Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 103 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO








VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
GIA ĐÌNH HẠT NHÂN Ở THÀNH PHỐ
THÁI BÌNH HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
















HÀ NỘI - 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO






VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
GIA ĐÌNH HẠT NHÂN Ở THÀNH PHỐ
THÁI BÌNH HIỆN NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Linh Khiếu







Hà Nội - 2014


3
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan, Luận văn này là do tôi độc lập nghiên cứu, xây
dựng dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Nguyễn Linh Khiếu.
Luận văn có tham khảo các công trình khoa học khác với tinh thần

cầu thị. Các trích dẫn tham khảo được chú thích đầy đủ, chi tiết. Các kết
quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kì công trình khoa học nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về
Luận văn của mình!

Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2014
Tác giả Luận văn



Nguyễn Thị Phƣơng Thảo

4
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG GIỚI 12
1.1. Lí luận chung về gia đình và bình đẳng giới trong gia đình 12
1.1.1. Quan niệm về gia đình và gia đình hạt nhân 12
1.1.2. Giới và bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân 20
1.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến vấn đề bình đẳng giới
trong gia đình hạt nhân tại thành phố Thái Bình hiện nay 28
1.2.1 Những quan niệm trong gia đình truyền thống 28
1.2.2. Chính sách, pháp luật của nhà nước 32
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng khác 38

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
HẠT NHÂN Ở THÀNH PHỐ THÁI BÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
GIA ĐÌNH HẠT NHÂN Ở THÀNH PHỐ THÁI BÌNH HIỆN NAY 42
2.1. Thực trạng bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân ở
thành phố Thái Bình hiện nay 42
2.1.1. Bình đẳng giới trong phân công lao động gia đình 43
2.1.2. Bình đẳng giới trong tiếp cận, quản lí và kiểm soát
các nguồn lực của gia đình 47
2.1.3. Bình đẳng giới trong thể hiện quyền lực trong gia
đình và tham gia sinh hoạt cộng đồng 54

5
2.2. Một số vấn đề đang đặt ra đối với bình đẳng giới trong gia
đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình hiện nay 63
2.2.1. Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương chưa thực sự gắn với yếu tố giới 63
2.2.2 Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân chưa
được quan tâm thỏa đáng 65
2.2.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới, về
vai trò của phụ nữ có nhiều hạn chế 67
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy bình đẳng giới
trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình hiện nay 70
2.3.1. Xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương có tính tới yếu tố giới 70
2.3.2. Tăng cường các chính sách đảm bảo sự bình đẳng về
giới trong gia đình hạt nhân tại thành phố Thái Bình 77
2.3.3. Phát huy vai trò của đoàn thể, tăng cường công tác
giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và
hiểu biết về vai trò của phụ nữ, thúc đẩy sự bình đẳng

giới 81
2.3.4. Trang bị cho phụ nữ và nam giới kiến thức tạo điều
kiện để phụ nữ vươn lên bình đẳng với nam giới
trong gia đình và ngoài xã hội 85
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 97




6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Mức độ tham gia của chồng và vợ trong công việc nội
trợ và nuôi dạy con 45
Bảng 2.2: Người đứng tên giấy tờ sở hữu nhà ở, đất đai - theo giới
tính và nhóm điều tra 48
Bảng 2.3: Người quản lí tiền trong gia đình - theo giới tính và nhóm
điều tra 52
Bảng 2.4: Người thể hiện quyền lực gia đình và tham gia sinh hoạt
cộng đồng - theo giới tính 56













7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội càng phát triển, sự bình đẳng giữa nam và nữ càng cần được chú
ý. Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của nam và nữ, mức độ giải phóng của
phụ nữ trong xã hội phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Bình đẳng giới là
tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của quốc gia.
Bình đẳng giới có thể xem là một “cuộc cách mạng” gian nan và lâu dài
ở Việt Nam. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức con người
Việt Nam từ ngàn năm nay. Bất bình đẳng giới đã và đang tiếp tục trực tiếp và
gián tiếp để lại những hậu quả nặng nề cho xã hội Việt Nam. Hậu quả của bất
bình đẳng giới, phân biệt giới dẫn đến trong đời sống xã hội, phụ nữ bị đối xử
tệ bạc, bị rẻ rúng, bị tổn thương nặng nề. Vì lẽ đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào,
phụ nữ đều muốn thoát khỏi tình trạng này. Ở nước ta, thời gian qua, những
thành tựu về bình đẳng giới là rất đáng ghi nhận, nhưng bất bình đẳng giới
vẫn là nỗi bức xúc của xã hội. Hiện tượng bất bình đẳng giới mặc dù đã được
các phương tiện truyền thông đại chúng, dư luận xã hội nói đến rất nhiều,
nhưng bất bình đẳng giới vẫn mang tính phổ biến và để lại nhiều hệ lụy đối
với sự phát triển, thăng tiến của phụ nữ.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình vững chắc là nhân tố quan trọng
để ổn định và phát triển xã hội. Trong quá trình hiện đại hóa và hội nhập, gia
đình hạt nhân đang ngày một nhiều hơn và sẽ tiếp tục là xu hướng gia tăng.
Nhưng cũng chính trong các gia đình hạt nhân lại đối diện nhiều thách thức.
Thực tế cho thấy, nhiều gia đình hạt nhân chưa thích nghi được với hoàn cảnh
mới đã rơi vào khủng hoảng, thậm chí tan rã.
Bởi vậy, nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân nhằm nhận

