
Hiện nay chúng ta chưa có đủ tài liệu để có thể khẳng định chắc chắn
trong tầng lớp thống trị lúc ấy đã có những chủ sở hữu ruộng đât lớn và thực
hiện bóc lột theo quan hệ sản xuât phong kiến hay chưa. Nêu ta hiêu địa tô,
theo định nghĩa của c. Mác, là "sự thực hiện về mặt kinh tế quyền sở hữu
ruộng đất" thì rõ ràng ở giai đoạn cuối Đinh đầu Lê quyền sở hữu ruộng đât
của nhà nước còn rất mờ nhạt. Việc phân phong ruộng đất cho các quý tộc
quan lại, những người có công hay nhữnơ thổ hào, chỉ thuần túy là việc tái
thừa nhận quyền sờ hữu vôn có của họ, hoặc xác lập quyên sỏ' hữu trên danh
nghĩa cùa nhà nước. Tât nhiên, cùng với xu hướng phát triẽn tât yêu của chê
9
độ trung ương tập quyền, chè độ sờ hữu nhà nước về ruộng đất cũng từn«
bước được khăng định và nâns cao ờ các vươna triều Lý - Trần sau nàv.
Xét vê cơ sở kinh tẻ xã hội, nhà nước tập quyền lúc bấy giờ được xây
dựng trên nên tàng công xã nông thôn, một hình thái cộng cư được hình thành
trên cơ sở sự tan rã của công xã nguyên thủy, đã tồn tại khá bền vững lâu dài
trong các nước thuộc phạm trù "phương thức sản xuất châu Á". Nông dân
công xã là lực lượng sản xuất chù yếu của xã hội, đồng thời mỗi công xã là
một đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp tô thuế, cấp phu dịch và binh lính cho nhà
nước. Tuyệt đại đa sô ruộng đàt trong toàn quốc thuộc quvền sờ hữu cùa công
xã. Nhà nước thu tô thuế không phải dựa trên cơ sờ diện tích và loại ruộng đất
mà là thu bình quân theo các công xã. Như vậy, nhà nước thu tô thuế như một
sự nhận "công nạp" (C. Mác) chứ không phải là với tư cách của chủ sờ hữu
ruộng đất thực hiện thu địa tô của tá điền theo ý nghĩa đầy đủ của nó. Tình

trạng trên đây là nguyên nhân quan trọng làm mờ nhạt vai trò chủ sở hữu về
ruộng đất của nhà nước (cũng có nghĩa là làm suy yếu nhà nước truns ương
tập quyền), đồng thời nó cũng hạn chế quá trình tư hữu hóa ruộng đất để hình
thành quan hệ kinh tế địa chủ - tiểu nônơ, cơ sờ kinh tế xã hội đích thực của
chế độ phong kiến hoàn chinh.
Kết quả khách quan của những biến động chính trị đã tạo nên những
chuyển bển tích cực của kết cấu kinh tế xã hội. Tài năng và uy tín của Lẽ Đại
Hành đã không giúp ông vừno vàng trong ngôi vị hoàng đế điều hành nhà
nước trung ương tập quyền mới được xây dựng, nguy cơ trồi dậy của các thế
lực cát cứ ngày càng rõ nét. Ngay sau khi ông chết (1005) các con liên nôi dậy
tranh giành ngôi vua, chém giết lẫn nhau, cát cứ từng vùng, khiên đât nước
lâm vào tình trạng như "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi "trong nước không có ai
là chủ". Từ năm 991, Lê Đại Hành đã thi hành chế độ phân phong cho các
con, mười hai người con cùa ỏng (trừ Lons Thâu, Ngân Tích và Lonơ Việt
10
iược phong đát ờ Kinh đô) đều được chia trị các châu quận từ Thanh Hóa đến
Băc Giano, Hải Phòno, trên thực tế đã hình thành các thế lực kinh tế - quân sự
iộc lập. Nêu như mười hai khu vực dưới thời loạn sử quân chi là sự cát cứ
•chông chính thức của các sứ quân và do vậy nó không ổn định, thì mười hai
vùng đât được phân phong xuất phát từ chế độ phản phong chính thức của nhà
vua lại ốn định hơn nhiều. Trên danh nshĩa, chế độ phân phong thời Tiền Lẻ
vhông gẳn liền với chế độ ban cấp ruộns đất hay thái ấp như thời đại Lý -
Trần sau này, người được phong chỉ thay mặt vua trấn trị một vùng và được
:hu sản phẩm thặng dư cùa một số hương ấp theo quy định của nhà vua. Tuy
nhiên trên thực tê, khi chính quyên trung ương suy vêu không kiêm soát nôi,
Igười được phân phong thực sự là nhừns địa chủ - lãnh chúa cùa vùng đất
dược phong, thực hiện nghĩa vụ nộp tô thuế với nhà nước dưới hình thức cống
nạp. Với tư cách là chủ sở hữu ruộng đất cùa một vùng, họ từng bước can
ihiệp sâu vào nội bộ công xã nông thôn truyền thống, mà trước hết là vào hình
ihức sờ hữu ruộng đất của công xã, biến công hữu thành tư hữu Cho đến

cuối thế kỷ thứ X, đầu thế kỷ thứ XI, trong đời sống kinh tế xã hội đã xuất
hiện khá đông đào tầng lớp địa chủ với những hình thức và mức độ sở hừu tư
nhân về ruộng đất khác nhau, và hình thức kinh doanh bóc lột theo kiểu phong
Liến cũng ngày càng được khẳng định, trờ thành xu thế tất yếu và phổ biến.
