Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Vai trò của gia đình trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 129 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM THỊ YẾN




VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ HỆ TRẺ
VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học





Hà Nội - 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM THỊ YẾN


VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ HỆ TRẺ
VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phi Yến




Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn Thạc sỹ với đề tài “Vai trò của gia
đình trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt
Nam hiện nay” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị

Phi Yến là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2014
Học viên

Phạm Thị Yến



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến thức trong những năm học qua, giúp
tôi nắm vững những vấn đề lý luận và phương pháp luận để hoàn thành luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Phi Yến đã nhiệt
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian hoàn thành đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2014
Học viên

Phạm Thị Yến


1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3

1. Lí do chọn đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu 6
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp mới của đề tài 10
7. Ý nghĩa của luận văn 10
8. Kết cấu của luận văn 11
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ
CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1.1 Gia đình và vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ 12
1.1.1 Khái niệm, kết cấu, cấu trúc, chức năng của gia đình 12
1.1.2 Biểu hiện vai trò giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ
của gia đình Việt Nam 25
1.2 Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ là một tất yếu. 54
1.2.1 Gia đình là môi trường giáo dục đạo đức nền tảng, cơ bản của
mỗi con người 54
1.2.2 Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một trong những chức năng
của gia đình 57
1.2.3 Vai trò giáo dục đạo đức của gia đình gia tăng do ảnh hưởng tiêu
cực của kinh tế thị trường và xã hội mở 58
Kết luận chƣơng 1 61

2
CHƢƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO THẾ HỆ
TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 63

2.1 Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay. 63
2.1.1 Thực trạng gia đình Việt Nam và thanh thiếu niên - đối tượng
giáo dục đạo đức truyền thống trong gia đình Việt Nam hiện nay. 63
2.1.2 Thực trạng nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức truyền
thống cho thế hệ trẻ trong gia đình Việt Nam hiện nay 70
2.1.3 Những vấn đề đặt ra và nguyên nhân của nó 93
2.2 Giải pháp nâng cao vai trò giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
của gia đình đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay 103
Kết luận chƣơng 2 112
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
PHỤ LỤC 123





3
DANH MỤC BẢNG

Biểu 2.1: Nội dung gia đình giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ: 72
Biểu 2.2: Quan niệm về chữ Hiếu 73
Biểu 2.3: Mức độ ảnh hưởng đến con cái của các vấn đề xã hội 76
Biểu 2.4: Phương pháp giáo dục: 77
Biểu 2.5: Những biện pháp xử lí khi con cái mắc lỗi 79
Biểu 2.6: Tỷ lệ thanh thiếu niên từng bị người trong gia đình gây thương tích 81
Biểu 2.7: Thái độ của trẻ khi gặp bạo lực gia đình 84
Biểu 2.8: Những khó khăn gia đình gặp phải trong quá trình giáo dục đạo
đức truyền thống cho con cái 84

Biểu 2.9: Những khó khăn cha mẹ gặp phải khi giáo dục con cái 85

4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới đất nước, mỗi người dân Việt Nam nói
chung và thế hệ trẻ nói riêng đều cần trau dồi những phẩm chất đạo đức
đáp ứng công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Phẩm chất đạo đức ấy
được hình thành và củng cố ngay từ trong gia đình. Song trong điều kiện
biến động của xã hội hiện nay, vai trò giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức
truyền thống gặp nhiều thách thức. Những phẩm chất đạo đức như: kính,
hiếu, lễ độ, thật thà, trung thực cho đến yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội,
cần cù, sáng tạo, có kỉ luật cao trong lao động, sống có lương tâm, có trách
nhiệm với người khác, với xã hội, sống có nghị lực rất cần xây dựng và
vun đắp ngay trong gia đình nhưng không hề dễ thực hiện khi có những tác
động phức tạp từ xã hội.
Đạo đức là phần quan trọng trong việc xây dựng con người mới
XHCN. Thông qua giáo dục đạo đức trong gia đình, ngay từ khi còn nhỏ,
con người đã học được cách điều chỉnh mình, hoàn chỉnh dần nhân cách
qua các quan hệ với người khác. Có thể nói rằng, những mầm mống ban
đầu của nhân cách, đời sống tình cảm, những quan niệm về cuộc sống
đều được hình thành ngay trong gia đình. Thấy được vai trò quan trọng của
giáo dục đạo đức trong gia đình đối với thế hệ trẻ, gần đây nhiều nhà
nghiên cứu, các tổ chức quốc tế quan tâm, đặc biệt là UNFPA (quỹ dân số
Liên Hợp Quốc, (tên tiêng Anh: United Nations Fund for Population
Activities)), UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hiệp quốc ( tên tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and
Cultural Organization)). Ở Việt Nam, giáo dục đạo đức trong gia đình đã
trở thành nội dung vô cùng quan trọng được đưa vào giảng dạy ở các nhà
trường phổ thông, các trường cao đẳng và đại học. Cũng ngay trong chính