diện, đánh giá, tìm giải pháp củng cố và xây dựng gia đình cũng là một khía

8
cạnh quan trọng để đánh giá sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, sự phát
triển của xã hội nói chung.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp có hệ thống sông, biển khép kín,
thuộc đồng bằng sông Hồng. Trong lịch sử, Thái Bình từng là tỉnh có vị trí địa
lí tương đối không thuận lợi về giao thông. Năm 1997 xây dựng cầu Triều
Dương nối liền Thái Bình với Hưng Yên, chấm dứt cảnh đò, phà tồn tại hang
trăm năm trong lịch sử. Sau đó việc xây dựng cầu Tân Đệ nối liền Thái Bình
với Nam Định mới thực sự mở ra cơ hội giao thương mạnh mẽ giữa Thái
Bình và các tỉnh.
Do đặc điểm vị trí địa lí như vậy nên việc phát triển kinh tế, giao lưu văn
hóa của Thái Bình với các tỉnh trong vùng từng có nhiều hạn chế. So với một
số tỉnh lân cận cùng trong hệ thống đồng bằng sông Hồng như Nam Định, Hải
Phòng, Hưng Yên, Hải Dương … thì Thái Bình là tỉnh đi sau về phát triển
kinh tế và giao lưu văn hóa hơn cả.
Thành phố Thái Bình là một trong tám đơn vị hành chính của tỉnh. Đây
vừa là trung tâm về mặt địa lí, vừa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của
tỉnh nhưng vẫn có những nét văn hóa khá điển hình của nông thôn Thành phố
có diện tích 67,7 km2, mười phường, chín xã, dân số 182,982 người.
Năm năm trở lại đây, thành phố Thái Bình đã phát triển hơn, thực sự hội
nhập kinh tế với các trung tâm kinh tế khác trong khu vực đồng bằng sông
Hồng. Hàng loạt nhà máy, xí nghiệp, trường học, cơ quan được xây dựng và
phát triển thu hút hàng trăm ngàn cán bộ, công nhân và người lao động tự do.
Họ “rời quê ra phố”, họ lấy nhau rồi sinh con đẻ cái, trong số đó có rất nhiều
cặp lập nghiệp lâu dài ở thành phố, vậy nên tỉ lệ gia đình hạt nhân tại thành
phố Thái Bình ngày một gia tăng.

9

Thành phố Thái Bình đang phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Cuộc sống
khấm khá mang lại cho con người no đủ về cơm ăn, áo mặc và các yếu tố vật
chất khác, nhưng chưa hẳn đã mang lại cho các gia đình trẻ (gia đình hạt
nhân) một tổ ấm thực sự. Bởi lẽ, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, bên
cạnh những người biết cân bằng cuộc sống, biết vượt lên chính mình trong
buổi giao thời để tự trang bị cho mình hành trang sống hợp lí với thực tế thì
vẫn còn số lượng lớn các bạn trẻ chưa giác ngộ, bị ảnh hưởng nặng nề bởi các
quan niệm truyền thống không còn phù hợp với hoàn cảnh mới.
Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới, thành phố Thái Bình cũng mang
những đặc trưng của một đô thị đang chuyển mình về kinh tế, văn hóa - xã
hội, đan xen truyền thống và hiện đại, những tiến bộ đáng tự hào và những
hạn chế tất yếu của buổi giao thời. Điều đó thể hiện rõ trong các gia đình, cụ
thể là trong mối quan hệ nam và nữ trong gia đình hạt nhân.
Thành phố Thái Bình chưa phải là một đô thị đã phát triển toàn diện,
phân công và sử dụng lao động trong xã hội chưa hợp lí, chưa phù hợp với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đáp ứng nhu cầu phát triển trong
gia đình nói chung và trong gia đình hạt nhân nói riêng ở đây rất cần sự kết
hợp hài hòa, bình đẳng nam và nữ để phát triển kinh tế, chăm sóc con cái, làm
việc nhà và hưởng thụ các phúc lợi xã hội phù hợp với thực tế đời sống. Sự
bất bình đẳng giới trong các gia đình hạt nhân sẽ là nguyên nhân dẫn tới sa sút
kinh tế, trẻ em không được chăm sóc chu đáo, xã hội kém phát triển.
Xuất phát từ thực tế trên, với mong muốn đóng góp một phần công sức
nhằm thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, tiến tới xây dựng và phát triển
gia đình bền vững, giải phóng phụ nữ và chăm sóc trẻ em ở thành phố Thái
Bình, tôi đã chọn đề tài “Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân ở
thành phố Thái Bình hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

