Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống với xây dựng đạo đức của con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 91 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****





NGUYỄN THỊ LIÊN




VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
VỚI XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60.22.80







HÀ NỘI, 2007




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****



NGUYỄN THỊ LIÊN



VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
VỚI XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG NỀN KINH TẾ TRỊ TRƯỜNG HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60.22.80
Giáo viên hướng dẫn : GS.TS. Hoàng Chí Bảo





HÀ NỘI, 2007



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG
6
CHƯƠNG
1.
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC - NHỮNG GIÁ TRỊ
CẦN KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY

1.1.
Giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
6
1.1.1.
Khái niệm giá trị, đạo đức
6
1.1.2.
Giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống
13
1.1.3.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc

17
1.2.
Quan hệ giữa kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống với xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay
20
1.2.1.
Quan hệ giữa kế thừa và phát huy với xây dựng đạo đức mới
20
1.2.2.
Nội dung kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống với
xây dựng đạo đức ở nước ta hiện nay
22
CHƯƠNG
2.
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI HIỆN NAY VÀ NHỮNG
GIẢI PHÁP KẾ THỪA, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNGVÀO XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI

2.1.
Thực trạng đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay
27
2.1.1.
Những biểu hiện đạo đức tích cực
27
2.1.2.
Những biểu hiện tiêu cực và suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay
31
2.2.
Vai trò của các giá trị đạo đức truyền thống trong việc chấn hưng
đạo đức dân tộc

47
2.2.1.
Các giá trị đạo đức truyền thống - cơ sở cho việc chấn hưng đạo đức dân tộc
47
2.2.2.
Một số giá trị đạo đức truyền thống cần được kế thừa và phát huy
trong công cuộc xây dựng đạo đức mới hiện nay
50
2.3.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm kế thừa và phát huy giá trị đạo
đức truyền thống vào xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay
61
2.3.1.
Nhận thức mới về các giá trị đạo đức truyền thống cần kế thừa và
phát huy
61
2.3.2.
Đưa giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng đạo đức gia đình
62
2.3.3.
Giáo dục và thực hành đạo đức truyền thống trong nhà trường
66
2.3.4.
Giáo dục và thực hành đạo đức truyền thống trong xã hội - đặc biệt
là đối với cán bộ, đảng viên, công chức
68
2.3.5.
Thực hành đạo đức cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí
Minh
72

KẾT LUẬN
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80




1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua biết bao sự kiện biến
động lớn lao. Sinh sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lại luôn phải chống lại
những kẻ ngoại xâm hung bạo và lớn mạnh, muốn tồn tại và phát triển, dân tộc ta không
còn cách nào khác là phải khơi dậy và phát huy sức mạnh nội lực của chính mình. Trong
những thử thách gay go, ác liệt của lịch sử, những giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết
quả, vừa là động lực của quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài và quật cường của dân tộc
ta chống lại thiên tai và địch hoạ. Những giá trị ấy đã làm nên cốt cách, tinh thần và sức
mạnh Việt Nam được bạn bè thế giới khâm phục.
Những giá trị đạo đức truyền thống tuy mang tính ổn định, bền vững nhưng không
phải là nhất thành, bất biến mà cũng vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi
của lịch sử. Khi lịch sử bước sang một thời kỳ mới thì những giá trị đạo đức truyền thống
cũ lại được thẩm định, chắt lọc và đổi mới cho phù hợp. Đồng thời, những giá trị mới dần
được hình thành làm cho hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc ngày càng phong phú.
Trong những năm gần đây, tình hình trên thế giới có nhiều biến động lớn. Một
trong những biến động đó là xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút
tất cả các nước trên thế giới. Đây là một xu thế tất yếu, khách quan hợp quy luật của thời
đại mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài nếu không muốn bị tụt hậu. Toàn cầu
hoá kinh tế hay nói cụ thể hơn đó là nền kinh tế thị trường đã đem lại cho tất cả các nước

đặc biệt là các nước đang phát triển những cơ hội lớn, nhưng mặt khác, nó cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ. Một trong những thách thức đáng lo ngại đó là sự phá vỡ
những giá trị đạo đức truyền thống vốn có từ lâu đời của các dân tộc, làm cho dân tộc này
có thể bị hoà tan trở thành cái bóng của một dân tộc khác, tức là làm đánh mất bản thân
mình và đánh mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình.
Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh chung của thế giới và cũng chịu sự tác động
hai mặt tích cực, tiêu cực do nền kinh tế thị trường đem lại. Nền kinh tế thị trường với
mặt tích cực của nó đã làm cho xã hội trở nên năng động, phát triển. Nó thực sự là một
động lực quan trọng đối với dân chủ và dân chủ hoá đời sống xã hội. Và kết quả đã cho
thấy điều đó - xã hội sau một thập kỷ đổi mới (1986 - 1996) đã ra khỏi sự trì trệ, khủng



2
hoảng, đã tạo ra những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực văn hoá, kinh tế, chính trị…, và
tạo tiền đề cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song mặt trái của kinh tế thị trường đã thâm nhập rất mạnh, ngày càng mạnh và
còn tiếp tục gay gắt hơn nữa trong những thập kỷ tới. Nó đã trực tiếp làm cho đạo đức xã
hội ở nước ta hiện nay suy thoái nghiêm trọng, đang trở thành tình huống có vấn đề trong
phát triển, cần phải đưa ra lời cảnh báo và nghiên cứu các biện pháp giải quyết.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế chúng
ta không những không đánh mất những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mà còn có
thể giữ gìn, kế thừa, phát huy và đổi mới những giá trị đó, biến chúng thành sức mạnh tinh
thần của dân tộc đưa đất nước lên một tầm cao mới, đủ sức nắm bắt những cơ hội mới do
chính quá trình hội nhập kinh tế đem lại. Đây là một vấn đề cấp bách đang gây sự chú ý
của nhiều cấp, nhiều ngành, là một vấn đề đặt ra cho các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu
phải trăn trở suy nghĩ, tìm ra con đường phát triển tối ưu nhất cho đất nước mình. Vì vậy,
việc tìm hiểu giá trị đạo đức truyền thống và ảnh hưởng của nó tới đạo đức của con người
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường là rất cần thiết, cấp bách cả về mặt lý luận thực tiễn,
vừa có tính thời sự, vừa có ý nghĩa lâu dài. Với lý do đó tôi chọn vấn đề ”Vai trò của giá trị