5
gia đình, những kinh nghiệm ứng xử, những giá trị đạo đức truyền thống
của ông bà, cha mẹ trở thành căn cứ, thành tấm gương định hướng trong
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Hướng dẫn những hành vi đạo đức nên
làm, được làm hay những điều cấm kỵ không được phép trong ứng xử qua
cách làm của người lớn, qua những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, qua
những bài học kinh nghiệm của thế hệ đi trước ngấm dần một cách tự nhiên
vào mỗi đứa trẻ và trở thành hành trang của chúng khi trường thành, giúp
chúng hòa nhập vào quan hệ xã hội dễ dàng hơn. Trong những hành trang
đạo đức mà trẻ được trang bị, có cả những giá trị đạo đức truyền thống mà
thành viên nào trong xã hội cũng có thể có, có thể hiểu, vì thế mà dễ dàng
chấp nhận. Rõ ràng yếu tố đạo đức truyền thống của gia đình có vai trò
quan trọng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của đất nước. Tạo ra những người chủ đất nước có đạo
đức XHCN để xây dựng CNXH, trong đó có những giá trị đạo đức truyền
thống cần được bảo tồn, phát huy và những giá trị đạo đức mới mang tính
thời đại trước hết và quan trọng nhất vẫn là gia đình.
Trong tác phẩm “Emile hay là về giáo dục” của Rutxo có nói về vai
trò của gia đình: “Đứa trẻ được một người cha có óc phán đoán đúng đắn
song kiến thức hạn chế giáo dục sẽ tốt hơn là được ông thầy giỏi giang nhất
thế giới giáo dục, bởi nhiệt tình hăng hái bù cho tài năng tốt hơn là tài năng
bù cho nhiệt tình hăng hái” [94, tr 48]. “Không có bức tranh nào dễ thương
hơn bức tranh gia đình nhưng chỉ một nét hỏng khiến mọi nét khác đều xấu
xí, biến dạng” [94, tr 49]. “Một người cha khi sinh thành và nuôi dưỡng
con cái, chỉ mới thực hiện một phần nhiệm vụ mà thôi. Người cha ấy mắc
nợ giống loài những con người, xã hội những con người có tính hợp quần,
mắc nợ quốc gia những công dân. Bất kì người nào có thể trả ba món nợ
này mà không thực hiện đều có tội và có lẽ mắc tội lớn hơn nếu chỉ trả nửa


6
vời. Ai không thể làm tròn nghĩa vụ làm cha thì không có quyền làm cha.
Chẳng có cảnh nghèo nào, công việc nào, sự tôn trọng nào của một người
được miễn cho người cha việc nuôi dưỡng con và tự mình dạy dỗ chúng”
[94, tr 49].
Đối với thế hệ trẻ, Đảng ta khẳng định "Tăng cường giáo dục chính
trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên” [25, tr 119]. Hiện
nay, những tác động đa chiều của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đòi hỏi chúng ta một mặt, phải quan tâm tới phát triển kinh tế xã
hội, tạo ra cuộc sống đầy đủ cho nhân dân, mặt khác duy trì và phát huy giá
trị đạo đức truyền thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ, khắc phục sự suy đồi phẩm
chất đạo đức của một bộ phận dân cư đi ngược thuần phong, mỹ tục của
dân tộc. Một trong những biện pháp khắc phục tình trạng suy thái xuống
cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo
ngại, nhất là lớp trẻ là chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động giáo dục đạo đức
truyền thống Việt Nam hiện nay. Có như thế chúng ta mới “hòa nhập mà
không hòa tan”, mới kiên định con đường đi lên CNXH với bản chất là
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [25, tr 25].
Với quan điểm triết học, muốn làm rõ hiện trạng giáo dục đạo đức
truyền thống cho thế hệ trẻ trong gia đình và tìm ra giải pháp khả thi để
phát huy tốt hơn nữa những tác động tích cực của nó đối với việc hình
thành con người mới XHCN, vì thế tôi đã lựa chọn vấn đề “Vai trò của gia
đình trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong gia đình là một vấn đề
bức thiết quan trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường với nhiều biến động xã hội, đạo đức gia đình ngày càng