Dó cũng là những tiền đề kinh tế, xã hội quan trọng đặt ra với các triêu đại Lý,
"'rần ờ các thế kỷ tiếp theo.
1.1.2 Nhà Lý
Tháng 10 năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủnơ hộ của quân đội
'à tầng lớp quan lại, tăng lữ cao cấp trong triều đình Tiên Lê, Lý Công Uân
lìn noôi vua, lập ra triều LÝ (1010 - 1225). Lý Công uẩn lên ngôi vua xuất
phát từ hai yêu cầu lớn do lịch sử đặt ra mà triều đại trước đó không đáp ứng
cược: về đối nội, phài có những chính sách thích hợp mờ đường cho lực lượng
sàn xuất mới phát triển, tăng cường sức mạnh kinh tê - quân sự, dạp tat
1 1
xu hướng cát cứ, cùng cô khôi thông nhât quòc gia - dân tộc; vê đôi ngoại, sần
sàng tâm thê đập tan âm mưu liên minh giữa nhà Tống ở phía bắc với Chăm -
pa ờ phía nam nhăm xâm lược nước ta.
Với nhãn quan chính trị sâu rộng, có tầm nhìn địa kinh tế - văn hóa
chiến lược, ngay sau khi lcn ngôi vua, Lý Công uẩn và Vạn Hạnh đã chọn
thành cũ Đại La làm nơi định đô, đặt tèn là Thăng Long, khẳng định là nơi
trung tàm của đất nước, là đế đô của muôn đời. Cùng với việc dời đô, công
việc đầu tiên cùa vương triều Lý là khẳc phục những yếu kém do nhà Tiền Lê
đẽ lại, thông qua những chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự, naoại giao và
văn hóa giáo dục, xây dựng và củng cô nhà nước phong kiến trung ươns tập
quyền độc lập dân tộc.
về chính trị, ngay sau khi ífời đô, Lý Thái Tổ đã cho xây dựns kinh
thành Thăng Long kiên cổ vững chắc, quy mô bề thế, một hệ thống cung điện
nguy nga tráng lệ với những chùa tháp đồ sộ, qua đó khẳng định uy tín và sức
mạnh của vương triều. Lý Thái Tổ rất có ý thức trong việc cải tổ bộ máy hành
chính nhà nước của triều Tiền Lê trước đây theo xu hướng dân sự hóa. Năm

1010, chỉ mấy tháng sau khi lên ngôi, ông đã cho đổi mười đạo của thời Tiền
Lê (còn mang nặng ý nghĩa quân sự) thành hai mươi tư lộ trực thuộc trung
ương. Đơn vị hành chính dưới lộ là phù (miền núi là châu), hương giáp và
thôn (đơn vị hành chính cơ sở ờ kinh đô là phường, Thăng long thời Lý có sáu
mươi mốt phường). Cùng với việc thay đổi các đơn vị hành chính, Lý Thái Tô
tiến hành kiện toàn bộ máy nhà nước, bổ sung nhừna, cơ quan, chức danh mới
từ trung ương đến địa phươna, để điều hành đất nước.
về kinh tế, sự bạc nhược bất lực của chính quyền trung ương thời
Tiền Lè khiến cho các thê lực cát cứ nổi dậy, xét trên phươnơ diện kêt câu
kinh tế - xã hội, đã thúc đẩy quá trình phone kiến hóa được nhanh hơn. Đê xây
dựno và củng cố cơ sở của nhà nước phong kiên tập quyên vừng mạnh, việc
12
đâu tiên là cân phải khăng định trên thực tê quyên sờ hữu tỏi cao cùa nhà vua
đôi với ruộng đất trong cả nước thôns qua chế độ tô thuế. Năm 1011, chỉ một
năm sau khi định đô, Lý Thái Tổ hạ lệnh "xá thuế cho thiên hạ ba năm, nhữno
người mô cỏi, góa chông, già yêu thiêu thuê đã làu đêu tha cho cả". Năm
1013, ông cho định lại chê độ tô thuế trong cả nước, theo đó, thuế (quy ra tiền
hoặc thóc) được thu trẽn cơ sở tính toán theo diện tích canh tác, kể cả các bãi
:rôíig dâu và dO đâm. Trên nét lớn, ruộng đất thời Lý bao gồm hai bộ phận là
'uộng đát cônơ (ruộng cỏng của nhà nước và ruộng công của làng xã) và
ruộng đât tư (ruộng tư cùa địa chủ, ruộna tư của nôns dân và ruộng nhà chùa),
ở đây, để tập trung vào nghiên cứu xu hướng phong kiến hóa từ cơ sở kinh tế
- xã hội, chúng tôi chi chủ yếu phân tích những vấn đề xung quanh bộ phận
'uộns đât công của làng xã và ruộns tư của địa chủ, ruộng tư của nông dân.