đạo đức truyền thống với xây dựng đạo đức của con người Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Giá trị đạo đức truyền thống và ảnh hưởng của nó tới đạo đức của con người Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm chú ý của
các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước. Trước đây đã có nhiều công trình nghiên
cứu về giá trị và giá trị truyền thống của dân tộc đối với việc hình thành nhân cách. Tiêu
biểu phải kể đến công trình của Trần Văn Giầu: giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980. Trong công trình này, tác giả đã đề cập
đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức.
Đề tài KX - 07 - 02 mang tên: Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay, do Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ trì, đã nghiên cứu quá trình hình thành,
phát triển và biến đổi của các giá trị truyền thống Việt Nam, phân tích nội dung cấu thành
của truyền thống Việt Nam, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của di sản truyền thống
đồng thời đưa ra những khuyến nghị về phương hướng và giải pháp giáo dục, phát huy



3
các giá trị truyền thống để giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại. Trong những năm gần đây, khi đất nước chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá,
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về sự biến đổi và định hướng giá trị trong điều kiện kinh tế
thị trường. Theo hướng nghiên cứu này, có các công trình tiêu biểu, đáng chú ý là chương
trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và động
lực phát triển kinh tế-xã hội”, gồm 19 đề tài trong đó có đề tài mang mã số KX.07.04 của
các tác giả: Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang nghiên cứu về: Giá trị -
định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị; Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết:
Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế

thị trường, Tạp chí Triết học số 1/1995 đã đề cập trực tiếp tới chủ đề nghiên cứu gần với
đề tài đã nêu trên.
Nền kinh tế thị trường lại đặt các giá trị đạo đức truyền thống trước những thách
thức mới, do vậy, những năm gần đây, đã có những cuộc hội thảo quốc tế lớn bàn về vấn
đề giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay. Trong đó phải kể đến một số báo cáo tiêu biểu như: Nguyễn Trọng Chuẩn,
Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định và thách thức của thời đại trong bối cảnh
toàn cầu hoá, Hà Nội, 2001; Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống về mục tiêu phát
triển, Hà Nội, 1998; Nguyễn Văn Huyên, Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên
trong của sự phát triển đất nước, dân tộc, Hà Nội, 1998; Đỗ Huy, Những giá trị truyền
thống ở Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hoá, Hà Nội 2001; Nguyễn Tài Thư,
Khả năng phát triển của giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, Hà
Nội, 2001; Lê Ngọc Anh, Sự chuyển đổi giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn
cầu hoá, Hà Nội, 2001… ; Nguyễn Duy Quý, Hoàng Chí Bảo: “Đạo đức xã hội dưới tác
động và ảnh hưởng của kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay”, “Thực trạng và nguyên
nhân suy thoái đạo đức trong xã hội”, trong cuốn sách Đạo đức xã hội ở nước ta hiện
nay - vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2006. Công trình chuyên
khảo này đã lần đầu tiên nghiên cứu, khảo sát về đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị
trường và đề xuất phương hướng, giải pháp chấn hưng đạo đức dân tộc.
Bên cạnh các cuốn sách, các báo cáo nêu trên, còn có nhiều bài báo tập trung vào
việc tìm hiểu vấn đề đạo đức, nhân cách, các giá trị truyền thống trong điều kiện hiện
nay. Chẳng hạn, Lê Thị Tuyết Ba, Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế-xã



4
hội trong điều kiện kinh tế thị trường (Tạp chí Triết học, số 5, 2002); Trần Nguyên Việt,
Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong
nền kinh tế thị trường, (Tạp chí Triết học số 5, 2002); Trần Sĩ Phán, Vai trò của giáo dục
đạo đức đối với việc hình thành và phát triển nhân cách trong giai đoạn hiện nay (Tạp

chí giáo dục lý luận, số 1, 1999); Nguyễn Văn Phúc, Vai trò của giáo dục đạo đức đối với
việc hình thành nhân cách trong cơ chế thị trường, (Tạp chí Triết học, số 5, 1996)…
Ngoài các công trình đã nêu trên còn có nhiều công trình, bài viết khác nghiên cứu
vấn đề này. Song sự đề cập có tính chất cơ bản và hệ thống về giá trị đạo đức truyền
thống và ảnh hưởng của nó tới đạo đức của con người Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường còn chưa được chú ý đúng mức. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra là phải đẩy
mạnh hơn nữa sự tập trung nghiên cứu vấn đề này trong điều kiện hiện nay bởi đây là
một vấn đề hệ trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong xu thế hội
nhập toàn cầu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Phân tích vai trò của giá trị đạo đức truyền thống và ảnh
hưởng của nó tới việc xây dựng đạo đức của con người Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc phát triển đạo đức
để hình thành nhân cách, và ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới đời sống đạo
đức của con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.
- Chỉ ra những biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức truyền thống và thực
trạng suy thoái đạo đức trong xã hội ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng về xây dựng đạo đức, nhân cách con người Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân
tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh…




5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò các giá trị đạo đức truyền thống và ảnh hưởng của
nó tới đạo đức con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.
Phạm vi: Luận văn tập trung nghiên cứu đạo đức ở nước ta trong những năm gần
đây khi chuyển sang kinh tế thị trường.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ vai trò và mức độ ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền
thống đối với việc xây dựng đạo đức của con người Việt Nam hiện nay trong nền kinh tế
thị trường.
Đề xuất những giải pháp định hướng cho việc xây dựng đạo đức trong điều kiện
hiện nay ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần vào việc xây dựng lý luận nhân cách đặc biệt về đạo đức trong
điều kiện hiện nay.
Luận văn góp phần vào việc giải quyết những vấn đề bức thiết của nghiên
cứu đạo đức học hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức xã hội -
để chấn hưng đạo đức dân tộc.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, học tập, giảng
dạy về đạo đức học, về nhân cách, về giá trị đạo đức truyền thống.
Luận văn có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác xây dựng đạo đức mới trong
điều kiện hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2
chương, 5 tiết.