7

xa rời đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu bàn về giáo dục đạo đức trong gia đình: Macarenco (1971) với Nói
chuyện về giáo dục gia đình, NXB Kim Đồng. Nội dung tác phẩm bàn về
giáo dục gia đình, tập trung vào vấn đề giáo dục con cái trong gia đình Xô
Viết hiện thời. Ông cho rằng, đối với con cái cần phải giáo dục ngay từ khi
chúng còn nhỏ. Giáo dục đó không phải là quá khó như mọi người vẫn
nghĩ, tất cả các bậc cha mẹ đều có thể làm được, hơn nữa đó còn là một
công việc lí thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc.
Nguyễn Đình Xuân (1997): Giáo dục đời sống gia đình, NXB đại
học Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm là một tài liệu hữu ích trong quá trình
giảng dạy và học tập của các thầy cô giáo và học sinh trong nhà trường.
Đồng thời nó còn là tài liệu cần thiết cho các bậc cha mẹ, các bạn nam nữ
thanh niên đang chuẩn bị bước vào cuộc sống gia đình. Nội dung chủ yếu
của tác phẩm là đi sâu nghiên cứu mọi khía cạnh trong đời sống gia đình:
giáo dục gia đình trong mối quan hệ cha mẹ-con cái, vợ-chồng Vai trò
của cha mẹ trong giáo dục con cái, phương pháp và cách thức dạy con nên
người, hôn nhân gia đình, giáo dục giới tính
Đức Minh (chủ biên): Khoa học giáo dục con em trong gia đình của
Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979. Cuốn sách
này đã giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn
mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lí luận,
những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ.
Ở nước ta, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng đời sống văn hóa (trong đó có đời sống đạo
đức) và con người Việt Nam thời đại mới như: “Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam” của G.S.Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã
hội, 1980), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức

8
trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Tạp chí Nghiên cứu

lí luận, 2/1987), “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS. Trần Đình Hựu
(Nxb Văn hóa, Hà Nội 1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường
trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của TS Nguyễn Thế
Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự tác động hai mặt của cơ chế thị
trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của PGS.TS Nguyễn Tĩnh
Gia (Tạp chí Nghiên cứu lý luận 2/1997), “Giá trị truyền thống, nhân loại
và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của PGS
Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998), “Sự biến đổi của thang giá
trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho
đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ
chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999), “Từ chủ nghĩa
yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của PGS.TS
Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí Triết học, 9/2005), “Từ đạo đứctruyền thống
đến đọa đức cách mạng Hồ Chí Minh” của PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt (Tạp
chí Nghiên cứu lí luận, 7/2006).
Ngoài ra còn một số những nghiên cứu của các nhà xã hội học, triết
học, tâm lí học về vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống trong gia đình:
Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình truyền thống trong
nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay của Lê Ngọc Anh, (tạp chí triết học
số 1, năm 2002): Hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong điều kiện bị tác động
bởi nên kinh tế thị trường và xu hướng trong mối quan hệ giữa những thành
viên trong nền kinh tế thị trường đó. Công trình Gia đình và vấn đề giáo
dục gia đình của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, xuất bản
năm 1994: Cuốn sách nghiên cứu về gia đình Việt Nam và việc thực hiện
các chức năng của gia đình, một số vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu gia
đình Việt Nam. Những vấn đề lí luận, phương pháp luận; quá trình biến đổi

9
của gia đình Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại. Bài viết Văn hóa gia
đình và vấn đề giáo dục con cái xưa và nay của Giáo sư Lê Thi (đăng trên

tạp chí triết học, số 7, năm 2003), bài viết đã nêu nên thực trạng việc giáo
dục con cái ở các gia đình Việt Nam hiện nay so với truyền thống đã có gì
đổi mới, có những khó khăn, thuận lợi gì?
Các công trình trên đây đều đề cập ở những mức độ khác nhau đến
vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Cho đến nay
hầu hết các tác giả đều thừa nhận, dù việc gìn giữ và phát huy đạo đức
truyền thống là rất quan trọng, xong việc giáo dục đạo đức truyền thống ấy
đã làm đến đâu và đạt được những gì thì việc làm đó mới chỉ là kết quả bước
đầu, mới chỉ là phát hiện những vấn đề, còn trên những khía cạnh cụ thể cũng
cần có sự đầu tư hơn nữa để nghiên cứu mộ cách tổng thể, khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở khảo sát thực trạng, những yếu tố tác động đến giáo dục
đạo đức truyền thống với thế hệ trẻ nhằm chỉ ra vai trò của gia đình trong
việc giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ gia đình và vai trò của gia điình trong việc giáo dục
thế hệ trẻ.
Thứ hai, làm rõ giá trị đạo đức truyền thống của Việt Nam
Thứ ba, phân tích và làm rõ việc phát huy vai trò của gia đình trong
việc giáo dục thế hệ trẻ là một tất yếu.
Thứ tư, phân tích thực trạng việc phát huy vai trò của gia đình trong
giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.