Chế độ công hữu làng xã về ruộng đất xuất hiện rất sớm từ thời dựng
iước trên cơ sở tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Công xã nông thôn
chiềng, chạ, làng, mường ) là đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự - văn hóa
loàn chỉnh, dựa trên cơ sở vật chất cơ bản là ruộng công làng xã. Trải qua hơn
VìC&yẨA^ l ,
một írăsMiăm Băc thuộc, làng xã vân là những đơn vị tự quản - tự trị, kẻ thù

.chông thể vươn sâu vào nội bộ làng xã người Việt. Buổi đầu của chế độ phono
đến dân tộc, vị thế độc lập của công xã khá rõ nét, nhà nước thu tô thuế thực
liên quyền sờ hữu ruộng đất của mình một cách gián tiếp thông qua công xã.
Mhân nhà nước trung ươns suy yếu, cuối thời Tiền Lê, các lãnh chúa phân
Dhong đã lạm quyền can thiệp vào nội bộ làng xã, tạo nên những biên đôi tích
;ực tronơ cơ cấu kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đây chì là kết quả của một việc
àm vô thức. Từ thời Lý trở đi, trên đà phát triển, hoàn thiện thê chê phong
đán truns; ươns tập quvền, các virơna triều đều làm có V thức và thực thi
những chính sách cụ thẻ nhăm can thiệp sâu vào nội bộ cơ câu làns xã. Tài
iệu lịch sử cho biết, nhà Lý tuv đã coi làng xã là đơn vị cấp CO’ sờ trong hệ
13
thông hành chính, nhưng trẽn thực tê vẫn tôn trọng chế độ sở hữu công về
ruộng đàt của làrm xã, tât cả nhân đinh trong cộng đỏns đèu được chia ruộna
công, chia như thè nào là do làng xã quyêt định theo tập tục, nhà nước khôns
can thiệp.
Thê hiện rõ rệt nhất sự can thiệp, khăng định quyền sò' hìru của nhà
nước đôi với bộ phận ruộng đất công làns xã là hiện tượng nhà nước dùng
ruộng đât công bao câp cho họ hàrm nhà vua hoặc các công thần hoặc nhà
chùa xảy ra khá phổ biến dưới triều Lý. Chẳng hạn, Lê Phụng Hiểu có côna
đánh Chiêm Thành, vua Lý Thái Tô sai lấy hon 1000 mẫu ruộng công cấp
cho, cả một vùna Băng Sơn (Hoang Hoá, Thanh Hoá) trở thành ruộng tư của
ông, nhà Lý đã lấy 1371 mầu 2 sào ruộng cấp cho chùa Thần Quang (Vũ Thư,
Thái Bình) Bộ phận ruộng đất tư hữu dưới thời Lý phát triển mạnh còn do
một mặt nhà nước có những chính sách khuyến khích nhân dân khai hoang
khẩn hoá lập làns, mặt khác đánh thuế rất thấp đổi với ruộng tư. Chính do
ruộng tư đã trở thành một bộ phận ruộng đất quan trọng cho nên nhà nước đă
phải ban hành hàns loạt điều luật về mua bán, cầm cố, tranh chấp, ruộng tư.
Bộ phận ngày càng đông tầng lớp địa chủ, củng, cố quan hệ kinh tế phong
kiến. Chẳng hạn, dưới thời Lý Nhân Tông, Đại tư đồ Đồ Thế Điện nhà giầu,
cho chùa rất nhiều ruộng, bia chùa Báo Ân ghi một người họ Nguyền bỏ tiền

mua 126 mẫu ruộng cúng cho chùa.