10
Bình đẳng giới không phải là vấn đề mới. Trên thực tế, vấn đề này đã

được nghiên cứu từ nhiều thập kỉ trước. Mặc dù mới được du nhập vào nước
ta những năm đầu của thập niên 90 (thế kỉ XX) nhưng quan điểm giới đã thu
hút sự quan tâm của cả xã hội. Phù hợp với quan điểm giải phóng phụ nữ,
truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc và xu hướng phát triển của xã hội
hiện đại, quan điểm giới đã được triển khai nghiên cứu và tổ chức vận dụng
trong đời sống.
Thật vậy, hiện nay, ở nước ta có nhiều vụ, viện, trung tâm nghiên cứu,
quản lí về gia đình, phụ nữ và giới như: Vụ Bình đẳng giới (thuộc Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội); Viện Gia đình và giới (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Xã hội Việt Nam); Trung tâm Phụ nữ và phát triển (thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam); Trung tâm nghiên cứu về phụ nữ (ĐH Quốc gia Hà Nội); Trung tâm
nghiên cứu ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ và vị thành niên (tổ
chức phi chính phủ). Các cơ quan nghiên cứu này đang ngày càng thu hút sự
quan tâm, tìm hiểu của cả nam giới và phụ nữ, thu hút sự tham gia nghiên cứu
của các chuyên gia về giới, các nhà nghiên cứu và toàn xã hội.
Bên cạnh sự phát triển của các cơ quan, tổ chức chuyên sâu nghiên cứu và
hoạt động trong lĩnh vực giới, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này thời
gian qua cũng được công bố rất nhiều. Xin nêu một số tác phẩm tiêu biểu:
Một số công trình nghiên cứu cấp nhà nước của các giáo sư, chuyên gia
nổi tiếng trong lĩnh vực bình đẳng giới, phụ nữ và gia đình như: “ Phụ nữ và
bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam” (1998) của Giáo sư Lê Thi (Nxb Phụ
nữ); “Gia đình Việt Nam ngày nay” (1996) do giáo sư Lê Thi chủ biên, (Nxb
Khoa học xã hội); … Đây là những tác phẩm đặt cơ sở lí luận cho việc nghiên
cứu phụ nữ và gia đình theo phương pháp tiếp cận giới.
“Phụ nữ, giới và phát triển” của Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng
(1996); “Nghiên cứu và đào tạo giới ở Việt Nam” (1999) do Nguyễn Linh Khiếu

11
chủ biên; “Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại” (2002) của Trần Thị
Kim Xuyến; Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình” (2003) của Nguyễn Linh

Khiếu. Đây là những công trình nghiên cứu tạo cơ sở khoa học cho việc xây
dựng chính sách, chiến lược phát triển gia đình, đời sống người phụ nữ và bình
đẳng giới trong gia đình Việt Nam.
“Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” (2002) của Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn
Linh Khiếu. Các tác giả đã điều tra, phân tích, tổng hợp để đưa ra bức tranh chân
thực nhất về thực trạng gia đình Việt Nam và vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia
đình thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đây là công trình
nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cao, góp phần tạo lập cơ sở để các nhà hoạch
định chính sách, quản lí xã hội xây dựng và điều chỉnh các chính sách về phụ nữ
và gia đình.
“Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam hiện nay”
(2006) của Lê Thi chủ biên; “Bạo lực gia đình: Một sự sai lệch giá trị” (2007)
của Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh; Giới, việc làm và đời sống gia đình”
(2007) của Nguyễn Thị Hòa chủ biên; “Bình đẳng giới - vấn đề của mỗi người,
từng gia đình và cả cộng đồng” (2008) của Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng
cao năng lực cho phụ nữ; “Bình đẳng giới ở Việt Nam” (2008) do Trần Thị Vân
Anh, Nguyễn Hữu Minh chủ biên; …“Khoa học giới - những vấn đề lý luận và
thực tiễn’’ (2008) của Trịnh Quốc Tuấn - Đỗ Thị Thạch.
Ngoài các tác phẩm đã xuất bản còn có nhiều Luận án tiến sĩ, Luận văn
thạc sĩ từng nghiên cứu về lĩnh vực bình đẳng giới trong gia đình như: Luận
văn thạc sĩ triết học “Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam” (2010) của
Nguyễn Hoài Anh; “Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay” (2008) của Trần Thanh Hiền … Luận án tiến
sĩ Triết học “Bình đẳng về giới trong các gia đình nông thôn ở đồng bằng