10
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
gia đình trong việc giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu vai trò của gia đình Việt Nam hiện nay trong giáo
dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ. Đề tài tập trung nghiên cứu tác
động của giáo dục gia đình đối với lứa tuổi vị thanh niên và thanh niên từ
14 - 21 tuổi.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới
nội dung được đề cập trong luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa
lôgíc và lịch sử, giữa lí luận và thực tiễn…Luận văn cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp
bảng, phiếu điều tra…
6. Đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu về giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ
trong gia đình Việt Nam hiện nay không chỉ dừng lại ở các biểu hiện bề
ngoài của các hiện tượng đạo đức của con cái trong mỗi gia đình mà phải đi
sâu vào tìm hiểu nguyên nhân của các hiện tượng đó, từ đó đưa ra những
phương hướng, giải pháp phù hợp góp phần vào việc giáo dục đạo đức
truyền thống ở Việt Nam hiện nay một cách có hiệu quả.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả của nghiên cứu luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những
luận điểm và các vấn đề lí luận và thực tiễn về gia đình và giáo dục gia

11
đình trong việc nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
trong gia đình, đồng thời cũng là tài liệu nghiên cứu cho học sinh, sinh viên
quan tâm đến những vấn đề có liên quan trong luận văn.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 4 tiết.







12
CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
TRONG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO
THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Gia đình và vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ
1.1.1 Khái niệm, kết cấu, cấu trúc, chức năng của gia đình
1.1.1.1 Khái niệm, đặc trưng
Có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, tuỳ theo góc độ nhìn
nhận của mỗi môn khoa học xã hội và nhân văn. Trong tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức" (1845), khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn
tại của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi gia đình là một trong ba
mối quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại:
Quan hệ thứ nhất là giữa con người với tự nhiên; Quan hệ thứ hai là giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất; và Quan hệ thứ ba là gia
đình. C. Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác sinh sôi nảy nở -
đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”[71, tr
41]. Với quan điểm này, khái niệm gia đình được nhìn nhận với một số nội
dung sau: Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại
của xã hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản

thân mình thì đồng thời cũng tạo ra gia đình. Thứ hai, chức năng chính của
gia đình là tái tạo ra, sinh sôi nảy nở con người. Thứ ba, gia đình được tạo
bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (chồng - vợ), quan hệ huyết
thống (cha mẹ - con cái).
Theo tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý thì “Gia đình là một
thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc
duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái. Các mối quan hệ gia đình

13
còn được gọi là quan hệ họ hàng. Đó là những sự liên kết ít nhất cũng là của
hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc nhận nuôi con cái.
Những người này có thể sống cùng hoặc khác mái nhà với nhau”. [57, tr 54].
PTS. Ngô Công Hoàn cho rằng: "Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội.
Các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết
thống, tâm sinh lí, cùng chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong
các thời điểm lịch sử nhất định" [47, tr 8].
Theo một khía cạnh khác, cố giáo sư Trần Đình Hượu trong bài viết
“Gia đình truyền thống Việt Nam và những sự chuyển đồi để thích ứng với
thời đại mới”, đã cho rằng: “Gia đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc
dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hóa. Đó là một hiện tượng
đặc trưng của văn hóa dân tộc… Gia đình là thiết chế cơ sở, nằm bên cạnh
các thiết chế xã hội khác như họ, làng xóm, phường hội, dân tộc, nhà
nước…” [54, tr 79]. Từ góc độ văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, ta có
thể đồng tình với ý tưởng trên coi gia đình là một thiết chế xã hội đồng thời
cũng là một hiện tượng đặc trưng của văn hóa dân tộc, bộc lộ những giá trị
văn hóa, đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Các định nghĩa trên đây đều nhấn mạnh đến sự gắn kết chặt chẽ giữa
các thành viên - đặc trưng quan trọng nhất của gia đình. Như vậy xét một
cách toàn diện thì có thể hiểu: Gia đình là một thể chế xã hội cơ bản xuất
phát của con người, hay nói cách khác thì gia đình chính là trường học đầu

tiên và suốt đời của con người. Gia đình là nhóm nhỏ được liên kết hôn
nhân theo quy luật xã hội trước tiên, sau đó mới là quy luật tính dục tự
nhiên, gia đình chỉ có ở con người và xã hội loài người.
Để nhận biết một gia đình có rất nhiều đặc trưng cơ bản, một trong
những đặc trưng quan trọng của gia đình chính là: Trong gia đình giữa các
thành viên gắn bó với nhau trên cơ sở văn hoá - bố mẹ có nhiệm vụ giáo