6
NỘI DUNG

Chương 1
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC – NHỮNG GIÁ TRỊ
CẦN KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY

1.1. Giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
1.1.1. Khái niệm giá trị, đạo đức
Khái niệm giá trị
Khái niệm giá trị xuất hiện từ thời cổ đại, gắn liền với triết học và nằm
trong cấu trúc của đạo đức học. Sau này khái niệm giá trị được sử dụng nhiều
trong các ngành khoa học khác với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau, tuỳ theo mục
đích nghiên cứu, đặc trưng riêng của từng ngành như: Xã hội học, Tâm lý học,
Kinh tế, Toán học, Vật lý học, Triết học v.v…
Trong mỗi bộ môn khoa học cụ thể, khái niệm giá trị được hiểu theo nội
dung rộng hẹp khác nhau và mang ý nghĩa biểu đạt khác nhau.
Nhìn từ góc độ kinh tế học, giá trị là giá trị của hàng hoá hay vật phẩm, là
lượng lao động kết tinh trong hàng hoá hay trong vật phẩm đó. Những hàng hoá
nào có lượng hao phí lao động xã hội càng lớn thì giá trị của nó càng cao và
ngược lại. Để cho hàng hoá, vật phẩm bộc lộ giá trị thì phải có sự trao đổi giữa
người có sản phẩm và người có nhu cầu về sản phẩm, tức là sự trao đổi ngang giá,
phải có khả năng thoả mãn nhu cầu của người sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm
hàng hoá, phải diễn ra qua hành vi mua và bán trên thị trường theo qui luật giá

trị. Trong kinh tế chính trị học, giá trị là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại
trong nền sản xuất hàng hoá mà thôi.
Nhìn từ góc độ đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống
đạo đức tinh thần của con người. Giá trị đạo đức chính là những thái độ, hành vi
được con người lựa chọn, được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống
xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương, phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức của xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Đối với triết hoc, có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị, điều đó được
thể hiện thông qua các quan điểm của các trường phái triết học khác nhau. Họ
xem xét giá trị từ phía chủ thể, hoặc từ phía khách thể, hoặc từ sự tương tác giữa
chúng, theo lập trường thế giới quan duy vật hoặc duy tâm.



7
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là cái phụ thuộc vào kinh nghiệm
của con người, là biểu hiện thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà
người đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi giá trị như là cái thuộc về khách thể, là
đặc tính riêng biệt chủ yếu của chính các khách thể.
Chủ nghĩa tương đối xem giá trị là cái không thuộc về khách thể, cũng
không thuộc về chủ thể, mà là một quan hệ, một liên hệ có tính ngẫu nhiên giữa
chủ thể và khách thể.
Việc xem xét giá trị không phải từ một phía khách thể hoặc chủ thể, hoặc
mối liên hệ ngẫu nhiên giữa chúng. Giá trị là sự thống nhất biện chứng giữa
khách thể và chủ thể. Giá trị được hình thành trong quá trình lao động sản xuất,
trong quá trình phát triển của xã hội. Trong quá trình đó, sự mưu sinh và hoạt
động sáng tạo làm nảy sinh các nhu cầu. Quan hệ giữa các nhu cầu sinh ra các lợi
ích. Sự thoả mãn các lợi ích chính là căn nguyên bên trong của sự hình thành các
giá trị [29, tr.1].

Để hiểu rõ hơn vấn đề giá trị, chúng ta có thể tham khảo một số định nghĩa
về giá trị của các nhà nghiên cứu.
Theo Từ điển bách khoa triết học của Liên Xô (cũ), giá trị là “khái niệm
triết học và xã hội học dùng để chỉ, thứ nhất, tầm quan trọng có tính khẳng định
hay phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của
khách thể này ( ), thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá của các
hiện tượng ý thức xã hội [70, tr.7].
Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết định nghĩa: “giá trị là sự khẳng định
hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con
người, giai cấp, nhóm hoặc toàn xã hội nói chung. Giá trị được xác định không
phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các
thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú
và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và các phương thức đánh giá
ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mức đạo đức,
trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [60, tr.51 – 52].
Theo L.Dramaliép (Bungari) giá trị là “một phẩm chất khách quan, một đặc
tính, một khả năng thoã mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt trong quá trình



8
quan hệ qua lại có tính chất xã hội trong hành vi thực tế của họ. Với tư cách là
một khách thể xã hội, giá trị không thể tách khỏi những nhu cầu, những mong
muốn, những thái độ, những quan điểm và những hành động của con người với tư
cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội” [60, tr.54].
Từ đó, có thể hiểu rằng, giá trị là một hiện tượng xã hội đặc thù (có thể là
một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý niệm ) thỏa mãn được nhu cầu nhất
định của con người. Sự vật nào cũng là vật mang giá trị, miễn là sự vật ấy được
các thành viên trong xã hội thừa nhận, coi là cái có vị trí quan trọng trong đời
sống và cần đến như một nhu cầu thực sự.

Như vậy, chính nhờ có sự chế định của các nhu cầu và lợi ích của con
người mà giá trị mang tính chất khách quan, nghĩa là, sự tồn tại hay mất đi của
một giá trị nào đó không phụ thuộc vào chủ thể, mà phụ thuộc vào sự tồn tại hay
mất đi của một nhu cầu nào đó. Điều này là do thực tiễn qui định, được thực tiễn
kiểm nghiệm, bởi “thực tiễn vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách
thể, vừa là tiêu chuẩn của chân lý về giá trị của khách thể” [54, tr.129]. Thực tiễn
là nơi tạo ra các giá trị, vừa là nơi mà ở đó, các giá trị hình thành và nảy sinh.
Một sự vật, hiện tượng được coi là có giá trị nhất thiết phải thông qua sự
đánh giá của con người. Giá trị là một phạm trù mang bản chất người. Bởi vì, chỉ
có trong xã hội loài người, sự vật mới có giá trị. Nếu một sự vật nào đó không
thông qua sự đánh giá của con người thì nó không thể có giá trị. Ví dụ. Một sự
vật A được gọi là đẹp, là có giá trị cần phải có sự kiểm nghiệm, sự đánh giá của
con người thì mới biết được sự vật đó đẹp, có giá trị hay không. Như vậy, bên
cạnh tính chất khách quan, giá trị còn mang tính chủ quan. Đó là thái độ, sự đánh
giá và sự lựa chọn giá trị xã hội của con người. Do đó, giá trị không chỉ bị chế
ước bởi tính chất của khách thể mà còn bị chế ước bởi chủ thể hành động. Chính
vì vậy, ở mỗi một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử khác nhau, quan niệm về giá trị
có sự khác nhau, có sự thay đổi. Không những thế, ngay cả trong cùng một thời
đại, mỗi một tập đoàn người, mỗi giai cấp khác nhau cũng có quan niệm về giá trị
khác nhau. Cái là giá trị ở thời đại này, giai cấp này, lại có thể không phải là giá
trị ở thời đại khác, giai cấp khác.
Các hình thái biểu hiện của giá trị là phong phú, đa dạng phụ thuộc vào sự
đa dạng của đối tượng và nhu cầu con người. Sự phong phú, đa dạng của các giá