12
sông Hồng hiện nay” (2002) của Chu Thị Thoa. Đây là công trình nghiên cứu
khá toàn diện, điển hình, vừa chi tiết vừa khái quát về bình đẳng giới ở đồng
bằng sông Hồng.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh của
vấn đề bình đẳng giới: bình đẳng giới nói chung trong xã hội Việt Nam; bình
đẳng giới trong các giai đoạn lịch sử - xã hội khác nhau; bình đẳng giới gắn
với vùng, miền, địa phương, bình đẳng giới trong gia đình truyền thống …
Các công trình nghiên cứu đó là nguồn tư liệu quí giá để tác giả nghiên
cứu, tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Cũng đã có nhiều nghiên cứu về bình đẳng giới tại Thái Bình. Nhiều bài
báo, hội thảo, hội nghị, cuộc thi xoay quanh vấn đề này được tổ chức thường
xuyên tại địa phương từ nhiều năm nay. Các công trình nghiên cứu, hội thảo, hội
nghị đã đề cập đến vấn đề bình đẳng giới một cách đa dạng như: bình đẳng giới
trong các cơ quan, tổ chức, trong gia đình, nhà trường … Tuy nhiên, cho đến
nay, qua tìm hiểu của tác giả thì vấn đề bình đẳng giới trong các gia đình hạt
nhân tại thành phố Thái Bình chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với việc thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình hiện nay,
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự bình đẳng giới trong các
gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

13
Để đạt được những mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ
chính sau:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận chung về gia đình, gia đình hạt nhân, phụ
nữ, giới và bình đẳng giới.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng quan hệ giới trong gia đình hạt nhân ở
thành phố Thái Bình hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong
gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình, cụ thể là
bình đẳng giới vợ và chồng trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình
trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình nói chung
mà chỉ nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân.
Luận văn chỉ nghiên cứu bình đẳng giới của gia đình hạt nhân ở thành
phố Thái Bình trong 5 năm trở lại đây (2010 - 2014).
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước ta về phụ nữ, giới, bình đẳng giới, gia đình.

14
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là các phương pháp lôgíc và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, kết hợp các phương pháp điều
tra xã hội học, thống kê và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ một phần thực trạng quan hệ giới trong gia đình hạt
nhân ở thành phố Thái Bình hiện nay. Bước đầu chỉ ra những thành tựu cũng
như hạn chế của quan hệ giới trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình
hiện nay.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng về giới
trong gia đình hạt nhân ở thành phố Thái Bình trong thời gian tới.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu

và giảng dạy, đồng thời là tài liệu tham khảo cho cán bộ văn hóa, cán bộ phụ
nữ tại địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương và 5 tiết.





15
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Lí luận chung về gia đình và bình đẳng giới trong gia đình
1.1.1. Quan niệm về gia đình và gia đình hạt nhân
Quan niệm về gia đình
Khái niệm “gia đình”
Gia đình là nơi mỗi người sinh ra, lớn lên. Nơi mà mỗi thành viên
gắn bó máu thịt với nhau, cùng sẻ chia mọi buồn vui cuộc đời, cùng đóng
góp công sức xây dựng và hưởng thụ mọi thành quả vật chất và tinh thần
do bản thân và các thành viên tạo ra. Dù là mối quan hệ hôn nhân hay
huyết thống thì các thành viên trong một gia đình dường như vẫn gắn bó,
có tình cảm và tinh thần trách nhiệm với nhau hơn bất kì một mối quan hệ
nào khác ngoài xã hội.
Gia đình là nơi truyền đạt và nuôi dưỡng tình cảm con người, nơi con
người sẵn sàng sẻ chia tất cả mọi lợi ích vật chất và tinh thần mà không hề
toan tính cũng như hưởng thụ sự sẻ chia đó từ người khác không hề ngần
ngại, không cần tính toán thiệt hơn.
Gia đình là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu. Có rất nhiều cách hiểu
khác nhau về “gia đình”. Ở những thời đại khác nhau, xã hội khác nhau đã có

những quan niệm khác nhau về gia đình.
Trong nhiều năm qua tại Việt Nam, nhiều quan điểm khác nhau về gia
đình đã được các nhà nghiên cứu đưa ra bàn thảo.