14
dục con cái thông qua nếp sinh hoạt, phong tục, tập quán để tạo ra những
con người hữu ích cho xã hội, phù hợp với thời đại. Mỗi gia đình có một
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau vì vậy nội dung và phương pháp giáo dục
con cái của mỗi gia đình cũng mỗi khác. Có rất nhiều loại hình gia đình
trong xã hội, người ta có thể dựa vào đặc điểm, tính chất của mỗi gia đình
mà phân chia cho phù hợp: căn cứ vào thế hệ cùng chung sống với nhau,
căn cứ vào số con trong gia đình, căn cứ vào cơ cấu, tính chất tiến bộ,
thành phần giai cấp, nghề nghiệp hay căn cứ vào mức sống và sinh hoạt
1.1.1.2 Kết cấu, cấu trúc của gia đình
Kết cấu gia đình: Các mối quan hệ bên trong của gia đình, bao gồm quan
hệ giữa vợ - chồng, quan hệ giữa cha mẹ - con cái, quan hệ giữa anh - chị - em
và quan hệ giữa ông bà - con cháu.
Quan hệ giữa vợ - chồng
Văn hóa gia đình Việt Nam xây dựng trên nền tảng đạo lí thủy chung, tình
nghĩa. Trong xã hội cổ truyền Việt Nam, dù có ảnh hưởng Nho giáo “tòng
phu”, nhưng văn hóa gia đình Việt Nam vẫn là hòa thuận, bình đẳng theo quan
điểm “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Quan hệ giữa cha mẹ - con cái
Văn hóa gia đình Việt Nam lấy “đạo hiếu” làm trọng. Vì thế, trong gia
đình truyền thống Việt Nam, con cái đối với cha mẹ phải kính trọng, vâng lời,
tu dưỡng đạo đức, làm nên sự nghiệp để báo hiếu, đền đáp công ơn dưỡng dục,
sinh thành. Việc phụng dưỡng cha mẹ là đạo lý mà con cái phải thực hiện

thường xuyên trong suốt cuộc đời. Về phía cha mẹ có quyền quyết định mọi
việc đối với con cái, đồng thời phải có trách nhiệm, nghĩa vụ nuôi dưỡng, bao
bọc, dạy bảo các con nên người với niềm mong ước và sự hãnh diện khi “Con
hơn cha la
̀
nhà có phúc”. Người làm cha mẹ phải biết hy sinh, sống bao dung,
tu dưỡng bản thân, làm việc thiện và xây dựng nề nếp gia đình để truyền lại cho

15
con cháu. Mối quan hệ cha mẹ - con cái luôn thấm nhuần trong tâm thức mỗi
người Việt Nam qua tục ngữ - ca dao người xưa để lại:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Quan hệ anh - chị - em
Người Việt quan niệm anh chị em là “ruột rà máu thịt” vì vậy mà “máu
chảy ruột mềm”. Gia đình truyền thống Việt Nam tuy có ảnh hưởng Nho giáo
“Quyền huynh thế phụ”, nhưng vẫn đề cao giá trị “trên kính dưới nhường”, hòa
thuận với nhau, vì:
Anh em như thể chân tay,
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Cấu trúc gia đình: được xác định chính là những thành tố tạo nên
gia đình và quan hệ qua lại giữa các thành tố đó. Nói một cách khác, cấu
trúc gia đình là số lượng, thành phần và mối quan hệ giữa các thành viên và
các thế hệ trong gia đình. Từ đây, ta có thể thấy gia đình được cấu trúc theo
chiều dọc và chiều ngang: Chiều ngang là quan hệ hôn nhân và chiều dọc là
quan hệ huyết thống.
Nếu ta căn cứ vào thế hệ cùng chung sống với nhau, người ta có thể
phân chia gia đình thành hai loại:

+ Gia đình hạt nhân: Gia đình chỉ có hai thế hệ cùng chung sống: cha mẹ và
con cái. Trong thời hiện đại, loại gia đình này chiếm ưu thế
+ Gia đình mở rộng: là gia đình có từ ba thế hệ trở lên: ông bà, cha mẹ, con
cái, cũng có thể là cha- mẹ- con cái có thêm chú- cô
Căn cứ vào số con, người ta phân ra làm hai loại: Gia đình nhỏ, gia
đình lớn

16
Căn cứ vào cơ cấu, người ta chia gia đình thành hai loại: Gia đình
đầy đủ, gia đình không đầy đủ
Căn cứ vào tính chất tiến bộ, người ta chia gia đình thành hai loại:
Gia đình tiên tiến, gia đình lạc hậu.
Căn cứ vào thành phần giai cấp hoặc nghề nghiệp của đôi vợ chồng
có thể chia ra thành: Gia đình công nhân, gia đình nông dân, gia đình trí
thức, gia đình quân nhân, gia đình thương nhân, gia đình quan chức Công
việc của cha mẹ quyết định đến thu nhập, kinh tế của gia đình, đồng thời
cũng có một phần tác động đến việc giáo dục đạo đức cho con cái. Điều
quan trọng hơn hết là nhận thức của cha mẹ trong việc giáo dục đạo đức
cho con và nội dung phương pháp giáo dục con cho phù hợp.
Căn cứ vào mức sống và sinh hoạt thì ta có 3 loại: Gia đình thượng
lưu giàu có, gia đình trung lưu sống sung túc đầy đủ và ổn định, gia đình hạ
lưu nghèo không đủ ăn đủ tiêu, cuộc sống vất vả bấp bênh Dựa trên thực
tế của gia đình Việt Nam hiện nay, ta có thể thấy được tác động to lớn của
vấn đề thu nhập, kinh tế gia đình đến việc giáo dục con cái. Lẽ đương
nhiên, một gia đình sung túc đầy đủ sẽ có điều kiện chăm lo cho con cái
một cách toàn diện, có những phương pháp giáo dục con phong phú. Gia
đình khó khăn về kinh tế thì cha mẹ luôn luôn phải lo lắng về cơm áo gạo
tiền, ít có thời gian quan tâm đến con cái hơn. Tuy nhiên ta phải thấy rằng
trong xã hội Việt Nam hiện nay không ít trường hợp những gia đình giàu
có, con cái có đầy đủ về vật chất nhưng lại luôn thiếu thốn tình cảm của cha

mẹ do cha mẹ chỉ lo làm ăn không chú ý đến giáo dục con cái, dẫn đến
nhiều hệ quả không tốt như: con cái đua đòi hư hỏng, trong điều kiện kinh
tế cho phép con cái lại càng dễ sa ngã hơn. Vì vậy, trong điều kiện xã hội
hiện nay, vấn đề giáo dục con cái ngày càng phức tạp, xã hội càng phát
triển, vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho con cái trong gia đình càng
gặp phải khó khăn hơn.

17
1.1.1.3 Chức năng của gia đình
Từ lâu người ta đã coi gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình
khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và
hưởng hạnh phúc. Tế bào gia đình lỏng lẻo, không đảm đương tốt các vai
trò và chức năng của mình, xã hội có nguy cơ xáo động ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy
việc củng cố nền tảng gia đình là phải thực hiện tốt các chức năng cơ bản
và đó luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Nhiều người cho
rằng, các chức năng gia đình đang chuyển từ môi trường nhỏ sang môi
trường lớn hơn. Nhiều nhà nghiên cứu về gia đình cũng đã phải thừa nhận
rằng: khi xã hội có những thay đổi thì gia đình luôn có sự thích nghi, có thể
là chậm hơn, thể hiện sự thủ cựu và tân tiến của nó.
Chúng ta cần hiểu rõ trong xã hội, gia đình có các chức năng cơ bản sau:
* Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người
Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn
nhân lực cho gia đình và xã hội. Theo dòng văn hóa, ở mỗi thời đại, việc
sinh sản của gia đình có những hệ quả nhận thức khác nhau về giới tính, số
lượng con người. Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác
định nguồn cội của con người, từ đó tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên
tôn ty gia đình, trật tự xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản cho nòi giống
phát triển.
Tái sản xuất ra con người là một chức năng đặc thù của gia đình.