Như trên đã nói, nhà Lý thay nhà Tiền Lê xuất phát từ yêu cầu bức thiết
trước sự tồn von£ của đất nước đặt ra. Bẳt tay vào xây dựng nhà nước tập
quyền, các vua đầu triều Lý đứng trước sự lựa chọn mô hình: hoặc theo mô
hình nhà nước theo thê chế quân chủ Phật giáo như một sô nước Đông Nam A
đươnti thời, hoặc theo mô hình quân chủ Nho giáo sằn có của nhà Tôns. Hệ tư
tưởns, Phật giáo vốn đã được truyên bá, ăn sâu và có ảnh hưởng lớn lao trong
mọi mặt của đời sổng tinh thân dàn tộc, tuy nhiên, xét vê hệ tư tirờne chính trị,
14
thê chê quân chù Phật giáo là một thê chế lòng lẻo, không đáp ứng được yêu
câu xây dựng củng cố nhà nước trung ương tập quyền đù mạnh, một vêu cầu
bức thiết đặt ra lúc bấy giờ. Nhân dân ta vừa thoát khỏi 1000 năm dưới ách
thông trị cùa hệ tư tưởng - thể chế quân chù Nho siáo, nẻn từ trong tâm thức
không dề dàng chấp nhận mô hình này, dù đó là sản phẩm tinh thần của một
xã hội đă phát triển cao, có đầy đủ những yếu tố đảm bảo thiết kế xây dựng và
củng cổ nhà nước tập quyền phong kiến. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của lịch
sử đặt ra, các vua đầu triều Lý đà lựa chọn mò hình thứ ba: xây dựng nhà nước
phong kiên trung ương tập quyền dàn tộc trên nền tảng dung thông hệ tư
tưởng tam 2 Ĩáo Nho Phật Lão, trong đó mồi hệ tư tưởng tôn giáo có một chức
năng riêns (dĩ Phật trị tâm, dĩ Đạo trị thân, dĩ Nho trị thế, tức là, dùng Phật
giáo để bồi dưỡng điều chỉnh cái tâm, dùng Đạo giáo rèn luyện bồi dường
thân thể điều hoà lối sống cá nhân, dùng Nho giáo trong công việc quản lí xã
hội quản lí điều hành đất nước).
Mô hình sáng tạo này đã đóng vai trò quyết định tạo nên sức mạnh toàn
diện của hai triêu đại Lý Trần, giúp quân dân Đại Việt giành được những
thắng lợi oanh liệt trong sự nghiệp đấu tranh bảo về nền độc lập dân tộc, đông
thời nó cũn2 là trụ cột tinh thần, nền tảng văn hoá của nền văn minh Đại Việt
huy hoàng. Tuy nhiên, xét từ xu hướng phong kiến hoá (một xu hướng tiến bộ
tất yếu của lịch sử lúc bấy giờ), thể chế nhà nước quân chủ tập quyền được
xây dựng trên cơ sở của hệ tư tưởng dung thông Tam giáo, trên thực tê đã

khiến cho quá trình phân hoá xã hội, quá trình phona kiên hoá diễn ra chậm
chạp và không triệt để. Tư tưởng từ bi, bình đẳng, bác ái của Phật giáo có tác
dụng tích cực rút ngắn khoảnơ cách giữa các giai tầng trong xã hội, củng cô
khối thốne nhất cộng done dân tộc nhưng nó cũng là nhân tô đáng kê hạn
chế quá trinh siải thè công xã nông thôn, phân hoá về hai cực địa chủ và nông
dân, tạo ra cơ sờ đích thực cùa một chê độ phono kiên thuân thục.
15
Cùng với quá trinh xây dựng củng cô nhà nước tập quyên, năm 1042 Lý
Thái Tông cho biên soạn bộ Hình thư và “từ dày phép xử án được bàng thẳna,
rõ ràng" theo luật lệ, thay cho biện pháp đề cao quyền uy bàng hình phạt tàn
khôc theo cách hành xử cùa thủ lĩnh quân sụ của các triều đại Đinh và Tiền
Lê. Mặc dù tư tưởng luật pháp và thiết chế chính trị của bộ máy nhà nước
quân chủ tập quyền là nhằm bảo vệ quân quvền tuyệt đối nhưng tư tường Phật
giáo cũng có ảnh hưởng rõ nét đối với tư tườns luật pháp thời Lý. Lí do ban
hành bộ Hình thư không phải xuất phái từ yêu cầu trực ũếp cùa việc bảo vệ
quân quyên, bảo vệ quyên lợi của giai cấp địa chù phong kiến, tầng lớp quý
tộc nhằm củng cô nhà nước quân chù tập quyền mà là xuất phát từ lòng
thương xót của nhà vua đối với những người dân phải chịu án oan sai hà khắc
trước kia. Tinh thần “khoan e,iản” thường được sử cũ nhắc tới trong các điều
luật của Hình thư thể hiện rõ ảnh hườne của tư tường Phật giáo. Lý Thánh
Tông (1054-1072) là vị vua anh hùng có tài trị nước an dân theo tư tưởng Nho
giáo, được đánh giá là “vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc có danh ngang
với một nước Thiên tử” [28,50]. ông là người rất tôn sùng đạo Phật, là tổ thứ
sáu của Thiền phái Thảo Đường ờ nước ta, đồng thời cũng là người cho xây
dựng Văn Miếu (1070) thờ Chu Công, Khổng Tử
Như vậy, những chính sách kinh tế, xã hội của nhà Lý đã có tác dụng
tích cực mở đường cho lực lượng sản xuất xã hội phát triên, thúc đây nhanh
quá trình phân hoá xã hội, hình thành tầng lớp địa chủ và nông dân tư hừu (hai
bộ phận chủ yếu của chế độ phong kiến), cũng có nơhìa là đẩy nhanh quá trình
phong kiến hoá. Tuy nhiên, sự tác độna của yếu tố chính trị đã quy định

khuynh hướng phát triển, quy mô và tính chất của kiến trúc thượng tầng xã
hội, đà hạn chế quá trình đó.