9
trị hợp thành một hệ thống giá trị. Nhìn chung, có hai loại giá trị cơ bản: giá trị
vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất: Thể hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế, đời sống vật chất

của con người. Giá trị vật chất gắn bó trực tiếp với tồn tại xã hội, quyết định sự
tồn tại của xã hội loài người.
Giá trị tinh thần: Thể hiện trong các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, văn hoá,
nghệ thuật, phong tục tập quán, lối sống…
Có nhiều quan niệm khác nhau trong việc phân loại giá trị tinh thần. Theo
quan điểm của G.Đrốpnhixki và X.V.Anhiximốp, tốt hơn hết, không nên phân
loại giá trị theo tính chất tự nhiên của chúng, mà theo mối quan hệ với con người,
với những nghiên cứu của họ [67, tr.122]. Theo nhà xã hội học Hoa Kỳ
J.H.Fichter: mỗi hiện tượng xã hội có thể được dùng làm khởi điểm cho sự phân
loại giá trị. Ông dùng ba căn cứ để phân loại giá trị: nhân cách, xã hội và văn hoá
[72, tr.58].
Theo M.Popon và J.R.William, có những giá trị chi phối những hành vi lớn
của con người như hành vi cơ thể, hành vi nhân cách, hành vi văn hoá và các
hành vi xã hội. Từ đó có các loại giá trị chủ yếu sau: giá trị tồn tại sinh học, giá
trị tính cách, giá trị văn hoá và giá trị xã hội [72, tr.58].
Theo tác giả Vi Quang Thọ, giá trị tinh thần có thể được phân chia thành
các loại sau: giá trị văn hoá, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị công dân của
con người [67, tr.122].
Nhìn chung, các tác giả thường thống nhất trong cách phân chia giá trị tinh
thần thành các loại sau: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ. Trong
đó giá trị đạo đức có vai trò tương đối đặc thù.
Là một hiện tượng xã hội đặc thù, nên giá trị luôn mang tính lịch sử khách
quan. Giá trị đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Nó chứa đựng
các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của con người trong mối quan hệ với sự
vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn, đánh giá của chủ thể. Nó là cơ
sở cho con người xác định mục đích, phương hướng hoạt động của mình; là cơ sở
đánh giá thái độ, hành vi đúng sai của con người; là cơ sở của các chuẩn mực, qui
tắc xác định cách thức hành động của con người. Mỗi người cần phải dựa vào các




10
giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù
hợp nhất nhằm đem lại kết quả mang giá trị được xã hội thừa nhận.
Các giá trị luôn tạo ra động cơ thúc đẩy ý chí, thái độ, quyết tâm và sức
mạnh giúp con người hành động, vượt qua khó khăn, vươn tới mục đích tốt đẹp.
Theo Giáo sư Nguyễn trọng Chuẩn, “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt
tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với
cái đúng, cái tốt, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người nỗ lực
hành động và nỗ lực vươn tới” [6, tr.16].
Mỗi một dân tộc có một hệ thống chuẩn mực giá trị khác nhau, một hệ
thống chuẩn mực giá trị nào đó khi được xã hội chấp nhận thì sẽ trở thành phương
thức điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác, phù hợp với lợi
ích xã hội. Giá trị vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội.
Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội. Trong quá trình phát triển của
xã hội loài người, đạo đức chịu sự qui định của đời sống kinh tế, là sự phản ánh
quan hệ lợi ích của con người. Đạo đức được hình thành rất sớm và luôn được cả
nhân loại quan tâm.
Trước đây, có người cho rằng: đạo đức con người là do thượng đế sinh ra,
hay con người sinh ra vốn đã là “thiện”, hoặc là “ác” rồi. Có quan niệm qui đạo
đức của con người vào “ý niệm siêu cảm giác” hay “ý niệm của điều thiện”
(Aritxtốt và Platôn). Cũng có quan niệm cho rằng: đạo đức là biểu hiện của “ý
niệm tuyệt đối” (Hêghen) hay qui đạo đức vào tình yêu chung chung, không phân
biệt giai cấp hay tình yêu nam nữ (Phơiơbắc), và có cả quan niệm cho rằng: đạo
đức là cái gì đó bất biến, tồn tại vĩnh cửu (Đuyrinh).
Theo quan điểm Mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một chế
định xã hội thực hiện các chức năng điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức là
những nguyên tắc sống, những qui phạm gắn liền và phù hợp với một hình thái
kinh tế xã hội nhất định, được hình thành từ những điều kiện sinh hoạt vật chất

của xã hội; những qui phạm, nguyên tắc, tiêu chuẩn, lý tưởng này có tính chất
nhất thời về lịch sử và mang tính chất giai cấp rõ rệt. Điều đó cũng có nghĩa
rằng, con người rút ra những quan niệm đạo đức từ chính những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế.



11
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải là một hiện
tượng siêu nhiên, thần bí, một lực lượng được áp đặt từ bên ngoài vào và cũng
không phải là sản phẩm chủ quan của con người, mà là sản phẩm của xã hội, được
hình thành trên cơ sở của một tồn tại xã hội nhất định và phản ánh chính tồn tại
xã hội đó. Chính vì vậy, đạo đức không phải là một cái gì đó vĩnh cửu, bất biến
mà cũng vận động, biến đổi cùng tồn tại xã hội.
Như vậy, theo quan niệm của triết học Max, thì những nguyên tắc sống,
những chuẩn mực và nguyên tắc cư xử và những tương quan giữa các lợi ích làm
thành ý thức đạo đức của con người. Chính ở chỗ này có thể tìm thấy đặc trưng
của đạo đức như là một hình thái ý thức xã hội [2, tr.46].
Ý thức đạo đức lẽ tự nhiên biểu hiện trong hành động. Vì vậy, đạo đức
không những bao gồm ý thức đạo đức, nó còn bao gồm hành động đạo đức thực
tiễn, tức là ý thức đạo đức được thực hiện.
Như vậy, đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự
do những người khác và xã hội. Ý thức đạo đức là sự ý thức về tương quan giữa
lợi ích của mình và lợi ích của người khác, còn hành vi đạo đức là sự phục tùng
tự nguyện ý thức này.
Đạo đức và ý thức đạo đức được hình thành từ trong lao động và là sản
phẩm của họat động có ý thức của con người, của loài người. Nó hình thành và
phát triển cùng với các hình thái ý thức xã hội khác.
Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức phản ánh tồn tại xã
hội và nó thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của tồn tại xã hội. Khi nền tảng kinh tế xã

hội thay đổi tất sẽ dẫn đến những thay đổi trong đời sống tinh thần của xã hội,
đến những thay đổi trong hệ thống giá trị tinh thần xã hội trong đó có đạo đức.
Mặt khác, đạo đức cũng có sự tác động trở lại đối với chính cơ sở kinh tế – xã hội
mà trên đó, nó được nảy sinh. Sự tác động diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Để phát huy vai trò tích cực của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế thì
không thể để cho các chuẩn mực đạo đức hình thành một cách tự phát, mà cần
phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn và xây dựng một cách tự giác. Một trong những
giải pháp chủ yếu là kinh tế, bởi các quan hệ kinh tế bao giờ cũng là cơ sở, nền