Chức năng này vừa là bản năng nhằm mục đích duy trì nòi giống, cung cấp
những công dân mới, bảo đảm sự phát triển liên tục và trường tồn của loài
người, mặt khác là biểu hiện cao nhất về tình cảm rất tự nhiên của cá nhân,
về sinh đẻ con cái. Việc sinh đẻ diễn ra trong từng gia đình nhưng lại quyết
định mật độ dân cư của mỗi quốc gia và quốc tế - một yếu tố vật chất cấu

18
thành của tồn tại xã hội. Vì mỗi gia đình là một tế bào cấu thành nên xã
hội, do đó tăng hay giảm thành viên trong gia đình đương nhiên dẫn đến sự
tăng hay giảm dân số của quốc gia và thế giới. Với mỗi giai đoạn phát triển
của quốc gia hay dân tộc, vấn đề dân số lại có nhu cầu tăng hay giảm khác
nhau. Do vậy, việc sinh đẻ sẽ phụ thuộc vào đó mà được khuyến khích hay
hạn chế về số lượng.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên
trong gia đình vẫn là ưu thế bởi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống
người, là cơ sở, nền tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự
phát triển.
* Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.
Gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân
cách cho mỗi con người trong xã hội. Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá
nhân được những người thầy thân yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến
thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng, hòa nhập vào đời sống cộng đồng.
Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong gia đình ( Cha mẹ thương yêu
chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý vừa
nghiêm khắc và bao dung với con cháu ), giữa gia đình với họ hàng, với
láng giềng, với cộng đồng ( trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan
hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối ), qua đó giúp con cháu tiếp thu một
cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh
mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Đặc điểm chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình Việt Nam

truyền thống: Nhắc đến nhiều nhất trong nội dung giáo dục của gia đình là
đạo đức và cách làm người: Người xưa có câu: “tiên học lễ, hậu học văn”,
giáo dục đạo đức, giáo dục cách làm người trước rồi mới đến giáo dục tri
thức. Việc chú trọng đến giáo dục đạo đức trong gia đình cũng xuất phát

19
một phần lớn từ ảnh hưởng của Nho giáo. Nho giáo là một học thuyết căn
cứ vào gia đình để hình dung thế giới, theo mô hình gia đình êm ấm để xây
dựng xã hội lí tưởng. Con người nhìn chung là con người của gia đình. Từ
thiên tử cho tới dân thường, ai ai cũng lấy tu thân làm gốc, việc tu dưỡng
đạo đức của mọi người căn bản là rèn luyện phẩm chất của con người trong
gia đình đó. Chính vì vậy, trong gia đình Việt truyền thống, việc giáo dục
đạo đức luôn được đề cập đến nhiều nhất.
Sự đánh giá của xã hội với gia đình luôn lấy tiêu chí nhìn vào con
cái: Ông cha ta quan niệm rằng, với cha mẹ, không có tài sản nào lớn hơn
con cái, con cái cũng chính là của để dành lớn nhất của cha mẹ. Cha mẹ
đầu tư cho con cái là đầu tư cho tương lai, con cái là niềm hi vọng lớn lao
nhất của cha mẹ, chính vì vậy, mỗi bậc cha mẹ đều mong muốn dạy dỗ con
mình giỏi giang, nên người. Sản phẩm của người cha người mẹ chính là
đứa con. Ít người nhận ra điều đó để thấy được tầm quan trọng của nó. Có
thể coi, con cái là sản phẩm của cha mẹ. Câu này đúng theo cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng. Cha mẹ cưu mang chín tháng mười ngày vất vả sinh ra con.
Khi con cái lớn, ra ngoài xã hội, con cái tốt thì xã hội được nhờ, con cái hư
thì không chỉ cha mẹ mà xã hội cũng phải chịu hệ quả. Phải nhìn nhận như
vậy thì mới thấy sự nghiệp sinh con, dưỡng dục con là vô cùng to lớn và
quan trọng. Cũng thông qua con cái, mọi người có thể nhìn nhận được khả
năng dạy dỗ con cái của cha mẹ, đạo đức của bậc làm cha làm mẹ. Vì vậy,
bất cứ ai đánh giá một gia đình có nề nếp hay không, có vững trãi hay
không đều lấy tiêu chí con cái để đánh giá.
Mục đích giáo dục trong gia đình truyền thống khác nhau theo loại

hình gia đình, những nhà nghèo khó vẫn cố gắng cho con học đến nơi đến
chốn: Người Việt xưa nay có truyền thống hiếu học, biểu hiện của truyền
thống hiếu học là thái độ luôn coi trọng sự học, coi trọng người có học. Ở