Từ thế ki XIII nhà Lý băt đâu suy vona, nhà nước tập quyên suy yêu,
nội chiến giữa các thế lực quân sự nô ra khắp nơi. Trong bối cảnh đó, thê lực
16
/. 1.3 Nhà Trần - Hồ
Từ thẻ kỉ XIII nhà Lý bẳt đầu suy vona, nhà nước tập quyên suy yêu,
nội chiên giữa các thê lực quàn sự nổ ra khap nơi. Trons bôi cảnh đó, thê lực
quân sự cùa họ Tràn vùng duyên hải Nam Định dựa vào quan hệ hôn nhân với
hoàno tộc dân dân lớn mạnh, nam giữ những vị trí quan trọng trong triêu đình.
Năm 1225, thôns qua hôn nhân, Trần Cảnh lẻn ngôi, lập ra nhà Trần (1225 -
Nhà Trân là triêu đại lập được võ cônơ hiên hách nhất trong lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam. Từ nứa cuối thế ki XII, bộ tộc du mục Tác-ta đã trở
thành một đế quốc phong kiến hùng mạnh. Vó ngựa của quân Nguyên Mông
tung hoành khắp lục địa Á Âu. Phía Tây quân Nguyên Mông đã vượt qua sông
Vonga đe doạ nước Ý, phía đông cả một lục địa Trung Hoa rộng lớn với đế
chế Tống một thời vàng son cường thịnh đã phải nhẫn nhục khuất phục dưới
lưỡi gươm yên nsựa của quân Mông cổ. Nước Đại Việt là mục tiêu cuối cùng
của đế chế ấy để làm bàn đạp tấn công các nước Đông Nam Á. Vương triều
Trần và quân dân Đại Việt đứng trước thử thách cực kì khốc liệt. Chiến tranh
là một thử thách toàn diện, do vậy có thể dễ nhận thấy mọi hoạt động từ kinh
tế đến hành chính, quân sự, ngoại giao, văn hoá tư tưởng dưới thời Trần đều
nhằm tăng cirờns khối thống nhất quốc RÌa, sức mạnh toàn diện của đất nước
để vượt qua được thử thách của chiến tranh vệ quôc.
Trước hết về chính trị, ngay sau khi lên ngôi, nhà Trần chủ trương xây
dựng mô hình nhà nước theo thể chế quân chủ quan liêu quỷ tộc đòng tộc có
tính tập quyền cao độ. Các quý tộc Trần luôn luôn có ý thức ràng quốc gia xã
tẳc này là của chung quý tộc Trần, mọi nsirời đều phải có trách nhiệm cùng
nhau bào vệ và thự hưởno. Kết thúc cuộc kháng chiến chổng Nguyên Mông
lần thử hai, xúc cảm khi nhìn thấy phần mộ tổ tiên ở Thiên Trường bị quân

ẹiặc tàn phá, trơ cả ngựa đá, Trân Thái Tôns viêt:
1400).
Xã tăc lưỡng hôi lao thạdi mã
Sơn hà thiên cổ điện 1-
17
i
(Xã tắc hai phen chôn ngựa đá
Non sông muôn thườ vừng âu vàng)
Xã tăc được eăn liền với tò tiên. Tổ tiên thịnh suy cùno xã tấc. Trong
thời chiên cũng như thời bình, hầu hết nhìrne vị trí quan trọng trong triều đình
và những vùng trọng yếu của đất nước đều do các quý tộc Trần nấm giữ.
Trước một kè địch có sức mạnh gap bội, vua tôi nhà Trần đã chủ động
xây dựng và tiến hành cuộc chiên tranh toàn dân, dựa trên ý chí quyết chiến
quvêt thăns của toàn thê quân dàn Bại Việt, mà nòng cốt là tầng iớp quý tộc
Trần. Cơ sờ vật chất đảm bảo cho thang iợi cùa đương lối chiến tranh nhân
dân dưới thời Trần là chế độ kinh tè điền trang, thái ấp.
Đê khăc phục hậu quà của cục diện nội chiên liên miên, khiến lực lượng
sản xuất bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế nông nghiệp sa sút nghiêm trọng cuối
thời Lý, nhà Trần chủ trương khuyến khích khỏi phục, phát triển nôns nghiệp.