12
tảng của các quan hệ đạo đức. Điều đó có nghĩa, muốn định hướng giá trị đạo đức
thì trước tiên phải định hướng ngay trong cơ sở kinh tế - xã hội đã sản sinh ra nó.
Nói về ảnh hưởng của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế - xã
hội đối với quá trình hình thành quan niệm của con người về đạo đức và các giá
trị đạo đức, Ph. Ănghen khẳng định: “Con người dù tự giác hay không tự giác, rút
cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong
đó người ta sản xuất và trao đổi Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức
đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giờ” [15, tr.136- 137].
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đời sống vật chất của con người
ngày một nâng cao và theo đó cũng xuất hiện những điều kiện “thuận lợi” cho sự
“thăng tiến” về đạo đức và tinh thần của con người theo hướng “phú quí sinh lễ
nghĩa”, cùng với khả năng nảy sinh những giá trị đạo đức tiêu cực. Do vậy, khả
năng phát triển đạo đức theo xu hướng tích cực không phải tự nhiên mà có hay
được thực hiện một cách tự động, mà cần phải đấu tranh với những thói hư, tật
xấu bằng hình thức pháp luật, bắt mọi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi đạo đức của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi mệnh

lệnh hành chính cùng với những lời hô hào đạo đức chung chung đều mất tác
dụng. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị
trường phải là sự kết hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức và thi hành pháp
luật. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức, giáo dục văn hoá giao tiếp để làm cho mỗi
con người đều phải tuân thủ những chuẩn mực và qui tắc đạo đức mới một cách
tự nhiên và dần trở thành thói quen, trở thành một nhu cầu tinh thần là yếu tố
không kém phần quan trọng.
Như vậy. Đạo đức có một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã
hội. Không thể quan niệm được sự tồn tại của xã hội mà không có đạo đức. Chẳng
có hình thức nào trong ý thức xã hội lại có thể thay thế cho đạọ đức. Nơi nào
không có hành động tự nguyện, tự giác của con người thì nơi ấy không thể có
nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội. Đặc trưng của đời sống con
người và của bản thân tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung của
đạo đức chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của con người và của



13
toàn thể xã hội. Đây cũng là nội dung của khái niệm thiện – khái niệm cơ bản của
đạo đức học, những qui tắc và nguyên tắc đạo đức diễn đạt những hình thức,
những khía cạnh hoặc những phương diện khác nhau của cái thiện ở con người.
Để phát huy vai trò tích cực của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội thì cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Một nền kinh tế nếu được định hướng phát triển đúng đắn, được tổ
chức, quản lý một cách khoa học, xác lập được những quan hệ kinh tế phù hợp là
tiền đề dẫn đến sự hình thành các giá trị đạo đức mới, các chuẩn mực đạo đức
mới đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển đất nước.
1.1.2. Giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị đạo đức
Trong hệ thống giá trị tinh thần, với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống

các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, giá trị đạo đức được xác định là những
chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những qui tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và
chuẩn hoá hành vi con người trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong mỗi một vùng miền, dân tộc, mỗi thời kỳ lịch sử, có hệ thống các giá
trị đạo đức tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, được sắp xếp theo những thang bậc
khác nhau. Do đó, việc tiếp thu các giá trị đạo đức diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau trong quá trình giáo dục và hoạt động của cá nhân, cũng như trong quá
trình tác động qua lại giữa cá nhân với môi trường xung quanh.
Mỗi thời đại lịch sử, có những mẫu giá trị đạo đức khác nhau. Trong thời
Cổ đại, giá trị đạo đức cao quí nhất là phục tùng các giá trị của cộng đồng, mọi
người không được ăn cắp. Mẫu người điển hình là những người anh hùng khoẻ
mạnh, có khả năng bảo vệ được cộng đồng; thời Trung cổ, do ảnh hưởng nặng nề
của tôn giáo, giá trị đạo đức cao nhất là sự phụng Chúa hết mình. Mẫu người lý
tưởng là những người truyền giáo, những con chiên ngoan đạo; sang thời Tư bản
chủ nghĩa, đây là thời kỳ kinh tế, khoa học, kỹ thuật phát triển và việc đề cao lý
tính con người ở một mức độ nhất định, con người phải tự biết định đoạt số phận
của mình, nên đã hình thành những giá trị đạo đức như tự chủ cá nhân, tài năng
được đề cao, đặc biệt là lao động trí óc; ở trong xã hội Cộng sản cộng sản chủ
nghĩa, giá trị đạo đức cao quí nhất của con người là mang hết sức mình phục vụ



14
mọi người, mình vì mọi người và mọi người vì mình. Đó là xã hội mà tất cả mọi
người dân đều được hưởng ấm no, hạnh phúc.
Bởi vậy, khi phán xét, thẩm định một hiện tượng giá trị đạo đức nào đó,
chúng ta không thể dừng lại ở chỗ lý giải nội dung khái niệm của nó mà phải đi
sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, nền tảng kinh tế xã hội, nghĩa là
phải hiểu tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Đạo đức luôn thay đổi theo tồn tại xã
hội, và do vậy theo các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác, “không thể có thứ đạo đức