20
nước ta, tư tưởng coi đọc sách là thanh cao là quan niệm rất phổ biến đối
với các nhà Nho. Dĩ nhiên nếu thái quá sẽ trở nên tiêu cực. Việc đề cao giá
trị của trí tuệ, thái độ trân trọng việc học hành cũng là điều được dân gian
hết sức quan tâm:
“Kho vàng không bằng một nang chữ” (nang là túi đựng)
“Người không học như ngọc không mài”.
Nhà văn hóa Nguyễn Trãi đã chỉ ra rằng, sự học là nguồn cội của tất
thẩy những thành công dù đó là nghề gì, dù người ấy là ai: trong “bảo kính
cảnh giới”, bài 46:
“Nên thợ nên thầy vì có học
Có ăn có mặc bởi hay làm” [103, tr141]
Người xưa có câu: Phi trí bất hưng (Không có trí tuệ thì không hưng
thịnh - không phát triển bền vững). Chính vì vậy mà dù cho là trong gia
đình Việt thời xưa hay gia đình Việt ngày nay, các bậc làm cha làm mẹ
cũng mong muốn cho con mình ăn học được đến nơi đến chốn, mong con
học hành giỏi giang.
Người cha thường giáo dục bằng sự nghiêm khắc, người mẹ thường
giáo dục bằng sự nhân từ, "thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi"
"con hư tại mẹ, cháu hư tại bà". Đây chính là do ảnh hưởng của nho giáo
đến gia đình truyền thống Việt Nam. Người xưa dùng Tình, Nghĩa, Lễ để
xây dựng gia đình. Một gia đình nề nếp đòi hỏi một người gia trưởng quan
tâm đến gia đình, có trách nhiệm, gương mẫu, công minh và uy tín. Cả nhà
phải tỏ lòng kính trọng uy quyền của người cha trong gia đình, nhất là
người mẹ không bao giờ cãi chồng trước mặt con cái. Trong việc giáo dục
con cái, người cha phải nghiêm, nói ít nhưng đúng, công bằng và dứt khoát,

thương con nhưng cương quyết không để cho con nhờn, tự ý muốn làm gì
thì làm. Người mẹ cũng có vai trò rất lớn trong giáo dục con cái, nhưng lại

21
giáo dục cách khác: giáo dục bằng lòng thương, bằng sự hiền từ. Người cha
nghiêm làm con sợ, người mẹ hiền từ làm con yêu mến, không dám và
không nỡ làm bậy.
Giáo dục là một quá trình, trong đó cá thể tiếp thu, học hỏi văn hóa
của xã hội, nhờ đó có thể được sinh ra một lần nữa. Đó là quá trình chiếm
lĩnh,tiếp nhận các kinh nghiệm xã hội, học những cái gì cần phải làm và
những cái gì không nên làm, như học về ngôn ngữ, học về các chuẩn mực
đạo đức, văn hóa, nghề nghiệp để thích ứng với xã hội. Gia đình không
phải là đơn vị duy nhất thực hiện chức năng giáo dục. Ngoài gia đình, còn
có nhà trường và các tổ chức xã hội đều tham gia giáo dục con người.
Nhưng có thể khẳng định giáo dục của gia đình đóng vai trò quan trọng
nhất bởi nó có những đặc trưng riêng mà nhà trường, xã hội hay bất kỳ một
tổ chức nào không có được.
Giáo dục của gia đình xuất phát từ tình cảm và thông qua tình cảm, có
khi không cần lời nói mà thông qua thái độ, việc làm, cách đối xử trong gia
đình Giáo dục của gia đình mang tính cá biệt và cụ thể, chú ý đến những nét
cá biệt của từng đứa trẻ, theo sự thay đổi cuộc sống gia đình và xã hội. Bởi
vậy, giáo dục của gia đình có tính thực tiễn, qua thực tế, bằng cuộc sống thực
tế để giáo dục và rất chú ý đến kết quả thực tế của việc giáo dục.
Gia đình là một tập thể không thuần nhất, các thành viên của gia đình
(như ông bà, cha mẹ, anh chị, ) khác nhau về giới tính, nghề nghiệp, tuổi
tác, địa vị xã hội, do đó giáo dục gia đình mang tính phối hợp nhiều mặt về
kiến thức và các mối quan hệ xã hội. Giáo dục gia đình chủ yếu dựa vào
phương pháp thuyết phục giảng giải, bằng tình cảm, vận động linh hoạt,
phong phú nhiều phương pháp và nghệ thuật giáo dục, đó là sự kết hợp
phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, kết hợp giữa uy quyền và

tình thương, uy quyền với bao dung và tha thứ. Phạm vi của giáo dục

×