Bằng nhữns chính sách ưu đãi về tô thuế, nhà nước ưu tiên khuyến khích quý
tộc Trần tập hợp nông dân lưu tán khai hoang phục hoá lập những điền trang
rộng lớn. Hầu hết những vùng đất xung yếu của đất nước đều được cắt phân
phong cho quý tộc Trần làm thái ấp, chẳng hạn như toàn bộ vùng duyên hải
phía bắc từ Kinh Môn (Hải Dương) đến Đông Triều, cẩm Phả (Quảng Ninh)
là thái ấp của An sinh vương Trần Liều. Điền trano, thái ấp là cơ sở kinh tế,
quân sự vừng mạnh, tin cậy của nhà nước, đảm bào sự phân tán lực lượng chù
lực đồng thời cơ động linh hoạt khi cần có sự tập trung vào những trận quyêt
chiến chiến lược, giải quyết chiến tranh.
Đẻ xây dựng cơ sở của cuộc chiến tranh toàn dàn, nhà Trân đặc biệt chú
V đến làng xã. Năm Nhâm Dần (1^42), Trần Thái Tông chia cả nước làm 12

lộ, mồi lộ đặt quan cai trị gọi là An phù sứ, dưới lộ là các tư xã, xã nhò là Tiêu
tư xã, xã lớn là Đại tư xã, nsười đứn« đâu là xã quan do nhà nước trực tiêp bô
nhiệm. Nhà Trần quy định, mồi năm vào mùa xuân xã quan phải kê khai đây
đủ sổ hộ khẩu hộ tịch của xã minh và sô tnrớnu tịch, báo cáo đây đủ đẽ nhà
18
nước có thẻ thườns xuyên nấm chắc được số dàn đinh trong cả nước. Trước
mát phục vụ quôc phòng. Ngoài nhĩrniĩ làno xã trona các điền trana thái ấp do
quý tộc Trân trực tiêp quản lí, mồi làng xã là một đơn vị kinh tê quân sự, vừa
sản xuât vừa chiên đâu, khi giặc đến phải thực hiện vườn khôns nhà trống
đánh du kích. Sử cũ còn ehi, kêt thúc cuộc kháng chiến lần thứ hai, vi hai làng
Báng Hà, Bà Điêm đâu hàng giặc, Thượng hoàns Trần Thánh Tông đã tức
eiận phạt dân đinh hai lànơ đó vĩnh viễn phải xung quân làm lính, khônc được
làm quan.
Dưới hai triêu đại Lý Trân, Phật giáo được coi là quốc giáo. Trong triều
ngoài nội hệ tư tường Phật giáo đóng vai trò chủ đạo. Sừ cũ chép có đến nửa
nước là sư tăng. Tuy nhiên, bởi sự chi phối của chiến tranh, Phật giáo thời
Trần có điểm khác với Phật giáo thời Lý về tổ chức cũng như tư tườns. Nếu
như dưới thời Lý sinh hoạt Phật giáo còn phân tán, chủ yếu theo các sơn môn
hệ phái thì đến thời Trần lần đầu tiên có một tổ chức Giáo hội chunơ thống
nhất - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của
nhà Trần, noười lãnh đạo quân dân Đại Việt tiến hành thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Nguyên lần thứ 1 cũng là người đặt nền móng lí luận cho Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhàn Tông là vị vua anh hùng, người chiến sĩ
đích thực của cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3, đồng thời
cũng là Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Hầu hết quý tộc Trần
đều theo Phật giáo. Nhờ sự ủng hộ của tầng lớp quý tộc, thế lực kinh tế tự viện
dưới thời Trần rất lớn, chẳng hạn vua Anh Tôns đã cấp cho chùa Quỳnh Lâm
của Tổ thứ 2 là Pháp Loa đến hơn 1000 mẫu ruộng. Chúng ta không có tài liệu
để biết cụ thể hơn về phương thức quản lí khai thác bộ phận tự điên này,
nhưng có thể suy đoán lực lượng sản xuất chủ đạo vẫn là nông dân tron? các

cỏns xã truyền thống, tronư thời chiên cũng như thời bình, ngoài nhiệm vụ
19
phục vụ tín ngưỡng tôn giáo, nó cũng là cơ sở kinh tè - xã hội - quân sự tin
cậy cùa nhà nước, của quv tộc Trần.
Vẽ chè độ sờ hữu ruộng đât, thời kì này xuất hiện mâu thuần xu hướno
vận động cùa hai bộ phận ruộng đất tư hữu và ruộng đất công hữu. Một mặt,
để duy trì cơ sở kinh tẻ của làng xã, với tư cách là một đơn vị kinh tế - xã hội
- quân sự độc lập, chồ dựa cơ bản cùa cuộc chiến tranh nhân dân, nhà nước
không thê không bảo vệ bộ phận ruộng đất thuộc sờ hữu cônơ của làng xã, mặt
khác, để khuyến khích bộ phận kinh tế điền trang, ưu đãi quý tộc Trần, nhà
nước cũng phải có biện pháp, chính sách ung hộ sự mờ rộng của bộ phận
ruộng đất tư hừu. Ngay từ thời Trần Thái Tông, nhà nước đã chính thức cho
phép bán ruộng công làm ruộng tư, thậm chí còn quy định cụ thể về giá cả, thủ
tục, thể thức mua bán. Đặc biệt từ sau cuộc kháng chiến lần thứ 3 trở đi,
hiện tượng mua bán ruộng đất công phổ biến, và hệ quả tất yếu trong lòng xã
hội đã hình thành tầng lớp địa chủ khôns phải quý tộc Trần ngày càng lớn
mạnh.