tồn tại vĩnh viễn”.
Những giá trị đạo đức tiêu biểu bao giờ cũng phản ánh những yêu cầu cơ
bản của xã hội, nó có nhiệm vụ định hướng hành vi con người phù hợp với hoàn
cảnh xã hội. Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, sẽ dẫn đến những thay đổi
trong hệ giá trị tinh thần xã hội, trong đó có giá trị đạo đức. Đó là sự phản ánh
quá trình vận động và phát triển thường xuyên của các giá trị đạo đức và đó cũng
là biểu hiện hợp qui luật của quá trình vận động, phát triển của đời sống tinh thần
xã hội dưới tác động của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế – xã hội.
Các giá trị đạo đức với những biểu hiện khác biệt nhau luôn từ một nền văn
hoá này, một xã hội này di chuyển, thẩm thấu, ảnh hưởng tới một nền văn hoá
khác, một xã hội khác. Trong một chừng mực nhất định, các nhân tố của môi
trường hướng các cá nhân vào những giá trị nào đó và gây ảnh hưởng đến việc
lựa chọn các giá trị, đánh giá các mẫu hành vi tiêu biểu bằng năng lực bản thân.
Nếu như năng lực này kém phát triển sẽ làm giảm khả năng đánh giá các giá trị
đạo đức, giảm thiểu mối quan tâm đến người khác và do đó hạn chế khả năng,
phạm vi hoạt động của con người. Như vậy, bên cạnh những yếu tố môi trường,
năng lực bản thân đóng vai trò rất lớn trong việc tiếp nhận giá trị nào đó để hình
thành nên một nhân cách mới phù hợp với yêu cầu xã hội.
Giá trị đạo đức vừa có tính chuẩn mực, lại vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt
và luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi chung của đời sống
kinh tế – xã hội. Giá trị đạo đức không phải là bất biến, mà sẽ thay đổi để phù
hợp với hoàn cảnh xã hội khi xã hội thay đổi. Có thể thấy điều này qua sự xung
đột giữa những giá trị truyền thống và hiện đại. Những lúc ấy, con người đứng
trước sự lựa chọn khó khăn. Giá trị đạo đức này có thể không biến đổi, nhưng giá
trị đạo đức khác lại có thể biến đổi. Có sự biến đổi đó là do nhận thức của mỗi



15
người, mỗi thế hệ, mỗi thời đại quan niệm về giá trị đạo đức. Chúng ta có thể lấy

quan niệm “trung với vua” của học thuyết Nho giáo làm ví dụ. Học thuyết này
cho rằng: tất cả mội người trong thiên hạ, đặc biệt là quan lại phải trung thành
với vua, với dòng họ nhà vua trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào. Quan
niệm đó tạo ra những nhà nho trung với vua một cách cứng nhắc. Ngay cả trong
xã hội ta hiện nay, chúng ta đang xây dung nền kinh tế thị trường với những yêu
cầu về đạo đức được đề cao như tính tự chủ cá nhân thì tâm lý ỷ lại, dựa vào tập
thể trong nhiều trường hợp vẫn còn ăn sâu trong ý thức của con người Việt Nam.
Nhưng không phải ai cũng tỏ ra bảo thủ trước những biến đổi của đời sống xã hội.
Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều trường hợp, các giá trị truyền thống được con
người sử dụng và phát huy sáng tạo một cách có hiệu quả, mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một ví dụ tiêu biểu.
Vậy giá trị đạo đức là gì?
Giá trị đạo đức là những giá trị được xác định là những chuẩn mực có tính
phổ biến được con người lựa chọn nhằm định hướng ý nghĩ, hành vi của mình. Nó
có sức mạnh điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội thông qua dư luận xã hội lành mạnh, nhưng trong sự vận động hiện thực, nếu
không có một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ thì nó dễ bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, hệ thống giá trị
tinh thần của đời sống xã hội nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng luôn được
coi là yếu tố cấu thành diện mạo của một thời đại, một xã hội, một dân tộc, một
nền văn hóa và của nhân cách con người. Và do vậy, mọi phương thức thẩm định,
định hướng giá trị nói chung, giá trị đạo đức nói riêng đều phải dựa trên cơ sở
tính ổn định tương đối của các giá trị đó.
Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử, của sự phát triển
kinh - tế xã hội và mang tính thực tiễn – lịch sử cụ thể, các giá trị đạo đức được
xác định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự tiến bộ cho xã hội và cho bản
thân con người. Bởi thế, mọi giá trị đạo đức đều phải hướng tới tính nhân văn đó
[43, tr.29].
Không có một dân tộc, một xã hội nào lại không có giá trị đạo đức của
riêng mình. Vấn đề đặt ra là con người phải biết lựa chọn những giá trị đạo đức




16
nào là phù hợp, là mang lại ý nghĩa thiết yếu đối với yêu cầu phát triển của bản
thân, của thời đại, để góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Giá trị đạo đức truyền thống
Giá trị đạo đức truyền thống được hình thành trong quá trình phát triển của
mỗi dân tộc. Chúng có những đặc điểm riêng tiêu biểu cho các dân tộc đó, nhưng
cũng có những nét tương đồng. Bởi lẽ, dân tộc nào cũng có những công việc
giống nhau, cần phải giải quyết, như việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lao động
sản xuất để kiến tạo cuộc sống của mình… Hơn nữa, việc giao lưu văn hoá cũng
là điều kiện làm cho các giá trị đạo đức của các dân tộc có ảnh hưởng lẫn nhau.
Đây chính là hiện tượng giao thoa, tiếp biến văn hoá, trong đó có văn hoá đạo
đức.
Giá trị đạo đức truyền thống tồn tại và biểu hiện thông qua các phong tục
tập quán, đạo đức, và biểu hiện tập trung nhất ở nhân cách. Chúng có tính ổn
định tương đối cao. Chẳng hạn, trong rất nhiều thí nghiệm tâm lý và xã hội học,
người ta đã chỉ dẫn để người thực hiện phá vỡ những giá trị truyền thống, nhưng
những sợi chỉ định chuẩn thuộc giá trị truyền thống đã ràng buộc hết sức mạnh
mẽ các cá nhân. Họ cảm thấy “chưa quen”, “ngượng” và thấy “mất nhân cách khi
bước vào vòng cấm” [26, tr.85]. Do đó nói tới giá trị đạo đức truyền thống là nói
tới toàn bộ những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen đạo đức được truyền từ
đời này sang đời khác, và được mọi người tự nguyện noi theo. Các giá trị đạo đức
truyền thống là phương thức tồn tại của xã hội, chúng được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác để hình thành nên những giá trị mới của xã hội.
Cũng như bất kỳ giá trị phổ biến nào của toàn nhân loại, các giá trị đạo đức
truyền thống có nguồn gốc từ lao động. Bởi vì chỉ có lao động mới đáp ứng được
mọi nhu cầu và lợi ích của cá nhân cũng như xã hội. Chính quá trình lao động đã
tạo đà cho việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống.