16
Theo “Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học”: “Gia đình là một hình
thức cộng đồng những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan
hệ máu mủ” [30, tr. 148].
Trong cuốn “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người” giáo sư Lê Thi cho rằng gia đình là “một nhóm xã hội được hình
thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan
hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội
ngoại) đồng thời gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình
nuôi dưỡng Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách
nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm) giữa họ có những điều ràng
buộc có tính chất pháp lí, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Đồng thời
trong gia đình có qui định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán
trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [33, tr. 20]. Có thể khẳng định
rằng, quan niệm về gia đình của giáo sư Lê Thi đã nêu được những thuộc
tính cơ bản của gia đình.
Gia đình là tế bào của xã hội, tế bào khỏe mạnh thì cơ thể mới mạnh
khỏe. Trong gia đình, các thành viên cùng cư trú, có mối quan hệ hôn nhân
hoặc huyết thống, tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể, gia đình có
chung những giá trị vật chất và tinh thần, đảm nhận chức năng sinh đẻ,
nuôi dưỡng, giáo dục con người, phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử ở mỗi
quốc gia.
Các tác giả cuốn “Gia đình học” định nghĩa :“Gia đình là một thiết chế
xã hội liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống
và chăm sóc con cái. Các mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ
họ hàng. Đó là những sự liên kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở

hôn nhân, huyết thống và việc nhận con nuôi. Những người này cũng phải
sống cùng với nhau” [10, tr. 54].

17
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lí ở Việt Nam được ghi trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 8, phần 10, Giải thích từ ngữ ):
"Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này”. Có thể khẳng định
khái niệm gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã phản ánh
một cách khá đầy đủ và sâu sắc các thành tựu nhận thức về gia đình ở
nước ta thời gian qua. Vì vậy khái niệm này đã được thừa nhận rộng rãi và
sử dụng phổ biến. Trong luận văn này, tác giả cũng hoàn toàn nhất trí với
khái niệm này.
Vị trí, chức năng của gia đình
Gia đình có một vị trí đặc biệt quan trọng với mỗi cá nhân và với toàn
xã hội. Trong “Lời nói đầu” của Luật hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10
ngày 09 tháng 6 năm 2000 viết: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi
dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách,
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Nếu xã hội là một cơ thể sống thì gia đình là một tế bào trong cơ thể
sống đó. Mỗi tế bào có lành lặn, khỏe mạnh thì cơ thể sống mới lành lặn, khỏe
mạnh. Gia đình là đơn vị cơ sở đầu tiên của xã hội. Gia đình hạnh phúc hòa
thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Khi
nói về vị trí của gia đình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: rất quan
tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Cầu nối giữa cá nhân và xã hội chính là gia đình. Gia đình được coi
là cơ sở đầu tiên, nhỏ nhất trong hệ thống cơ cấu tổ chức xã hội khi là một

thiết chế xã hội. Sự vận động biến đổi của thiết chế gia đình tuân theo

18
những qui luật chung của hệ thống, nhưng thiết chế ấy đồng thời cũng vận
động biến đổi còn trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của
mỗi nền văn hóa, mỗi vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ,
thể hiện ở mỗi thành viên và thế hệ thành viên trong sự hòa quyện của mỗi
cá nhân với mỗi gia đình. Từ các hoạt động, tổ chức đời sống trong gia
đình, mỗi người, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và phản ứng lại
đối với những tác động xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính
sách… của xã hội. Sự phù hợp hay không phù hợp của những tác động từ
xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia
đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi xã hội.
Có những lĩnh vực, thông tin của xã hội tác động đến con người
thông qua gia đình. Hoàn cảnh gia đình của một người như thế nào sẽ giúp
xã hội nhận thức, đánh giá một phần về con người đó như thế ấy. Nhiều nội
dung quản lí xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội,
mà còn thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người. Nghĩa
vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự hợp tác chung
của các thành viên gia đình. Qua đó, ý thức công dân của cá nhân được
nâng cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã hội có nội dung xác thực.
Gia đình là nơi mang lại sự cân bằng, sự hài hòa trong đời sống cá
nhân mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Trong cả cuộc đời con
người, mỗi người được nuôi dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân của xã
hội, lao động cống hiến và hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và
chủ yếu là thông qua gia đình và với gia đình. Bình yên, hạnh phúc của mỗi
gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân
cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội. Vì vậy
muốn xây dựng xã hội thì phải chú ý đến xây dựng gia đình. Gia đình là
nền tảng, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu

của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.