Nền kinh tể điền trano thái ấp từng là mô hình kinh tế tích cực, là chồ
dựa vừng chắc của nhà nước trong các cuộc khána, chiến bảo vệ nền độc lập
dàn tộc, giờ đây đã bộc lộ những mặt hạn chế căn bản của nó, trở thành nhân
tổ phản động cùa lịch sử. Với tâm thái hưởng thụ ăn chơi sau chiến tranh, tầng
lớp quan liêu quý tộc Trần biến điền trana thái ấp thành những đơn vị bóc lột
noày cànơ thậm tệ. Được sự ủng hộ ưu đãi của nhà nước quý tộc Trần, tầng
lớp sư tăng đua nhau lấn chiếm, mua ruộng đất mờ rộng điền trang, tự điền.
Nsười dân mất ruộng bị bán làm gia nô, nô ti ngày càng đông. Tình trạng trẽn
chắc hẳn rất nặng nề, cho nên, khi nhà nirớc chủ trương bất mọi người dân
phải khai báo ruộnơ đất, Hành khiển Hà Đức Lân nhận xét “Đặt ra phép này
chi để cướp ruộng của dân thôi". -15b^ 3 4 )
20
Từ nửa cuối thế kỉ XIV trờ đi, nhà Trân nsày càng trượt nhanh trên con

đường suy vong. Hô Ọuý Ly là nmrời nhận thức được nauyên nhân sâu xa sự
suy VOIÌ2 cùa nhà Trân, ông quvết tàm khăc phục nó băna một loạt những cải
cách trẽn mọi phương diện kinh tê, chính trị, văn hoá 2Íáo dục, về kinh tế,
Hô Quý Ly chủ trương hạn chế, đi đên làm suy yêu thực lực của tầng lóp đại
quý tộc Trân băng chính sách hạn điên (hạn chê việc sở hữu ruộng đất lớn),
hạn nô (hạn chê việc mua bán nô tì) đê bào vệ lực lượng sàn xuất. Nen kinh tế
tự viện cũng bị tân công. Ngoài chính sách hạn điên được thi hành chung, Hô
Quý Ly còn quy định sư tăng dưới 50 tuôi phải hoàn tục trở về quê cày cấy, sô
còn lại phải qua sát hạch để cấp độ điệp (chủng chỉ). Cải cách kinh tế của Hồ
Quý Ly đã hạn chế đirợc sự kiêm tính ruộng đất lớn, tạo điều kiện cho tầng
lớp địa chủ nhò phát triển. Mặc dù có thừa nhiệt tình và không ít thiện chí
nhưng cuổi cùng cải cách của Hồ Quý Ly phải chịu thất bại, bởi nó thiếu cơ sở
kinh tế xã hội bảo đảm cho những ý tường thuộc kiến trúc thượng tầng thành
hiện thực.
1.2. Những nhân tố kinh tế xã hội giai đoạn Lê so-
Năm 1427, sau thẳng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, kết thúc 20 năm
thống trị của giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua. Xét về tiến trình lịch sử, từ Trần
mạt sang Lê sơ là bước chuyển quan trọng, từ nền kinh tế đại điền trang thái
ấp cùa nhà nước tập quyền dựa trên tầng lớp quan liêu quý tộc đông tộc sang
nền kinh tế địa chủ phong kiến tiểu nông cùa nhà nước phong kiên tập quyên
dựa vào tầng lớp quan liêu phong kiến chức năng. Tầna lớp địa chủ có điều
kiện phát triển mạnh mẽ cuối Trần, qua 20 năm Minh thuộc, giờ đây trở thành
bộ phận quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, là giai câp tiên tiên của lịch
sử. Ngay trona buổi đầu khởi nghĩa Lam Sơn. bản thân thù lĩnh nghĩa quân Lẽ
Lợi là đại biểu của tầng lớp địa chủ mới lẻn ờ Thanh Hoá, những nhân vật
21
trọng yêu trong bộ tham mưu nghĩa quàn hâu hêt là (hoặc xuât thân là) những
địa chủ từ mọi miên đất nước.
rừ một “phụ đạo lộ Nhã Lam” trờ thành 1 loans đế, sau khi đà ban phẩm
cấp và đặc quyền tước lộc cho các công thần, tháng 4 năm 1428, Lê Lợi đặt

niên hiệu Thuận Thiên, chính thức khẳng định hoàns quyền Lê sơ bằng chiếu
thư “định niên biểu, quốc hiệu, đô hiệu”, cơ chế quan liêu quý tộc đồng tộc
Trần mất hẳn, nhường bước cho cơ chế phong kiến quan liêu chức năng.