Mặc dù truyền thống là những gì ổn định, được lưu truyền từ đời này qua
đời khác, nhưng với tư cách là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, khi điều kiện
kinh tế-xã hội có những biến đổi, thì nó cũng có những biến đổi nhất định, trong
đó có sự biến đổi của giá trị đạo đức truyền thống. Tuy vậy, các giá trị đạo đức
truyền thống trong quá trình vận động của mình, vẫn giữ được những hạt nhân,
những cái cốt lõi căn bản nhất. Chẳng hạn, sự tương thân, tương ái, bao dung,



17
tinh thần đoàn kết luôn là những giá trị trường tồn, bền vững. Có điều chúng
cần được bổ sung và chuyển hoá cho ngày càng phong phú và phù hợp với đặc
trưng, tính chất của thời đại [29, tr.3].
Ngày nay, mặc dù cơ chế thị trường với nhiều mặt trái của nó đang có ảnh
hưởng không phải hoàn toàn tích cực, cũng không phải chỉ ảnh hưởng tiêu cực tới
các giá trị đạo đức truyền thống của nước ta, song việc đặt vấn đề về tính bất
dung giữa cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn không
có căn cứ. Do vậy, việc xây dựng một nền kinh tế thị trường lành mạnh, phát
triển nhanh và bền vững, hướng theo mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
đòi hỏi có tính nguyên tắc của việc tạo dựng nền đạo đức mới mà trong đó, các
giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận hợp thành, được đổi mới phù hợp với
yêu cầu và xu thế phát triển của thời đại.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, một hệ thống đạo đức xã hội sẽ không thể phát triển nếu phủ nhận sạch
trơn đạo đức truyền thống và không hướng vào mục tiêu ngày càng nhân đạo hóa
con người, ngày càng phát triển và hoàn thiện con người. Phát triển tách khỏi cội
nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường,
hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị đạo đức truyền thống, đánh mất
những cái làm nên “cốt cách” của dân tộc mình, đất nước mình sẽ làm mất bản

sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của
dân tộc khác. Vì vậy, việc giữ gìn và phát triển một cách đúng hướng, các giá trị
đạo đức truyền thống sẽ trở thành một động lực thúc đẩy sự phát triển con người
và xã hội.
Vậy, nói tới giá trị đạo đức truyền thống là nói tới toàn bộ những tư tưởng,
tình cảm, tập quán, thói quen đạo đức được truyền từ đời này sang đời khác và
được mọi người tự nguyện noi theo. Có thể nói, trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống cần phải được thẩm định, định
hướng theo hệ giá trị Chân - Thiện – Mỹ, trên cơ sở kế thừa và phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống, kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị
mang tính thời đại, coi như đó là nhân tố chủ đạo chi phối toàn bộ mục đích sống,
lẽ sống, lý tưởng sống của mỗi một con người, mỗi cá nhân trong xã hội, để góp
phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.



18
1.1.3. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc có nguồn gốc sâu xa và bắt
nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội. Nhận
thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc là tiền đề cơ bản để tạo nên đạo đức lành mạnh của xã hội, góp
phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, phát huy mặt tích cực và hạn
chế đến mức thấp nhất mặt trái của kinh tế thị trường.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là bộ phận cốt lõi trong các
giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Nói đến các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc là nói đến những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành,
phát triển dần qua suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là những giá trị nhân văn
mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực phổ biến, cơ bản nhằm điều chỉnh và

đánh giá hành vi của các cá nhân.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc vừa là kết quả, vừa là cơ sở,
động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hoá lâu dài
của dân tộc, góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc, nhân cách con người Việt Nam.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa
được cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc.
Cho nên giá trị đạo đức truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trung nhất
của cốt lõi văn hoá dân tộc tạo nên một sức mạnh tiềm tàng và bền vững.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không phải là những gì sẵn có khi
dân tộc đó xuất hiện, mà do các thế hệ người nối tiếp nhau trong lịch sử tạo
thành. Tuy nhiên, mỗi dân tộc cũng không thể tự lựa chọn cho mình những giá trị
truyền thống như mong muốn, mà những giá trị truyền thống được hình thành dựa
trên cơ sở những điều kiện kinh tế, lịch sử, xã hội của chính dân tộc đó trong suốt
tiến trình lịch sử của mình. Theo CácMác, “con người làm ra lịch sử của chính
mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình, trong những điều
kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã có
sẵn và do quá khứ để lại” [39, tr.145].
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng không phải là giá trị vĩnh
cửu, nó có lõi bất biến đồng thời có phần biến động để có thể bổ sung, đổi mới
cho ngày càng phong phú và phù hợp với đặc trưng, tính chất thời đại. Một giá trị



19
khi đã trở thành giá trị truyền thống không có nghĩa là nhất thành, bất biến và có
giá trị cao cho mọi thời đại, mà cùng với sự vận động, biến đổi của lịch sử nó
cũng có sự thay đổi cho phù hợp. Giáo sư Trần văn Giàu nhận định: “Nếu mỗi lúc
một thay thì tính truyền thống không còn nữa; nói truyền thống là nói lâu dài qua
nhiều thời mà lõi cốt vẫn giữ; nói của dân tộc là nói chung của đại đa số người
dân. Trong giá trị truyền thống dân tộc thì người xưa và người nay đều cơ bản

đồng tình, người sau nối chí người trước, phát huy lên, làm giàu mãi mãi” [19,
tr.51]. Nói cách khác, giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình biến đổi vẫn
giữ được cái cốt lõi của nó, và chỉ bổ sung, chuyển hoá hay thay đổi hình thức
cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc luôn luôn gắn với quá trình
hình thành tồn tại và phát triển của dân tộc, nó gắn liền với đời sống, với những
thăng trầm của dân tộc. Toàn bộ giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là cái thể
hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản chất dân tộc. Đồng thời nó cũng
chính là sức mạnh nội sinh để một dân tộc, một đất nước tồn tại và phát triển.
Giá trị đạo đức truyền thống có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự tồn
tại và phát triển của dân tộc. Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn phát triển mới của
mỗi quốc gia. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, “Giá trị truyền thống là một sức
mạnh vĩ đại không thể xem thường. Huy động các giá trị truyền thống để làm
cách mạng và kháng chiến hiện đại, là huy động sức mạnh của hàng mấy mươi
thế kỷ tổ tiên ông cha cổ vũ và trợ chiến cho con cháu hoàn thành sự nghiệp dân
tộc” [19, tr.52].
Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn phát triển mới của mỗi quốc
gia. Khi lịch sử có những biến động lớn thì mỗi dân tộc không vì thế mà phủ định
sạch trơn những giá trị truyền thống đã có từ ngàn xưa mà cần phải biết chắt lọc,
kế thừa những giá trị đó bổ sung, phát triển làm cho nó trở thành động lực thúc
đẩy tiến trình đi lên của đất nước. Một dân tộc có những giá trị truyền thống bền
vững, mạnh mẽ, có bản sắc văn hoá đậm đà sẽ không bao giờ bị hoà tan hay xoá
nhoà cho dù đất nước có bị xâm lược, có nguy cơ bị thôn tính hay ở trong vòng
xoáy của hội nhập. Với sức mạnh nội sinh đó, tiếp thu tinh hoa từ bên ngoài bổ