19
Tác giả Lê Ngọc Văn cho rằng: “Chức năng gia đình chỉ phương
thức biểu hiện hoạt động sống của gia đình gắn liền với những nhu cầu
của xã hội đối với gia đình (với tư cách là thiết chế xã hội) và những nhu
cầu của cá nhân đối với gia đình (với tư cách là một nhóm tâm lí xã hội)”
[43, tr. 114].
Chức năng đầu tiên, cơ bản và chỉ gia đình mới có, đó là tái sản xuất ra
chính bản thân con người. Chức năng này bao gồm: tái sản xuất, duy trì nòi
giống, nuôi dưỡng, nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao
động và sức lao động cho xã hội. Hoạt động sinh sản của con người trước hết
xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này
đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên và chính đáng của con người.
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất cũng là một chức năng
cơ bản của gia đình, đó là tiền đề để thực hiện các chức năng khác. Hoạt động
kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh và
tiêu dùng để thỏa mãn các yêu cầu ăn, ở, mặc, đi lại của mỗi thành viên trong
gia đình và của cả gia đình.
Mỗi gia đình có thể coi là một đơn vị kinh tế có tài sản độc lập với các
gia đình khác. Nhờ chức năng này mà các thành viên gắn bó và ràng buộc với
nhau. Họ cùng làm ăn, cùng chia sẻ, cùng tích lũy vật chất. Trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện đều có thể trở thành một
đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo trong kinh tế, Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện các
chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng
bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Gia đình có chức năng giáo dục. Nội dung của giáo dục gia đình rất đa
dạng, toàn diện, giáo dục kiến thức và kinh nghiệm, đạo đức lối sống, nhân
cách, ý thức… Mỗi gia đình có một cách giáo dục con cái, giáo dục các thành


20
viên khác nhau, song chủ yếu là giáo dục bằng nêu gương, thuyết phục, giả
thích. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết
định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại
hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo
dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ,
ông bà đối với con cháu. Để thực hiện giáo dục có hiệu quả, ông bà và cha mẹ
phải là tấm gương sáng cho con cháu noi theo.
Con người sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình, đến một độ
tuổi nhất định nào đó mới đến trường, và khi còn nhỏ thời gian ở gia đình
mỗi ngày thường nhiều hơn thời gian ở trường. Giáo dục gia đình là một bộ
phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện thêm cho giáo dục nhà
trường và xã hội. Do đó, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội dù có
phát triển lên trình độ nào, thì giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành
tố của nền giáo dục nói chung.
Gia đình có chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm, sinh lí, tình cảm.
Việc thỏa mãn nhu cầu tâm, sinh lí được coi là một chức năng cơ bản
không chỉ có tính văn hóa - xã hội mà cả tính chất tự nhiên của gia đình.
Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác
tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều vấn đề
phức tạp có liên quan đến giới tính và giới, tâm lí lứa tuổi và thế hệ, những
căng thẳng về thể xác và tâm hồn trong lao động, học tập … nhiều khi có
thể được giải quyết trong một môi trường gia đình hòa thuận. Sự hiểu biết,
cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu sinh lí giữa vợ và chồng, tâm lí
tình cảm cha mẹ và con cái … làm cho mỗi thành viên trong gia đình có
điều kiện sống hài hòa, lạc quan, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần… là
những tiền để cần thiết cho một thái độ, hành vi tích cực trong cuộc sống
gia đình và xã hội.


21
Gia đình hạt nhân
Khái niệm “gia đình hạt nhân”
Hiện tại có nhiều quan điểm khác nhau về gia đình hạt nhân, trong
đó có hai quan điểm đáng chú ý. Quan điểm thứ nhất cho rằng: gia đình hạt
nhân là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay
cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các con.
Do vậy, cũng có thể có gia đình hạt nhân đầy đủ và gia đình hạt nhân
không đầy đủ. Gia đình hạt nhân đầy đủ là loại gia đình mang trong nó đầy
đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); Ngược lại, gia đình hạt nhân
không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó,
nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng
hoặc chỉ của người bố hoặc người mẹ với các con.
Quan điểm thứ hai cho rằng: gia đình hạt nhân là nhóm người thể hiện
mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay còn gọi là gia đình hiện đại.
Ngoài ra còn có nhiều dạng gia đình đặc biệt trong xã hội hiện đại như: gia
đình đơn thân, hay còn gọi là gia đình khuyết thiếu (chỉ có mẹ và con hoặc bố
và con, mẹ và con là chủ yếu); gia đình đồng giới …
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng gia đình hạt nhân là kiểu gia đình của
xã hội hiện đại và ngày càng phổ biến trong xã hội ngày nay. Gia đình hạt
nhân đã trở thành hiện tượng phổ biến trong thế kỉ vừa qua.
Ở luận văn này chủ yếu đi sâu nghiên cứu gia đình hạt nhân với đầy đủ
mối quan hệ vợ chồng, con cái. Đó là dạng gia đình chiếm đa số và có nhiều
vấn đề nảy sinh dưới tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội trong thời
kì đổi mới và hội nhập quốc tế.
Xu hướng phát triển gia đình hạt nhân hiện nay