Khăng định là chù sở hữu tối cao duy nhàt vê ruộng đất trẽn toàn quốc,
ngay từ năm 1429, Lê Lợi chính thức phong kiến hoá toàn bộ ruộng đất Đại
Việt cũ trên cơ sờ một quan hệ ruộng đất mới, tạo bước phát triển cho kinh tế
tiêu nông và gia đình tiêu nông. Kinh tê tiêu nông trở thành cơ sờ phát trỉến và
củng cố chế độ tập quyền chuyên chế cùa quốc gia phong kiến Đại Việt trong
suốt thể kỉ XV và từ thế kì XV về sau. Ruộng đất tư là cơ sở kinh tế của giai
cấp địa chủ phong kiến (là cơ sở giai cấp của nhà nước phong kiến quan liêu),
ruộng đất công là tà(j sản của nhà nước. Nhà nước phong kiến phải luôn phát
triển chế độ tư hữu ruộng đất tạo sức mạnh kinh tế cho giai cấp địa chủ, mặt
khác, phải có những chính sách bảo vệ ruộng đất công, bảo vệ tài sản của nhà
nước.
Mặc dù rất có ý thức, và trên thực tế đã có nhiều chính sách tích cực xây
dựng và củng cố nhà nước phong kiến tập quyền vừng mạnh, thống nhất hài
hoà siừa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc, nhưng ngay từ khi Lê Lợi còn
sống cho đên loạn Nghi Dân, trong triều luôn xảy ra tình trạng mà sử cũ ghi là
“công thần hiềm khích khuynh loát lần nhau”, “ngầm nuôi dị chí”, “vua hay
đa nghi hiêu sát” Đó là biêu hiện của một chè độ chưa thuân thục, cơ câu
kinh tế xà hội của một hình thái kinh tê xã hội phong kiến chưa chín muôi, xu
hướng li tâm chính trị, phân cát vẫn tiêm ân. Qua những biên độns đẫm máu
chốn cunơ đình và quá trình vận dộnu kinh tế xã hội theo quy luật khách quan
của lịch sử, từ nứa sau thế kì XV, những tiên đẻ kinh tế xã hội đã chín muồi
cho việc xây dựnơ một thượng tâng kiên trúc thích hợp của nhà nước phone
kiên trung ươnư tập quyên theo V nghĩa đẩy đu cùa nó mới thực sự hoàn thành.
Năm 1460, con thứ tư của Thái Tông là Bình nguyên vương Tư Thành
(được Nghi Dân đôi làm Gia Vương) lên làm vua, tức là vua Thánh Tông, với
sự trị vì qua hai niên hiệu là Quano Thuận và Hồng Đức. Thánh Tông là vị
vua ờ ngôi lâu nhât trons thời Lẻ sơ và cũng ơóp phần quan trọng nhất trong

việc củng cỏ chê độ phong kiên tập qưyên lúc bấy giờ. Dưới thời Thánh Tông,
bộ máy nhà nước phong kiến tập quyền đã phát triển tới mức cao nhất cùa nó,
các thứ chế độ, quy chế phong kiến về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá đều
được hoàn thành làm mẫu mực cho những triều đại phong kiến sau này. Trong
phạm vi thời Lê sơ, nếu thời Thái Tổ đến Thái Tôno là thời kì xây dựng nhà
nước phono kiến tập quyền thì thời Thánh Tông chính là thời hoàn thành công
việc xây dựng ấy. Thời Thánh Tông là đinh phát triển cao nhất của chế độ
phong kiến tập quyền Việt Nam.
Kinh nghiệm quản lí đất nước còn chưa hoàn bị qua các đời Thái Tổ,
Thái Tông và Nhân Tông, sự kiện loạn Nghi Dân và phế bỏ Nghi Dân trực
tiếp hẳn đã đủ để chuẩn bị các điều kiện cho ông vua tài ba Lê Thánh Tông
thực hiện một cuộc chỉnh đốn, sẳp xếp lại đất nước quan trọng nhất, khiến nhà
nước Lê Thánh Tôno trở thành một bộ máv phong kiến quan liêu chặt chẽ,
nhưng cũng phiền phức nặng nề. Năm 1466, Thánh Tông chia lại các khu vực
hành chính, chia cà nước ra 12 đạo. Đứng đầu mồi đạo có hai ti: một ti phụ
trách về quàn đội, ti còn lại phụ trách về hành chính và tư pháp (Đô ti và Thừa
ti). Dưới đạo có phủ, châu, rồi đến huyện và xã. Như thế là cơ cấu hành chính
từ các đời trước đã bị thay đổi: lộ đổi thành phu, trấn đối thành châu. Theo đó
các quan chức cũng bị thay đổi: An phủ sứ thành Tri phủ, Chuyên vận sứ làm
tri huyện, xã quan làm xã trường Việc chia lại các khu vực hành chính này
23

×