20

sung cho những cái bên trong mà nó đang thiếu hụt, giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc sẽ ngày càng phong phú thêm và sẽ là cơ sở vững chắc cho sự vận động
của xã hội, cho sự phát triển của đất nước và của dân tộc.
Vậy sức mạnh nội sinh của truyền thống dân tộc ta là gì?
Cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc, cùng với thời gian, các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển. Những giá trị
đạo đức truyền thống đã trở nên ổn định và được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác và trở thành động lực, sức mạnh, bản sắc của nhân cách con người
Việt Nam.
Theo Giáo sư Vũ Khiêu, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
bao gồm: ”lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, tinh thần nhân
đạo, lòng yêu thương và quí trọng con người” [34, tr.74 – 86]. Giáo sư Trần Văn
Giàu cho rằng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm:
yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [19,
tr.94].
Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức truyền thống
thường được đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật chẳng hạn, Nghị
quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng đã
khẳng định: “Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam
là: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như
thể thương thân”, “đức tính cần cù…” [55, tr.19].
Như vậy, từ quan điểm của các nhà khoa học cũng như quan điểm của Đảng
ta có thể khẳng định: dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức vô cùng
phong phú, trong đó các giá trị điển hình là: tinh thần yêu nước, lòng thương
người sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm.
Đó là những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phải được trân trọng và
phát huy làm cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức
khoa học, công nghệ của nhân loại để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là cái không dễ bị
phai mờ khi đối mặt với những biến chuyển dồn dập của xã hội hiện đại.

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay của đất nước, bên cạnh việc
tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, chúng ta cần phải kế thừa,



21
phát huy những truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình để tiến
tới xây dựng một hệ chuẩn mực đạo đức mới giàu tính dân tộc, mang đậm tính
nhân văn và phù hợp với những đòi hỏi mới của xã hội hiện đại.
1.2. Quan hệ giữa kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
với xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay
1.2.1. Quan hệ giữa kế thừa và phát huy với xây dựng đạo đức mới
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan đều luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng theo những qui luật nhất định. Một trong những qui luật chung biểu hiện khuynh
hướng của sự phát triển là qui luật phủ định của phủ định mà kế thừa và phát huy là một
đặc trưng cơ bản. Tính kế thừa thực chất là: “mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cái mới
và cũ trong quá trình phát triển” [57, tr.269]. Trong mối quan hệ đó, cái mới luôn ra đời
thay thế và phủ định cái cũ, nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ khăng khít với nhau, đó
là sự kế thừa trên cơ sở phát huy cái cũ để tạo ra cái mới. Cái được phát huy phải là cái
hợp lý, tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế của cái mới. Quá trình phủ định diễn ra
không phải là sự phủ định siêu hình, phủ định sạch trơn mà là sự phủ định biện chứng, đó
là “quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra
đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định” [18, tr.333].
Mặt khác, phủ định biện chứng, không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn
cái bị phủ định. Trái lại để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng
bao hàm trong nó việc giữ lại những nội dung tích cực đồng thời loại bỏ những yếu tố
tiêu cực của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng do vậy, là sự phủ định mang tính kế
thừa. Với ý nghĩa đó, phủ định đồng thời cũng là sự khẳng định. Diễn đạt tư tưởng này,
V.I.Lênin viết: “không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy

nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi
ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, - dĩ nhiên phép biện chứng
bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất
của nó, - không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ; vòng khâu của sự
phát triển, với sự duy trì từ cái khẳng định” [36, tr.245].
Giá trị của kế thừa và phát huy biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong
sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô. Nhờ việc giữ lại những
nhân tố tích cực của cái bị phủ định – tức là nhờ có kế thừa và phát huy mà cái mới tạo



22
tiền đề cho sự xuất hiện của mình. Trong dòng chảy của thời gian, cái quá khứ, cái truyền
thống không mất đi mà không để lại dấu vết nào trong cái hiện tại, tạo ra mối liên hệ chặt
chẽ và sống động giữa các sự vật, hiện tượng trong quá khứ với hiện tại và tương lai. Mối
liên hệ này biểu hiện khuynh hướng phát triển đi lên của các sự vật hiện tượng.
Vậy kế thừa và phát huy với xây dựng cái mới là gì?
Xét về thực chất, đó chính là biểu hiện khuynh hướng phát triển đi lên của các sự
vật. Đó là kết quả của quá trình vận động phát triển của sự vật để cái mới ra đời được
hoàn thiện hơn. Trong quá trình vận động phát triển, những yếu tố tích cực của cái cũ
được giữ lại, được cải biến để tham gia vào sự vật mới với tư cách là yếu tố cấu thành của
nó. Con đường phát triển đó không phải là bước đi thuần tuý mà là một khuynh hướng
trải qua nhiều giai đoạn bao hàm trong nó những bước quanh co, phức tạp, nó không diễn
ra theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. V.I. Lênin viết: “Sự phát triển hình như
diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn
(“Phủ định của phủ định”); Sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không phải
theo đường thẳng” [35, tr.65]. Sự nối tiếp nhau của các vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận
của sự phát triển, sự tiến hoá từ thấp đến cao. Mỗi một vòng xoáy mới thể hiện một trình
độ cao hơn của sự phát triển đồng thời dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại
vòng trước. “Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng chính là sự phát triển

dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn” [18, tr.337].
Như vậy, kế thừa và phát huy để tạo ra cái mới là một quá trình mang tính quy
luật, biểu hiện đặc trưng của sự phát triển, bất kể đó là sự phát triển trong tự nhiên, xã hội
hay tư duy. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, tính kế thừa và phát huy có những đặc
thù riêng. Quá trình kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng có
những đặc thù riêng của nó.
1.2.2. Nội dung kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống với xây dựng
đạo đức ở nước ta hiện nay
Giá trị đạo đức truyền thống có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và
phát triển của dân tộc, nên mọi dân tộc trong mọi thời đại đều phải biết kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống của chính dân tộc mình. Giáo sư Vũ Khiêu khẳng
định: “Truyền thống là một điều kiện thiết yếu của quá trình duy trì và phát triển đời sống
xã hội” và “với truyền thống, con người, xã hội được tiếp thu những thành tựu của người
đời trước, rút ngắn được thời gian, không phải mò mẫm lại từ đầu. Con người sinh ra

×