22
Ngày nay, gia đình Việt Nam phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó
chỉ có một cặp vợ chồng và con cái. Theo số liệu thống kê, hơn 70% gia

đình Việt Nam hiện nay là gia đình hạt nhân. Các gia đình này chủ yếu là
trí thức, viên chức nhà nước, công nhân, gia đình bộ đội, công an tập
trung tại các đô thị. Ngoài ra, ở nông thôn, các gia đình làm nông nghiệp
cũng có xu hướng hạt nhân hóa ngày càng nhiều. Gia đình hạt nhân ở Việt
Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và những lợi thế
không thể phủ nhận của nó.
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, gia đình hạt nhân ở Việt Nam hiện
nay chủ yếu, phổ biến là gia đình trẻ. Đặc điểm này tồn tại ở cả nông thôn và
thành thị. Gia đình hạt nhân tồn tại và phát triển độc lập, linh hoạt, có khả
năng thích nghi cao và rất nhanh với các biến đổi xã hội. Gia đình hạt nhân có
sự độc lập, tự chủ về kinh tế. Trong gia đình hạt nhân, mỗi thành viên trong
gia đình có khoảng không gian tự do hơn (so với gia đình truyền thống) để họ
được phát huy năng lực, sở thích cá nhân. Tự do cá nhân luôn được đề cao.
Trong xã hội hiện đại, mức độ độc lập cá nhân được coi là một yếu tố biểu
hiện chất lượng cuộc sống gia đình, biểu thị sự phát triển xã hội. Nếu được
gia đình tạo điều kiện nuôi dưỡng và phát triển năng lực cá nhân sẽ tạo ra
phong cách sống, tính cách, năng lực sáng tạo riêng khiến cho mỗi người đều
có bản sắc. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất cần những
con người có năng lực thực sự, bản sắc như vậy.
Dĩ nhiên, gia đình hạt nhân cũng bao gồm trong nó những điểm yếu
nhất định. Ví dụ như, mỗi người dành thời gian và không gian nhiều hơn cho
cái tôi nên khả năng hỗ trợ, thấu hiểu lẫn nhau về tinh thần giữa các thành
viên trong gia đình bị hạn chế. Sự tương trợ lẫn nhau về vật chất, tinh thần
giữa gia đình nhỏ (gia đình hạt nhân) và gia đình lớn (ông bà, cha mẹ, các
cháu), giữa các gia đình với nhau cũng giảm sút. Ảnh hưởng của các thế hệ

23
tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa
truyền thống trong gia đình.
Dù vậy, gia đình hạt nhân là một thành tựu trong quá trình phát triển

gia đình của nhân loại và nhìn chung là loại hình phổ biến trên thế giới và ở
nước ta gia đình hạt nhân cũng là loại hình mang tính phổ biến hiện nay. Điều
đó cũng có nghĩa là, gia đình hạt nhân cũng là kiểu gia đình của xã hội hiện
đại, dù muốn hay không chúng ta vẫn khó có thể cưỡng lại xu thế hạt nhân
hóa gia đình đó.
Gia đình hạt nhân phát triển bền vững là những gia đình có chất lượng
cuộc sống ngày càng được nâng cao, đạt được chuẩn mực ấm no, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc.
1.1.2. Giới và bình đẳng giới trong gia đình hạt nhân
Giới và bình đẳng giới
Giới
Giới tính (sex) là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt
sinh học. Sự khác biệt này thể hiện trong quá trình tái sản xuất ra con người,
duy trì nòi giống. Ví dụ như chỉ có phụ nữ mới có khả năng sinh đẻ.
Giới (gender) là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt
văn hóa xã hội; vai trò xã hội của mỗi người nam và nữ. Ví dụ: sự khác biệt
giữa nam và nữ với vai trò lãnh đạo cộng đồng do quan niệm, do văn hóa
chứ không phải do bản chất tự nhiên của mỗi giới. Vì vậy nó hoàn toàn có
thể thay đổi.
Từ hai khái niệm trên ta có thể đưa ra một số nhận định như sau:

24
Giới tính là đặc điểm tự nhiên của con người. Giới tính có tính chất
ổn định, gần như bất biến với cả nam và nữ trong mọi điều kiện không gian
và thời gian.
Giới luôn biến đổi. Những điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, phong
tục tập quán… có ảnh hưởng không nhỏ đến sự bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình và ngoài xã hội. Mỗi dân tộc, vùng miền, địa phương khác
nhau thì vị trí của phụ nữ so với nam giới cũng khác nhau. Trong một dân tộc,
một vùng miền, một địa phương ở những thời kì khác nhau thì vị trí của nam

giới so với nữ cũng khác nhau.
Cho đến nay thì người ta vẫn thường dựa vào sự khác biệt giới tính để
giải thích sự khác biệt nam và nữ về mặt xã hội. Ví dụ như quan điểm cho
rằng phụ nữ có năng lực hạn chế hơn so với nam giới. Đây là những quan
niệm hoàn toàn mang tính định kiến, không có cơ sở khoa học.
Khái niệm giới và giới tính tuy khác nhau nhưng vẫn có quan hệ với
nhau. Giới tính là yếu tố ban đầu và lâu dài để phân biệt nam hoặc nữ. Sự
khác biệt về giới tính là yếu tố tự nhiên, hầu như không thể mất đi và cũng
không nên can thiệp để mất đi sự khác biệt đó. Mặt khác, sự khác biệt về giới
tính là cơ sở để tìm hiểu năng lực, sở trường, nhu cầu riêng của nam và nữ để
từ đó phân công lao động hợp lí nhằm phát huy cao nhất năng lực, phù hợp
nhu cầu của mỗi giới.
Nói tóm lại, giữa nam và nữ có những đặc trưng hết sức khác nhau cả
về mặt tự nhiên và mặt xã hội. Sự khác biệt tự nhiên giữa nam và nữ mang
tính bẩm sinh, không thể thay đổi được, và cũng không cần thay đổi, đó là sự
hài hòa mà tạo hóa đã ban cho loài người để bảo tồn nòi giống. Ngược lại, sự
khác biệt xã hội giữa nam và nữ do xã hội đã tạo ra, sự khác biệt đó đã đưa tới
sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Xóa bỏ sự bất bình đẳng giới là cần thiết và

25
nhằm thay đổi tương quan địa vị xã hội giữa nam và nữ chứ không phải là xóa
bỏ sự khác biệt giữa họ về mặt tự nhiên.
Bình đẳng về giới
Bình đẳng là khái niệm có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Theo từ điển tiếng
Việt thì: bình đẳng là ngang hàng ngang nhau về địa vị và quyền lợi.
Con người luôn vươn tới khát vọng về một xã hội bình đẳng, trong đó
có bình đẳng nam nữ, nhưng thế nào là bình đẳng nam nữ (bình đẳng giới) là
một nội dung quan trọng về mặt nhận thức cần phải làm rõ.
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội
đối với nam và nữ. Phụ nữ và nam giới có vị trí xã hội như nhau, có các cơ

hội như nhau để phát huy hết khả năng của mình, góp phần vào sự phát triển
chung của xã hội. Luật Bình đẳng giới (2007):“Bình đẳng giới là việc nam, nữ
có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau
về thành quả của sự phát triển đó” [28, tr. 9 - 10].
Một nội dung quan trọng của bình đẳng xã hội là bình đẳng giới. Khi
mà phụ nữ và nam giới có được vị trí xã hội như nhau, các khác biệt tự nhiên
giữa họ đều được tôn trọng. Sự phát triển toàn diện của mỗi người (nam cũng
như nữ) được xem là điều kiện phát triển, tiến bộ của xã hội. Sự bình đẳng
không chỉ được ghi nhận trong luật pháp mà còn được đảm bảo trong thực tế
cuộc sống thông qua các đối xử đặc biệt giành cho phụ nữ.
Bên cạnh việc tìm hiểu khái niệm bình đẳng giới cũng cần làm rõ khái
niệm bất bình đẳng giới. Bất bình đẳng giới là khái niệm đối lập với bình
đẳng giới. Đây là khái niệm chỉ sự khác biệt về địa vị xã hội giữa nam và nữ,
chủ yếu dựa trên các quan niệm sai lầm, phiến diện, sự đối xử không công

×